Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

“Thổi” vào trong Nhân dân mạnh hơn nữa khát vọng trỗi dậy vươn lên của đất nước.

 Để kế thừa và phát huy di sản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng ta phải “thổi” vào trong Nhân dân mạnh hơn nữa khát vọng trỗi dậy vươn lên của đất nước. Khát vọng đó đã có sẵn trong mỗi người dân Việt Nam, vấn đề chúng ta làm cho “dòng máu ấy sôi trong huyết quản” của mỗi người…

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ra đi về với thế giới người hiền, để lại niềm tiếc thương vô hạn đối với cả dân tộc, Nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Cả cuộc đời đồng chí đã cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc ta. Đồng chí đã để lại một di sản quý báu trên nhiều lĩnh vực cho Đảng, đất nước và thế hệ mai sau.

Nhằm góp phần kế thừa và phát huy sự nghiệp của Tổng Bí thư để lại, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện, trao đổi với GS.TSKH Vũ Minh Giang – Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam

Phóng viên (PV): Thưa Giáo sư Vũ Minh Giang, khi biết tin Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – người lãnh đạo đứng đầu của Đảng ta từ trần, cảm xúc của Giáo sư như thế nào?

GS.TSKH Vũ Minh Giang: Khi biết tin Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần, người dân Việt Nam vô cùng thương tiếc, xót xa đến tột cùng và tôi cũng chung tâm trạng như vậy.

Tôi cảm nhận được rằng, chúng ta đang có một mất mát rất lớn. Bởi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người có những cống hiến hết sức lớn lao với Đảng, với đất nước trong những thập niên vừa qua.

Trước hết, phải nói tới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người có tầm nhìn chiến lược. Tôi nhớ vào năm 2016, khi Tổng Bí thư trực tiếp gặp gỡ với đại diện các học giả nước ngoài đến dự Hội thảo quốc tế Việt Nam học. Lúc đó, các học giả nước ngoài rất khâm phục về sự uyên bác của Tổng Bí thư. Về sau, họ mới biết đó là một giáo sư, một nhà khoa học đã trước tác, viết sách, viết bài, nghiên cứu rất nhiều. Nhưng đặc biệt, họ ấn tượng về ý chí, quyết tâm rất lớn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Tổng Bí thư đã nói rằng, rồi các bạn sẽ thấy Việt Nam trong vòng khoảng 30 năm nữa thôi sẽ phải đứng trong hàng ngũ những nước phát triển; Nhân dân Việt Nam sẽ có thu nhập cao. Từng bước, từng bước và cho đến năm 2021, tại Đại hội lần thứ 13 của Đảng, nội dung này đã được đưa vào Nghị quyết của Đại hội. Rõ ràng ở đây cho thấy, có cả một quá trình đưa ra ý tưởng và thực hiện từng bước ý tưởng đó.  

Với vị thế đất nước như hiện nay, thời kỳ chúng ta kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, chắc chắn Việt Nam sẽ có vị thế rất cao, như mong muốn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cũng như thực hiện ước muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ khi mới giành chính quyền vào năm 1945. Đó là Việt Nam phải bước tới đài vinh quang, phải sánh vai với các cường quốc năm châu.



Bên cạnh đó, tôi còn thấy ở Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một nhà ngoại giao tài tình. Khi tiếp xúc, tôi cảm nhận Tổng Bí thư là một người rất giản dị, nhưng sâu bên trong là một người có tài ngoại giao đặc biệt, để những cường quốc như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga,…nể trọng. Điều này chứng tỏ vị thế của Việt Nam lên rất mạnh, nhưng đồng thời thể hiện vai trò cá nhân của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Tổng Bí thư còn là người hết sức coi trọng văn hóa và coi văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là sức mạnh nội sinh của dân tộc. Tổng Bí thư thường xuyên nói với chúng tôi và ở nhiều nơi rằng, chúng ta phải đi học, mọi người học những điều hay của thế giới, nhưng để trở thành một nước hùng cường thì phải đi bằng đôi chân của mình, phải bay bằng đôi cánh của mình. Và điều này chính là phải dựa trên văn hóa của mình, hồn cốt của dân tộc.

Đặc biệt, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn là một nhà lãnh đạo đã có công củng cố lòng tin của người dân đối với Đảng. Chúng ta đã có một giai đoạn bên cạnh những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội xuất hiện một bộ phận cán bộ của chúng ta sa vào vòng lao lý vì tham nhũng, thoái hóa, biến chất.

Việc đó, tất nhiên tổn hại đến ngân sách nhà nước, đến nền kinh tế và tổn hại đến tài sản của Nhân dân, nhưng điều mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhìn ra rất sớm, đó là lòng tin của Nhân dân đối với Đảng bị xói mòn.

Do đó, sự xuất hiện của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong vai trò là người phát động và trực tiếp chỉ đạo công cuộc phòng chống tham nhũng có hiệu quả, đã lấy lại lòng tin, đã củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng. Đây là điều đã làm cho tên tuổi, sự nghiệp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lên tới đỉnh cao.

PV: Với tư cách là người từng công tác, giữ vị trí lãnh đạo tại Đại học Quốc gia Hà Nội, xin Giáo sư cho biết, bản thân Giáo sư cũng như Đại học Quốc gia Hà Nội đã có những kỷ niệm đáng nhớ như thế nào với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng?

GS.TSKH Vũ Minh Giang: Tôi có may mắn được gặp gỡ, tiếp xúc với Tổng Bí thư một số lần, trong đó có những kỷ niệm khó quên đối với tôi. Tôi cảm nhận được sự giản dị, chan hòa ở Tổng Bí thư. Mỗi khi gặp gỡ, tôi không thấy có một khoảng cách nào giữa Tổng Bí thư và tôi.

Tôi còn nhớ kỷ niệm khi chúng tôi đặt vấn đề xin Tổng Bí thư một số những kỷ vật để trưng bày ở Phòng Truyền thống của Đại học Quốc gia Hà Nội, Tổng Bí thư đồng ý ngay.

Sau đó, giữ lời hứa, Tổng Bí thư đã gửi cho tôi rất nhiều ảnh quý và đặc biệt có một cuốn luận văn tốt nghiệp. Sau này, tôi được biết, đây là luận văn tốt nghiệp đạt điểm xuất sắc, cao nhất của khóa đó. Hiện nay, luận văn tốt nghiệp ấy đang được trưng bày ở Phòng Truyền thống của Đại học Quốc gia Hà Nội.

