Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

CẢNH GIÁC TRƯỚC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC HÌNH ẢNH, UY TÍN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

 Bôi nhọ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiêu bài thâm hiểm của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị nhằm phá hủy tận gốc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ trắng trợn xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác luận điệu này là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

1. Nhà văn Blaga Dimitrova của Bulgaria đã viết: “Niềm hy vọng có nhiều tên gọi khác nhau, song ở Việt Nam, niềm hy vọng được tượng trưng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đất nước còn chìm đắm trong đêm trường nô lệ, chính Người đã mở ra cánh cửa hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Có lẽ, không ngôn từ nào có thể diễn tả hết được những cống hiến, hy sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân Việt Nam”.
Không riêng nhà văn Blaga Dimitrova mà rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn hóa quốc tế, các nguyên thủ đã ghi nhận, đánh giá Hồ Chí Minh là một nhân vật đã làm nên dấu ấn bước ngoặt vĩ đại không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn để lại những dấu ấn khó phai trong tiến trình lịch sử phát triển tư tưởng, văn hóa của nhân loại.
Thế nhưng, bất chấp sự thật đã được lịch sử khắc ghi, các thế lực thù địch lại luôn hằn học với điều đó, tìm mọi cách xuyên tạc, nói xấu cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với âm mưu “hạ bệ thần tượng”, họ không ngần ngại tuyên bố: Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ suy diễn rằng, để được nhân dân ủng hộ, Đảng phải có sức lôi cuốn.
Để có sức lôi cuốn, Đảng phải coi trọng công tác tuyên truyền và trong tuyên truyền, phải đặt trọng tâm vào chính sách “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ lập luận rằng, “thần thánh hóa lãnh tụ” là thủ đoạn chính trị mà Đảng sử dụng để tập hợp, đoàn kết, nâng cao lòng tự hào dân tộc, để cổ vũ tinh thần, nô lệ hóa quần chúng; đồng thời, tạo bình phong, chỗ dựa an toàn, củng cố quyền lực cho những người lãnh đạo cấp cao hiện nay. Từ đó, họ quy chụp việc Đảng giữ gìn thi hài, xây dựng Lăng Bác; lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo Bác là “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”.
2. Một số người thiếu thiện chí hoặc cố tình hướng lái dư luận lu loa rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người bằng xương, bằng thịt; “thần thánh hóa” đồng nghĩa với việc khai tử con người thật của Người. Rõ ràng, đây là luận điệu hết sức thâm độc, nham hiểm nhằm hạ thấp thanh danh, uy tín, vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua đó nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra “khoảng chân không chính trị” trong xã hội để hệ tư tưởng tư sản chiếm chỗ, chi phối, hòng dẫn dắt Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Sự thật là các thế lực thù địch đã đánh đồng việc Đảng, nhân dân Việt Nam yêu quý, kính trọng, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ không nhận thức hoặc cố tình không hiểu rằng, lòng biết ơn, ghi nhớ công lao, tôn vinh những anh hùng, người có công với đất nước là truyền thống, đạo lý nhân văn và lẽ sống tốt đẹp của dân tộc, nhân dân Việt Nam. Truyền thống đó đã được đúc kết qua những câu tục ngữ như: “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây”...
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người Việt luôn tôn kính, thờ phụng những anh hùng dân tộc, bậc tiền nhân có công lao to lớn với quê hương, đất nước. Vì vậy, việc xây dựng Lăng Bác và giữ gìn thi hài Người là hoàn toàn xuất phát từ sự yêu quý, kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chứ không phải do Đảng “thần thánh hóa lãnh tụ” như các thế lực thù địch thêu dệt. Về điều này, xin nhắc lại lời nhà báo Hayde Xantamaria (Cu Ba) đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh được người dân Việt Nam yêu quý như một người thân. Tình yêu của họ đối với Người vô cùng sâu sắc và không bờ bến. Đây không phải là tình yêu thần thoại mà là tình yêu và sự kính trọng thật sự”.
Trên thực tế, không riêng Việt Nam, mà nhiều nước trên thế giới cũng có văn hóa tôn vinh những người có cống hiến to lớn cho đất nước. Ở Mỹ, George Washington (1732-1799) là tổng thống đầu tiên, được người Mỹ suy tôn là “Người cha già của đất nước” và để vinh danh ông, Mỹ đã xây dựng Đài tưởng niệm Washington, công trình kiến trúc bằng đá cao nhất thế giới. Ở Ấn Độ, Mahatma Gandhi (1869-1948) được người dân hết sức tôn kính gọi bằng những cái tên thân thương như: Cha kính yêu, tâm hồn vĩ đại, lãnh tụ tinh thần của dân tộc. Ở Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông được coi là “hiện thân của nền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”...
3. Điều rất đáng tự hào là Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được yêu quý, kính trọng ở Việt Nam mà Người cũng được nhân dân thế giới nể phục, tôn vinh. Năm 1987, tại khóa họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”. Với nghị quyết này, UNESCO đã ghi nhận những đóng góp to lớn, quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với cả nhân loại, đồng thời tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những “nhân vật lỗi lạc đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển của nhân loại”.
Từ đó đến nay, hoạt động vinh danh Người đã được tổ chức ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, đến cuối năm 2023, đã có 37 tượng/tượng đài, 13 khu tưởng niệm, 6 trường lớp và 21 đại lộ, đường phố, công viên mang tên Hồ Chí Minh được xây dựng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những hoạt động đó xuất phát từ sự yêu mến, lòng kính trọng và công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Hồ Chí Minh, hoàn toàn trái ngược với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ luận điệu “thần thánh hóa” cá nhân. Sinh thời, Người chưa bao giờ coi mình là “thánh nhân”, mà chỉ tự nhận là một người luôn đau đáu một nỗi niềm là làm sao cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, có ăn, có mặc, có học... Nghiên cứu về Người, một học giả nước ngoài từng hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh là một con người hay một vị thánh?”.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trả lời rằng: Hồ Chí Minh trước hết là một con người, cuối cùng cũng là một con người, còn vĩ đại như đức Chúa, đức Phật thì các bạn đã thừa nhận. Người cũng luôn gương mẫu và lên án những biểu hiện “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”; đồng thời, đề cao vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, tôn trọng nhân dân, quan tâm, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của nhân dân, tận tâm, tận lực, tận hiến cho cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Không phải ngẫu nhiên mà David Hamberstam, phóng viên tờ báo New York Times (Mỹ) từng viết: “Trên thế giới có quốc gia người ta đề cao lãnh tụ dữ lắm, đó là sùng bái cá nhân. Còn cụ Hồ Chí Minh thì cương quyết không tìm cái vỏ bề ngoài lộng lẫy của quyền uy. Như thế cụ tự tin và tin chắc vào quan hệ của mình với dân tộc, với lịch sử, đến nỗi cụ chẳng cần đến tượng, đền đài, sách báo và những nhà nhiếp ảnh để chứng minh điều đó cho mình” (dẫn theo Giáo sư Trần Văn Giàu, sách “Hồ Chí Minh vĩ đại một con người”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, năm 2013, trang 74-75).
Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia trên thế giới đều có biểu tượng niềm tin của mình. Biểu tượng niềm tin kết tụ sức mạnh tinh thần, tình cảm, sự xác tín thiêng liêng của cả dân tộc và trở thành một trong những trụ lực vững chắc nhất để cộng đồng dân tộc ấy tồn tại, phát triển. Đụng chạm đến biểu tượng niềm tin của một dân tộc là đụng chạm đến tình cảm thiêng liêng của hàng triệu con người.
Thấm nhuần truyền thống, đạo lý của dân tộc, Đảng đã nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa II (4-1956), Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp cách mạng của Đảng là một sự nghiệp vĩ đại, do công lao to lớn của toàn Đảng, toàn dân và của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch là lãnh tụ thiên tài của Đảng, của nhân dân, của dân tộc. Vì vậy, Đảng đề cao vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lẽ tự nhiên, thường tình, hợp đạo lý, hợp lòng dân.
Nhân dân, dân tộc Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi chính Người đã khai sáng, mở đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam đơm hoa kết trái, bởi Người đã trọn đời dâng hiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và bởi Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông, đất nước ta. Tình cảm, tình yêu, sự trân quý, ngưỡng mộ đó là hoàn toàn xuất phát từ trái tim muôn dân đất Việt, chứ không phải là sự gò ép gượng gạo, giả tạo.
Từ những luận cứ trên, có thể khẳng định, luận điệu Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ và không có cơ sở khoa học. Đây là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn nhằm bôi nhọ, làm lu mờ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận những đóng góp, cống hiến vĩ đại của Người đối với Đảng, nhân dân, dân tộc và cách mạng Việt Nam./.
St

