Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nguyện kế tục sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn khẳng định, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nguyện kế tục sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; xây dựng đất nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Như tin đã đưa, Hội thảo khoa học "55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các cơ quan Trung ương (1969 - 2024)" do Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương phối hợp với Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tổ chức tại Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội, sáng 29/8. 

Sau phần phát biểu khai mạc và đề dẫn Hội thảo của đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, các tham luận phát biểu tại Hội thảo cùng với 109 báo cáo, tham luận của các nhà khoa học gửi đến Hội thảo, từ nhiều góc độ khác nhau và bằng những luận giải sâu sắc cả về khoa học và thực tiễn đã tập trung phân tích, lý giải, góp phần làm sáng rõ hơn nội dung, tầm vóc và giá trị của Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nêu bật những thành tựu, bài học kinh nghiệm qua 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các cơ quan Trung ương.

Đồng thời, các tham luận đã phân tích, làm rõ ý nghĩa định hướng trong Di chúc của Người đối với cách mạng Việt Nam trong bối cảnh hiện nay; làm sáng rõ từng nội dung của Di chúc liên quan đến lĩnh vực hoạt động, công tác của các Ban, Bộ, Ngành Trung ương; khắc họa lên bức tranh rõ nét, sinh động về kết quả qua 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các cơ quan, đơn vị.

55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Nguồn: vtvgo.vn) 

Từ những kết quả, bài học kinh nghiệm qua 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các cơ quan Trung ương, các tham luận cho rằng cần tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa, hiệu quả hơn nữa những lời căn dặn tâm huyết, mang tầm nhìn chiến lược, vượt trước thời đại của Người, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm của cơ quan, đơn vị và định hướng phát triển của cơ quan, đơn vị trong thời gian tới…

Phát biểu chỉ đạo Hội thảo, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn khẳng định: 55 năm qua, tư tưởng và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đồng hành cùng dân tộc, soi rọi, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn kiên định và trung thành với sự nghiệp, lý tưởng cách mạng của Người, kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng vĩ đại mà Người đã trọn đời cống hiến và hy sinh.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết, nghị lực và ý chí toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, quân và dân ta đã giành được thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thu non sông về một mối, “thoả lòng mong ước của Người”.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tại Hội thảo. 

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặc biệt qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, nhờ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, với sự chung sức, đồng lòng phấn đấu không ngừng của lớp lớp cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, đất nước ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

"Chúng ta có thể tự hào báo cáo với Bác, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã xây dựng đất nước ta "ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" như mong muốn của Người", Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nêu rõ: Thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đặc biệt chú trọng đến nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng, luôn xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên và then chốt. Chủ tịch Quốc hội khẳng định, xây dựng Đảng về đạo đức gắn với xây dựng văn hóa liêm chính, coi văn hóa liêm chính là nền tảng xây dựng ý thức và đạo đức của cán bộ, đảng viên, đồng thời, "xây dựng văn hóa liêm chính để "không muốn" tham nhũng, tiêu cực. Muốn xóa bỏ triệt để, tận gốc tham nhũng, tiêu cực, việc xây dựng văn hóa liêm chính với tinh thần như Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thường nói "danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất" chính là giải pháp căn cơ, lâu dài.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đánh giá, trong thời gian qua, công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan Trung ương có nhiều chuyển biến tích cực. Đây là những cơ quan tham mưu chiến lược, đội ngũ cán bộ có trình độ về lý luận chính trị và chuyên môn; trực tiếp làm nhiệm vụ tham mưu và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên hầu hết các lĩnh vực quan trọng. Chủ tịch Quốc hội đề nghị, thời gian tới, các cơ quan Trung ương thường xuyên bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư để triển khai toàn diện, đồng bộ, sâu sắc công tác xây dựng Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò lãnh đạo, hạt nhân chính trị của tổ chức đảng, trước hết tập trung thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng, đấu tranh phản bác những luận điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đồng thời, tiếp tục phát huy mạnh mẽ vai trò, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, tập trung lãnh đạo cán bộ, đảng viên tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị; phát huy tinh thần trách nhiệm và tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.

Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường điều hành nội dung tham luận tại Hội thảo. 

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn yêu cầu các cơ quan Trung ương thực hiện nghiêm các nghị quyết Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là Kết luận số 21 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; Kết luận số 01 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Chuyên đề năm 2024 của Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương "Tăng cường tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của các cơ quan Trung ương".

Chủ tịch Quốc hội đề nghị các cơ quan Trung ương tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của cấp ủy và tổ chức đảng; lựa chọn vấn đề trọng tâm, then chốt, khâu đột phá để ban hành các nghị quyết chuyên đề và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện đạt hiệu quả; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát định kỳ và đột xuất của các cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp; kịp thời phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, ngăn ngừa vi phạm và kiên quyết xử lý sai phạm, giải quyết tốt các vấn đề phức tạp ngay từ cơ sở…

Chủ tịch Quốc hội khẳng định: Trong suốt chiều dài lịch sử của cách mạng Việt Nam, mỗi thắng lợi, mỗi bước đi lên đều gắn liền với công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. "Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nguyện kế tục sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; xây dựng đất nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"; nguyện "giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình", tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người".

Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương Nguyễn Văn Thể phát biểu bế mạc Hội thảo. 

Phát biểu bế mạc Hội thảo, Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương Nguyễn Văn Thể trân trọng cảm ơn ý kiến tham luận, đóng góp của các đại biểu, nhà khoa học và khẳng định tiếp thu tất cả ý kiến tham luận, trên cơ sở đó biên tập làm tài liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển sáng tạo di sản Hồ Chí Minh; góp phần thực hiện thắng lợi Di chúc thiêng liêng và sự nghiệp cách mạng do Người tìm đường, mở đường và dẫn đường; xây dựng thành công nước Việt Nam "hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới" như di nguyện cuối cùng của Người.

Nhân dịp này, để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu của đông đảo bạn đọc, cùng với sách giấy, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách về hội thảo dưới dạng sách điện tử, đăng tải trên trang stbook.vn và sachquocgia.vn./.


 TINH THẦN QUẢN TRỊ QUỐC GIA VÀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ "7 DÁM"

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra chủ trương: "Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả". Đây là chủ trương mang tính cấp thiết.

Công tác quản lý nhà nước đòi hỏi tính nguyên tắc, theo đó dựa vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, người thực thi chỉ có quyền "làm đúng" những quy định của pháp luật. Nhưng trên thực tế rất nhiều trường hợp không hoàn toàn trùng khít với quy định của pháp luật nên buộc người làm công tác quản lý phải vận dụng. Từ đây xuất hiện tình trạng sợ sai, không dám quyết khiến cho công việc bị ngưng trệ, hoặc chí ít cũng hạn chế sự sáng tạo trong xử lý công việc. Cũng trên tinh thần thượng tôn pháp luật, quản trị vừa đòi hỏi làm đúng, vừa phải có sự sáng tạo là nắm nguồn lực một cách tốt nhất, sâu sắc nhất, hiểu biết đầy đủ nhất để đến lúc ra quyết định có thể khai thác tối ưu những nguồn lực đang có. 

Khi mới được bổ nhiệm Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi đã được một đồng chí cán bộ lãnh đạo thế hệ trước khuyên rằng với mọi quyết định của cậu, tất cả những quyết định, dù là nhỏ nhất, nhất thiết cậu phải làm đúng theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật và dàn trách nhiệm ra cho thuộc cấp. Bởi vì nếu sau này có sai phạm gì, người ta sẽ không nói đến việc cái này hiệu quả thế nào mà chỉ tìm những điểm sai để quy trách nhiệm thôi. Khi ấy tôi thấy là lời khuyên chí tình và vô cùng biết ơn người lãnh đạo đi trước.

Thế nhưng bắt tay vào thực tế tôi thấy hoang mang khi nghĩ tới lời khuyên ấy vì có rất nhiều việc không thể tìm thấy trong các văn bản pháp quy. Những văn bản này không thể bao trùm hết thực tiễn, thậm chí còn có văn bản chưa phù hợp thực tiễn. Nếu máy móc cứng nhắc quá có thể dẫn đến chậm trễ, mất thời cơ, thậm chí làm tổn hại đến lợi ích chung.

Tôi đã từng "va" vào một tình huống thực tế như vậy khi làm Trưởng ban chỉ đạo một kỳ thi. Sau khi thí sinh đã làm bài được khoảng 30 phút thì từ một điểm thi, một cán bộ thanh tra báo cáo có một số bài thi giám thị ký sai vị trí trên giấy thi. Đối chiếu với quy chế thì đây là dấu hiệu đánh dấu bài và đề nghị tôi cho các giám thị ký lại. Trong trường hợp này nếu làm đúng theo những điều ghi trong quy chế, thí sinh sẽ mất hơn 30 phút chép lại bài vào giấy thi ký lại.

Sau một thoáng suy nghĩ tôi quyết định vẫn để thí sinh tiếp tục thi bình thường, bất chấp vị thanh tra kia dọa rằng làm như vậy là vi phạm quy chế và tôi phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Suy nghĩ của tôi khi ấy chỉ đơn giản là tôi có thể yêu cầu thí sinh dừng để giám thị ký lại, nhưng không có quyền bù cho họ 30 phút vì giám thị mà họ mất. Còn quy định trong Quy chế là để chống việc đánh dấu bài có thể gian lận khi chấm. Để loại trừ khả năng này, tôi đã yêu cầu niêm phong toàn bộ các bài thi trong phòng có sự cố để rồi sau đó đưa ra chấm tập thể.