Bên cạnh đó còn có tấm ảnh đang được treo ở Phòng Truyền thống của Đại học Quốc gia Hà Nội khi Tổng Bí thư đang là sinh viên, chụp chung cùng với các bạn - những thanh niên rất trẻ trung, yêu đời.

Thêm một kỷ niệm nữa, vào dịp kỷ niệm 20 năm Ngày Chính phủ ra Nghị định về Đại học Quốc gia Hà Nội, lúc đó, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội muốn tổ chức trao Kỷ niệm chương. Rất nhiều người có trong danh sách được tặng. Do thời gian hạn hẹp, số lượng người được nhận đông, nên chúng tôi lúng túng, không biết sẽ chọn ai sẽ là người lên nhận.

Lúc đó, tôi mạnh dạn đề nghị với Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội mời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với tư cách là cựu sinh viên tiêu biểu nhất lên nhận Kỷ niệm chương. Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội có bảo tôi, liệu Tổng Bí thư có nhận lời? Chúng tôi vẫn mạnh dạn mời Tổng Bí thư. Không ngờ, Tổng Bí thư nhận lời, sẵn sàng thay mặt sinh viên các khóa lên nhận Kỷ niệm chương.

Tôi cảm nhận ở Tổng Bí thư là một con người hết sức giản dị, không câu nệ, không thể hiện mình đang ở vị trí nào. Khi trở về trường, mặc dù lúc đó đang ở cương vị Tổng Bí thư nhưng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng như người sinh viên cũ trở về trường. Đối với tôi, đó là một ấn tượng hết sức đặc biệt.

Và sau hết, tôi muốn nói tới điều để lại ấn tượng sâu sắc không chỉ riêng đối với cá nhân tôi, đó là tấm gương của một con người lãnh đạo cao nhất cả nước nhưng không màng tới lợi ích của người có quyền lực. Tôi nghĩ cần truyền lại cho các thế hệ tới đây, mai sau, đặc biệt là thế hệ trẻ về ý chí phụng sự tổ quốc, vì lợi ích của dân tộc để cống hiến, để làm việc mà không màng tới lợi ích, bổng lộc, quyền lợi. Chúng ta cần dần dần giúp cho mọi người, trong đó có thế hệ trẻ tu dưỡng để noi theo tấm gương của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.


PV: Sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất quan tâm đến công tác giáo dục, đào tạo cũng như xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Điều này có thể thấy rõ qua các Nghị quyết như: Nghị quyết 45-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới; Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế,…Giáo sư đánh giá như thế nào về những cống hiến của Tổng Bí thư đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo và xây dựng đội ngũ trí thức? Theo Giáo sư, để thấm nhuần tư tưởng về giáo dục, đào tạo, xây dựng đội ngũ trí thức đối với thế hệ trẻ, chúng ta cần triển khai những giải pháp như thế nào?

GS.TSKH Vũ Minh Giang: Đóng góp, công lao rất lớn của Tổng Bí thư thể hiện ở những Nghị quyết  
Nghị quyết 45-NQ/TW; Nghị quyết 29-NQ/TW,…mà phóng viên vừa nêu là phải có sự quan tâm đặc biệt của Tổng Bí thư, những Nghị quyết ấy mới ra đời.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất chú ý đến những lĩnh vực quan trọng đó, coi giáo dục là quốc sách mà chúng ta phải dồn sức, dồn trí tuệ để phát triển. Và những yêu cầu về đổi mới đặt ra như một yêu cầu bức thiết và xây dựng đội ngũ trí thức cũng vậy.

Có một điều trăn trở là làm sao những di sản, tấm gương thể hiện qua cuộc đời, nhất là thời kỳ làm lãnh đạo cao nhất Đảng ta của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được lan tỏa để thế hệ trẻ, thế hệ tiếp theo tiếp bước, lĩnh hội, cảm thụ được những giá trị đó.

Tôi nghĩ rằng, có một điều mỗi người Việt Nam đều có thể lay động, đó là ý thức đối với đất nước mình, đối với dân tộc mình. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất hay nói tới cơ đồ, tiền đồ của một dân tộc, đau đáu về sự phát triển của đất nước.

Do đó, việc tự hào về sự phát triển của dân tộc, đất nước là điều có thể lan tỏa. Mỗi người Việt Nam khi được kích hoạt ý chí này đều sẽ hưởng ứng.

Thứ nữa là tấm gương sống giản dị, không màng lợi ích của Tổng Bí thư chắc chắn sẽ lay động đến rất nhiều người. Do đó, tuyên truyền về tấm gương của Tổng Bí thư chắc chắn là một cách để chúng ta lan tỏa đến tất cả các các tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Và tôi nghĩ rằng, tới đây, chúng ta còn phải tiếp tục nghiên cứu và khai thác những trước tác của Tổng Bí thư, gần như lĩnh vực nào cũng có những bài viết, những cuốn sách của Tổng Bí thư về những lĩnh vực đó.

 

PV: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đi xa, nhưng đồng chí đã để lại một sự nghiệp, di sản quý báu cho Đảng, cho dân tộc ta trên nhiều lĩnh vực. Là một giáo sư, tiến sĩ khoa học, Giáo sư có nhận xét, đánh giá như thế nào về sự nghiệp, di sản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, để đất nước ta "chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay”?

GS.TSKH Vũ Minh Giang: Tôi muốn nói đến di sản rất quý báu ở đây là các trước tác, các kết quả nghiên cứu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Từ khi còn làm ở Tạp chí Cộng sản, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã là người viết, là tác giả của rất nhiều bài báo có giá trị, sau này là tác giả của rất nhiều cuốn sách đồ sộ. Đây là một di sản khoa học, di sản văn hóa mà chúng ta còn phải tiếp tục nghiên cứu và khai thác.

Tôi cho rằng, còn một di sản nữa, đó là những đóng góp to lớn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho sự phát triển của đất nước. Khi chúng ta nói đến đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ như hôm nay, thì rõ ràng, nếu quay trở lại lịch sử, không khó để đi tới kết luận, vị thế quốc tế của Việt Nam hiện nay là chưa từng có. Chúng ta đã từng là Chủ tịch luân phiên của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc. Đó là điều mà xưa nay chúng ta không nghĩ tới nhưng chúng ta đã làm được.