PHÂN BIỆT QUỐC HIỆU, QUỐC KỲ, QUỐC HUY, QUỐC CA, QUỐC KHÁNH

 Quốc hiệu, Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Quốc khánh là những biểu thị cơ bản của một quốc gia. Nó nói lên danh xưng, thể chế chính trị và mục tiêu chính trị của một đất nước và con người về cội nguồn, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam.

1. QUỐC HIỆU
Quốc hiệu là tên gọi chính thức của một quốc gia, nó có ý nghĩa biểu thị chủ quyền lãnh thổ, bên cạnh đó danh xưng chính thức được dùng trong ngoại giao, thể chế và mục tiêu chính trị của một nước. Dù thể hiện dưới dạng tiếng nói hay chữ viết, đối với mỗi công dân, quốc hiệu luôn là lòng tự hào dân tộc.
Quốc hiệu của quốc gia Việt Nam là “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” được quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị quyết 351/2017/UBTVQH14.
2. QUỐC KỲ
Quốc kỳ có nghĩa là lá cờ của quốc gia, là loại cờ được dùng làm biểu trưng cho một quốc gia.
Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. (Được quy định khoản 1 Điều 13 Hiến pháp 2013).
3. QUỐC HUY
Quốc huy là huy hiệu tượng trưng cho quốc gia, Quốc huy của mỗi quốc gia thường được quy định trong Hiến pháp.
Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Được quy định tại khoản 2 Điều 13 Hiến pháp 2013).
4. QUỐC CA
Quốc ca là bài hát chính thức của một quốc gia được dùng trong các nghi lễ trọng thể. Quốc ca của mỗi quốc gia thường được quy định trong hiến pháp của quốc gia đó.
Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài Tiến quân ca. (Được quy định tại khoản 3 Điều 13 Hiến pháp 2013)
5. QUỐC KHÁNH
Quốc khánh là ngày khai sinh ra một nước, một dân tộc, có thể xem đây là ngày lễ lớn nhất của một quốc gia và là sự kiện trọng đại nhất của đất nước đó.
Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945. (Được quy định tại khoản 4 Điều 13 Hiến pháp 2013)./.
St

TRUYỀN THÔNG MEXICO ĐÁNH GIÁ VỀ NGUỒN CỘI ĐƯA CON THUYỀN CÁCH MẠNG VIỆT NAM ĐẾN VINH QUANG

 Chính sách luôn coi người dân là ưu tiên hàng đầu cùng việc duy trì phát triển kinh tế đi đôi công bằng xã hội, không làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo chính là chìa khóa để Việt Nam đạt được những thành tựu phi thường trong gần 8 thập kỷ qua, trang thông tin Voces Del Periodista của Mexico nhấn mạnh trong bài viết đăng trên số ra đầu tháng 9 nhân kỷ niệm 79 năm Quốc khánh Việt Nam (2/9/1945-2/9/2024).

Theo phóng viên TTXVN tại Mexico, trong phóng sự có tựa đề "Việt Nam kỷ niệm 79 năm ngày độc lập" Voces Del Periodista - diễn đàn học thuật và là tiếng nói của các nhà báo Mexico, nhắc lại nội dung trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong đó khẳng định quan điểm nhất quán luôn coi “dân là gốc” là nguồn cội cho mọi chiến thắng của cách mạng Việt Nam, cả trong quá khứ cũng như hiện tại.
Mở đầu bài viết trên Voces Del Periodista, tác giả Mouris Salloum George kể lại cho đọc giả Mexico và Mỹ Latinh về bối cảnh ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong những ngày tháng 9 lịch sử cách đây tròn 79 năm, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Theo tác giả, đây không chỉ là thời điểm khai sinh của một quốc gia độc lập, mà còn là của một chính thể cách mạng mà sau này đã trở thành hình mẫu cho nhiều phong trào tiến bộ trên thế giới.
Những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Tuyên ngôn Độc lập về quyền con người, quyền dân tộc và sự thống nhất biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do, vẫn còn nguyên giá trị. Từ đó đến nay, chính phủ và nhân dân Việt Nam đã không ngừng phấn đấu cho quyền con người và đạt được nhiều kết quả tích cực, rất quan trọng.
Theo tác giả Mouris Salloum George, đồng thời là Chủ tịch Hội nhà báo Mexico, những giá trị mang tính cỗi lõi đó đóng vai trò như “con thuyền” vững chãi, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn sóng gió, thử thách đến chiến thắng trong 2 cuộc chiến giành độc lập, cũng như đạt được nhiều thành tựu phi thường trong công cuộc tái thiết và phát triển đất nước.
Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, văn hoá, xã hội. Tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao, lạm phát được kiểm soát, tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng được cải thiện.
Trên thực tế, những thành tựu phát triển kinh tế của Việt Nam đã được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá cao, trong đó gần nhất là Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) hồi tháng 4/2024, đưa Việt Nam vào top 10 với dự báo tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) 6,4% trong giai đoạn 2024-2029.
Bên cạnh đó, hai hãng xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới là S&P và Fitch Ratings đều xếp hạng tín nhiệm quốc gia ở mức BB+ với triển vọng “Ổn định”, trong khi Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã nâng Chỉ số sáng tạo toàn cầu (GII) trong năm 2023 của Việt Nam thêm 2 bậc, xếp 46/132 nền kinh tế.
Đặc biệt, theo báo mới nhất của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Việt Nam được xếp trong nhóm các nước có Chỉ số Phát triển con người (HDI) cao với 0,726 điểm trong năm 2022, tăng 8 bậc, đứng thứ 107/193 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là bước tiến thần kỳ khi HDI của quốc gia Đông Nam Á này năm 1990 mới chỉ ở mức 0.492 điểm.
Đề cập tới trường phái ngoại giao cây tre vô cùng độc đáo của Việt Nam, Voces Del Periodista, diễn đàn của 45.000 nhà báo chuyên nghiệp tại Mexico, diễn giải việc dùng hình ảnh cây tre để làm biểu tượng, bản sắc ngoại giao Việt Nam là bởi cây tre có gốc vững, thân chắc và cành uyển chuyển, trong đó gốc vững chính là thực lực, thân vững chính là lợi ích quốc gia và cành lá uyển chuyển là cách thức ứng xử trong ngoại giao.
Theo đó, Voces Del Periodista khẳng định trường phái 'ngoại giao cây tre" rất phù hợp trong bối cảnh hiện nay khi thế giới chứng kiến nhiều biến động, do đó các quốc gia cần linh hoạt ứng phó hiệu quả với những biến đổi của tình hình. Đây là hình mẫu đối ngoại đầy hiệu quả và mang tính tham chiếu cho nhiều quốc gia trên thế giới./.
St

LÝ DO ĐƯỢC VẮNG MẶT KHI KHÁM SỨC KHỎE NGHĨA VỤ QUÂN SỰ

 Những lý do chính đáng được vắng mặt khi khám sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự năm 2025 được quy định tại Điều 4 Thông tư 07/2023/TT-BQP.