Trong trường hợp này tôi đã xử lý theo hướng mình chịu trách nhiệm trên cơ sở tìm ra giải pháp tối ưu. Đó là cách xử lý theo hướng quản trị. Có thể thấy làm quản lý không dễ, bởi vì khi làm theo cách: Văn bản đâu? Quy định đâu? Có thể nói không phải bao giờ cũng có những văn bản quy định đúng tất cả việc mình đang phải giải quyết. Điều này đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao với công việc, chứ nếu chỉ dựa vào văn bản, rất có thể trong nhiều trường hợp về cơ bản là không dám làm…

Nhìn từ góc độ tư duy quản trị, phải coi thời cơ là tài nguyên, nếu sợ trách nhiệm mà để thời cơ đến không chớp lấy là có tội chứ!

Singapore là một quốc gia nhỏ nhưng trở thành một hiện tượng được thế giới kính nể. Đó là một nước có nền quản trị quốc gia hiện đại và hoạt động rất hiệu quả. Họ coi thời cơ là một loại tài nguyên quý hiếm. Ông Lý Quang Diệu có một câu nói rất hay, đại ý: bên cạnh những phẩm chất thông thường thì phải chọn ra những người có phẩm chất lãnh đạo, trong đó có "helicopter vision" (tầm nhìn từ trên trực thăng). Nghĩa là nhìn toàn cục chứ không phải chỉ tập trung vào một việc cụ thể.

Đó là tư duy quản trị hiện đại, biết trong hệ thống ấy làm thế nào để chuyển động tốt nhất, chứ tư duy quản lý nhà nước chỉ xem có đúng với các quy định hay không, tức là văn bản chịu trách nhiệm chứ không phải người quản lý chịu trách nhiệm.

Tôi cho rằng làm cán bộ quản lý phải sáng tạo nhưng vẫn đúng trên nền pháp luật. Phải tìm ra cán bộ dám nói, dám làm, dám hy sinh. Không nên bổ nhiệm cán bộ theo kiểu xếp hàng chờ xe buýt, đến lượt thì lên, không cần công trạng gì. Có tình trạng một số cán bộ cho rằng thà đứng trước hội đồng kỷ luật còn hơn đứng trước vành móng ngựa. Họ thà không làm để bị kỷ luật còn hơn làm mà sai phải ra tòa. Hệ quả của tư duy này là công việc bị chững lại, nếu không nói là mất thời cơ.

Ở nước ta, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước luôn khuyến khích, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tháng 9/2021, Bộ Chính trị có kết luận về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP quy định cụ thể về nội dung này.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cũng nhiều lần đề cập đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần "7 dám", gồm: dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung.

Tôi cho rằng tinh thần "7 dám" đó một cách tự nhiên đã có sự gắn kết với tư duy quản trị quốc gia mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra./. 

Báo Dân Trí

Thứ Hai, 2 tháng 9, 2024

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH: CẢ CUỘC ĐỜI VÌ NƯỚC, VÌ DÂN!

     Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả cuộc đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân. Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản cao quý, đó là tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức của người cách mạng - phẩm chất tận trung với nước, tận hiếu với dân./.
Theo TTXVN.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐỊNH HƯỚNG CHO CÁCH MẠNG VIỆT NAM HÔM QUA, HÔM NAY VÀ CHO MAI SAU!

     Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau hơn nửa thế kỷ, càng sáng tỏ giá trị lịch sử và tầm nhìn thời đại của một bậc thiên tài. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và cho mai sau, là ngọn đuốc soi đường cho đất nước ta vững bước đi lên, phát triển bền vững!

Di chúc là tâm nguyện, là ý chí, niềm tin, là tình cảm và trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, với Nhân dân, với sự nghiệp cách mạng.

Là người cách mạng, là người mác-xit, thấu hiểu quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và con người, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức và đón nhận quy luật của cuộc sống một cách chủ động, bằng phong thái ung dung tự tại, chuẩn bị cho việc ra đi bằng những lời tâm huyết dặn lại, Người viết: "Tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột".

Mở đầu Di chúc, với tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với Tổ quốc, với Nhân dân, Người tin tưởng chắc chắn thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và sự thống nhất đất nước. Người khẳng định: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn". Người cũng nêu những công việc dự định làm sau đó. Người viết: "Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta…".

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là công trình bất hủ về xây dựng Đảng cầm quyền.

Là Người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Người cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất, là sự vận động và phát triển theo đúng quy luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền mà không đoàn kết thống nhất thì sự nghiệp cách mạng của dân tộc không thể thắng lợi. 

Xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nền tảng cho mọi thành công. Đoàn kết thống nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức đảng các cấp, mà còn là sinh mệnh của toàn Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng.

Trong bản thảo Di chúc mà Người dành nhiều tâm huyết để hoàn thành, ngay từ năm 1965, Người đã viết: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”, “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Như vậy có thể thấy, đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ là mối quan tâm lớn hàng đầu của Người mà còn là sự trăn trở khi Người nghĩ về mai sau.

Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại luôn nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng của đoàn kết thống nhất. Người không chỉ nêu ra yêu cầu phải đoàn kết trong Đảng mà Người còn chỉ rõ sự đoàn kết ấy phải là đoàn kết nhất trí, đoàn kết thống nhất một cách thực chất và phải thể hiện cả trong tư tưởng và hành động. Tư tưởng và hành động phải thống nhất. Không thể bề ngoài là đoàn kết nhưng những khi cần ra một quyết định, một quyết sách thì không có được sự thống nhất hay khi cần thì liên minh nhau, khi không cần thì tìm cách cản trở công việc của nhau. Trong tư tưởng của Người, đoàn kết phải là đoàn kết thống nhất, trước sau như một, tức là phải dựa trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng và vì lợi ích của cách mạng, Nhân dân và tập thể. Người luôn nhấn mạnh: Đảng tuy có nhiều đảng viên, song khi tiến hành nhiệm vụ cách mạng thì chỉ như một người, trong Đảng không cho phép có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. 

Đảng là tổ chức chính trị cao nhất của Nhân dân, của dân tộc, các đảng viên đều tham gia tổ chức một cách tự giác, tự nguyện. Việc giữ vững và thực hiện nghiêm minh các nguyên tắc của Đảng là trách nhiệm của mỗi đảng viên. Người coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và quan trọng, trong từng tổ chức đảng phải thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ, “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”( ), mọi ý kiến, suy nghĩ của mỗi đảng viên đều phải được bày tỏ, lắng nghe; mọi quyết định quan trọng của tổ chức đều phải được bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ. Đoàn kết thống nhất trong Đảng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải thật thà tự phê bình và phê bình, đây chính là một hình thức rèn luyện đảng viên để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Bởi theo Người: “Chỉ có đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật dân chủ mới dám mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa. Do tự phê bình và phê bình… mà chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ” ( ). Đây cũng là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản nói chung, theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Di chúc, Người căn dặn “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. 

Để có sự đoàn kết thật sự, không chỉ cần thực hiện đúng nguyên tắc sinh hoạt Đảng mà còn rất cần tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau. Năm 1966, Người bổ sung vào bản thảo Di chúc cụm từ “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Để có sự đoàn kết thống nhất thực sự thì bên cạnh tinh thần, lý trí, trong mỗi cán bộ, đảng viên phải có tình thương yêu đồng chí, có lòng nhân ái, nhân hậu. Trong thực hành công việc không chỉ là đặt ra yêu cầu hoàn thành công việc mà còn phải có sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành công việc. Vì vậy, để duy trì và bồi đắp đoàn kết thống nhất thì từng tổ chức đảng bên cạnh việc phải chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, còn phải thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, tình thương yêu cảm thông chia sẻ, tình đồng chí. 

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng yếu tố đạo đức trong Đảng, chống lại các căn bệnh “quan liêu”, “tham nhũng, lãng phí”, “xa dân”. Theo Người, Đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo Nhân dân xây dựng xã hội mới, tiến hành “một cuộc chiến đấu khổng lồ”, xóa đi những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn với 4 chữ "thật": “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”.

Mỗi đảng viên, nhất là đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo phải cương quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội trong chính bản thân mình. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội chính là căn nguyên của mất đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Thấm nhuần tư tưởng và thực hiện Di chúc của Người, những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng, giữ gìn và phát huy đoàn kết thống nhất. Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và phát huy được sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước mà Nhân dân tin tưởng giao phó. Trong nhiều kỳ Đại hội Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất đều được nghiêm túc đặt ra, được xem xét, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc. 

Trong Di chúc, ngay sau khi nói về Đảng, Hồ Chí Minh nói về đoàn viên và thanh niên. Người viết: "ĐOÀN VIÊN và THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ". Người căn dặn: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".