Bên cạnh đó, còn phải kể đến, hiện nay, Việt Nam là nước có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với hầu hết các nước trong Thường trực Bảo an Liên Hợp quốc, với nhiều cường quốc lớn trên thế giới.

Thứ nữa, công cuộc phòng chống tham nhũng của chúng ta đã có tác động rất mạnh. Chỉ số minh bạch của chúng ta tăng vọt và thương hiệu quốc gia của chúng ta trong 10 năm trở lại đây được coi là tăng nhanh nhất thế giới. Những kết quả đó gắn với vai trò lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Thêm một di sản nữa của Tổng Bí thư mà tôi cho rằng, sẽ được Nhân dân nhớ mãi. Đó là chúng ta từng bước xây dựng được một bộ máy lãnh đạo trong sạch, có được lòng tin mạnh mẽ của Nhân dân.

Đó là những cống hiến vô cùng lớn lao của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tấm gương và những cống hiến của Tổng Bí thư đối với sự nghiệp cách mạng, đối với đất nước và đối với Nhân dân là vô giá. Đấy chính là di sản rất lớn lao mà Tổng Bí thư đã để lại cho Nhân dân ta.

PV: Như Giáo sư vừa trao đổi, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại một sự nghiệp, di sản quý báu cho Đảng và dân tộc ta trên nhiều lĩnh vực. Vậy để kế thừa và phát huy di sản đó, biến đau thương thành hành động, theo Giáo sư, thời gian tới chúng ta cần triển khai những giải pháp như thế nào?

GS.TSKH Vũ Minh Giang: Trước hết, chúng ta cần phải tiếp tục sự nghiệp của Tổng Bí thư để lại. Việc tiếp tục ở đây thể hiện ở việc phát triển mới.

Đó là trên cơ sở chúng ta đã có những thành công trong sự nghiệp phòng, chống tham nhũng, phải xây dựng được một bộ máy lãnh đạo trong sạch, vững mạnh, đưa đất nước phát triển nhanh, mạnh.

Di sản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại cho chúng ta là lòng tin của dân đối với Đảng, đó là một bộ máy lãnh đạo trong sạch hơn. Do đó, phải có một quyết tâm lớn để tiếp tục thực hiện ý nguyện của Tổng Bí thư.

Thứ hai là trong toàn dân, trong các cơ quan, trong nhà trường,… phải tìm các giải pháp để nâng cao giáo dục về những giá trị tinh thần cao đẹp của con người Việt Nam. Thay vì chúng ta chưa chú ý đúng mức, để một bộ phận thế hệ trẻ còn đề cao giá trị vật chất và luôn coi đó như mục tiêu cao nhất, xem nhẹ những giá trị tinh thần. Chúng ta cần giáo dục làm sao để mỗi người Việt Nam nhận ra rằng danh dự là điều quan trọng nhất.

Thứ nữa, cũng cần phải có những giải pháp để lan tỏa tấm gương giản dị, trong sáng, vì nước, vì dân của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Như vừa rồi, tôi thấy, nhiều người rất bất ngờ về hình ảnh chiếc xe Tổng Bí thư vẫn thường đi, rất giản dị, hoặc Tổng Bí thư vẫn thường hay mặc chiếc áo khoác cũ màu nâu,…Những câu chuyện nhỏ đó là sự giáo dục, có sức lay động suy nghĩ của rất nhiều người.

Đặc biệt, để kế thừa và phát huy di sản của Tổng Bí thư, chúng ta phải “thổi” vào trong Nhân dân mạnh hơn nữa khát vọng trỗi dậy vươn lên của đất nước, để đưa nước ta đứng trong hàng ngũ những nước phát triển. Tôi nghĩ rằng khát vọng đó đã có sẵn trong mỗi người dân Việt Nam, vấn đề chúng ta làm sao để mỗi người nhận thức được điều đó một cách đầy đủ hơn, làm cho “dòng máu ấy sôi trong huyết quản” của mỗi người, thì đó là cách giáo dục tốt nhất để kế thừa sự nghiệp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

PV: Xin cảm ơn những chia sẻ của GS.TSKH Vũ Minh Giang!./.

“Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân-tức là phục tùng chân lý”

Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện với cán bộ, giảng viên, sinh viên Trường Đại học Nhân dân Việt Nam, khi Người đến thăm trường ngày 21-7-1956. Đây là thời kỳ miền Bắc bước vào hàn gắn vết thương chiến tranh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tự do tư tưởng trong học tập, nghiên cứu là bản chất tốt đẹp của chế độ dân chủ mà nhân dân ta đang xây dựng; mục đích của tự do tư tưởng là để tìm ra chân lý và chân lý chính là lợi ích của quốc gia, dân tộc, của nhân dân. Do vậy, nếu đi chệch mục đích đó thì tự do sẽ trở thành phản dân chủ, thành tự do vô tổ chức. Lời dạy trên là minh chứng về phong cách nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước những vấn đề lớn, Bác vẫn khái quát thành những triết lý rất đời thường, để ai cũng hiểu, cũng nhớ và có thể thực hiện được. Thông qua đó, Người cũng muốn gửi gắm tới đội ngũ cán bộ, đảng viên và mỗi người Việt Nam phải luôn biết đặt lợi ích của quốc gia dân tộc, lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước, để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cán bộ, chiến sĩ quân đội ta luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào luôn đặt lợi ích của Đảng, Nhà nước, nhân dân lên trên, lên trước; kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có thái độ phân biệt đúng, sai, không dao động trước những tác động tiêu cực, khó khăn, cũng như sự chống phá của các thế lực thù địch. Nói và làm đúng nghị quyết; ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chấp hành tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nội bộ đoàn kết thống nhất cao; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Giữ vững quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển trong tình hình hiện nay.

 

Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đều bắt nguồn từ việc Đảng ta luôn kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng.

Đó là sự kiên định và sáng tạo trên cơ sở tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và thời đại. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước ta luôn vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong thực tiễn, góp phần xây dựng cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước như ngày nay.

Một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội

Quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển là một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội và tìm ra những giải pháp thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó cũng là công cụ nhận thức quan trọng để Đảng ta kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử.