Điều 4 Thông tư 07/2023/TT-BQP có quy định về những trường hợp được cho là lý do chính đáng được vắng mặt khi khám sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự, tập trung nhập ngũ, tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu bao gồm:
(1) Người phải thực hiện việc kiểm tra hoặc khám sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự; khám sức khỏe tuyển chọn sĩ quan dự bị; chấp hành lệnh gọi nhập ngũ; lệnh gọi đi đào tạo sĩ quan dự bị; lệnh gọi tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu (sau đây viết gọn là người thực hiện nghĩa vụ quân sự) nhưng bị ốm đau, tai nạn hoặc trên đường đi bị ốm đau, tai nạn phải điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
(2) Thân nhân của người thực hiện nghĩa vụ quân sự, gồm: Cha đẻ, mẹ đẻ; cha vợ, mẹ vợ hoặc cha chồng, mẹ chồng; cha nuôi, mẹ nuôi; người nuôi dưỡng hợp pháp; vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi hợp pháp bị ốm đau, tai nạn nặng đang điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
(3) Thân nhân của người thực hiện nghĩa vụ quân sự quy định tại điểm (2) chết nhưng chưa tổ chức tang lễ hoặc tang lễ chưa kết thúc.
(4) Nhà ở của người thực hiện nghĩa vụ quân sự hoặc nhà ở của thân nhân người thực hiện nghĩa vụ quân sự quy định tại điểm (2) nằm trong vùng đang bị thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống.
(5) Người thực hiện nghĩa vụ quân sự không nhận được lệnh gọi kiểm tra hoặc khám sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự; khám sức khỏe tuyển chọn sĩ quan dự bị; lệnh gọi nhập ngũ; lệnh gọi đi đào tạo sĩ quan dự bị; lệnh gọi tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu; hoặc có nhận được lệnh, nhưng trong lệnh không ghi rõ thời gian, địa điểm do lỗi của người hoặc cơ quan có trách nhiệm, hoặc do người khác có hành vi cản trở.
Các trường hợp (1), (2) phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã điều trị hoặc trạm y tế cấp xã nơi cư trú. Các trường hợp (3), (4) phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú. Trường hợp (3) phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc cơ quan có thẩm quyền./.
St

THỂ HIỆN LÒNG YÊU NƯỚC TRÊN MẠNG XÃ HỘI

 Dịp kỷ niệm Ngày Quốc khánh (2-9) năm nay, Cục Thông tin đối ngoại (Bộ Thông tin và Truyền thông) phối hợp cùng các đối tác, phát động chiến dịch Ngày Quốc khánh trên một số nền tảng mạng xã hội.

Chiến dịch với ý tưởng lấy hình ảnh lá cờ Tổ quốc làm trung tâm, thông qua hoạt động truyền thông để “phủ đỏ” các trang mạng xã hội, lan tỏa thông điệp: Dù là ai, dù ở bất cứ nơi nào, ngày 2-9 cùng nhau hướng về lá cờ Tổ quốc với sự tự hào của một người Việt Nam, lan tỏa tinh thần dân tộc và lòng yêu nước trên mạng xã hội.
Đúng như ý nghĩa từ thông điệp của chiến dịch, lòng yêu nước là tình cảm thiêng liêng, luôn hiện hữu trong mỗi người dân Việt Nam, không phân biệt vùng, miền hay khoảng cách địa lý; không phân biệt địa vị hay hoàn cảnh sống. Nó như ngọn lửa trong tim mỗi người, sẽ được nhen nhóm, thổi bùng lên và có sức hiệu triệu muôn người trước mỗi thời khắc lịch sử của dân tộc.
Với sự phát triển mạnh mẽ và sức ảnh hưởng lớn từ mạng xã hội như hiện nay, các hoạt động truyền thông mang thông điệp về tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc càng có sức lan tỏa nhanh chóng. Bằng nhiều cách thể hiện mới mẻ, ấn tượng, nhiều video mang tinh thần yêu nước của các bạn trẻ đã thu hút hàng triệu lượt xem, tạo ra hiệu ứng lan tỏa và truyền cảm hứng trên mạng xã hội.
Lòng yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được nuôi dưỡng, bồi đắp và trao truyền qua biết bao thế hệ. Bổn phận, trách nhiệm của mỗi người Việt Nam hôm nay là phải thể hiện lòng yêu nước sao cho đúng đắn và làm sáng đẹp thêm truyền thống ấy. Đó có thể là những hoạt động vì cộng đồng, có sức lan tỏa sâu rộng, có đóng góp to lớn cho đất nước, hoặc đó cũng có thể là những việc làm rất đỗi bình dị hằng ngày.
Với những ý nghĩa đó, ngay bây giờ, mỗi người dân Việt Nam trên khắp mọi miền Tổ quốc và ở nước ngoài đang tham gia mạng xã hội, bằng những thao tác rất giản đơn, hãy cùng “phủ đỏ” mạng xã hội thông qua hình ảnh lá cờ Tổ quốc. Nhưng trên hết, cần nhận thức sâu sắc về ý nghĩa thiêng liêng của lá cờ Tổ quốc và giá trị của độc lập, hòa bình để thêm trân trọng, tự hào. Đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế như ngày nay, lá cờ Tổ quốc đã thấm máu đào của bao anh hùng liệt sĩ và lớp lớp thế hệ cha anh đi trước.
Hơn nữa, thể hiện lòng yêu nước trên mạng xã hội phải bằng những hoạt động thường xuyên, thiết thực, không thể là một xu hướng hay trào lưu, sớm rộ lên rồi cũng vội vụt tắt./.
TáTHỂ HIỆN LÒNG YÊU NƯỚC TRÊN MẠNG XÃ HỘI
Dịp kỷ niệm Ngày Quốc khánh (2-9) năm nay, Cục Thông tin đối ngoại (Bộ Thông tin và Truyền thông) phối hợp cùng các đối tác, phát động chiến dịch Ngày Quốc khánh trên một số nền tảng mạng xã hội.
Chiến dịch với ý tưởng lấy hình ảnh lá cờ Tổ quốc làm trung tâm, thông qua hoạt động truyền thông để “phủ đỏ” các trang mạng xã hội, lan tỏa thông điệp: Dù là ai, dù ở bất cứ nơi nào, ngày 2-9 cùng nhau hướng về lá cờ Tổ quốc với sự tự hào của một người Việt Nam, lan tỏa tinh thần dân tộc và lòng yêu nước trên mạng xã hội.
Đúng như ý nghĩa từ thông điệp của chiến dịch, lòng yêu nước là tình cảm thiêng liêng, luôn hiện hữu trong mỗi người dân Việt Nam, không phân biệt vùng, miền hay khoảng cách địa lý; không phân biệt địa vị hay hoàn cảnh sống. Nó như ngọn lửa trong tim mỗi người, sẽ được nhen nhóm, thổi bùng lên và có sức hiệu triệu muôn người trước mỗi thời khắc lịch sử của dân tộc.
Với sự phát triển mạnh mẽ và sức ảnh hưởng lớn từ mạng xã hội như hiện nay, các hoạt động truyền thông mang thông điệp về tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc càng có sức lan tỏa nhanh chóng. Bằng nhiều cách thể hiện mới mẻ, ấn tượng, nhiều video mang tinh thần yêu nước của các bạn trẻ đã thu hút hàng triệu lượt xem, tạo ra hiệu ứng lan tỏa và truyền cảm hứng trên mạng xã hội.
Lòng yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được nuôi dưỡng, bồi đắp và trao truyền qua biết bao thế hệ. Bổn phận, trách nhiệm của mỗi người Việt Nam hôm nay là phải thể hiện lòng yêu nước sao cho đúng đắn và làm sáng đẹp thêm truyền thống ấy. Đó có thể là những hoạt động vì cộng đồng, có sức lan tỏa sâu rộng, có đóng góp to lớn cho đất nước, hoặc đó cũng có thể là những việc làm rất đỗi bình dị hằng ngày.
Với những ý nghĩa đó, ngay bây giờ, mỗi người dân Việt Nam trên khắp mọi miền Tổ quốc và ở nước ngoài đang tham gia mạng xã hội, bằng những thao tác rất giản đơn, hãy cùng “phủ đỏ” mạng xã hội thông qua hình ảnh lá cờ Tổ quốc. Nhưng trên hết, cần nhận thức sâu sắc về ý nghĩa thiêng liêng của lá cờ Tổ quốc và giá trị của độc lập, hòa bình để thêm trân trọng, tự hào. Đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế như ngày nay, lá cờ Tổ quốc đã thấm máu đào của bao anh hùng liệt sĩ và lớp lớp thế hệ cha anh đi trước.
Hơn nữa, thể hiện lòng yêu nước trên mạng xã hội phải bằng những hoạt động thường xuyên, thiết thực, không thể là một xu hướng hay trào lưu, sớm rộ lên rồi cũng vội vụt tắt./.
St