55 năm qua, Đảng ta đã quan tâm bồi dưỡng, đào tạo các thế hệ đoàn viên, thanh niên. Nhiều đoàn viên, thanh niên đã thực sự trở thành người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của lớp cha, anh đi trước. Nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn giỏi; trở thành những trí thức tài năng, những công nhân, những nông dân sản xuất giỏi, những doanh nhân thành đạt… Đảng ta chủ trương xây dựng Đoàn vững mạnh là xây dựng Đảng trước một bước. Tầm nhìn xa của Hồ Chí Minh về xây dựng những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của Nhân dân rất rõ ràng. Người luôn thể hiện sự tin tưởng vào thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Suốt đời mình, Người luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ như tâm nguyện của Người trong Di chúc là một việc cực kỳ quan trọng của Đảng, của Nhân dân ta.

Nói về nhân dân lao động, trong Di chúc, Người viết: "NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.

Tuy vậy, Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, Nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng".

Suốt cuộc đời của Người là chăm lo cho đời sống của Nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân".

Khi viết VỀ VIỆC RIÊNG, Người tâm niệm: "Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".

Ngay cả việc ra đi của Người, Người vẫn còn lo cho nhân dân, khi Người căn dặn: "Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của Nhân dân".

Nhân dân luôn trong trái tim của Người, tất cả vì Nhân dân, dành cho Nhân dân. Người viết: "Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng".

Đoạn cuối cùng của bản Di chúc thiêng liêng, Người viết: "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới". Sau bao biến cố thăng trầm của một mô hình chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải coi đây chính là đặc trưng cơ bản nhất của một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sau 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm nhìn chiến lược, tư tưởng thiên tài của Người từ cách đây trên nửa thế kỷ đã, đang và sẽ vẫn là ngọn đuốc soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam. Sau 55 năm thực hiện Di chúc, chúng ta soi xét vào từng lời dặn của Người, tự hào đã làm được nhiều việc, trân trọng những thành quả đã đạt được, nhưng không khỏi đau lòng về những thiếu sót, hạn chế, những tiêu cực đang diễn ra trong xã hội. Trong Đảng vẫn còn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.

Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu hướng chạy theo chủ nghĩa cá nhân; một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chưa tôn trọng và thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Bên cạnh đó, những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”, tính cục bộ địa phương có nơi đã xuất hiện và phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Ở nhiều nơi, chính người đứng đầu chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về sự đoàn kết thống nhất nội bộ lại chưa thực sự gương mẫu, chưa thấm nhuần ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ. Chính vì vậy, việc lựa chọn người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, có vai trò tiền phong, gương mẫu là rất quan trọng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải thực sự công bằng, công tâm trong xử lý công việc, phải thực sự là trung tâm quy tụ, đoàn kết của tổ chức đảng, của tập thể cơ quan, đơn vị.

Thực tế cho thấy, đoàn kết thống nhất trong cán bộ lãnh đạo ở cấp càng cao thì tác động, ảnh hưởng đối với Đảng càng mạnh, sức lan tỏa ra xã hội càng lớn. Ngược lại, những người nắm trọng trách lãnh đạo, không có ý thức đoàn kết thống nhất thì không những gây nguy hại mà còn tạo ra những nguy cơ lớn, khó lường cho toàn Đảng. 

Trong thời điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới nhưng cũng đầy những thử thách lớn lao, những thành tựu mà toàn Đảng, toàn Dân đạt được qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước chính là kết quả của sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là minh chứng khẳng định sự trưởng thành và vững mạnh của Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết trong Đảng. Chính vì vậy, tăng cường đoàn kết và thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở là điều tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

Giờ đây, đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, có như vậy thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết trong Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc.

Trước thềm Đại hội XIV của Đảng, trước thời điểm phải lựa chọn những người thật sự xứng đáng, thật sự có tài, thật sự có đức, thật sự có tâm, thật sự có tầm để đảm nhận những trọng trách lãnh đạo đất nước, thì hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất. Đây là trách nhiệm lớn, mà trước hết là của tập thể, cá nhân lãnh đạo từ Trung ương đến từng cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ giữ trọng trách lãnh đạo từ cấp cao đến cấp cơ sở phải thực sự thực hiện nghiêm lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”./.
(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.118, 223.
Yêu nước ST.

NHỮNG NGƯỜI “KÊ CAO THỀM TỔ QUỐC”…❤️❤️❤️

         Trên đầu là trời xanh, dưới chân là biển ngọc. Những người lính công binh Hải quân chinh phục biển ấy là “Những người kê cao Tổ quốc” vẫn ngày đêm dầm mình dưới sóng biển vác trên vai những bao đá hộc, xi măng, cốt thép vạm vỡ gân guốc kè quây đảo nổi, cơi nới, xây cao đảo chìm….cùng nhau xây dựng Trường Sa!

Mỗi viên đá, mỗi hạt cát, mỗi tấc bê tông ở đảo là cả một giá trị to lớn trong công cuộc xây dựng chủ quyền của Đất nước.

Người lính Công binh của Hải quân được huấn luyện xây dựng kè bờ đảo, với những điều kiện khắc nghiệt và đặc biệt như phải xử lý nước mặn, sóng gió trong xây dựng. Họ có vũ khí, nhưng chỉ được trang bị những vũ khí để tự vệ. Nhưng chính họ lại là những người lính sẽ có thể đụng độ đầu tiên với đội quân xâm lấn đảo. 

Câu chuyện 64 chiến sĩ công binh hi sinh ở đảo Gạc Ma năm 1988 là một điển hình về cuộc chiến đấu không cân sức, đột ngột, bất khả kháng; về sự hi sinh dũng cảm của những người lính công binh hải quân, mà lịch sử giữ nước giữ đảo của Việt Nam sẽ luôn ghi nhớ khắc sâu.

Bao ngày đêm phải đối mặt với nhiều khó khăn, gian khổ để xây dựng, tôn tạo và bảo dưỡng các công trình, góp phần giữ gìn mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc nơi đầu sóng ngọn gió. Từ những đôi bao tay rách nát, vai ứa máu chúng ta như lại thấy cái bất khuất, lì lợm, vĩ đại của những con người chinh phục biển cả bằng cái đầu lạnh lùng và trái tim ấm nóng./.



Yêu nước ST.

MỖI NGƯỜI DÂN VIỆT NAM LUÔN TRÂN TRỌNG NHỮNG GIÁ TRỊ THIÊNG LIÊNG CỦA “ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC”!

     79 năm qua kể từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2024), mỗi người dân Việt Nam đều thấu hiểu hơn sự khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; đồng thời cũng càng trân trọng hơn những thành quả của sự nghiệp cách mạng và giá trị thiêng liêng của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” mà nhân dân ta đã kiên cường đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để giành được!

“ĐỘC LẬP- TỰ DO- HẠNH PHÚC” ĐƯỢC GHI DƯỚI QUỐC HIỆU CỦA NƯỚC VIỆT NAM TỪ 9/10/1945 ĐẾN NGÀY NAY.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” lần đầu tiên xuất hiện trong Sắc lệnh luật số 50 ngày 9/10/1945 (Sắc lệnh luật số 50). Văn bản luật ghi tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” dưới dòng chữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” này chính là sự lựa chọn, là sự khẳng định chính thức của một quốc gia có chủ quyền (đã tuyên bố trước thế giới và mọi người dân Việt Nam). 7 thập niên qua, tiêu ngữ này không hề thay đổi dù thể chế chính trị Việt Nam là “dân chủ cộng hòa” khi xưa hay “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” hiện nay, có chăng thì chỉ là sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn và quá trình thực hiện “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” cho các tầng lớp nhân dân ngày càng trọn vẹn, đầy đủ hơn mà thôi. Đây mới chính là sự thật, chứ không phải là “ở Việt Nam làm gì có Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” hay “người dân Việt Nam đâu có được Độc lập - Tự do - Hạnh phúc thực sự” như các thế lực thù địch suy diễn, kích động và xuyên tạc.

Thực tế, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người đã được khẳng định tại Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789; đồng thời cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh “suy rộng ra”, phát triển, khẳng định là quyền tự quyết của một dân tộc trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam ngày 2/9/1945. Để có được sự khẳng định đó cũng như để tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” xuất hiện trong Sắc lệnh luật số 50, nhân dân Việt Nam đã phải trải qua một hành trình đấu tranh đầy gian khổ theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930) để lật đổ ách thống trị tàn bạo của phát xít Nhật, thực dân Pháp và chế độ phong kiến. Với mỗi người dân Việt Nam đã có hơn 80 năm trời đắm chìm trong đêm trường nô lệ, thì thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Tháng Tám năm 1945 và “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” trở thành tiêu ngữ đặt dưới quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” không chỉ thiêng liêng, có ý nghĩa trọng đại, mà còn là sự khẳng định kết quả của sự đồng tâm, đồng chí, đồng lòng, kiên tâm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho nên, dù ai nói ngả, nói nghiêng, bẻ cong sự thật thì tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” vẫn luôn được khẳng định; luôn là đích đến và được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam hết lòng, hết sức bảo vệ 7 thập niên qua chắc chắn không phải là “chỉ để mị dân” như các thế lực thù địch bịa đặt, mà đó chính là sự trân trọng, là biết ơn sự hy sinh của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước; đồng thời ghi dấu một thành quả lớn lao của hành trình đấu tranh cách mạng hướng đến tương lai tươi sáng theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Hơn nữa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tự do, Hạnh phúc trong một quốc gia độc lập không chỉ là khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn là khát khao ngàn đời của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước. Vì thế, với một đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã không chỉ lãnh đạo nhân dân Việt Nam kiên cường đấu tranh cách mạng để đưa tên nước Việt Nam trở lại bản đồ chính trị thế giới; để tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” được khẳng định dưới quốc hiệu của quốc gia Việt Nam, mà Người còn khẳng định: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không chịu gì kém” và “chính sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” để mỗi người dân đều được thụ hưởng giá trị lớn lao của Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.