Quan điểm khách quan yêu cầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải phản ánh trung thực sự vật, hiện tượng với tất cả bản chất, những mối quan hệ vốn có của nó; nắm vững và tôn trọng những quy luật khách quan của hiện thực; đồng thời, không rơi vào chủ quan duy ý chí; không được lấy ý chí chủ quan, ý muốn chủ quan, nguyện vọng, tình cảm cá nhân để áp đặt cho thực tế.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng và mối liên hệ giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành và những mắt khâu trung gian, gián tiếp của chúng; cả hiện tại, quá khứ và xu hướng phát triển trong tương lai; phải đồng bộ, không cục bộ, phiến diện. Song trong mối liên hệ cụ thể, từng giai đoạn phải nắm đúng trọng tâm, then chốt, phù hợp với nhu cầu thực tiễn, tránh dàn trải, không viển vông, ảo tưởng. Trong quá trình xem xét toàn bộ mối liên hệ, bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng, phải dự báo được khả năng vận động, phát triển; chống mọi biểu hiện trì trệ, bảo thủ.

Quan điểm lịch sử, cụ thể chỉ rõ trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xem xét đúng các quá trình, các giai đoạn phát triển của các sự vật, hiện tượng; nhận thức được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, bản chất vốn có của sự vật, hiện tượng trong các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Chỉ ra được mối liên hệ, quy luật khách quan; vị trí, vai trò của từng mối liên hệ quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Đồng thời, cần phải đấu tranh chống mọi biểu hiện xa rời thực tiễn với những điều kiện, hoàn cảnh riêng.

Quan điểm phát triển đòi hỏi phải nắm được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng; phải khái quát và làm sáng rõ được xu hướng vận động, phát triển chủ đạo trong cả tự nhiên, xã hội và mỗi con người. Sự phát triển là quá trình biện chứng, có tính chất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước tụt lùi tạm thời, nhưng tất yếu cái mới sẽ ra đời. Do đó, cần phải có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, đấu tranh, loại bỏ mọi lực cản ảnh hưởng sự phát triển của tự nhiên, xã hội và mỗi con người.

Giữ vững quan điểm trong lãnh đạo, quản lý 

Giữ vững quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong gần 40 năm đổi mới đất nước, Đảng ta luôn kiên định: Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đảng đề ra chiến lược phát triển tổng thể là: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo bài học tôn trọng thực tiễn khách quan, quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển để đưa ra những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển trong giai đoạn mới; quyết tâm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; thể hiện tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước với những bước đi, lộ trình cụ thể đến năm 2025, 2030 và 2045, để phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, với phương châm “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”, Đảng, Nhà nước đã quán triệt sâu sắc, lãnh đạo, chỉ đạo, nắm vững và xử lý tốt 4 kiên định, 12 định hướng, 10 mối quan hệ, 3 đột phá chiến lược, 6 nhiệm vụ trọng tâm; phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; hình thành đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa trên các trụ cột: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và nền dân chủ XHCN Việt Nam.

Cùng với lãnh đạo phát triển tổng thể các mặt, các lĩnh vực trong tính chỉnh thể, Đảng ta còn đánh giá vị trí, vai trò của từng lĩnh vực, yếu tố làm cơ sở để xác định, xây dựng từng bước đi, lộ trình và giải pháp phù hợp với điều kiện đất nước và xu thế phát triển của thời đại. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững đất nước, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thúc đẩy chuyển đổi số, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chú trọng phát triển những ngành, lĩnh vực là thế mạnh của đất nước và của từng vùng, ngành, địa phương.

Thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng lực nội sinh của nền kinh tế. Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, chính sách; khơi thông các nguồn lực cho phát triển. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án chiến lược trọng điểm, quan trọng quốc gia; chú trọng đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, tập trung cho vùng “lõi nghèo”, đặc biệt khó khăn, tránh dàn trải, lãng phí.

Phát triển con người toàn diện, con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của phát triển. Phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện quan điểm “dân là gốc”, “dân là trung tâm” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tạo môi trường sống an toàn, thân thiện, lành mạnh để phát triển trẻ em toàn diện, thực hiện tốt công tác người cao tuổi, thanh niên, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Tập trung cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng khó khăn.

Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa-xã hội, phát triển văn hóa-xã hội ngang tầm với phát triển kinh tế. Phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Thực hiện hiệu quả Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục-đào tạo và nâng cao hơn nữa vai trò của khoa học-công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với nền kinh tế tri thức, kinh tế số, đô thị thông minh.

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích và bảo vệ cán bộ “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp và người dân, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại; giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ ở các địa phương trọng điểm.

Tích cực phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm; giữ vững thế chủ động chiến lược, bảo đảm an ninh, trật tự, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước. Chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, âm mưu “phi chính trị hóa” LLVT; phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh thông tin, truyền thông, an ninh mạng và an ninh xã hội. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh; chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống, có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến.

Vận dụng đúng đắn, linh hoạt quan điểm đối tác, đối tượng; triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi trong quan hệ quốc tế. Kiên trì thực hiện chính sách cân bằng trong quan hệ với các nước lớn; coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác, tạo lợi ích thực chất giữa Việt Nam và các nước; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi, thu hút các nguồn lực để phục vụ phát triển đất nước, củng cố và nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam.

“Phải đoàn kết chặt chẽ giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa bộ đội với nhau, giữa nhân dân với bộ đội”

Đây là thời gian đế quốc Mỹ xâm lược tăng cường leo thang chiến tranh ra miền Bắc bằng không quân. Người đã chỉ rõ vai trò to lớn của đoàn kết và khẳng định rằng, đoàn kết chính là yếu tố quyết định để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta làm cách mạng thắng lợi, kháng chiến thành công. Vì vậy, bộ đội PK-KQ nói riêng, toàn quân nói chung muốn đánh thắng giặc Mỹ xâm lược thì phải đoàn kết hơn nữa; phải chăm lo xây dựng mối quan hệ đoàn kết thống nhất trong nội bộ và đoàn kết chặt chẽ giữa quân đội với nhân dân. Điều này phản ánh quan điểm của Người về nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội, sức mạnh của đất nước thông qua xây dựng mối quan hệ đoàn kết thống nhất trong quân đội và giữa quân đội với nhân dân cũng như khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Lời dạy của Bác được cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1, Tiểu đoàn 1, Đoàn Tam Đảo, Bộ đội PK-KQ nói riêng, toàn quân nói chung ghi nhớ và thực hiện nghiêm túc, trở thành nguồn sức mạnh to lớn, bảo đảm cho bộ đội PK-KQ, quân và dân ta phát huy sức mạnh tổng hợp đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ xâm lược, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy tinh thần đại đoàn kết, tiếp nối quan điểm, đường lối về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc qua các kỳ đại hội, Đại hội lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Khắc ghi lời Bác dạy, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn đoàn kết chặt chẽ với nhau như ruột thịt trên tình thương yêu giai cấp; hết lòng giúp đỡ nhau lúc thường cũng như lúc ra trận; thực hiện toàn quân một ý chí. Đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân, thực hiện quân với dân một ý chí, đi dân nhớ, ở dân thương… đã trở thành lời thề danh dự của người quân nhân cách mạng, đồng thời cũng là nguồn cội tạo nên sức mạnh để Quân đội ta chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, luôn là chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”.