TỪ VỤ NAM SINH ĐƯỜNG LÊN ĐỈNH OLYMPIA: CẦN LÀM GÌ ĐỂ GIÁO DỤC, BỒI ĐẮP LÒNG YÊU NƯỚC CHO THẾ HỆ TRẺ?

 Từ vụ nam sinh đường lên đỉnh Olympia, có thể thấy, việc giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ là việc quan trọng hơn bao giờ hết.

“Con sâu làm rầu nồi canh”
Trong kỳ nghỉ lễ Quốc khánh 2/9, trên khắp dải đất hình chữ S - trải dài từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau, đâu đâu chúng ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh những lá cờ tổ quốc tung bay phấp phới đi kèm với đó là tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, sự đoàn kết của 54 dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, đâu đó vẫn có những sự việc đáng tiếc xảy ra. Đó là những phát ngôn chưa chuẩn mực của một nam sinh tại tỉnh Yên Bái - cựu thí sinh của chương trình Đường lên đỉnh Olympia.
C. N. Q.V từng là niềm tự hào của một trường trung học phổ thông chuyên có tiếng địa phương. Cách đây gần 1 năm, nam sinh này đã xuất sắc giành vòng nguyệt quế trong vòng thi tháng tại Đường lên đỉnh Olympia. Đây cũng là thí sinh Yên Bái đầu tiên trong vòng 23 năm đã giành được chiến thắng tại vòng thi tháng của cuộc thi này.
Thế nhưng, thay vì tiếp tục làm tấm gương sáng để thầy cô tự hào, các bạn học noi theo, thật đáng tiếc Q. V đã thể hiện hành vi vô ơn đối với Đảng, với quê hương, đất nước, gây bức xúc với dư luận qua một dòng trạng thái trên mạng xã hội. Mặc dù, ngay sau đó, học sinh này đã đăng đàn xin lỗi về những phát ngôn của mình nhưng những phát ngôn trước đó không làm dư luận “hạ nhiệt” và Q. V đã khóa trang facebook cá nhân của mình.
Sau khi sự việc đáng tiếc trên, Công an tỉnh Yên Bái, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Yên Bái và Trường THPT Chuyên Nguyễn Tất Thành nơi nam sinh đang theo học đã cử cán bộ, giáo viên trực tiếp đến gia đình C. N. Q.V để nắm tình hình và diễn biến tư tưởng, tâm lý của học sinh này.
Đây không phải là trường hợp đầu tiên những người có học thức, có sức ảnh hưởng trên mạng xã hội có những phát ngôn chưa chuẩn mực. Gần đây, hàng loạt nghệ sĩ, người nổi tiếng đã và đang là tâm điểm tranh cãi, chỉ trích về lòng yêu nước và trách nhiệm xã hội khi bị “đào lại” quá khứ từng biểu diễn dưới lá cờ ba sọc (cờ chế độ Việt Nam Cộng hoà cũ).
Tăng cường giáo dục truyền thông yêu nước cho thế hệ trẻ
Từ những sự việc trên, có thể thấy, việc giáo dục truyền thống yêu nước cho nhân dân, đặc biệt cho thế hệ trẻ là công việc quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi, giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia, nhất là trong bối cảnh xã hội hiện đại với nhiều biến động, nhiều giá trị đạo đức, tư tưởng, lối sống đã thay đổi.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua biết bao nhiêu bao sóng gió, thăng trầm chống lại những cuộc xâm lăng, lập nên những trang sử oai hùng. Trong rất nhiều những yếu tố góp nên thành công ấy, chúng ta phải kể đến lòng yêu nước dạt dào trong mỗi trái tim của người con đất Việt. Giờ đây, khi đất nước đứng trước những thử thách mới của một thời đại phát triển, lòng yêu nước càng đóng một vai trò quan trọng.
Chính bởi vai trò quan trọng ấy, lòng yêu nước đã được đưa vào là một trong những phẩm chất cốt lõi trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 - bên cạnh những phẩm chất nhân ái, trung thực, trách nhiệm, chăm chỉ để giáo dục và rèn luyện cho học sinh trong nhà trường.
Toàn bộ chương trình có 14 nội dung giáo dục, trong đó các nội dung giáo dục công dân, quốc phòng và an ninh, nội dung giáo dục khoa học xã hội có vai trò chủ đạo trong việc giáo dục giáo dục nhân sinh quan, thế giới quan, hoàn thiện nhân cách, giáo dục ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước, các giá trị nhân văn, tinh thần cộng đồng.
Bên cạnh đó, lòng yêu nước còn được bồi dưỡng ở nhiều môn học và hoạt động giáo dục khác, như: Tiếng Việt, Ngữ văn, Nghệ thuật (Âm nhạc, Mỹ thuật), Hoạt động trải nghiệm, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp, Nội dung giáo dục địa phương,...
Thông qua ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật, nhà trường bồi dưỡng cho học sinh những phẩm chất chủ yếu, đặc biệt là tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, tính trung thực và ý thức trách nhiệm. Hình thành, phát triển cho học sinh các năng lực chung và hai năng lực đặc thù là năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học.
PGS.TS Nghiêm Đình Vỳ - Thành viên Ban Phát triển chương trình môn Lịch sử cấp THPT trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, Tổng Chủ biên sách giáo khoa Lịch sử và Địa lý cấp Tiểu học và THCS Bộ sách Kết nối tri thức - cho rằng, Nhân dân Việt Nam không chỉ có lịch sử anh hùng mà còn có kinh nghiệm giáo dục lịch sử, truyền thống, đặc biệt cho thế hệ trẻ, qua các nguồn tài liệu và hình thức giáo dục phong phú, hấp dẫn, có hiệu quả.
“Giáo dục truyền thống yêu nước được thể hiện qua những bài học lịch sử nội khóa và bài học ngoại khóa. Trên cơ sở những sự kiện lịch sử chính xác, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học bộ môn các thầy, cô tạo biểu tượng về hình ảnh, sự kiện, con người. Từ đó, bồi dưỡng lòng yêu nước, tình cảm thắm thiết với dân tộc cho học sinh” - PGS.TS Nghiêm Đình Vỳ chia sẻ.
Mọi người thường nghĩ, yêu nước là phải ra chiến trường, hy sinh vì đất nước… Nhưng thực ra lòng yêu nước chính là việc yêu ngay những thứ nhỏ bé, giản dị, bình thường xung quanh ta như những hàng tre xanh, những dòng sông, xóm làng, những lời ru của mẹ,... Đặc biệt, một trong nhưng biểu hiện của lòng yêu nước chính là tình yêu lịch sử, nguồn gốc của đất nước mình. Là một người con của đất nước Việt Nam, chúng ta phải tự hào về lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Chúng ta phải có hiểu biết về lịch sử của đất nước ta từ thuở dựng nước, Bà Trưng, Bà Triệu đến thời đại Hồ Chí Minh…
Bên cạnh đó, theo vị chuyên gia, ngoài môn Lịch sử, Giáo dục quốc phòng và an ninh cũng góp phần khơi dậy trong học sinh lòng tự hào và trân trọng về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Từ đó nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng trước các thủ đoạn, âm mưu của các thế lực thù địch.
“Các vua Hùng đã các công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Câu nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa nhắc nhở các thế hệ người dân Việt Nam về trách nhiệm bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc của mình. Bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, đó không phải công việc của riêng ai, của riêng một lực lượng nào mà đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tộc. Đặc biệt là với chúng ta, những thế hệ sẽ làm chủ đất nước trong tương lai.
Thực tế, trước sự việc gây xôn xao của học sinh C. N. Q. V, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Yên Bái cũng yêu cầu nhà trường tăng cường thực hiện công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, truyền thống cách mạng cho giáo viên và học sinh; đẩy mạnh chia sẻ các thông tin, bài viết tích cực về tình yêu quê hương đất nước, về Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày Quốc khánh 2/9...
Liên quan đến sự việc này, xét ở một khía cạnh khác, Báo Công Thương cho rằng, sự việc đáng tiếc một phần do bản tính nông nổi, bồng bột của tuổi trẻ. C. N. Q.V còn trẻ, đang ở tuổi bước vào ngưỡng cửa cuộc đời nên còn thiếu trải nghiệm thực tiễn và cả kiến thức toàn diện cũng như kỹ năng, kinh nghiệm phát ngôn, ứng xử trên mạng xã hội. Đây sẽ là một bài học đắt giá để em khắc phục, sửa sai, hoàn thiện bản thân trở thành người có đức, có tài, có ích cho xã hội.
Sự việc tuy đáng tiếc nhưng cha ông ta có câu “đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại”, mọi sai lầm đều có thể sửa chữa nếu mỗi bạn trẻ biết nhìn thẳng vào sự thật và “ngã ở đâu hãy đứng lên ở đó”. Mong rằng cộng đồng mạng và báo chí, truyền thông rộng lượng, vị tha chung tay cùng gia đình, nhà trường, các đoàn thể động viên, giúp đỡ em Q.V sửa sai, tiến bộ.
Biết rằng trí tuệ là nguồn tài nguyên quý giá của mỗi quốc gia, dân tộc và tài nguyên đó đang nằm chính trong mỗi học sinh, sinh viên. Nhưng nếu tài nguyên đó không được khai thác và sử dụng hợp lý thì sẻ không có tác dụng gì. Vì vậy mỗi học sinh, sinh viên cần ra sức học tập, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại nhưng không quên giữ gìn và phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc. Không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ, hiểu rõ về lịch sử hàng ngàn năm của đất nước, cùng nhau góp sức để đưa đất nước tiến lên, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như lời Bác Hồ hằng mong muốn, xứng đáng là thế hệ thanh niên mới nối truyền thống tự hào của cha anh./.
St

Làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam - Nhật Bản.

 Chiều ngày 3/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã hội đàm trực tuyến cấp cao với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio.

Thủ tướng Kishida Fumio một lần nữa chia buồn sâu sắc trước sự ra đi của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio tin tưởng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ tiếp tục đóng góp quan trọng thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam - Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Bản nhấn mạnh Việt Nam là đối tác quan trọng của Nhật Bản ở khu vực và trên thế giới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio đã gửi Điện chia buồn và cử Đặc phái viên là nguyên Thủ tướng Suga Yoshihide dẫn đầu Đoàn đại biểu Chính phủ Nhật Bản sang dự Lễ Quốc tang cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Thủ tướng Kishida Fumio đã gửi lời chúc mừng đến Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, tái khẳng định Nhật Bản là đối tác quan trọng của Việt Nam trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Hai nhà lãnh đạo vui mừng về sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng và toàn diện trong quan hệ song phương, nhất là việc hai nước thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình ở châu Á và trên thế giới nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường tin cậy chính trị, hiểu biết lẫn nhau thông qua duy trì trao đổi cấp cao bằng nhiều hình thức linh hoạt, phát huy hiệu quả các cơ chế đối thoại, hợp tác song phương. Hai bên nhất trí đẩy mạnh hợp tác kinh tế là trụ cột chính của quan hệ hai nước, đi sâu kết nối hai nền kinh tế. Thủ tướng Nhật Bản nhấn mạnh Nhật Bản sẽ tiếp tục đóng góp vào sự phát triển của Việt Nam thông qua viện trợ ODA, tăng cường hợp tác với Việt Nam trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, hoan nghênh các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Nhật Bản tham gia đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.

Hai bên nhất trí tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng - an ninh theo hướng thực chất, triển khai có hiệu quả các thỏa thuận hợp tác đã ký kết; làm sâu sắc hơn kết nối nguồn nhân lực, giao lưu nhân dân, hợp tác giữa các địa phương. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đề nghị Chính phủ Nhật Bản tiếp tục quan tâm, có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, học tập, làm việc tại Nhật Bản.

Hai bên cũng trao đổi về các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm, nhất trí tăng cường hợp tác củng cố môi trường hòa bình, an ninh, ổn định ở khu vực, trong đó có vấn đề Biển Đông./.


Tự hào Việt Nam.

 Tiếp tục phát huy tầm vóc lịch sử của sự kiện 2/9/1945, với ý chí và quyết tâm, Việt Nam đã khẳng định uy tín, vị thế của mình, đóng góp cho hòa bình và thịnh vượng chung của nhân loại

 Kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước CHXHCNVN (Ảnh: PV)

Sau 79 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và sau gần 40 năm Đổi mới (từ 1986 đến nay), từ một nước bị tàn phá sau nhiều cuộc chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu, thiếu đói, bị bao vây, cấm vận suốt 30 năm, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4.300 USD năm 2023, tăng gần 60 lần so với năm 1986. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 6,5%/năm, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô nền kinh tế năm 2023 đứng thứ 35 thế giới, tăng hơn 95 lần so với năm 1986. Nền tảng kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trong bài viết mới đây: “Xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã nhấn mạnh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nỗ lực phấn đấu, chung sức đồng lòng, kế thừa, phát huy mạnh mẽ truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm quý báu của Đảng ta; phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; không ngừng tìm tòi, mở ra triển vọng mới to lớn để phát triển con người và xã hội.