Thực tế cho thấy là, luôn lấy người dân làm trung tâm của mọi chiến lược phát triển; vì nhân dân phụng sự để nhân dân hiểu được, thấm được, thụ hưởng được giá trị cao quý của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, mọi đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng xuyên suốt trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc cũng như cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng không ngoài mục đích lớn lao đó; cũng chính là nhằm để thực hiện lời căn dặn “đầu tiên là công việc đối với con người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc lịch sử. Đồng thời, minh chứng sinh động nhân dân Việt Nam được thụ hưởng “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự chính là những thành tựu hiển hiện trên thực tế như: Thắng lợi của cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài với những quyết sách đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng để tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, đoàn kết và bỏ phiếu kín đầu tiên của nước Việt Nam độc lập ngày 6/1/1946 “dân chủ hơn hàng ngàn lần dân chủ tư sản”; soạn thảo và thông qua Hiến pháp năm 1946/bản Hiến pháp “dân chủ, công bình của các giai cấp”; thực hiện bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, cứu đói và thực thi các chính sách để phát triển văn hóa, xã hội; thực hiện chủ trương đối ngoại mềm dẻo để tránh cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù đang đe dọa nền độc lập vừa giành được trong những năm 1945-1946; là những thành tựu của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc (1946-1954) - vừa kháng chiến để bảo vệ nền độc lập dân tộc, vừa kiến quốc để xây dựng đất nước phát triển trong điều kiện có chiến tranh; với thắng lợi của sự nghiệp vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội… Đặc biệt, một Việt Nam ngày càng đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng từ 1986 đến nay đã không chỉ cho thấy “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” luôn là khát vọng, là đích đến của dân tộc trên hành trình xây dựng và phát triển, mà còn là sự khẳng định và làm sâu sắc hơn ý nghĩa lời của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay”.

Sự xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” và hành trình đấu tranh cho “6 chữ vàng” đó hiển hiện sinh động qua sự khẳng định: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” và “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; qua căn cứ để lựa chọn tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” được ghi rõ trong Sắc lệnh luật số 50: “Xét vì bắt đầu từ ngày 2/9/1945 nước Việt Nam đã tuyên bố độc lập cho toàn thể quốc dân và thế giới biết; Xét vì ngày 24/8/1945, Vua Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị và giao chính quyền lại cho Chính phủ dân chủ cộng hoà; Xét vì cần nêu cao một kỷ nguyên mới để đánh dấu vào lịch sử nước ta, nhưng độc lập, tự do và hạnh phúc mà chính thể dân chủ cộng hòa mang lại cho dân chúng”; qua Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945): “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” và lời phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc (10/1/1946): “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”; qua tinh thần, ý chí “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) và tuyên bố “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước (17/7/1966)… vừa thiêng liêng, vừa có sức mạnh cổ vũ, truyền cảm hứng lớn lao đối với bao thế hệ người Việt Nam yêu nước. Cho nên, nếu cho rằng “thực chất của hạnh phúc” chính là việc con người phải được thụ hưởng quyền con người đúng nghĩa theo Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948 thì đúng là hạnh phúc thực sự đã được thực hiện ở Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo. Càng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dù phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách, thì mỗi người dân Việt Nam yêu nước càng thấy rõ hơn, sâu sắc hơn ý nghĩa thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và giá trị của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

KIÊN ĐỊNH MỘT NƯỚC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA “ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC”.
Nhận thức sâu sắc rằng Tự do là “quyền của con người” và người dân chỉ có được Tự do, Hạnh phúc trong một quốc gia độc lập, thống nhất, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã kiên trì vượt mọi khó khăn, thách thức để chiến đấu và chiến thắng; đã không chỉ làm nên một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công (1930-1945) mà còn giành thắng lợi trong hành trình đấu tranh cho một Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, non sông liền một dải (1945-1975). Vì thế, kiên định, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng (từ 1986 đến nay) với một đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam để không chỉ xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước đi đến phồn vinh, mà còn nỗ lực thực thi trong từng quyết sách để đảm bảo mỗi người dân Việt Nam đều được sống trong “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự.

Hơn nữa, vì “tự do là sản phẩm tất yếu của sự phát triển lịch sử” nên Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ tại Điều 3: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”, song cũng hiến định rõ rằng “2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” tại Điều 15. Đồng thời, Điều 14 cũng ghi rõ: “2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Sự giới hạn này tùy thuộc điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, nhưng phải tuân theo nguyên tắc giới hạn quyền con người tại Điều 29: “1) Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ. 2) Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn” của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948. Cho nên, các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch cần phải hiểu rằng, ở Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo đảm; trong đó có các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,v.v… thì “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự của mỗi người dân không phải là “tự do không giới hạn” như chiêu trò kích động, xuyên tạc, mà chính là đời sống vật chất và tinh thần ngày mỗi ngày được nâng cao hơn; quyền con người, quyền công dân ngày càng được đảm bảo hơn bởi đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và chính sách, pháp luật ngày càng hoàn thiện của Nhà nước.

Với một hệ thống pháp luật ngày càng được bổ sung, hoàn thiện góp phần đảm bảo, thực thi, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân (từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013; với các luật, bộ luật như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016; Luật Báo chí 2016; Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Bộ luật Lao động 2019; Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam 2019; Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022…) và với việc đã tham gia hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người (Công ước về các quyền dân sự và chính trị 1966; Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966; Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979; Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc 1969; Công ước về quyền trẻ em 1989; Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người…) cùng sự nỗ lực thực hiện được cộng đồng quốc tế ghi nhận, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, có thể khẳng định rằng: Ở Việt Nam, “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự đã hiện hữu, cho nên luận điệu Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thực hiện đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị thì người dân không có được “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” đúng nghĩa và quyền dân chủ, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận “chỉ có ở trên giấy” chỉ là sự suy diễn, xuyên tạc của các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch luôn âm mưu chống phá Đảng và chế độ.

Đặc biệt, mới đây, từ 21-24/8/2024 tại Hà Nội, gần 600 đại biểu đã tham dự “Hội nghị người Việt Nam toàn thế giới lần thứ 4” và “Diễn đàn Trí thức và Chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài năm 2024”, với chủ đề “Người Việt Nam ở nước ngoài chung tay hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước”. Đây chính là một diễn đàn, một không gian mở để kiều bào gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ ý tưởng và đóng góp vào quá trình phát triển đất nước. Đồng thời, đó cũng là một minh chứng khẳng định Việt Nam đang tiếp tục triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Chỉ thị 45/CT-TW năm 2015 tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới… để thúc đẩy hơn nữa công tác chăm lo, hỗ trợ kiều bào, củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế, việc Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn trân trọng từng ý kiến tâm huyết, đóng góp của các tầng lớp nhân dân, trong đó có đội ngũ trí thức, bà con kiều bào để kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” là sự thật không thể phủ nhận/không thể bẻ cong. Và cũng vì thế, nếu một ai đó, một nhóm người nào đó nhân danh quyền tự do ngôn luận, quyền con người để tiến hành các hoạt động tung tin xấu độc, tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ bằng những luận điệu xảo trá… thì chính là vi phạm pháp luật theo Điều 117, 331 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và kêu gọi tụ tập biểu tình, kích động biểu tình trái phép gây rối trật tự, phá hoại an ninh quốc gia… thì chính là vi phạm Điều 118, 318 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Cuối cùng, phải khẳng định rằng, trước một đất nước Việt Nam ngày càng phát triển bền vững, hòa hiếu và rộng mở luôn là điểm đến, là sự lựa chọn của các nhà đầu tư nước ngoài, của du khách quốc tế bởi chính trị ổn định, môi trường hòa bình, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, hệ thống pháp luật ngày càng đồng bộ,v.v… với chỉ số hạnh phúc năm sau luôn được xếp cao hơn năm trước: “Năm 2024, Việt Nam đứng thứ 54 trong tổng số 143 quốc gia/vùng lãnh thổ được khảo sát/tăng 11 bậc so với xếp hạng năm 2023. Xét ở khu vực châu Á thì Việt Nam đứng vị trí thứ 6/sau Sinagpore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines”… thì mọi luận điệu phản động, xuyên tạc sự thật cho rằng ở Việt Nam - người dân không có quyền con người/không được thực sự thụ hưởng giá trị của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” chỉ là chiêu trò "diễn biến hòa bình" của các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch./.
Yêu nước ST.

CHU NGỌC QUANG VINH KẺ VÔ ƠN VỚI TỔ QUỐC... CẦN XEM LẠI CUỘC THI ĐƯỜNG LÊN ĐINHE OLYMPIA!