“Dựa vào nhân dân thì việc gì, dù khó đến đâu cũng có thể làm được”

Đây là năm đầu miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bắt tay vào khôi phục kinh tế, tiếp tục cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, nhằm củng cố hòa bình, tiếp tục thực hiện sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; cần phải phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ, sức mạnh của toàn dân để giành thắng lợi của cách mạng trong giai đoạn mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức đúng và đề cao vai trò của nhân dân. Người chỉ rõ: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ…”. Đây chính là triết lý về vai trò của nhân dân và mối quan hệ giữa Đảng với dân; là định hướng về tư tưởng, thái độ và hành động cho cán bộ, đảng viên trong quan hệ với nhân dân. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; luôn tôn trọng dân, lắng nghe và học hỏi dân; khơi nguồn sức mạnh trong dân, biết dựa vào dân để giải quyết các công việc cách mạng.

Thấm nhuần lời dạy của Người, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng và làm tốt công tác dân vận, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân để giành thắng lợi trong kháng chiến, kiến quốc; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, được nhân dân thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ, tin tưởng và trao tặng danh xưng cao quý Bộ đội Cụ Hồ. Mối quan hệ quân-dân là một hình mẫu tiêu biểu cho mối quan hệ máu thịt, cá-nước, thủy chung vẹn toàn, trở thành lời thề danh dự của quân nhân cách mạng.

Thực hiện chức năng đội quân công tác, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã tích cực làm tốt công tác dân vận, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, giúp dân phát triển kinh tế-xã hội; xóa đói, giảm nghèo; xóa mù chữ; xây dựng nông thôn mới, phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả chống âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, xây dựng mối quan hệ đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên các địa bàn, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo… Qua đó, không ngừng củng cố, giữ vững mối quan hệ gắn bó quân dân, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc, thực hiện tốt công tác dân vận của Đảng, Nhà nước trong tình hình mới.

“Những người lỡ đi lầm đường mà biết trở về với Tổ quốc thì dân Việt Nam sẵn sàng hoan nghênh”

Thời điểm này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, kiến quốc, cũng là lúc xuất hiện các quan điểm trái chiều về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cần phải được định hướng cho thống nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Dù có những đảng phái với những quan điểm chính trị khác nhau, thậm chí đối lập nhau, song khi lợi ích chung của dân tộc bị lâm nguy thì các đảng phái phải đoàn kết để cứu nước. Sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam là thực hiện lợi ích chung của dân tộc. Nếu đảng phái nào lợi dụng sự khác nhau về quan điểm chính trị mà phản kháng chiến, phản nhân dân, đi theo phe địch, thì quốc dân không thể tha thứ, lịch sử không thể khoan dung. Song nhân dân Việt Nam sẵn sàng hoan nghênh những người lỡ đi lầm đường mà biết trở về với Tổ quốc.

Tư tưởng nhân văn, nhân đạo Hồ Chí Minh đã thấu suốt trong các chủ trương, chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng, Nhà nước ta trong xây dựng chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, chính sách đối với tù, hàng binh. Chính sách khoan hồng, nhân văn, nhân đạo không chỉ đối với những người Việt Nam lầm đường, lạc lối đi theo giặc, đã giác ngộ và trở về với Tổ quốc, mà quân và dân ta còn đối xử khoan hồng, nhân đạo với cả những tù, hàng binh, những người đã mang bom, đạn đến tàn phá quê hương, cướp bóc tài sản, giết hại người già, phụ nữ, trẻ em vô tội. Lòng khoan dung, vị tha, độ lượng, chính sách khoan hồng, nhân đạo thể hiện sâu sắc truyền thống của dân tộc Việt Nam và bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có lý tưởng chiến đấu cao đẹp, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh; thương yêu đồng chí, đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân; tính kỷ luật tự giác, nghiêm minh, tinh thần quốc tế cao cả, chấp hành nghiêm chính sách đối với tù, hàng binh...

“Trong công việc cách mạng, công việc kháng chiến kiến quốc, không có việc sang, việc hèn, mọi việc đều quan trọng...”

Bài viết ra đời trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta chuẩn bị chuyển sang giai đoạn phản công và tiến công. Đây cũng là thời điểm Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch Biên giới 1950 để củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, phá hàng rào phong tỏa của thực dân Pháp nhằm nối liền nước ta với thế giới dân chủ. Do đó, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của cán bộ, đảng viên nói riêng, bộ máy Đảng, Nhà nước nói chung là hết sức quan trọng và cấp thiết.

Trong bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những cán bộ có dấu hiệu của bệnh cấp bậc, là chán nản, tiêu cực; khúm núm, tự ti hoặc tự kiêu, tự đại, coi thường đồng chí, đồng đội. Hậu quả của bệnh cấp bậc là cán bộ không đoàn kết, công việc không trôi chảy. Người cũng chỉ ra nguyên nhân của căn bệnh cấp bậc là do cán bộ chưa gột sạch óc quan liêu, ngôi thứ, còn mang nặng chứng “quan cách mạng” và chưa hiểu rằng, hoạt động của mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi cơ quan, đoàn thể được ví như hoạt động của một chi tiết liên kết chặt chẽ trong bộ máy lớn. Trong đó, mỗi chi tiết của bộ máy đều có một vị trí, vai trò nhất định bảo đảm cho sự hoạt động của cả bộ máy.

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về vị trí, tầm quan trọng của mỗi công việc cách mạng; trên cơ sở đó đề cao trách nhiệm, phấn đấu hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên cần đề cao tự phê bình và phê bình, kiên quyết tẩy sạch tư tưởng ngôi thứ, địa vị và chủ nghĩa cá nhân, đặt công việc chung, lợi ích chung của Đảng, của cách mạng lên trên, lên trước.