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng. Kiên định phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là quan trọng nhất. Đặc biệt coi trọng và không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.

Cùng với đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cũng nhấn mạnh trong thời gian gần đây, một tinh thần rất quan trọng là cần thống nhất nhận thức về khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, từ đó có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa. Đó là tinh thần phát triển mới đòi hỏi sự nỗ lực cao hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa đang đặt ra với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Việt Nam tiếp tục là điểm sáng về kinh tế trong khu vực và trên thế giới

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2023, tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam tiếp tục xu hướng phục hồi, kinh tế vĩ mô trong nước tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp; cung cầu hàng hóa thiết yếu được bảo đảm, hoạt động mua sắm hàng hóa, tiêu dùng nội địa duy trì mức tăng khá. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế với mức tăng ổn định, khẳng định chuyển đổi cơ cấu ngành đã phát huy hiệu quả, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu trong nước và gia tăng xuất khẩu. Đầu tư công được đẩy mạnh về số vốn thực hiện, tốc độ tăng tỷ lệ giải ngân ở mức cao, an sinh xã hội được quan tâm kịp thời, hiệu quả. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng về kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước tính tăng 5,05% so với năm 2022. 

Quy mô thị trường trong nước liên tục tăng với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành năm 2023 ước đạt 6.231,8 nghìn tỷ đồng, tăng 9,6% so với năm 2022. 

Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Một số sản phẩm của Việt Nam bước đầu khẳng định thương hiệu và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2023, cả nước có 159,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.521,3 nghìn tỷ đồng. 7 tháng năm 2024, cả nước có hơn 95,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 854,6 nghìn tỷ đồng.

Lao động có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng. Năm 2023, lao động có việc làm là 51,3 triệu người, tăng 683 nghìn người (tương ứng tăng 1,35%) so với năm 2022. Trong khi đó, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 64,9%, giảm 0,9 điểm phần trăm so với năm 2022. Lao động làm công việc tự sản tự tiêu là 3,8 triệu người, giảm 507,6 nghìn người so với năm 2022. Thu nhập bình quân của lao động năm 2023 là 7,1 triệu đồng/tháng, tăng 6,9%, tương ứng tăng 459 nghìn đồng so với năm 2022.

Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 199,3 triệu đồng/lao động (tương đương 8.380 USD/lao động, tăng 274 USD so với năm 2022),

Theo công bố của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), chỉ số GII (Bộ công cụ đánh giá xếp hạng năng lực của các hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia) của Việt Nam, năm 2023, xếp hạng thứ 46/132 quốc gia, nền kinh tế trên toàn thế giới, tăng 2 bậc so với năm 2022; trong khu vực ASEAN, chỉ số GII của Việt Nam đứng thứ 4 trong khu vực, xếp hạng sau Singapore (xếp hạng 5), Malaysia (xếp hạng 36) và Thái Lan (xếp hạng 43). Chỉ số nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam xếp hạng 66.

Cùng với phát triển kinh tế, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng quan tâm, đầu tư mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa - xã hội. Đến nay, văn hóa và đời sống của nhân dân có nhiều chuyển biến ngày càng được cải thiện.

Dân số Việt Nam năm 2023 là 100,3 triệu người. Chất lượng dân số ngày càng được cải thiện. Việt Nam cơ bản duy trì mức sinh thay thế từ năm 2005 trở lại đây. Những thành tựu trong phát triển của y học và công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được cải thiện, tuổi thọ trung bình của dân số Việt Nam năm 2023 là 73,7 tuổi.

Theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư năm 2023, tình hình đời sống của hộ dân cư được cải thiện. Công tác an sinh xã hội được các cấp từ Trung ương đến địa phương quan tâm thực hiện kịp thời, thiết thực. Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến ngày 19/12/2023, tổng trị giá tiền và quà hỗ trợ cho các đối tượng là hơn 12,3 nghìn tỷ đồng; thu hút nhiều du khách quốc tế tới thăm quan tìm hiểu văn hóa con người Việt Nam. Số liệu của Tổng cục Thống kê nêu rõ, năm 2023, khách quốc tế đến Việt Nam đạt 12,6 triệu lượt người, gấp 3,4 lần năm 2022, vượt xa mục tiêu 8 triệu khách quốc tế của năm 2023. Tính riêng 7 tháng năm 2024, khách quốc tế đến Việt Nam đạt gần 10 triệu lượt người, tăng 51,0% so với cùng kỳ 2023.

 Cờ đỏ sao vàng rực rỡ khắp phố (Ảnh: PV)

Việt Nam ngày càng gia tăng vị trí trên trường quốc tế

Tiếp tục phát huy tầm vóc lịch sử của sự kiện 2/9/1945 và khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, Việt Nam không ngừng nuôi dưỡng khát vọng vươn lên, với một tinh thần kiên cường và quyết tâm không thể lay chuyển.

Trước hết, đất nước ta đã duy trì một chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, nhưng vẫn linh hoạt và sáng tạo. Trong bối cảnh thế giới ngày càng phức tạp và đa cực, việc giữ vững nguyên tắc nhưng linh hoạt trong ứng xử giúp Việt Nam vừa bảo vệ được chủ quyền quốc gia, vừa tận dụng được các cơ hội hợp tác quốc tế. Điều này không chỉ giúp đất nước giữ vững hòa bình và ổn định, mà còn tạo đà cho việc xây dựng các mối quan hệ Đối tác chiến lược, cùng nhau chia sẻ lợi ích và trách nhiệm với các quốc gia khác.

Bên cạnh đó, việc nâng cao vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế là một nhiệm vụ không thể thiếu. Tham gia tích cực vào các sáng kiến toàn cầu, đặc biệt là trong các lĩnh vực như phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu và gìn giữ hòa bình, giúp Việt Nam khẳng định vai trò của mình như một quốc gia có trách nhiệm và đáng tin cậy trên trường quốc tế.  

Để tầm vóc của sự kiện 2/9 mãi mãi lan tỏa, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Điều này không chỉ giúp Việt Nam xây dựng một bản sắc độc đáo và mạnh mẽ trên trường quốc tế, mà còn tạo nên sức hút mềm mại, thu hút sự tôn trọng và ngưỡng mộ từ các quốc gia khác. Mỗi di tích, bài hát, điệu múa, mỗi phong tục, lễ hội là một câu chuyện về lòng kiên cường, sự sáng tạo và tình yêu đất nước - những giá trị đã và đang đưa Việt Nam vươn lên tầm vóc toàn cầu.

Ngoại giao văn hóa cũng là một trong những phương tiện mạnh mẽ giúp Việt Nam lan tỏa tầm vóc của mình ra thế giới. Khi văn hóa Việt được giới thiệu rộng rãi, khi những câu chuyện về lòng kiên cường và tinh thần đoàn kết được chia sẻ, thế giới sẽ hiểu hơn, yêu mến hơn và tôn trọng đất nước chúng ta hơn. Từ những hoạt động văn hóa, nghệ thuật, đến các chương trình trao đổi giáo dục và giao lưu nhân dân, tất cả đều góp phần xây dựng một hình ảnh Việt Nam đẹp đẽ, năng động và đầy tiềm năng.

Từ ánh sáng của Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945, Việt Nam đã và đang tiếp tục viết lên những trang sử hào hùng và đầy tự hào trên trường quốc tế. Chúng ta chứng minh được rằng, dù nhỏ bé về diện tích nhưng với ý chí và quyết tâm, Việt Nam hoàn toàn có thể khẳng định vị thế của mình, đóng góp cho hòa bình và thịnh vượng chung của nhân loại./.


ĐỌC DI CHÚC, CẢM NHẬN CÁCH ỨNG XỬ CỦA MỘT NHÀ VĂN HOÁ LỚN

 Thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc (tháng 5-1965), cách mạng Việt Nam đang đứng trước những thử thách vô cùng to lớn: Ngày 7-2-1965, đế quốc Mỹ dùng không quân mở chiến dịch “Mũi lao lửa” và từ ngày 2-3-1965, Mỹ ném bom liên tục, ác liệt hơn gọi là “sấm rền” đánh phá liên tục miền Bắc Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.

Ở miền Nam, ngày 8-3-1965, Mỹ đưa đơn vị chiến đấu đầu tiên của quân đội Hoa Kỳ gồm 3.500 lính thủy đánh bộ đổ bộ lên Đà Nẵng và Chu Lai, bắt đầu tiến hành cuộc Chiến tranh cục bộ.
Trên bình diện quốc tế, sự vận động, phát triển của phong trào cộng sản quốc tế đã làm nảy sinh sự bất đồng giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là giữa hai nước lớn Liên Xô và Trung Quốc. Những bất đồng này đã ít nhiều ảnh hưởng đến sự đồng tình, ủng hộ về vật chất và tinh thần của các nước anh em cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Thực tế này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong Di chúc, Người đã tiên liệu được sự khó khăn, gian khổ, lâu dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng Người khẳng định giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước là một tất yếu, dù phải kéo dài, dù có thể ta phải hy sinh thêm nhiều của, nhiều người nữa.
Khát vọng và niềm tin tất thắng của Lãnh tụ Hồ Chí Minh về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam còn được thể hiện việc Người hoạch định cụ thể về một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội, về xây dựng văn hóa mới trong xã hội xã hội chủ nghĩa, về mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà nước ta hướng tới... Trong đó, những đề nghị của Người về miễn thuế nông nghiệp 1 năm, để “đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”; về xây dựng lại thành phố, làng mạc; về xây dựng những vườn hoa, bia tưởng niệm các liệt sĩ, “để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”... thực sự thiết thực, cụ thể, đầy tính nhân văn.
Vẫn là Hồ Chí Minh – một con Người đầy bao dung nhân ái, đã dành tình thương yêu cho hết thảy mọi người: Từ những người đã hy sinh một phần xương máu cho công cuộc kháng chiến, là cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sĩ, là bà con nông dân, là thanh niên, phụ nữ…; Người lo cho hiện tại, lo đào tạo cho tương lai...
Trong ứng xử, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng trước hết phải biết tự ứng xử. Khiêm nhường, chu đáo, cẩn thận, với mình thì nghiêm, với người thì rộng lòng khoan thứ. Mặc dù uy tín rất cao, có khả năng thu hút, tập hợp quần chúng rất lớn, được toàn dân suy tôn là "Cha già của dân tộc" nhưng không bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh xem mình đứng cao hơn nhân dân. Người tự cho mình là "người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận", là "người đày tớ trung thành của đồng bào". Lúc sinh thời, nhận được thư, quà chúc mừng của nhân dân, dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn tự tay viết thư trả lời, cảm ơn một cách thân tình, chu đáo, nêu một tấm gương ứng xử rất văn hóa, đầy khiêm nhường và kính trọng đối với nhân dân. Cho nên, cũng dễ hiểu tại sao khi phần mở đầu Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố chọn một cách “vào đề” phù hợp nhất để nói điều mà toàn dân và cả chính bản thân Người không ai muốn: “...tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”. Một đoạn mở đầu đơn giản, độc đáo, đậm chất nhân văn và có sức thuyết phục cao, làm lay động lòng người.
Người “có ý định đến ngày đó” sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc chúc mừng đồng bào và chiến sĩ cả nước, và thay mặt nhân dân Việt Nam “đi thăm và cảm ơn” bè bạn quốc tế đã “tận tình ủng hộ và giúp đỡ” cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đó chính là phép xử thế của một nhà văn hóa lớn, thể hiện tư cách rất đúng đắn của vị lãnh tụ Đảng cầm quyền, thấu hiểu được vai trò của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại; thấu hiểu được vai trò của nhân dân, là gốc, là chủ thể của sự nghiệp cách mạng, xây dựng và đổi mới đất nước.
Khiêm nhường trong vị thế một nguyên thủ quốc gia, một Hồ Chí Minh cũng rất giản dị trên cương vị một lãnh tụ của nhân dân Việt Nam. Phút cuối của đời mình, sau khi dành tâm tư, tình cảm cho Đảng, cho dân, cho phong trào cách mạng thế giới, ung dung và thư thái, Hồ Chí Minh để lại mấy dòng cuối cùng trong Di chúc để viết về việc riêng của mình. Người dùng đến 8 từ “phục vụ”, không hề dùng một từ nào biểu đạt rằng mình là người lãnh đạo, hay đứng cao hơn mọi người. Và niềm nuối tiếc duy nhất của Người không phải vì không được sống lâu hơn như lẽ thường tình, như mục đích thụ hưởng mà “chỉ tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, càng tìm hiểu, nghiên cứu văn kiện đặc biệt này, càng khẳng định rằng, bao giờ và ở đâu, vẫn luôn ngời sáng tấm gương Hồ Chí Minh – tấm gương của đạo đức cách mạng, chí công vô tư; tấm gương của một con người vĩ đại mà khiêm nhường hết mực.
Học và làm theo Bác, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng tự soi rọi lại mình; phấn đấu xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” như ý nguyện của Người./.
St

"THAM NHŨNG LÀ BẢN CHẤT CỦA CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - MỘT LUẬN ĐIỆU LỐ BỊCH"

 Để nuôi ảo tưởng làm chuyển hóa con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, các thế lực thù địch không từ thủ đoạn nào. Trong số đó, “tham nhũng là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa” là luận điệu xuyên tạc lố bịch đến nực cười, với thái độ hằn học mà các thế lực thù địch ra sức rêu rao thời gian qua.

Thời gian gần đây, trong khi công cuộc chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta ngày càng hiệu quả, tạo nhiều hiệu ứng tích cực, được nhân dân và cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thì đã xuất hiện nhiều luận điệu chống phá của các thế lực thù địch. Không chỉ phủ nhận thành tựu chống tham nhũng của ta, chúng còn đơm đặt, xuyên tạc, cho rằng chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam chỉ là hình thức, là cuộc chiến thanh trừng phe phái trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Trắng trợn hơn, chúng còn tung ra luận điệu rằng: tham nhũng là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là căn bệnh nan y của “chế độ độc đảng cầm quyền”. Với luận điệu này, chúng đã cố tình gán ghép và cho rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có tham nhũng và ở chế độ đó cũng không thể chống được tham nhũng. Mục đích sâu xa của những luận điệu này là nhằm chèo lái dư luận, “bôi đen” bức tranh xã hội, làm giảm hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam, gây hoài nghi, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong vấn đề này, họ quá kém cỏi về nhận thức hay cố tình “bỏ qua” vấn đề lý luận đã trở nên quá rõ ràng rằng: tham nhũng là sản phẩm của xã hội có giai cấp và nhà nước, là khuyết tật bẩm sinh của quyền lực. Nghĩa là khi còn giai cấp, có nhà nước, thì tham nhũng được sinh ra tại nơi có quyền lực tồn tại, trong bất kỳ thời điểm lịch sử nào, không phân biệt chế độ nhà nước đó là gì, thể chế chính trị là đa đảng hay một đảng. Và họ chủ ý phớt lờ một thực tế hiển nhiên là, tham nhũng đang hiện là vấn nạn ở mọi quốc gia, mọi chế độ, dù là nước đó có trình độ phát triển đến đâu đi chăng nữa.
Theo Báo cáo Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) hằng năm do Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) công bố đều cho thấy, trên thế giới không có quốc gia nào đạt chỉ số 100 điểm, hoàn toàn minh bạch, trong sạch, không có tham nhũng. Trong lịch sử và đặc biệt những năm gần đây, chúng ta chứng kiến những vụ án tham nhũng gây chấn động cả thế giới. Nổi lên trong số đó có vụ Watergate với bê bối, lợi dụng về quyền lực chính trị để trục lợi từ năm 1972 - 1974 của Tổng thống Mỹ Richard Nixơn, buộc ông này phải từ chức trước khi bị phế truất, v.v. Ở những nước kém phát triển hơn, chúng ta cũng biết đến những vụ án tham nhũng nổi tiếng thế giới, như: Arnoldo Aleman - tổng thống thứ 81 của Nicaragua bị bắt với cáo buộc tham nhũng liên quan đến 100 triệu USD trong các quỹ nhà nước ngay sau kết thúc nhiệm kỳ vào năm 2002. Cựu Tổng thống Philippines - Joseph Estrad phạm tội tham nhũng, cũng phải ngồi tù chung thân vào năm 2013. Cựu Tổng thống Hàn Quốc Park Geun Hye bị Quốc hội Hàn Quốc phế truất chức tổng thống vào tháng 12/2016 do bị buộc tội tham nhũng, dính líu đến vụ bê bối chính trị dùng quan hệ cá nhân để tăng ảnh hưởng và trục lợi tài chính, v.v. Thực tế trên cho thấy, tham nhũng có ở mọi chế độ xã hội, ấy vậy mà các thế lực thù địch lại chỉ đem các nước xã hội chủ nghĩa để bôi xấu. Thật nực cười cho cái gọi là “nhìn nhận khách quan” của họ.
Càng mỉa mai thay, trong khi các thế lực thù địch đang cố gán cho chủ nghĩa xã hội những thói hư tật xấu bằng sự nhận thức lý luận non kém và chứng cứ thực tiễn yếu ớt thì những ai khách quan, nghiên cứu thấu đáo về chủ nghĩa xã hội đều không khó để nhận thấy rằng, chủ nghĩa xã hội luôn không đội trời chung với tham nhũng, tiêu cực. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ căn nguyên của nạn tham nhũng là xã hội còn tồn tại giai cấp, nhà nước và luôn kiên quyết đấu tranh loại bỏ đến tận gốc rễ vấn nạn này, tức là xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản để xóa bỏ giai cấp, nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo là công cụ để đạt được mục tiêu đó. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, V.I. Lênin đã sớm nhận ra vấn đề tham nhũng, Người khẳng định: “Hiện giờ có ba kẻ thù chính đang đứng trước mỗi người, bất kể người đó làm việc gì, ở cương vị nào,… kẻ thù thứ nhất - tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; kẻ thù thứ hai - nạn mù chữ; kẻ thù thứ ba - nạn hối lộ”1, “Nếu có cái gì làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”2. Đồng thời, V.I. Lênin cũng kêu gọi: “đuổi ra khỏi đảng từ 10 vạn đến 20 vạn người đã len lỏi vào Đảng và đã không những không biết đấu tranh chống bệnh giấy tờ cùng nạn hối lộ, mà còn cản trở cuộc đấu tranh này”3.
Đối với nước ta, thực tế đất nước từ khi có Đảng lãnh đạo đã bác bỏ mọi luận điệu cố tình gán ghép tham nhũng, tiêu cực với bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi tệ tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng” rất nguy hiểm, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ, phải kiên quyết loại bỏ. Người chỉ ra rằng: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Vì nó làm chậm trễ công cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính… Vì những lẽ đó, chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận”4.
Thấm nhuần tư tưởng của Bác Hồ, Đảng, Nhà nước ta luôn nhận diện đúng về tham nhũng, nhìn thẳng vào thực tế, không phủ nhận tham nhũng vốn đã và đang tồn tại như một vấn nạn. Từ đó, nhất quán quan điểm: đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng Đảng và xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính. Quyết tâm chính trị đó đã được biểu hiện bằng hiệu quả thực tế với sự đồng bộ cả về cơ chế, thể chế và hệ thống bộ máy vận hành cơ chế đó.
Về cơ chế, thể chế phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Đảng, Nhà nước ta đã chú trọng ban hành nhiều văn bản nhằm tăng cường quản lý kinh tế - xã hội, từng bước hướng tới “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng. Theo Báo cáo số 06-BC/TW, ngày 23/7/2022 của Bộ Chính trị về tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022: Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan tham mưu của Đảng đã ban hành hơn 250 văn bản về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng; Quốc hội ban hành hơn 300 luật, pháp lệnh, nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hơn 2.600 nghị định, quyết định, chỉ thị; cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương ban hành hơn 45.000 văn bản; các bộ, ngành, địa phương ban hành gần 100.000 văn bản để cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành, tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực5. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, thay thế hơn 2.000 văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp, bịt kín những “khoảng trống”, “kẽ hở” để “không thể tham nhũng, tiêu cực”.
Hệ thống bộ máy chống tham nhũng, tiêu cực từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng, hoàn thiện và vận hành đồng bộ, hiệu quả, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự điều hành của Chính phủ, sự giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân. Để chỉ đạo toàn diện công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trên phạm vi cả nước, ngày 01/02/2013, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị được thành lập do Tổng Bí thư làm Trưởng ban và từ tháng 8/2022 đến nay, 63 Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh cũng đã được thành lập và đi vào hoạt động hiệu quả. Ban Nội chính Trung ương và ban nội chính các tỉnh ủy, thành ủy cũng được tái lập. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng, như: cơ quan kiểm tra, giám sát, nội chính của Đảng; cơ quan thanh tra, kiểm toán, điều tra,… của Trung ương và địa phương trong công tác phòng, chống tham nhũng cũng được chú trọng, tăng cường; hợp tác quốc tế trong chống tham nhũng, tiêu cực cũng có bước phát triển mới. Vai trò của các cơ quan dân cử, cơ quan báo chí và nhân dân trong công tác phòng, chống tham nhũng được chú trọng, phát huy, tạo sức mạnh tổng hợp trong cuộc chiến đầy cam go này.
Thực tế cho thấy, với tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào, công tác phát hiện và xử lý tham nhũng, tiêu cực đã được tiến hành bài bản, đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả; mở rộng phạm vi, đối tượng đến cả cấp huyện và cơ sở; xử lý cả cán bộ đương chức và nghỉ hưu, cả cán bộ cấp cao và cán bộ trong lực lượng vũ trang; nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương được chỉ đạo, xử lý dứt điểm. Trong giai đoạn 2012 - 2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 7.390 đảng viên do tham nhũng, trong đó có 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, gồm 04 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 29 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương; 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay đã thi hành kỷ luật hơn 50 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 08 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương, 20 sĩ quan cấp tướng6.
Kết quả đó cho thấy công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực “đã trở thành phong trào, thành xu hướng không thể đảo ngược”, là công việc không của riêng ai; thể hiện quyết tâm, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước ta trong vấn đề này, “khiến cho mọi sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực xấu, thù địch đều trở nên trơ trẽn, nực cười”7./.
St