     Sáng ngày 2/9, mạng xã hội đăng tải thông tin Chu Ngọc Quang Vinh ở Yên Bái - người từng giành ngôi vô địch, mang về vòng nguyệt quế cuộc thi tháng 1, quý I, Đường lên đỉnh Olympia năm thứ 24 có dòng trạng thái vô ơn với đất nước khi xa rời thực tế, cuộc sống ở quê nhà mà chỉ mơ mộng hão huyền nơi "xứ người".

Trạng thái đăng trên Story của Quang Vinh với nội dung, nam sinh này chỉ quan tâm đến bản thân, đến lợi ích viển vông ở xứ “thiên đường” là các nước phương Tây xa xôi.

Chu Ngọc Quang Vinh, nam sinh từng thi Đường lên đỉnh Olympia gây phẫn nộ với trạng thái đăng tải trên trang cá nhân hỗn xược, vô ơn với đất nước.

Nam sinh này viết: “Cuối cấp 2 là tôi tiếp cận với văn hóa phương Tây cao trào nhất. Dần dần, tôi phát hiện những gì mình được học ở trường bấy lâu nay không hoàn toàn là sự thật, chỉ biết lừa gạt dân nên tìm mọi cách để sau này được sống ở nước ngoài”.

Tiếp đó, thanh niên này khẳng định, bản thân ôn thi Đường lên đỉnh Olympia chỉ để sống ở nước ngoài với mưu cầu lợi ích cá nhân. Việc học lịch sử không phải theo ý muốn của bản thân và được ban tặng nhiều thứ vì thành tích. “Đến lúc giấc mộng chấm dứt, tôi không biết phải làm gì tiếp theo, nhưng nhìn lại, tôi kệ và chỉ tập trung vào tôi”.

Dòng trạng thái của nam sinh này còn nhiều nội dung hỗn xược, thể hiện sự vô ơn với đất nước, với Đảng và với chính quê hương nơi anh ta sinh ra.

Lập tức, nội dung đăng tải đã gây phẫn nộ đối với cư dân mạng. Nhiều người cho rằng, Quang Vinh là người vô ơn với đất nước, mới có được tí chữ đã vội bỏ làng, dám chê bai nơi mình sinh ra... dù sau đó nam sinh này đã viết lời xin lỗi.

Ca sĩ Đen Vâu đã có dòng nội dung đầy sâu sắc: "Vài người thường ăn hải sản, rồi lại chê bai mùi cá ao" để phản đối nội dung lệch lạc của nam sinh quê Yên Bái.

Chắc chắn tình yêu quê hương đất nước sẽ thua anh. Việt Nam là nơi đáng sống đó. Ghét từ năm cấp 2 mà vẫn cố đu bám học hết cấp 3 và mong ước nhờ đất nước để được đi du học. Thôi đi đu xứ người càng sớm càng tốt”.

Là một người dân Yên Bái, tài khoản Anan cho biết, bản thân chỉ học trường làng chứ không học trường chuyên như Vinh, nhưng “từ lúc có nhận thức tôi và thế hệ của tôi đã được dạy về lòng yêu nước. Cũng như các đồng bào dân tộc anh em ở Yên Bái luôn một lòng yêu Bác Hồ, yêu Đảng, yêu Tổ Quốc. Còn nảy nòi ra cháu này thì cũng không hiểu…”

Nhiều tài khoản khẳng định, Quang Vinh là người vô ơn, đu bám mới có tí học đã chê làng, mới ăn "tí hải sản đã chê cá ao"… để chỉ trích dòng trạng thái của anh này.

Quang Vinh nên nhớ, không có ông cha ta đã hy sinh biết bao xương máu, không có Đảng cộng sản Việt Nam mà Bác Hồ là người sáng lập, lãnh đạo thì làm gì chúng ta có được hòa bình, độc lập - tự do, đất nước được phát triển tươi đẹp như ngày hôm nay.

Với giấc mộng viển vông của mình, Vinh đừng mang so sánh đất nước, Tổ quốc với bất kỳ nơi nào. Bởi vì, bản thân cậu và người thân trong gia đình cậu sinh ra, lớn lên là ở chính mảnh đất, nơi mà cha ông ta đã đổ biết bao xương máu mới có được. Đừng vì những thứ viển vông mà vô ơn chê bai đất nước...
Theo KV-QPAN.
Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TRÔNG NGƯỜI LẠI NGHĨ ĐẾN TA!

     Một buổi tối lão coi một video clip nói rằng trên thế giới có 7 nước được “phong tặng” danh hiệu quốc gia bẩn nhất thế giới. Mặc dù đôi lúc phải rùng mình vì độ bẩn ở một quốc gia nào đó, song phải coi cho đến hết để xem cái nước nghèo nàn lạc hậu với tên là Việt Nam có được “biểu dương” trong bản danh sách đó không? May quá, không có, không có, không có các bạn ạ.

Nghèo mà bẩn là lẽ đương nhiên rồi, nhưng trong số 7 nước lại có nước giàu vì nhiều tiền, có nước mạnh về quân sự, nhưng lại nằm trong số 7 nước bẩn nhất thế giới. 

Người Việt ta có câu: “Đói cho sạch, rách cho thơm”, hay lắm đó các bạn ạ. Cái sự giàu và nghèo, “tức nhiêng” là do sự chăm chỉ làm ăn của mỗi con người (đôi khi còn là số phận nữa), song quan trọng hơn cả là phong tục tập quán, thể chế và luật pháp ở quốc gia đó có giúp làm cho xã hội được công bằng hay không?

Trên thế giới này có mấy nước có sức mạnh kinh tế như Qatar? Song về độ bẩn thì nó đứng thứ bảy. Trên thế giới này có mấy nước có đất rộng người đông, có nền công nghiệp và công nghiệp quốc phòng hơn được Ấn độ? Thế mà quốc gia đó “được” xếp đầu bảng về “quốc gia bẩn nhất thế giới”. Lão không mô tả, những quốc gia này bẩn như thế nào, mà lão muốn nói, vì đâu nên nỗi?

Vì đâu nên nỗi? Bỏ qua phong tục tập quán như người Ấn Độ thiêu xác người bên bờ sông Hằng, có mấy gia đình nghèo đến mức không có tiền mua củi thì thả xác trôi sông. Rồi cũng trên dòng sông ấy người dân ra đó tắm giặt, dùng nước đó làm nước sinh hoạt. Rồi tôn giáo nọ coi con bò là vật linh thiêng, người ta có thể uống nước đái của bò, lấy phân bò xoa lên khắp người mình. Đó là phong tục, là tập quán rất khó bỏ.

Nhưng xã hội Ấn Độ là một điển hình “mẫu mực” về phân chia đẳng cấp. Họ dựa vào kinh Rig Vedas (kinh Vệ-đà), chia xã hội ra thành bốn đẳng cấp – cao nhất là Bà-la-môn (Brahmani) da trắng, họ coi đẳng cấp này là cái đầu của thần Brahma. Còn hai tay và hai chân thần Brahma là đẳng cấp Sát-đế-lợi (Kshatriya) và Phệ-xá (Vaishyia). Hai bàn chân của thần Brahma là đẳng cấp Thủ-đà-la (Shudra). Thủ-đà-la được coi là đẳng cấp hèn hạ nhất trong xã hội Ấn Độ. Người thuộc đẳng cấp này phải làm những việc nặng nhọc như thợ thuyền, đầy tớ; họ không được phép kết hôn với những người thuộc đẳng cấp trên. Thậm chí nếu có người ở đẳng cấp trên lỡ kết hôn với người thuộc đẳng cấp dưới thì bị tẩy chay và đẩy xuống đẳng cấp dưới.

Chẳng những thế, khi đế quốc Mughal của Ấn cổ đại sụp đổ và sự xâm lược của thực dân Anh đã tạo ra một tầng lớp người Ấn da trắng thượng đẳng, lúc đó người ta gọi Ấn Độ thuộc Anh hay British Indian hay Raj, đó là tên gọi nước Ấn Độ từ giữa năm 1858 đến năm 1947. Như vậy, trong thời kỳ đó còn có sự phân biệt chủng tộc nữa, đó là sự phân biệt của những người da trắng đến từ Anh quốc và người da nâu bản xứ.

Lão không có ý định kể hết các quốc gia khác nằm trong 7 quốc gia “thượng bẩn”, chắc chắn bạn không thích nghe. Lão chỉ muốn nói với các bạn, Việt Nam mình nghèo đấy, song nghèo mà không hèn; Việt Nam mình đói đấy, song đói mà vẫn sạch; Việt Nam mình rách đấy, song rách mà vẫn thơm. Lão không nói về nơi các thành phố có những ngôi nhà cao hàng trăm tầng lầu. Đó là chuyện kinh doanh của người ta, mà lão muốn mọi người đến xem những “nông thôn mới” và “nông thôn mới kiểu mẫu” đang phát triển rầm rộ trên khắp các địa phương ấy. Đó mới chính là cách xóa bỏ bất bình đẳng xã hội, xóa đi sự khác biệt giữa miền xuôi và miền ngược, giữa thành thị và nông thôn.