Học tập và làm theo lời Bác dạy, tự hào với truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, vinh dự với danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ, cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân luôn nhận thức sâu sắc và xác định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, gắn liền với niềm vinh dự lớn khi được Đảng, Nhà nước, nhân dân tin tưởng, giao phó trọng trách bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dù được phân công đảm nhiệm chức trách, nhiệm vụ gì đều tận tâm, tận lực, thi hành một cách nhanh chóng và chính xác; ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

“Học trò chẳng những học ở trường, học trong sách, mà còn cần học trong công tác phục vụ nhân dân...”

Thông qua bài viết, Hồ Chí Minh nhắc nhở cả người dạy và người học phải quán triệt và hiểu sâu sắc ý nghĩa của việc học, không chỉ học ở trong nhà trường, ở trong sách, mà còn phải học trong nhân dân, học ở mọi người. Học tập là quá trình tiếp thu, thấm nhuần những tri thức được đúc rút từ thực tiễn cuộc sống và đem những tri thức đó áp dụng vào thực tiễn, để cải tạo thực tiễn và thúc đẩy sự phát triển của thực tiễn. Lời dạy của Người được Đảng ta vận dụng sáng tạo trong lãnh đạo sự nghiệp giáo dục và đào tạo, coi đây là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội; chú trọng nâng cao chất lượng và phát triển một nền giáo dục thực sự vì con người, vì cuộc sống, vì sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng CNXH.

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động dạy học trong các nhà trường quân đội và thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu ở các cơ quan, đơn vị, với phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, huấn luyện toàn diện, lấy thực hành làm chính; làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút ra những kinh nghiệm hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả để bổ sung vào các tài liệu, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả toàn diện công tác giáo dục-đào tạo và huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

“Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”

Trong nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân và lực lượng vũ trang có biểu hiện trông chờ vào sự giúp đỡ của các nước bạn. Mặt khác, lại xuất hiện tư tưởng nóng vội muốn đánh thắng ngay. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn chấn chỉnh nhận thức, củng cố niềm tin, phát huy nội lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tích cực tham gia thúc đẩy cuộc kháng chiến nhanh chóng giành thắng lợi.

Qua bài nói chuyện, Người nhấn mạnh, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là trường kỳ gian khổ nhưng lại phải tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính. Lời dạy trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện lời dạy của Người, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nhận thức rõ chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đoàn kết, thống nhất, phát huy cao độ tinh thần tự lực, tự cường trong thực hiện nhiệm vụ của từng cá nhân, đơn vị, từng địa phương và nhiệm vụ chung của cách mạng. Tinh thần tự lực, tự cường của cả dân tộc là nhân tố quan trọng để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử phát triển của dân tộc.

Ngày nay, xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhưng tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường vẫn là yếu tố quyết định đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc. Do đó, trong khi mở rộng hợp tác quốc tế theo tinh thần Việt Nam là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Đảng ta phát huy cao độ tinh thần đại đoàn kết toàn dân, chủ động tự lực cánh sinh thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam phải đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo; ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”. Đồng thời, luôn làm tốt công tác đối ngoại quốc phòng để mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ sự hợp tác, ủng hộ của các đối tác góp phần xây dựng Quân đội nhân dân tiến lên chính quy, hiện đại.

“Người cách mạng và đoàn thể cách mạng cần phê bình và tự phê bình thiết tha như người ta cần không khí”

Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài “Phê bình”, đăng trên Báo Nhân Dân, số ra ngày 12-7-1951. Thời điểm đó, Đảng ta đang củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời mở rộng đoàn kết quốc tế để đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công. Hồ Chí Minh khẳng định, phê bình và tự phê bình là một vấn đề có tính nguyên tắc, là quy luật tồn tại và phát triển, là công cụ sắc bén để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong các tổ chức đoàn thể cách mạng.

Lời dạy của Bác góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên trong thực hiện tự phê bình và phê bình, giúp mỗi đảng viên và tổ chức đảng kịp thời nhận rõ những ưu điểm để phát huy; những hạn chế, khuyết điểm để khắc phục, bảo đảm cho Đảng ta thực sự là một đảng cách mạng chân chính, luôn nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật để có chủ trương, đường lối đúng đắn lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi, đạt được nhiều thành tựu to lớn trong kháng chiến chống xâm lược cũng như trong công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, chấp hành nghiêm các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, của Quân ủy Trung ương; cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội và toàn quân đã ban hành đồng bộ các chỉ thị, nghị quyết về công tác xây dựng Đảng, luôn đề cao tự phê bình và phê bình, coi đó là quy luật phát triển, là vũ khí sắc bén để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống trung thực, khiêm tốn, giản dị; vượt mọi khó khăn, thử thách, nêu cao ý chí tự lực tự cường, chủ động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao...

“Vào Đảng, vào Đoàn không phải để làm “quan” cách mạng”

Đây là thời kỳ đầu sau khi miền Bắc tiến hành cải cách ruộng đất, xây dựng hợp tác xã, khôi phục sản xuất và khắc phục hậu quả chiến tranh. Người muốn nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn viên tỉnh Sơn Tây nói riêng, cả nước nói chung về trách nhiệm và quyết tâm trong lãnh đạo phát triển sản xuất; cần phải gương mẫu, tích cực, chủ động, sáng tạo, nói đi đôi với làm, triệt để tham gia vào tổ đổi công, bằng những việc làm cụ thể để “làm đầu tàu lôi cuốn quần chúng tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm”. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải thực sự là những người tiền phong, gương mẫu trong thực hành các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, có phong cách làm việc cụ thể, tỉ mỉ, sâu sát quần chúng, biết làm gương và hướng quần chúng vào thực hiện tốt những nhiệm vụ trọng tâm trong từng thời kỳ nhất định.

Lời dạy của Người đã động viên, khích lệ cán bộ, đảng viên, đoàn viên trong cả nước đề cao trách nhiệm chính trị, tích cực hăng hái tham gia vào các tổ chức ở địa phương, đơn vị, thực sự là nòng cốt thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, nhiệm vụ của địa phương và cơ quan, đơn vị. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự làm gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn viên, đến năm 1960 đời sống của nhân dân miền Bắc đã từng bước ổn định, ý thức chính trị được nâng cao, kinh tế được khôi phục, văn hóa, giáo dục, y tế ngày càng phát triển.