Có mấy con số lão lượm được, nói lại để các bạn chiêm nghiệm. Đó là, mục tiêu của nhà nước ta, năm 2025 sẽ hỗ trợ cho dân xóa hết nhà dột nát và nhà tạm. Xin nêu vài ví dụ, năm nay (2024), chỉ riêng tỉnh Cao Bằng đã thực hiện như vậy được 3.656 hộ nghèo và cận nghèo; tỉnh Bắc Giang trong hai năm đã xây cho dân được 3.000 ngôi nhà và mục tiêu đặt ra là trong năm 2024 sẽ xóa 100% nhà dột nát, nhà tạm. Xin nhớ, kinh phí dùng cho việc này là từ ngân sách nhà nước.

Muốn là được như thế thì chúng ta phải có một chính quyền “của dân, do dân và vì dân” các bạn ạ./.
Ảnh: Nông thôn Việt Nam ngày nay (H. trên); Nhà sàn của người Dao tỉnh Yên Bái (H. dưới).
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: KIỀU BÀO VỚI KHÁT VỌNG XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC HÙNG CƯỜNG!

BÀI 2: KIẾN TẠO ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN MỚI
         Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định một trong ba đột phá chiến lược là “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”!

Đảng và Nhà nước ta đặt nhiều kỳ vọng vào vai trò nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, xem đây là “đột phá chiến lược” và là “động lực chính” để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh trạnh của nền kinh tế. Các nhà khoa học, chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài được xác định là một trong những nhân tố quan trọng, góp phần kiến tạo động lực mới, cùng với đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ trong nước hợp tác vì các mục tiêu phát triển đất nước bền vững.

Điểm sáng kết nối khoa học, công nghệ

Giáo sư Nghiêm Đức Long, Chủ tịch Hội Trí thức và chuyên gia Việt Nam tại Australia (VASEA), Giám đốc Trung tâm Môi trường nước, Đại học Sydney cho biết, hiện có hơn 21.000 sinh viên Việt Nam đang học tập và tu nghiệp tại Australia. Trong đó, có hơn 500 nhà khoa học, giảng viên và giáo sư đang nghiên cứu và giảng dạy tại các trường đại học, viện nghiên cứu tại Australia.

Sống, học tập và làm việc ở Australia song cộng đồng người Việt Nam tại đây, đặc biệt là cộng đồng tri thức, luôn mong muốn được cống hiến và hướng về quê hương. Đây cũng là lý do Hội Trí thức và chuyên gia Việt Nam tại Australia (VASEA) ra đời với hơn 500 thành viên. VASEA có sự tham gia của các trí thức và chuyên gia trong nhiều lĩnh vực với mục tiêu hỗ trợ thế hệ trẻ đang học tập và tu nghiệp tại Australia nâng cao trình độ và kỹ năng khoa học để có thể đóng góp cho sự nghiệp phát triển khoa học khi về Việt Nam làm việc.

Kể từ khi thành lập, VASEA đã có nhiều đóng góp đồng hành cùng các tổ chức tại Việt Nam và các sự kiện trực tuyến. Tiêu biểu như tọa đàm “Con đường đến khử carbon: Từ hiệu quả năng lượng đến các nguồn năng lượng thay thế” do Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với VASEA tổ chức, nằm trong khuôn khổ chương trình tăng cường hợp tác kinh tế giữa Chính phủ Australia và Việt Nam (VEG) nhằm hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp hai nước tìm kiếm cơ hội hợp tác, chuyển giao công nghệ; Diễn đàn Kinh tế TP Hồ Chí Minh năm 2023 với chủ đề “Tăng trưởng xanh - Hành trình hướng tới giảm phát thải ròng bằng 0”…

Đáng chú ý, chỉ trong hơn một năm qua, các thành viên của VASEA đã thực hiện hơn 15 dự án nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và kết hợp đào tạo với Việt Nam. “Ứng dụng internet vạn vật và cảm biến thông minh để theo dõi chất lượng nước biển ven bờ cho nuôi trồng thủy sản” tại vịnh Xuân Đài (tỉnh Phú Yên), Dự án mắt thần theo dõi và hỗ trợ phát triển cây mía đường, cảm biến từ xa để đối phó với lũ lụt, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình ch.uyển đ.ổi s.ố… là những dự án về công nghệ mà các thành viên VASEA đã góp sức chuyển giao cho Việt Nam gần đây.

Đánh giá cao Quyết định 1334/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới”, Giáo sư Nghiêm Đức Long đánh giá, Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo rõ ràng kịp thời để các bộ ban ngành tạo điều kiện và hành lang pháp lý cho trí thức Việt kiều có cơ hội đóng góp cho quê hương.

Đồng thời, ông cũng đề xuất Chính phủ đầu tư cho một dự án thí điểm, mở một trường đại học trực tuyến tại Việt Nam với giáo án, bài giảng và hướng dẫn khoa học từ các giáo sư Việt Nam trên toàn thế giới, kết nối tri thức với trong nước.

Cho rằng cần có cơ chế đặc thù để tận dụng vai trò tư vấn của các trí thức người Việt Nam đầu ngành trên thế giới với các vấn đề trong nước, Giáo sư Nghiêm Đức Long chia sẻ: “Dù mang lại tác động rất lớn nhưng khoa học công nghệ vẫn không thể thay thế bản sắc văn hóa chảy trong huyết quản của mỗi người Việt Nam, dù ở bất cứ nơi đâu. Đây là những giá trị cốt lõi của bản thân mỗi người. Nguồn lực khoa học công nghệ cao trong thế hệ trẻ Việt Nam tại nước ngoài là rất lớn. Dù có những cống hiến cho khoa học công nghệ thế giới nhưng chúng tôi rất khao khát được đóng góp cho sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, quê hương”.

Thúc đẩy dòng lưu chuyển kỹ năng và ý tưởng sáng tạo

Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045, Đảng và Nhà nước nhấn mạnh quan điểm “phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và ch.uyển đ.ổi s.ố”, nâng cao tiềm lực và trình độ khoa học và công nghệ trong nước để có thể triển khai các hướng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới, tập trung phát triển công nghệ ưu tiên có khả năng ứng dụng cao như: công nghệ số, thông tin, sinh học, tr.í t.uệ nh.ân t.ạo, cơ điện tử tự động hóa, điện tử y sinh, năng lượng, môi trường…

Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 569/QĐ-TTg ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, đặt ra mục tiêu tổng quát và 9 mục tiêu cụ thể. Trong nhóm nhiệm vụ, giải pháp về nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo có trình độ và năng lực sáng tạo cao, bên cạnh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đang làm việc trong các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp trong nước, chúng ta có một nguồn lực vô cùng quý báu và đầy tiềm năng. Đó là lực lượng các nhà khoa học và chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài.

Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt, vấn đề là làm thế nào để kết nối có hiệu quả hai nguồn lực này, thúc đẩy dòng lưu chuyển kỹ năng và ý tưởng sáng tạo của nguồn lực trí tuệ Việt Nam bên trong và bên ngoài biên giới quốc gia để bổ sung lẫn nhau, cùng nhau hợp tác vì các mục tiêu phát triển đất nước bền vững.

Theo ông Huỳnh Thành Đạt, để có thể thực hiện thành công Chiến lược này không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của ngành Khoa học và công nghệ, mà còn cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với sự chung tay, góp sức của tất cả các ngành, các cấp, địa phương, cơ sở đào tạo nghiên cứu, doanh nghiệp và nhất là đội ngũ trí thức, chuyên gia người Việt ở nước ngoài.

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chủ trương, định hướng, cơ chế chính sách đối với kiều bào ta ở nước ngoài tại nhiều văn bản quan trọng. Trong đó, nhiều văn bản nhấn mạnh chủ trương thu hút nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài dựa trên tiềm năng, năng lực, tính khả thi của nguồn lực, đóng góp có hiệu quả cho sự phát triển của đất nước; xây dựng cơ chế, chính sách ghi nhận và vinh danh đối với những đóng góp của kiều bào; hỗ trợ kinh phí và tạo thuận lợi về thủ tục xuất/nhập cảnh, visa, giấy phép lao động, ưu đãi thuế thu nhập cá nhân, ưu đãi thù lao khi tham gia các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học…; thu hút, khuyến khích chuyên gia Việt Nam vào làm việc tại các tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp khởi nghiệp ở nước ngoài, sau đó trở về nước làm việc.

Với nhiều nhiệm vụ quan trọng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thời gian tới, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ mong muốn đội ngũ trí thức, chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài sẽ tích cực tham gia đóng góp vào các hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở trong nước.

Cụ thể là tham gia đề xuất những giải pháp thiết thực để Việt Nam có thể thực hiện việc chuyển đổi nhanh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đồng thời, dẫn dắt, kết nối đưa khoa học và công nghệ trong nước hội nhập với khoa học và công nghệ thế giới; cung cấp các kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia phát triển; hỗ trợ thu hút nguồn lực đầu tư nước ngoài và tham gia đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ, kỹ thuật, quản trị công nghệ và doanh nghiệp để trở thành đội ngũ nhà khoa học, chuyên gia giỏi, tiệm cận trình độ quốc tế, trong đó quan tâm một số lĩnh vực về ch.uyển đ.ổi s.ố, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ...

Cùng với đó, đội ngũ trí thức, chuyên gia kiều bào tham mưu cho hoạt động quản lý nhà nước về đổi mới sáng tạo phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; hỗ trợ doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, nâng cao khả năng hấp thụ, làm chủ công nghệ mới, tiến tới tự chủ công nghệ, từng bước xây dựng nền kinh tế tự chủ của đất nước. Song song đó là cung cấp sáng kiến trong ứng dụng công nghệ và xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ; hình thành và triển khai một số chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm.

“Đội ngũ trí thức, chuyên gia kiều bào có thể đứng vai trò chủ trì, dẫn dắt, tham gia thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ quan trọng của quốc gia, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao như điện tử, sinh học, vật liệu mới, năng lượng mới, hàng không, vũ trụ, tr.í t.uệ nh.ân t.ạo, bán dẫn, ch.uyển đ.ổi s.ố…”, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ nêu.

Theo ông Huỳnh Thành Đạt, ngày nay, yếu tố quyết định thành công của một quốc gia trong cuộc đua phát triển không phải là công nghệ mà chính là trí tuệ và nguồn lực con người. Với quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng các chính sách đột phá nhằm tạo dựng môi trường thuận lợi, cùng sự chung tay và đóng góp của đội ngũ trí thức và chuyên gia người Việt Nam trên toàn thế giới, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chắc chắn sẽ trở thành động lực thúc đẩy hoàn thành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Đồng quan điểm, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc cho rằng, Việt Nam đang ở thời điểm quan trọng trong hành trình phát triển với rất nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học công nghệ. Tuy nhiên trước các thách thức về môi trường, biến đổi khí hậu, sự cần thiết hơn bao giờ hết phải đổi mới mô hình tăng trưởng đòi hỏi phải có hành động quyết liệt hơn nữa. Mục tiêu này không chỉ là lựa chọn mà là mô hình tất yếu của Việt Nam trước những thách thức đang gặp phải, đòi hỏi có giải pháp đột phá, sáng tạo, đồng bộ, cùng sự chung tay, đóng góp của tất cả các nguồn lực, trong đó có những người con ưu tú đang sống, làm việc ở nước ngoài./.
Yêu nước ST.

PHẢN ĐỐI TÔN GIÁO TREO CỜ TỔ QUỐC - HÀNH ĐỘNG CỦA NHỮNG KẺ “ĐỘI LỐT TÔN GIÁO” LẠC LÕNG NGAY TRONG CHÍNH ĐẤT NƯỚC CỦA MÌNH!

         Những ngày này, người dân cả nước đang náo nức hướng tới kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam. Khắp mọi nơi, dễ dàng bắt gặp những lá cờ đỏ sao vàng tung bay, những bức tường, cánh cửa, mái nhà được tô vẽ hình quốc kỳ vô cùng bắt mắt. Hòa chung không khí đó, bà con là tín đồ các tôn giáo cũng nhanh chóng chuẩn bị những lá cờ Tổ quốc để treo tại các cơ sở thờ tự, nhà riêng của mình!

Và cũng như không ít lần trước, những kẻ bất mãn chính trị lại nhân cơ hội này để xuyên tạc, bỉ bôi việc treo cờ Tổ quốc của người theo tôn giáo, trong đó có người Công giáo. Chúng đánh đồng đây là hành động “phản bội giáo hội”, “đánh mất đức tin…”.

Từ lâu, lá cờ đỏ sao vàng đã được cộng đồng quốc tế công nhận là đại diện cho đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Thật hết sức trơ trẽn khi những con người máu đỏ da vàng lại thốt ra những lời nói phủ nhận đất nước mình, phủ nhận dân tộc mình, phủ nhận hi sinh xương máu của biết bao bậc tiền nhân đi trước để giành độc lập, tự do cho đất nước. Trong 1752 điều của Bộ Giáo luật Công giáo năm 1983, cũng không có nội dung nào cấm giáo dân treo cờ Tổ quốc. Không hiểu những kẻ đội lốt tôn giáo này lấy lý lẽ từ đâu.
 
Quay trở lại 79 năm về trước, khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, hàng trăm nghìn đồng bào Công giáo ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Huế, Thái Bình đã xuống đường biểu tình để ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh. Cả bốn Giám mục người Việt Nam lúc đó đã cùng ký tên vào bức điện gửi Tòa thánh Vatican và Ki-tô hữu toàn thế giới để yêu cầu ủng hộ nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và bày tỏ quyết tâm bảo vệ đất nước đến cùng. Nhiều chức sắc, giáo dân Công giáo đã đứng ra gánh vác những trọng trách của chính quyền nhân dân buổi đầu non trẻ như: Giám mục Hồ Ngọc Cẩn làm Cố vấn Chính phủ, linh mục Phạm Bá Trực làm Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội, ông Vũ Đình Hòe làm Bộ trưởng Giáo dục, ông Vũ Đình Tụng làm Bộ trưởng Y tế, ông Nguyễn Mạnh Hà làm Bộ trưởng Kinh tế… Những kẻ phản động đội lốt tôn giáo đang xuyên tạc ngày Quốc khánh và việc treo cờ Tổ quốc nên tự xấu hổ với những bậc tiền nhân của mình.

Chúng ta những người Việt Nam, không kể tôn giáo nào, sắc tộc nào đều đang chảy trong mình dòng máu con Lạc - cháu Hồng. Chúng ta có quyền tự hào là con dân một đất nước anh hùng, một dân tộc nhỏ bé nhưng tràn đầy tình yêu Tổ quốc, yêu hòa bình và giàu ý chí tự lực tự cường, đã chiến thắng bao kẻ xâm lược hùng mạnh sừng sỏ bậc nhất thế giới. Và việc nhỏ bé nhưng hết sức lớn lao trong những ngày này là chúng ta cùng đưa những lá cờ Tổ quốc tung bay khắp mọi nẻo trên đất nước Việt Nam!
Yêu nước ST.

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ CỦA HÒA BÌNH, TỰ DO VÀ ĐỘC LẬP!

         Cách đây 79 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã nhất tề đứng lên tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Trước cuộc mít tinh lớn tại Quảng trường Ba Đình, vào ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào cả nước và nhân dân thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam)!
Có thể khẳng định, Cách mạng Tháng Tám thành công, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của quân và dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra kỷ nguyên mới, bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Lần đầu tiên người dân Việt Nam có quyền ngẩng cao đầu, tự hào mình trở thành công dân của một nước tự do và độc lập.
Sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á là dấu mốc chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân Việt Nam phải chịu đựng dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ kiếp nô lệ trở thành người dân một nước tự do, độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Việt Nam từ nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước hòa bình, độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) trở thành đảng cầm quyền. Đất nước và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
79 năm qua là chặng đường kiên trì, bền bỉ phấn đấu hy sinh vượt qua nhiều thử thách, cam go ác liệt. Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã hoàn thành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, đưa cả nước bước vào thời kỳ mới với hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, đặc biệt, trải qua gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất-kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút mọi nguồn lực cho sự phát triển... Đất nước ta ngày nay đã lớn mạnh hơn gấp nhiều lần.
Nhờ kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế mà tầm vóc và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 192 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, có quan hệ kinh tế với hơn 221 thị trường nước ngoài và là thành viên của nhiều tổ chức và diễn đàn quốc tế và được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc. Việt Nam cũng được bạn bè quốc tế tín nhiệm lựa chọn là nơi tổ chức nhiều sự kiện quan trọng mang tầm cỡ khu vực và toàn cầu.
Kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay, chúng ta đã gặt hái được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu ấy là minh chứng hùng hồn đầy sức thuyết phục cho vị thế và giá trị đích thực của hòa bình, tự do, độc lập mà Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 đem lại. Bất cứ người Việt Nam yêu nước chân chính nào cũng nhận thấy giá trị cao quý, thiêng liêng và rất đỗi tự hào trước những thành quả mà cách mạng đem tới.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đang đối diện với không ít khó khăn, trở ngại, hạn chế, yếu kém; cùng nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhạy cảm khác đang đặt ra cần phải giải quyết để đưa đất nước phát triển bền vững. Cùng với đó là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, của những kẻ phản động, cơ hội quay lưng với đất nước. Trong khi chúng ta tự hào, hân hoan trước những thành tựu đã đạt được, trước sự phát triển của đất nước thì các thế lực thù địch, những kẻ phản động, cơ hội chính trị lại tỏ ra hậm hực, tức tối. Chúng tìm mọi mưu hèn, kế bẩn để chống phá, cản trở sự phát triển, phá hoại sự bình yên của đất nước. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta càng đạt được nhiều thành tựu thì chúng càng đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, với cấp độ ngày càng nguy hiểm, quyết liệt. Chúng thường xuyên bóp méo, xuyên tạc, bôi nhọ những giá trị tinh thần, niềm tự hào lớn lao của dân tộc, phủ nhận ý nghĩa thiêng liêng của hòa bình, độc lập, tự do đối với nhân dân ta, hướng lái làm cho giới trẻ mơ hồ nhận thức. Đặc biệt, chúng coi phá hoại về tư tưởng, văn hóa là “mũi đột phá”, mưu toan làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về tư tưởng, từ đó từng bước chuyển hóa tiến tới xóa bỏ hệ tư tưởng XHCN trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.
Ngay khi chúng ta đang sống giữa những ngày hào hùng, sôi nổi kỷ niệm 79 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 thì đây đó, các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội bằng đủ mọi chiêu thức, ra sức tuyên truyền bóp méo, xuyên tạc, hòng phủ nhận những thành quả mà nhân dân Việt Nam phải bằng bao công sức, mồ hôi, xương máu mới giành được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực chất của những âm mưu, thủ đoạn ấy là nhằm phủ nhận giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9; phủ nhận giá trị đích thực của hòa bình, tự do, độc lập mà Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 đem lại; và xét cho đến cùng vẫn là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giá trị lịch sử, ý nghĩa thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 là không thể phủ nhận. Thời gian càng lùi xa thì tầm vóc, vị thế và giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 ngày càng tỏa sáng. “Ôn cố tri tân” vừa là đạo lý, vừa là nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nhiệm vụ giữ gìn và phát huy những giá trị lịch sử, truyền thống dân tộc trong xu thế hội nhập là yêu cầu tất yếu, là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách với chúng ta.
Muốn thực hiện được điều đó, trước hết chúng ta cần tăng cường công tác giáo dục truyền thống dân tộc, những trang sử cách mạng hào hùng cho nhân dân, nhất là cho thế hệ trẻ. Chỉ có hiểu đúng, nhận thức đầy đủ, sâu sắc về lịch sử, truyền thống hào hùng của dân tộc, trong đó có ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, chúng ta mới thấy hết công lao của các thế hệ đi trước, từ đó ý thức rõ ràng và đầy đủ hơn về trách nhiệm của mình trong giữ gìn và phát huy. Mặt khác, càng hiểu về giá trị, ý nghĩa của chiến thắng, mỗi người chúng ta càng ý thức rõ hơn trách nhiệm của thế hệ hôm nay và mai sau, kiên quyết vạch trần, đấu tranh, làm thất bại những âm mưu, luận điệu xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ cho tồn tại những hành động ngang nhiên chà đạp lên khát vọng của dân tộc Việt Nam, chà đạp lên xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam hy sinh vì hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Bảo vệ, giữ gìn giá trị lịch sử truyền thống dân tộc nói chung; ý nghĩa, giá trị của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 nói riêng là cơ sở nền tảng để toàn dân, toàn quân ta tiếp tục chung sức, đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng gặt hái được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh./.
Yêu nước ST.

"QUYỀN LỰC MỀM" CỦA CÔNG CHÚNG!

         Từng có thời gian, một số người hoạt động trong giới showbiz thường lợi dụng những lùm xùm, scandal gây sốc và sự dễ dãi của khán giả để đánh bóng tên tuổi, gia tăng độ “hot”, từ đó nhận về nhiều hợp đồng thương mại hơn. Nhưng, giờ đây, công thức này không còn dễ áp dụng, bởi sau những phát ngôn, ứng xử thiếu chuẩn mực, vi phạm đạo đức, những nghệ sĩ, người nổi tiếng sẽ phải đối mặt với làn sóng tẩy chay đáng sợ từ công chúng, đặc biệt là từ cộng đồng dùng mạng internet hùng hậu!

Không chỉ thể hiện thái độ chê trách, công chúng còn kêu gọi nhau ngừng theo dõi, ngừng sử dụng mọi sản phẩm có người nổi tiếng tham gia, buộc các nhãn hàng, đối tác phải cân nhắc loại những người đó ra khỏi các dự án nghệ thuật, chiến dịch truyền thông. Không khó để điểm mặt những người của công chúng từng khốn đốn vì bị tẩy chay thời gian qua.

Một nữ ca sĩ đang lên như diều gặp gió, vì dính bê bối đời tư đã bị cộng đồng mạng quay lưng, phản đối gay gắt, đến nỗi cô bị gạch tên khỏi danh sách nghệ sĩ biểu diễn/khách mời của hàng loạt sự kiện và đến nay vẫn còn lao đao. Một nam ca sĩ trẻ sau khi bị tố cáo là “bắt cá hai tay”, vô trách nhiệm với con cũng đã bị lên án gay gắt, tới mức buộc phải ngừng hoạt động nghệ thuật một thời gian, khi trở lại vẫn tiếp tục bị chỉ trích.

Mới đây nhất, một hoa hậu đã bị xử phạt vì chế lời Quốc ca, nhưng điều này dường như không đủ xoa dịu phản ứng từ dư luận. Mạng xã hội những ngày qua cũng dậy sóng với nhiều ý kiến đòi loại một rapper có hành vi sai lệch trong quá khứ ra khỏi một gameshow đình đám mà anh đang làm huấn luyện viên, dù rapper này đã công khai xin lỗi sau khi sức nóng của vụ việc bị đẩy lên đỉnh điểm…

Chưa bao giờ, “quyền lực mềm” của khán giả lại có sức ảnh hưởng lớn như hiện nay

Chưa bao giờ, “quyền lực mềm” của khán giả lại có sức ảnh hưởng lớn như hiện nay, nhất là khi các nền tảng mạng xã hội ngày càng phát triển, trao cho người sử dụng quyền được tương tác trực tiếp. Trên thực tế, không ít trường hợp do hứng chịu chỉ trích quá lớn từ dư luận đã không thể tiếp tục con đường nghệ thuật.

Bày tỏ phản ứng, thái độ trước những hành vi lệch chuẩn của nghệ sĩ, người nổi tiếng đang là cách thức phổ biến để khán giả cho mình quyền thực thi công bằng xã hội. Và xét ở khía cạnh tích cực, đây chính là “án phạt” đủ sức răn đe, là cái giá mà những người sống bằng hào quang của sự nổi tiếng phải trả khi có ứng xử thiếu chuẩn mực, thiếu tôn trọng khán giả, vi phạm đạo đức.

Đây cũng là lời cảnh tỉnh để những “ngôi sao”, nghệ sĩ khác phải thật sự thận trọng, tỉnh táo, đúng mực trong lối sống, hành vi. Một số người nổi tiếng từng bày tỏ quan điểm, cho rằng sự kỳ vọng, soi mói và phán xét thái quá của công chúng chính là nguyên nhân khiến họ mất đi sự tự do cá nhân.

Nhưng dù muốn hay không thì đây cũng là sức ép mà họ buộc phải chấp nhận, bởi khi đã nhận được tình cảm, sự ủng hộ từ công chúng để phát triển sự nghiệp thì cũng đồng nghĩa với việc không được làm công chúng thất vọng.

Nếu trước đây, nhiều nghệ sĩ, người nổi tiếng khi dính scandal thường dùng chiêu “im lặng là vàng”, đợi sự việc lắng xuống lại tái xuất như chưa có gì xảy ra, thì giờ đây, công chúng không còn dễ dãi như thế.

Rất nhiều trường hợp chọn cách không lên tiếng đã phải đón nhận sự phẫn nộ lớn hơn gấp nhiều lần từ khán giả. Không ít trường hợp phải lên tiếng xin lỗi, song vẫn không làm dư luận lắng xuống, vì công chúng nhận ra đó chỉ là lời xin lỗi cho có, thiếu thành khẩn.

Nói thế để thấy, xử lý khủng hoảng truyền thông trong thời đại số không còn đơn giản như trước, đòi hỏi bản thân những người của công chúng, những nghệ sĩ nổi tiếng phải thật sự biết cách quản trị bản thân, tinh tế và khéo léo trong ứng xử, nhất là trong mối quan hệ với khán giả.

Sự phản ứng quyết liệt của công chúng qua các vụ việc vừa qua có thể coi là “liều thuốc” hiệu quả và cũng là sự tuyển chọn để góp phần lành mạnh hóa môi trường nghệ thuật biểu diễn.

Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhận định, bên cạnh mặt tích cực, đã và đang xuất hiện những yếu tố tiêu cực, lợi dụng số đông để chèn ép, áp đặt, thậm chí là bắt nạt hay “bạo lực mạng” gây tổn thương và tác động không tốt đến cuộc sống cá nhân. Một bộ phận người dùng mạng đang lạm dụng quyền được bày tỏ quan điểm, dẫn đến có phản ứng quá khích, quá đà.

Chỉ với một câu trả lời chưa thật sự xuất sắc trong cuộc thi sắc đẹp, những cô gái trẻ có thể trở thành đối tượng bóc phốt của cả một hội, nhóm antifan gồm hàng chục nghìn thành viên. Chỉ vì những phản ánh vu vơ, một ngôi sao nhí cũng có thể thành nạn nhân của bạo lực mạng. Có nhiều người còn chẳng cần tìm hiểu thực hư câu chuyện đã không ngần ngại “ném đá”, “tát nước theo mưa”.

Không dừng ở lên án, chê trách, nhiều người dùng mạng còn có những lời lẽ xúc phạm, thóa mạ, vùi dập, thậm chí trưng ra cả những hình ảnh, thông tin bị cắt cúp một cách chủ ý để bôi xấu, hạ bệ đối tượng đang trong tầm ngắm…

Những biểu hiện nêu trên là hành vi cần xử lý nghiêm để bảo đảm ứng xử văn minh trên không gian mạng. Công chúng có quyền phê phán hành vi, lối sống thiếu chuẩn mực của người nổi tiếng, nhưng phê phán điều gì và phê phán thế nào cũng cần dựa trên tinh thần xây dựng và nhân văn, có thế mới thật sự phát huy được hiệu quả “quyền lực mềm” của công chúng./.
Môi trường ST.