Quán triệt, thực hiện lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên phụ nữ trong quân đội hiện nay cần gương mẫu đi đầu trong chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, các cuộc vận động của các cấp, các ngành. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; những biểu hiện quan liêu, xa dân, vi phạm dân chủ, nói không đi đôi với làm. Cán bộ, đảng viên, nhất là các đồng chí cán bộ chủ trì các cơ quan, đơn vị phải nêu cao tính tiền phong gương mẫu, thực hiện miệng nói tay làm, làm tốt, làm có hiệu quả cao, gương mẫu trong học tập, công tác và trong sinh hoạt, xông pha trong mọi nhiệm vụ nhất là những nhiệm vụ khó khăn, gian khổ để làm gương cho bộ đội noi theo.

“Thi đua ái quốc nhằm ba mục đích chính là diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm..."

Đây là giai đoạn đầu thực hiện đường lối trường kỳ kháng chiến do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II xác định, với phương châm: Đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh biện pháp thi đua yêu nước, khơi dậy, huy động sức dân tham gia cuộc kháng chiến kiến quốc mau giành thắng lợi. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ ba mục đích cụ thể của thi đua ái quốc là: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Tức thi đua ái quốc làm cho nhân dân no, ấm, biết chữ, làm cho Tổ quốc độc lập, tự do. Theo Người, thi đua ái quốc phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng của dân, bám sát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị cụ thể của từng thời kỳ cách mạng. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thúc đẩy các phong trào thi đua ái quốc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược phát triển rộng khắp, động viên, cổ vũ toàn quân và thu hút mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết tham gia. Tiêu biểu như các phong trào “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, “Bình dân học vụ”, “Hũ gạo kháng chiến”… Qua đó đã cuốn hút, cổ vũ, động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước hăng say lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm chống giặc đói; thi đua học tập xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt và dũng cảm ngoan cường trong chiến đấu diệt giặc ngoại xâm làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc vẫn còn nguyên giá trị, đã cổ vũ, khích lệ quân và dân ta thi đua lao động sản xuất, xóa đói giảm nghèo, chung sức xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống của nhân dân, bảo đảm tốt an sinh xã hội; tăng cường, củng cố quốc phòng - an ninh; nâng cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, phong trào thi đua yêu nước được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị cụ thể hóa thành phong trào thi đua Quyết thắng phù hợp với đặc điểm, tình hình, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội đã được cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai quyết liệt, với các nội dung, chỉ tiêu thi đua thiết thực, được cán bộ, chiến sĩ tích cực hưởng ứng thực hiện với quyết tâm cao. Phong trào thi đua Quyết thắng được gắn kết chặt chẽ với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, các cuộc vận động của các cấp, các ngành đã góp phần quan trọng vào kết quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện.


Giữ vững quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển trong tình hình hiện nay.

 

Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đều bắt nguồn từ việc Đảng ta luôn kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng.

Đó là sự kiên định và sáng tạo trên cơ sở tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và thời đại. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước ta luôn vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong thực tiễn, góp phần xây dựng cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước như ngày nay.

Một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội

Quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển là một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội và tìm ra những giải pháp thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó cũng là công cụ nhận thức quan trọng để Đảng ta kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử.

Quan điểm khách quan yêu cầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải phản ánh trung thực sự vật, hiện tượng với tất cả bản chất, những mối quan hệ vốn có của nó; nắm vững và tôn trọng những quy luật khách quan của hiện thực; đồng thời, không rơi vào chủ quan duy ý chí; không được lấy ý chí chủ quan, ý muốn chủ quan, nguyện vọng, tình cảm cá nhân để áp đặt cho thực tế.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng và mối liên hệ giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành và những mắt khâu trung gian, gián tiếp của chúng; cả hiện tại, quá khứ và xu hướng phát triển trong tương lai; phải đồng bộ, không cục bộ, phiến diện. Song trong mối liên hệ cụ thể, từng giai đoạn phải nắm đúng trọng tâm, then chốt, phù hợp với nhu cầu thực tiễn, tránh dàn trải, không viển vông, ảo tưởng. Trong quá trình xem xét toàn bộ mối liên hệ, bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng, phải dự báo được khả năng vận động, phát triển; chống mọi biểu hiện trì trệ, bảo thủ.

Quan điểm lịch sử, cụ thể chỉ rõ trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xem xét đúng các quá trình, các giai đoạn phát triển của các sự vật, hiện tượng; nhận thức được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, bản chất vốn có của sự vật, hiện tượng trong các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Chỉ ra được mối liên hệ, quy luật khách quan; vị trí, vai trò của từng mối liên hệ quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Đồng thời, cần phải đấu tranh chống mọi biểu hiện xa rời thực tiễn với những điều kiện, hoàn cảnh riêng.

Quan điểm phát triển đòi hỏi phải nắm được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng; phải khái quát và làm sáng rõ được xu hướng vận động, phát triển chủ đạo trong cả tự nhiên, xã hội và mỗi con người. Sự phát triển là quá trình biện chứng, có tính chất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước tụt lùi tạm thời, nhưng tất yếu cái mới sẽ ra đời. Do đó, cần phải có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, đấu tranh, loại bỏ mọi lực cản ảnh hưởng sự phát triển của tự nhiên, xã hội và mỗi con người.

Giữ vững quan điểm trong lãnh đạo, quản lý 

Giữ vững quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong gần 40 năm đổi mới đất nước, Đảng ta luôn kiên định: Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đảng đề ra chiến lược phát triển tổng thể là: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo bài học tôn trọng thực tiễn khách quan, quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển để đưa ra những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển trong giai đoạn mới; quyết tâm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; thể hiện tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước với những bước đi, lộ trình cụ thể đến năm 2025, 2030 và 2045, để phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, với phương châm “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”, Đảng, Nhà nước đã quán triệt sâu sắc, lãnh đạo, chỉ đạo, nắm vững và xử lý tốt 4 kiên định, 12 định hướng, 10 mối quan hệ, 3 đột phá chiến lược, 6 nhiệm vụ trọng tâm; phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; hình thành đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa trên các trụ cột: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và nền dân chủ XHCN Việt Nam.

Cùng với lãnh đạo phát triển tổng thể các mặt, các lĩnh vực trong tính chỉnh thể, Đảng ta còn đánh giá vị trí, vai trò của từng lĩnh vực, yếu tố làm cơ sở để xác định, xây dựng từng bước đi, lộ trình và giải pháp phù hợp với điều kiện đất nước và xu thế phát triển của thời đại. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững đất nước, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thúc đẩy chuyển đổi số, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chú trọng phát triển những ngành, lĩnh vực là thế mạnh của đất nước và của từng vùng, ngành, địa phương.

Thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng lực nội sinh của nền kinh tế. Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, chính sách; khơi thông các nguồn lực cho phát triển. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án chiến lược trọng điểm, quan trọng quốc gia; chú trọng đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, tập trung cho vùng “lõi nghèo”, đặc biệt khó khăn, tránh dàn trải, lãng phí.

Phát triển con người toàn diện, con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của phát triển. Phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện quan điểm “dân là gốc”, “dân là trung tâm” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tạo môi trường sống an toàn, thân thiện, lành mạnh để phát triển trẻ em toàn diện, thực hiện tốt công tác người cao tuổi, thanh niên, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Tập trung cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng khó khăn.

Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa-xã hội, phát triển văn hóa-xã hội ngang tầm với phát triển kinh tế. Phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Thực hiện hiệu quả Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục-đào tạo và nâng cao hơn nữa vai trò của khoa học-công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với nền kinh tế tri thức, kinh tế số, đô thị thông minh.

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích và bảo vệ cán bộ “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp và người dân, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại; giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ ở các địa phương trọng điểm.

Tích cực phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm; giữ vững thế chủ động chiến lược, bảo đảm an ninh, trật tự, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước. Chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, âm mưu “phi chính trị hóa” LLVT; phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh thông tin, truyền thông, an ninh mạng và an ninh xã hội. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh; chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống, có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến.

Vận dụng đúng đắn, linh hoạt quan điểm đối tác, đối tượng; triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi trong quan hệ quốc tế. Kiên trì thực hiện chính sách cân bằng trong quan hệ với các nước lớn; coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác, tạo lợi ích thực chất giữa Việt Nam và các nước; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi, thu hút các nguồn lực để phục vụ phát triển đất nước, củng cố và nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam.

“Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu”

Đây là giai đoạn đầu thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược, đòi hỏi Đảng ta phải tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền (CTTT), giác ngộ, nâng cao nhận thức của toàn dân về mục đích, tính chất, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến. Trên cơ sở đó, xây dựng ý chí quyết tâm, củng cố niềm tin của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vào sự tất thắng của công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đây cũng chính là phương châm, phương hướng phấn đấu, rèn luyện đối với mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ chuyên trách làm CTTT, công tác dân vận; là một phong cách mới trong CTTT, vận động quần chúng của Đảng ta nói chung, của mỗi cán bộ, đảng viên và người làm CTTT nói riêng.

Bám sát tinh thần đó, CTTT của Đảng đã luôn bám sát mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng; đặc điểm, tình hình của địa phương và nhân dân để lựa chọn đúng, trúng nội dung, phương pháp tuyên truyền, tạo nên sự đồng thuận giữa ý Đảng, lòng dân và sự thống nhất ý chí, hành động của toàn dân trong thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp trong toàn quân luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt CTTT. CTTT đã góp phần xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân có lý tưởng chiến đấu cao đẹp, yêu nước, yêu chế độ, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; đề cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, ý chí vượt qua khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu và công tác; có tinh thần đoàn kết nội bộ tốt, tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn; tính kỷ luật tự giác, nghiêm minh, tinh thần quốc tế cao cả; gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng giúp đỡ, tin yêu, ghi nhận và trao tặng danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ. Hằng năm, toàn quân có hàng chục nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia làm công tác dân vận; trực tiếp tham gia làm tốt CTTT, vận động nhân dân chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế-xã hội; giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ; thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo trên các địa bàn, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, mối quan hệ máu thịt quân-dân và “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc.

“Được lòng dân thì việc gì cũng làm được, trái ý dân thì chạy ngược chạy xuôi”

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải hành động vì dân, thấu hiểu, chia sẻ, quan tâm đến lợi ích chính đáng của nhân dân. Có như vậy, nhân dân mới tin tưởng và ủng hộ Chính phủ thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng.

Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng, Nhà nước ta luôn xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng của nhân dân để xác định chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật, không ngừng chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; nhân dân tin tưởng, đi theo Đảng, theo cách mạng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ và đại thắng mùa Xuân năm 1975, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Ngày nay, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường; trong nước các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng... Điều này đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải sâu sát quần chúng, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, có chủ trương, đường lối hợp lòng dân, tạo được sự đồng thuận giữa ý Đảng với lòng dân. Có như thế, mới tranh thủ được thời cơ, vượt qua thách thức, tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội ta luôn thực hiện tốt chức năng đội quân công tác trong tình hình mới, quan tâm chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết nội bộ và làm tốt công tác dân vận; xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, toàn quân đẩy mạnh phong trào thi đua “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới” với nhiều mô hình mới, cách làm sáng tạo, hiệu quả; tiêu biểu như: “Nâng bước em tới trường”, “Tết Biên phòng ấm lòng dân bản”, “Tết quân dân”, “Xuân biên cương, Tết hải đảo”, “Tặng bò giống cho đồng bào nghèo”, “Bệnh xá quân dân y kết hợp”, giúp dân xóa đói, giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh… góp phần củng cố, giữ vững thế trận lòng dân, được cấp ủy, chính quyền, nhân dân ghi nhận, đánh giá cao. Sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi phải tập trung xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; không ngừng tăng cường, củng cố mối quan hệ đoàn kết quân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

“Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp cực kỳ vẻ vang, nhưng phải lâu dài và gian khổ…”

Trong lời phát biểu trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thấy rõ, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) là sự nghiệp cực kỳ vẻ vang, nhưng cũng nhiều khó khăn, gian khổ và lâu dài. Do đó, cần sự đồng thuận, phấn đấu kiên trì, bền bỉ với một quyết tâm cao độ mới có thể đưa sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta đến thắng lợi hoàn toàn; đồng thời, phải kiên quyết khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý trí.

Thấu suốt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tính chất của sự nghiệp xây dựng CNXH, là cơ sở lý luận khoa học, cách mạng để Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước; bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Hiện nay, trước tình hình quốc tế, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, kiên định con đường đi lên CNXH, vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc, thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN và lợi ích của quốc gia dân tộc, thực hiện “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn ý thức rõ trách nhiệm chính trị, trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân.