Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 

Bôi nhọ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiêu bài thâm hiểm của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị nhằm phá hủy tận gốc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ trắng trợn xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác luận điệu này là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

1. Nhà văn Blaga Dimitrova của Bulgaria đã viết: “Niềm hy vọng có nhiều tên gọi khác nhau, song ở Việt Nam, niềm hy vọng được tượng trưng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đất nước còn chìm đắm trong đêm trường nô lệ, chính Người đã mở ra cánh cửa hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Có lẽ, không ngôn từ nào có thể diễn tả hết được những cống hiến, hy sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân Việt Nam”.

Không riêng nhà văn Blaga Dimitrova mà rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn hóa quốc tế, các nguyên thủ đã ghi nhận, đánh giá Hồ Chí Minh là một nhân vật đã làm nên dấu ấn bước ngoặt vĩ đại không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn để lại những dấu ấn khó phai trong tiến trình lịch sử phát triển tư tưởng, văn hóa của nhân loại.

Thế nhưng, bất chấp sự thật đã được lịch sử khắc ghi, các thế lực thù địch lại luôn hằn học với điều đó, tìm mọi cách xuyên tạc, nói xấu cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với âm mưu “hạ bệ thần tượng”, họ không ngần ngại tuyên bố: Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ suy diễn rằng, để được nhân dân ủng hộ, Đảng phải có sức lôi cuốn.

Để có sức lôi cuốn, Đảng phải coi trọng công tác tuyên truyền và trong tuyên truyền, phải đặt trọng tâm vào chính sách “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ lập luận rằng, “thần thánh hóa lãnh tụ” là thủ đoạn chính trị mà Đảng sử dụng để tập hợp, đoàn kết, nâng cao lòng tự hào dân tộc, để cổ vũ tinh thần, nô lệ hóa quần chúng; đồng thời, tạo bình phong, chỗ dựa an toàn, củng cố quyền lực cho những người lãnh đạo cấp cao hiện nay. Từ đó, họ quy chụp việc Đảng giữ gìn thi hài, xây dựng Lăng Bác; lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo Bác là “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”.

2. Một số người thiếu thiện chí hoặc cố tình hướng lái dư luận lu loa rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người bằng xương, bằng thịt; “thần thánh hóa” đồng nghĩa với việc khai tử con người thật của Người. Rõ ràng, đây là luận điệu hết sức thâm độc, nham hiểm nhằm hạ thấp thanh danh, uy tín, vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua đó nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra “khoảng chân không chính trị” trong xã hội để hệ tư tưởng tư sản chiếm chỗ, chi phối, hòng dẫn dắt Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Sự thật là các thế lực thù địch đã đánh đồng việc Đảng, nhân dân Việt Nam yêu quý, kính trọng, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ không nhận thức hoặc cố tình không hiểu rằng, lòng biết ơn, ghi nhớ công lao, tôn vinh những anh hùng, người có công với đất nước là truyền thống, đạo lý nhân văn và lẽ sống tốt đẹp của dân tộc, nhân dân Việt Nam. Truyền thống đó đã được đúc kết qua những câu tục ngữ như: “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây”...

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người Việt luôn tôn kính, thờ phụng những anh hùng dân tộc, bậc tiền nhân có công lao to lớn với quê hương, đất nước. Vì vậy, việc xây dựng Lăng Bác và giữ gìn thi hài Người là hoàn toàn xuất phát từ sự yêu quý, kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chứ không phải do Đảng “thần thánh hóa lãnh tụ” như các thế lực thù địch thêu dệt. Về điều này, xin nhắc lại lời nhà báo Hayde Xantamaria (Cu Ba) đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh được người dân Việt Nam yêu quý như một người thân. Tình yêu của họ đối với Người vô cùng sâu sắc và không bờ bến. Đây không phải là tình yêu thần thoại mà là tình yêu và sự kính trọng thật sự”.

Trên thực tế, không riêng Việt Nam, mà nhiều nước trên thế giới cũng có văn hóa tôn vinh những người có cống hiến to lớn cho đất nước. Ở Mỹ, George Washington (1732-1799) là tổng thống đầu tiên, được người Mỹ suy tôn là “Người cha già của đất nước” và để vinh danh ông, Mỹ đã xây dựng Đài tưởng niệm Washington, công trình kiến trúc bằng đá cao nhất thế giới. Ở Ấn Độ, Mahatma Gandhi (1869-1948) được người dân hết sức tôn kính gọi bằng những cái tên thân thương như: Cha kính yêu, tâm hồn vĩ đại, lãnh tụ tinh thần của dân tộc. Ở Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông được coi là “hiện thân của nền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”...  

3. Điều rất đáng tự hào là Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được yêu quý, kính trọng ở Việt Nam mà Người cũng được nhân dân thế giới nể phục, tôn vinh. Năm 1987, tại khóa họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”. Với nghị quyết này, UNESCO đã ghi nhận những đóng góp to lớn, quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với cả nhân loại, đồng thời tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những “nhân vật lỗi lạc đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển của nhân loại”.

 Từ đó đến nay, hoạt động vinh danh Người đã được tổ chức ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, đến cuối năm 2023, đã có 37 tượng/tượng đài, 13 khu tưởng niệm, 6 trường lớp và 21 đại lộ, đường phố, công viên mang tên Hồ Chí Minh được xây dựng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những hoạt động đó xuất phát từ sự yêu mến, lòng kính trọng và công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Hồ Chí Minh, hoàn toàn trái ngược với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ luận điệu “thần thánh hóa” cá nhân. Sinh thời, Người chưa bao giờ coi mình là “thánh nhân”, mà chỉ tự nhận là một người luôn đau đáu một nỗi niềm là làm sao cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, có ăn, có mặc, có học... Nghiên cứu về Người, một học giả nước ngoài từng hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh là một con người hay một vị thánh?”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trả lời rằng: Hồ Chí Minh trước hết là một con người, cuối cùng cũng là một con người, còn vĩ đại như đức Chúa, đức Phật thì các bạn đã thừa nhận. Người cũng luôn gương mẫu và lên án những biểu hiện “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”; đồng thời, đề cao vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, tôn trọng nhân dân, quan tâm, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của nhân dân, tận tâm, tận lực, tận hiến cho cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Không phải ngẫu nhiên mà David Hamberstam, phóng viên tờ báo New York Times (Mỹ) từng viết: “Trên thế giới có quốc gia người ta đề cao lãnh tụ dữ lắm, đó là sùng bái cá nhân. Còn cụ Hồ Chí Minh thì cương quyết không tìm cái vỏ bề ngoài lộng lẫy của quyền uy. Như thế cụ tự tin và tin chắc vào quan hệ của mình với dân tộc, với lịch sử, đến nỗi cụ chẳng cần đến tượng, đền đài, sách báo và những nhà nhiếp ảnh để chứng minh điều đó cho mình” (dẫn theo Giáo sư Trần Văn Giàu, sách “Hồ Chí Minh vĩ đại một con người”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, năm 2013, trang 74-75).

Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia trên thế giới đều có biểu tượng niềm tin của mình. Biểu tượng niềm tin kết tụ sức mạnh tinh thần, tình cảm, sự xác tín thiêng liêng của cả dân tộc và trở thành một trong những trụ lực vững chắc nhất để cộng đồng dân tộc ấy tồn tại, phát triển. Đụng chạm đến biểu tượng niềm tin của một dân tộc là đụng chạm đến tình cảm thiêng liêng của hàng triệu con người.

Thấm nhuần truyền thống, đạo lý của dân tộc, Đảng đã nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa II (4-1956), Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp cách mạng của Đảng là một sự nghiệp vĩ đại, do công lao to lớn của toàn Đảng, toàn dân và của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch là lãnh tụ thiên tài của Đảng, của nhân dân, của dân tộc. Vì vậy, Đảng đề cao vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lẽ tự nhiên, thường tình, hợp đạo lý, hợp lòng dân.

Nhân dân, dân tộc Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi chính Người đã khai sáng, mở đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam đơm hoa kết trái, bởi Người đã trọn đời dâng hiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và bởi Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông, đất nước ta. Tình cảm, tình yêu, sự trân quý, ngưỡng mộ đó là hoàn toàn xuất phát từ trái tim muôn dân đất Việt, chứ không phải là sự gò ép gượng gạo, giả tạo.

Từ những luận cứ trên, có thể khẳng định, luận điệu Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ và không có cơ sở khoa học. Đây là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn nhằm bôi nhọ, làm lu mờ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận những đóng góp, cống hiến vĩ đại của Người đối với Đảng, nhân dân, dân tộc và cách mạng Việt Nam.

 

Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể là “Đảng toàn dân”

 Chống phá Đảng, Nhà nước ta nói chung, xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng nói riêng là mục tiêu không thay đổi của các thế lực thù địch. Đặc biệt gần đây, trên không gian mạng xuất hiện không ít luận điệu xuyên tạc cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng toàn dân”, từ đó phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng. Vấn đề này cần được nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”1. Đây là cách diễn đạt hoàn toàn đúng đắn, phù hợp về bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện mới.

Tuy nhiên, với mưu đồ thâm độc, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng vấn đề này, thường xuyên tung ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc về bản chất của Đảng. Họ cho rằng, nếu “ôm đồm” như vậy, Đảng không còn là Đảng của giai cấp công nhân nữa, mà là “Đảng toàn dân”. Để minh chứng cho luận điệu này, chúng còn lấy số liệu thực tế về tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân không cao, trong khi số lượng đảng viên của Đảng xuất thân từ nông dân, trí thức cao hơn để phụ họa. Thâm hiểm hơn, lợi dụng việc Đảng ta chủ trương kết nạp những quần chúng ưu tú là chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng, để suy diễn, xuyên tạc cho rằng: bản chất giai cấp công nhân của Đảng sẽ bị phai nhạt, Đảng Cộng sản đang dần thành “Đảng toàn dân”. Đồng thời, hô hào “Đảng toàn dân” thì mới “chính danh” cầm quyền, “đại diện cho toàn dân tộc”(!).

Có thể khẳng định, những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái, phản động, không ngoài dụng ý xấu là nhằm phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó đi đến xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, làm rõ bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Lý luận Mác - Lênin đã chỉ rõ, bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản là tổng hòa các mặt, các yếu tố thuộc tính, mối liên hệ tất yếu bên trong quy định sự vận động, phát triển của đảng, được biểu hiện thông qua các tính chất, cách tổ chức và hoạt động của đảng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân - giai cấp mà bản chất và lợi ích của nó gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản chất giai cấp công nhân của đảng thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng; ở cương lĩnh, đường lối, nền tảng tư tưởng, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; ở phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; mối quan hệ gắn bó giữa đảng với nhân dân và giải quyết vấn đề dân tộc với đoàn kết quốc tế; do đó, về mặt nhận thức, không thể lẫn lộn đảng với toàn bộ giai cấp, với toàn thể nhân dân và dân tộc. Điều đó cũng được V.I.Lênin khẳng định “... không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp”2. Trên thực tế, Đảng Cộng sản được tổ chức chặt chẽ, khác với các tổ chức khác của giai cấp công nhân, là tổ chức của những người cách mạng, lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp. Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đại hội II của Đảng khẳng định: “Đảng Lao động Việt Nam là đội tiền phong và bộ tham mưu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhưng về thực chất, nó vẫn là một chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam”3.

Ở Việt Nam, xuất phát từ đặc điểm đất nước và điều kiện của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc nên Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Điều này làm cho bản chất giai cấp công nhân của Đảng thống nhất biện chứng với tính nhân dân và tính dân tộc. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã tiếp tục “Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc. Cũng từ đó nhân dân lao động và cả dân tộc đã thừa nhận Đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản và thiết thân của mình”4. Đến nay, cách diễn đạt bản chất của Đảng đã được bổ sung đầy đủ, sâu sắc hơn như ở đầu bài viết đã nêu. Diễn đạt như vậy không hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của Đảng, cũng không trượt sang quan điểm “đảng toàn dân”, “đảng phi giai cấp”, mà diễn giải bản chất giai cấp công nhân của Đảng sâu sắc, biện chứng hơn; phản ánh sự thống nhất về lợi ích, mục tiêu, lý tưởng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, diễn đạt này không trái với học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, bởi: “... giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”5. Khi đã có chính quyền, giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính là đại diện của dân tộc, là chủ nhân của đất nước, thì Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân đương nhiên là đội tiên phong của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.

Bên cạnh đó, Ðảng Cộng sản Việt Nam vốn dĩ ra đời, phát triển ở nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu nên ban đầu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, số lượng còn ít so với các thành phần xã hội khác như giai cấp nông dân,... song luôn chứng tỏ tinh thần cách mạng triệt để, tính tổ chức kỷ luật cao, đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, đủ khả năng lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, tuy số lượng đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ không cao trong Đảng, song có vai trò rất quan trọng. Đại hội IV của Đảng đã khẳng định: “Thành phần xã hội xuất thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên tuy không phải là yếu tố duy nhất hoặc là yếu tố chủ yếu, nhưng rất quan trọng, vì nó góp phần bảo đảm tính chất giai cấp công nhân của Đảng, có ảnh hưởng không nhỏ đến sức chiến đấu, đến sự trong sạch về tư tưởng và tổ chức của Đảng,...”6. Đây là sự vận dụng, phát triển sáng tạo vấn đề thành phần giai cấp trong Đảng ở nước ta. Đồng thời, phù hợp với chỉ dẫn của V.I.Lênin về các tiêu chí đặc biệt quan trọng để xem xét, đánh giá một đảng có thực sự là đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân, một đảng Mác xít chân chính hay không: “Dĩ nhiên, đại bộ phận Công đảng là công nhân. Nhưng nó có thực sự là một chính đảng của công nhân hay không, điều đó không phải chỉ phụ thuộc vào chỗ đảng đó có bao gồm công nhân hay không, mà cũng còn phụ thuộc vào chỗ ai lãnh đạo nó, và ở tính chất của hành động và của sách lược chính trị của đảng đó ra sao nữa”7. Như vậy, số lượng đảng viên là công nhân tuy có vai trò quan trọng song không quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng mà được quyết định bởi: Ai là người lãnh đạo của Đảng; chất lượng của đội ngũ cán bộ chiến lược của Đảng ra sao; đường lối lãnh đạo và hành động của Đảng có đúng đắn hay không. Từ những phân tích trên cho thấy, luận điệu về cái gọi là “Đảng toàn dân” mà các thế lực thù địch rêu rao, gán ghép cho Đảng Cộng sản Việt Nam đều xuất phát từ những ý kiến chủ quan và không có cơ sở khoa học. Điều đó càng lộ rõ mưu đồ của họ nhằm phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng; từ đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm phai nhạt vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, cũng như mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng.

Thực tiễn đã cho thấy, cùng với lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Dù trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng không hoài nghi, dao động, xa rời mục tiêu, lý tưởng, luôn kiên định lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đã được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”8.

Và để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, năng lực hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả. Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thường xuyên bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với yêu cầu, thực tiễn phát triển đất nước, nguyện vọng của nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội. Đồng thời, Đảng không ngừng củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; giữ vững, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo quan điểm, lập trường, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung, thực sự là tấm gương về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những sâu mọt, làm trong sạch bộ máy lãnh đạo.

Mặt khác, Đảng, Nhà nước ta luôn củng cố quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chăm lo đời sống, đại diện và bảo vệ lợi ích của toàn dân tộc; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chú trọng hoàn thiện thiết chế dân chủ hóa đời sống xã hội, thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở; thường xuyên đổi mới, hoàn thiện chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện mà Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”9. Xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức liêm chính, thực sự là công bộc của nhân dân.

Cùng với đó, Đảng, Nhà nước ta luôn kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đẩy mạnh công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế thông qua đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; mở rộng hợp tác với các nước, tổ chức quốc tế, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên đã khẳng định, Ðảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, mãi xứng đáng là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc; lãnh đạo đất nước ngày càng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thực tế đó là minh chứng rõ ràng nhất bác bỏ luận điểm xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng mà các thế lực phản động, thù địch vẫn rêu rao, xuyên tạc./.

 

Thấm nhuần Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong Quân đội

 

Trước khi đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bản Di chúc thiêng liêng, kết tinh trong đó tinh hoa tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người; thể hiện ý chí, niềm tin, trách nhiệm lớn lao đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Di chúc còn là công trình lý luận có giá trị to lớn về xây dựng Đảng, nhất là việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Vì vậy, học tập và làm theo Di chúc của Người, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội hiện nay là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc. 

“Trước hết nói về Đảng” là nội dung đầu tiên được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong bản Di chúc thể hiện tâm nguyện sâu sắc, cốt yếu nhất của Bác về công tác xây dựng Đảng. Người căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”1 và chỉ rõ: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, coi đó là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Bởi người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Đạo đức cách mạng mà Người đề cập “... không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”2. Đạo đức cách mạng được hình thành từ những phẩm chất cơ bản là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.  

Quán triệt, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội đã gương mẫu đi đầu trong thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) và Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác xây dựng Đảng. Đáng chú ý là, Quân ủy Trung ương đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc, xác định nhiều chủ trương, giải pháp tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Chỉ thị số 87-CT/QUTW, ngày 08/7/2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Đảng bộ Quân đội và toàn quân”, v.v. Đồng thời, chỉ đạo cụ thể hóa và triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương và Quân ủy Trung ương về những điều đảng viên không được làm; về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên vào chương trình hành động, kế hoạch công tác của các cấp ủy, tổ chức đảng và bản cam kết phấn đấu hằng năm của cán bộ, đảng viên. Thường xuyên giữ gìn và phát huy phẩm chất đạo đức của người quân nhân cách mạng - di sản quý báu “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Quá trình triển khai, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã thực hiện đồng bộ với quyết tâm chính trị cao và đạt được kết quả quan trọng, góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng bộ Quân đội.

Tuy nhiên, qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình, đối chiếu với 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) vẫn còn những khuyết điểm, hạn chế. Một số cán bộ, đảng viên còn có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, thiếu trách nhiệm, ngại nghiên cứu học tập lý luận. Vẫn còn cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chưa quyết liệt thực hiện các giải pháp đột phá để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, khắc phục khâu yếu, mặt yếu trong cơ quan, đơn vị. Đâu đó vẫn còn có cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm quy định, chỉ thị của Trung ương về tăng cường kỷ luật, kỷ cương, thực hành tiết kiệm, phòng, chống lãng phí, tiêu cực và những điều đảng viên không được làm. Cá biệt, còn có cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội.

Để không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Quân đội theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau.

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên Quân đội về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc rèn luyện đạo đức cách mạng theo Di chúc của Bác. Thực tiễn cho thấy, nguyên nhân sâu xa, chủ yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do thiếu tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống; sa vào chủ nghĩa cá nhân, bị cám dỗ, mua chuộc bởi lợi ích vật chất. Trong khi đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nhất là giáo dục nhận thức về đạo đức cách mạng ở một số cơ quan, đơn vị chưa được coi trọng; nội dung, phương pháp tiến hành còn chậm đổi mới, hiệu quả chưa cao, v.v. Tình hình đó đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội cần tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục để đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức ngày càng sâu sắc hơn nội dung cơ bản, ý nghĩa, giá trị to lớn của bản Di chúc của Người đối với công tác xây dựng Đảng nói chung, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng. Thông qua đó, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng, định hướng xây dựng các cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ. Đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn tích cực, chủ động, tự giác học tập, làm theo và thực hành đạo đức cách mạng theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cũng như những chỉ dẫn trong Di chúc thiêng liêng của Người ở mọi lúc, mọi nơi gắn với cương vị, chức trách, nhiệm vụ.

Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng các tổ chức vững mạnh ở cơ quan, đơn vị; duy trì nền nếp công tác kiểm tra, giám sát. Trong bối cảnh hiện nay, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, các tổ chức cơ sở đảng cần tiếp tục quán triệt, thực hiện hiệu quả những nội dung, nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng Đảng đã được các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Trung ương chỉ ra. Tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, “mẫu mực, tiêu biểu”; gắn xây dựng cấp ủy với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì, đội ngũ cán bộ với đội ngũ đảng viên với phương châm: “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách”3. Đồng thời, chú trọng lãnh đạo xây dựng các tổ chức ở cơ quan, đơn vị vững mạnh; củng cố mối quan hệ mật thiết với quần chúng. Từng cấp ủy, tổ chức đảng phải có quy chế để tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân tham gia kiểm tra, giám sát, phê bình, góp ý hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị mình.

Bên cạnh đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp duy trì nền nếp công tác kiểm tra, giám sát; thực hiện nghiêm nguyên tắc cấp ủy cấp trên kiểm tra, giám sát cấp ủy cấp dưới với nhiều hình thức, như: kiểm tra chéo, kiểm tra định kỳ, đột xuất, v.v. Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và thực hiện nhiệm vụ. Quá trình kiểm tra, giám sát tổ chức đảng cấp dưới trực tiếp gắn với kiểm tra, giám sát cấp ủy viên, cán bộ chủ trì về thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của Quân đội; việc chấp hành nguyên tắc tổ chức của Đảng, giữ gìn phẩm chất đạo đức và thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, kịp thời, phát hiện ngăn chặn và xử lý nghiêm vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất, đạo đức, lối sống, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tiêu chuẩn, góp phần giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng trong Đảng bộ Quân đội.

Ba là, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong học tập, rèn luyện, công tác theo cương vị, chức trách được giao. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “... cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”4. Thực hiện lời dạy của Người, Đảng ta yêu cầu: “Người đứng đầu các cấp phải thực sự mẫu mực, nói đi đôi với làm, nêu cao tinh thần trách nhiệm,...”5. Vì vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp trong Quân đội tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”, Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị về “Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới” gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị; nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và hành động. Thực hiện nói đi đôi với làm, tư tưởng gắn với hành động, lý luận gắn với thực tiễn, góp phần xây dựng hình ảnh, uy tín, đạo đức người cán bộ, đảng viên Quân đội thời kỳ mới.

Bốn là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trước những tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch, một số cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ, sĩ quan cao cấp suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ luật Đảng, kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước. Để ngăn ngừa và khắc phục hiện tượng này, các cơ quan chức năng cần tiếp tục nghiên cứu, thực hiện tốt chức năng tham mưu để bổ sung, hoàn thiện cơ chế, quy chế kiểm soát quyền lực theo nguyên tắc: mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ, quyền hạn ràng buộc với trách nhiệm. Chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ; xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân vi phạm. Thường xuyên rà soát, sàng lọc, không để những cán bộ có kết quả hoàn thành nhiệm vụ thấp, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống vào cấp ủy các cấp. Đồng thời, thực hiện nghiêm quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự, không để kẻ địch, phần tử xấu lợi dụng, mua chuộc, cài cắm, móc nối, lôi kéo đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội.

Thời gian đã lùi xa 55 năm, song Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị, là tài sản vô cùng quý báu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Khắc ghi những lời căn dặn của Người, đội ngũ cán bộ, đảng viên Quân đội nguyện tuyệt đối trung thành, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.

 

 

"Gắn nhà trường với đơn vị"

 Những năm qua Học viện Phòng không-Không quân (PK-KQ) đã không ngừng đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, trong đó đặc biệt coi trọng phương châm: “Gắn nhà trường với đơn vị” để các đối tượng học viên hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập, rèn luyện tại Học viện, nhanh chóng tiếp cận và thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ sau khi ra trường” - Đó là chia sẻ của Đại tá, TS Nguyễn Hữu Thiết - Phó Giám đốc Học viện PK-KQ về phương châm đào tạo chủ yếu của nhà trường hiện nay.

 Quán triệt nội dung chỉ đạo của Bộ Quốc phòng về chương trình đào tạo đối với các nhà trường Quân đội phải được điều chỉnh theo hướng giảm nội dung lý thuyết, tăng thực hành nhằm trang bị kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn cho học viên. Học viện đã nghiên cứu, bám sát nội dung, chương trình, phương pháp huấn luyện tại các đơn vị trong toàn quân để vận dụng vào thực tế công tác giảng dạy và học tập. Cấp ủy, chỉ huy các cấp làm tốt công tác giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, giảng viên, học viên về vai trò và tầm quan trọng của việc kết hợp nhà trường với đơn vị, đây là cơ sở để phương châm nhanh chóng được quán triệt, triển khai, thực hiện ngày càng đi vào chiều sâu, mang lại hiệu quả thiết thực.

Thực hành kéo pháo vào trận địa. Ảnh: HUY BÌNH

Trong công tác xây dựng kế hoạch, biên soạn giáo trình tài liệu, Phòng Đào tạo đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, khoa giáo viên, đơn vị quản lý học viên tổ chức thiết kế nội dung đào tạo vừa phù hợp với chương trình khung của Bộ GD-ĐT, Bộ Quốc phòng, vừa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn mà các đơn vị đang cần, mạnh dạn cắt bỏ những nội dung không thực sự cần thiết, còn nặng về lý thuyết; tăng thời gian huấn luyện thực hành, kỹ năng hoạt động thực tiễn. Biên soạn giáo trình, tài liệu các môn học luôn bám sát với nội dung huấn luyện tại các đơn vị, kịp thời cập nhật thông tin mới, phù hợp với xu thế phát triển của Quân chủng và Quân đội hiện nay.

Thực hiện tốt công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch đưa cán bộ, giảng viên đi thực tế chức vụ từ cấp phân đội đến cấp trung (lữ), sư đoàn. Thời gian thực tế tại đơn vị ít nhất là một năm với các chức danh phù hợp để bồi dưỡng thêm kiến thức thực tiễn. Các khoa giáo viên đã tính toán cụ thể đề nghị giảng viên (bảo đảm mỗi năm có từ 5-10% đồng chí) đi thực tế chức vụ tại các đơn vị làm nhiệm vụ chiến đấu. Tổ chức nhiều đoàn cán bộ, giảng viên, học viên đi tập huấn, tham quan, khảo sát thực tế về chương trình, nội dung, phương pháp huấn luyện, thẩm định chất lượng sĩ quan được đào tạo từ Học viện tại các đơn vị để làm cơ sở xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện và phát triển nội dung chương trình đào tạo. Tích cực đề nghị cấp trên lựa chọn và luân chuyển các đồng chí cán bộ đang công tác tại đơn vị chiến đấu có năng lực, nhiều kinh nghiệm trong công tác chỉ huy, quản lý đơn vị về làm giảng viên tại Học viện. 

Đối với học viên, đã làm tốt công tác giáo dục xây dựng động cơ thái độ học tập, rèn luyện đúng đắn, chấp hành nghiêm nội dung và phương pháp tổ chức huấn luyện. Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch thực tập cán bộ kiêm chức đối với tất cả các đối tượng theo chức danh đào tạo để học viên làm quen với công tác chỉ huy, quản lý, điều hành đơn vị. Phát huy tính năng động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện để trau dồi kiến thức, kỹ năng, làm hành trang cần thiết cho quá trình công tác sau này. Tổ chức cho 100% học viên thực tập tại các đơn vị chiến đấu và thực hành diễn tập cuối khóa phù hợp với chuyên ngành đào tạo nhằm bổ sung, hệ thống kiến thức, trang bị năng lực thực hành. Thời gian thực tập từ 6 - 8 tuần, thời gian diễn tập từ 7 - 10 ngày. Trong diễn tập có thể tổ chức bắn đạn thật để rèn luyện bản lĩnh, phương pháp, tác phong chỉ huy chiến đấu cho học viên. 

Từng bước tăng cường, bảo đảm vũ khí, khí tài trang bị, vật chất, giáo trình, tài liệu, hiện đại hóa các điều kiện dạy và học thực hành trên khí tài, cơ sở vật chất hiện có của nhà trường. Tích cực đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến cải tiến mô hình học cụ, củng cố thao trường bãi tập, mạnh dạn đầu tư mua sắm các trang thiết bị dạy học hiện đại như: hệ thống máy tính, máy chiếu, phát triển mạnh mẽ công nghệ mô phỏng, xây dựng thêm giảng đường chuyên dùng các môn chuyên ngành. Nâng cấp, củng cố hệ thống thư viện, các phòng thí nghiệm, bãi tập dã ngoại và xây dựng hệ thống phim huấn luyện sát với thực tiễn chiến đấu.

Trong giai đoạn hiện nay, phương châm gắn nhà trường với đơn vị đã được phát triển cao hơn về chất và giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong công tác GD-ĐT góp phần quan trọng vào công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Quân chủng và Quân đội trong giai đoạn cách mạng mới.

Thi đua Quyết thắng - động lực để Bộ đội Phòng không-Không quân bảo vệ vững chắc vùng trời quốc gia

 Thấm nhuần lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”, 5 năm qua (2014-2019), Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân chủng luôn quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả Phong trào Thi đua Quyết thắng. Ngày nay, trước yêu cầu xây dựng Quân chủng PK-KQ “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, cần tiếp tục đổi mới, lan tỏa sâu rộng Phong trào Thi đua Quyết thắng, tạo động lực tinh thần mạnh mẽ cho toàn Quân chủng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vững chắc bầu trời Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thi đua Quyết thắng - động lực để Bộ đội Phòng không-Không quân bảo vệ vững chắc vùng trời quốc gia
Trung tướng Lâm Quang Đại - Chính ủy Quân chủng PK-KQ
Quân chủng diễn ra đúng thời điểm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là dịp để Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng PK-KQ đánh giá, rút kinh nghiệm công tác lãnh đạo, chỉ đạo phong trào thi đua và công tác thi đua, khen thưởng những năm qua; từ đó đề ra chủ trương, giải pháp tiếp tục đẩy mạnh Phong trào Thi đua Quyết thắng, tạo động lực mới để Phong trào Thi đua Quyết thắng trong toàn Quân chủng lan tỏa và phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
Thi đua Quyết thắng - động lực để Bộ đội Phòng không-Không quân bảo vệ vững chắc vùng trời quốc gia
Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân chủng tặng hoa, chúc mừng các kíp chiến đấu 
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tại Diễn tập bắn đạn thật các lực lượng phòng không năm 2017. 
Ảnh: HẢI HẠ


Thấm nhuần lời dạy của Bác và quán triệt sâu sắc các chỉ thị, hướng dẫn của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác thi đua, khen thưởng; 5 năm qua (2014-2019), Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên và người chỉ huy các cấp trong Quân chủng luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ Phong trào Thi đua Quyết thắng trong các cơ quan, đơn vị; nhờ đó, Phong trào Thi đua Quyết thắng đã có bước phát triển mới, đạt được hiệu quả thiết thực, kịp thời cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ phấn đấu vươn lên; góp phần quan trọng trong xây dựng Quân chủng vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Phong trào Thi đua Quyết thắng luôn hướng bộ đội vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, tập trung xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức - điều kiện tiên quyết để Quân chủng hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc. Trước hết là thực hiện tốt công tác giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; triển khai toàn diện, đúng trọng tâm Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân chủng lần thứ IX; Nghị quyết Trung ương 4, (Khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/ TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị 87- CT/QUTW của Thường vụ QUTW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”.

Thi đua Quyết thắng - động lực để Bộ đội Phòng không-Không quân bảo vệ vững chắc vùng trời quốc gia
Huấn luyện đổ bộ đường không. Ảnh: CTV

Quân chủng đã tổ chức phát động nhiều đợt thi đua đột kích như: “Tuổi trẻ Quân chủng Phòng không - Không quân đoàn kết, xung kích, sáng tạo bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, “Mừng Đảng, mừng Xuân, ra quân Quyết thắng”, “Viết tiếp chiến công, hiệp đồng quyết thắng”… Mục đích, nội dung các phong trào đều hướng hoạt động của bộ đội vào nhiệm vụ quản lý và bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc. Cùng với đó, triển khai, thực hiện các phong trào thi đua: “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”; tổ chức hàng nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ về các địa phương giúp nhân dân xây dựng nông thôn mới. Thực hiện tốt phong trào “Vì sức khỏe cộng đồng”, với nhiều đợt hiến máu nhân đạo ở các cơ quan, đơn vị, nhà trường; xây dựng trạm xá quân - dân y kết hợp, khám chữa bệnh và cấp, phát thuốc miễn phí cho nhân dân. Với phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” và chính sách hậu phương Quân đội, toàn Quân chủng đã vận động quyên góp hàng chục tỷ đồng xây dựng Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, Quỹ “Vì người nghèo”; xây dựng hàng trăm “Nhà tình nghĩa”, “Nhà đồng đội” tặng hàng nghìn suất quà cho các đối tượng chính sách, các cháu học sinh học giỏi có hoàn cảnh khó khăn. Giúp nhân dân phòng, chống bão lụt, tìm kiếm cứu nạn, chuyển hàng cứu trợ; cứu hộ, cứu nạn nhân dân ở những nơi đặc biệt khó khăn, bị lũ, lụt chia cắt, cô lập… sẵn sàng cấp cứu cán bộ, chiến sĩ, ngư dân đang ngày đêm bám biển, giữ đảo... xây dựng lòng tin để bà con nhân dân vươn khơi, bám biển; đồng đội yên tâm chắc tay súng bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Điển hình, năm 2014, Quân chủng là lực lượng nòng cốt tham gia tìm kiếm, cứu nạn máy bay MH-370 bị mất tích của hãng Hàng không Malaysia. Những việc làm đó thể hiện lòng trung thành của Quân chủng PK-KQ với Đảng, Tổ quốc, nhân dân; để lại tình cảm sâu nặng với bạn bè quốc tế; ngày càng tô thắm thêm hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, “Người chiến sĩ PK-KQ ưu tú”. 

Thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện và giáo dục, đào tạo, Quân chủng đã phát động nhiều phong trào: “Luyện giỏi, rèn nghiêm, ra quân đánh thắng”, “Cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc”, “Không để Tổ quốc bị bất ngờ vì các tình huống trên không”; “Dạy tốt, học tốt, quản lý và nghiên cứu khoa học tốt”, “Tiến độ nhanh, chất lượng cao, an toàn tuyệt đối”. Quân chủng đã chủ động nắm và dự báo chính xác tình hình trên không, trên biển, kịp thời bổ sung, hoàn chỉnh các phương án, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu; hiệp đồng quân binh chủng; bảo vệ các hoạt động thăm dò, khảo sát tài nguyên và các hoạt động của ngư dân trên biển, hoàn thành tốt các nhiệm vụ diễn tập... được Bộ Quốc phòng đánh giá cao. 

Quân chủng tham mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng xác định địa bàn, khu vực trọng điểm phòng không; điều chỉnh, bố trí lại thế trận phòng không; chỉ đạo công tác phòng không lục quân, phòng không nhân dân, không quân toàn quân; đổi mới phương pháp huấn luyện nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng phòng không, không quân, không quân Hải quân, phòng không lục quân, phòng không nhân dân. Công tác xây dựng tổ chức lực lượng chặt chẽ, hiệu quả; công tác kế hoạch và đầu tư hoạt động đúng quy chế; công tác kỹ thuật có nhiều chuyển biến tiến bộ, với nhiều phong trào thiết thực, như: “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật”, “Giữ tốt, dùng bền, an toàn, tiết kiệm”, “Nhà xe thanh niên”; “Nhà kho kiểu mẫu”, “Ngày công tác kỹ thuật thanh niên tự quản”... Nhờ đó, hệ số kỹ thuật của máy bay, tên lửa, ra đa; súng, pháo phòng không đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch từ 1,6% - 2%. 

Tiếp tục thực hiện tốt Phong trào Thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy” với “Một tập trung, ba khâu đột phá” và “Xây dựng doanh trại chính quy, xanh, sạch, đẹp”, “Xây dựng đơn vị nuôi quân giỏi, quản lý quân nhu tốt” với các tiêu chí: “Đơn vị quản lý tài chính tốt”, “Đơn vị Quân y 5 tốt”, “Bếp nuôi quân giỏi, quản lý tốt”… kịp thời phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, nhất là các nhiệm vụ đột xuất: Tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, hiệp đồng phòng, chống bạo loạn... 

Năm 2019 và những năm tiếp theo, Quân chủng PK-KQ tiếp tục được Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quan tâm, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa, chấn chỉnh tổ chức lực lượng; tiếp nhận, khai thác, làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật mới, cải tiến. Nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, quản lý vùng trời, quản lý điều hành bay… yêu cầu ngày càng cao, tính chất đa dạng, phức tạp, khẩn trương nhất là trên hướng biển, đảo. Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; với Phong trào Thi đua Quyết thắng, điều đầu tiên phải giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với công tác; tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của Đảng ủy Quân chủng và các tổ chức Đảng đối với đơn vị; nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên và Hội đồng (Tổ) Thi đua - Khen thưởng, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ các cấp trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thi đua - khen thưởng và Phong trào Thi đua Quyết thắng. 

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho bộ đội nhận thức sâu sắc vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác thi đua - khen thưởng và Phong trào Thi đua Quyết thắng, từ đó tự giác tích cực thực hiện thắng lợi các nội dung, mục tiêu, chỉ tiêu thi đua; đồng thời không ngừng đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, tổ chức phong trào thi đua sát thực, hiệu quả, tránh phô trương hình thức, kiên quyết khắc phục những biểu hiện lệch lạc và bệnh thành tích trong thi đua. 

Thực hiện tốt việc phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng điển hình tiên tiến trong Phong trào Thi đua Quyết thắng; kịp thời cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ, gương “người tốt, việc tốt”, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, bảo đảm cho phong trào đi vào cuộc sống, thực sự trở thành động lực để cán bộ, chiến sĩ phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. 

Kết hợp chặt chẽ giữa thi đua với khen thưởng; đưa công tác khen thưởng vào nền nếp, bảo đảm công khai, dân chủ, công bằng, chính xác; chú trọng khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ: Huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, phòng, chống lụt, bão, cứu hộ, cứu nạn... khắc phục mọi biểu hiện khen thưởng không đúng thành tích, không đúng người, đúng việc, trùng khen, tính giáo dục, thuyết phục thấp và những biểu hiện lệch lạc trong thi đua, khen thưởng. 

Phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, ngành, lực lượng và các tổ chức trong hoạt động thi đua, gắn Phong trào Thi đua Quyết thắng thường xuyên của đơn vị với cuộc vận động, các phong trào thi đua của ngành, các cấp, tạo sức mạnh tổng hợp hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ, quản lý và bảo vệ vững chắc bầu trời Tổ quốc.

Giá trị to lớn, tầm nhìn vượt thời đại trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Di chúc thiêng liêng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trước lúc đi xa là “Bảo vật quốc gia”; trong đó, thể hiện tình cảm chân thực, trí tuệ sâu sắc, đạo đức cao cả, tâm hồn rộng mở, nhân ái và khoan dung, cùng với tầm nhìn vượt thời đại của Người.

1. Di chúc được Chủ tịch Hồ Chí Minh khiêm nhường gọi là “bức thư” - “mấy lời để lại cho đồng bào, đồng chí” vào lúc Người 75 tuổi. Suốt 04 năm liền, từ 1965 đến 1969, năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng từ ngày 10 đến 15 tháng 5 và từ 9 giờ đến 10 giờ mỗi buổi sáng, Người thanh thản đọc lại, suy nghĩ và sửa chữa. Bốn tháng trước lúc đi xa, Người còn đọc và chữa lần cuối cùng. Có thể nói, 1.000 từ trong bản Di chúc không chỉ là một tổng kết lớn về sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và Nhân dân ta, mà còn là những trù tính chiến lược sáng suốt, những căn dặn ân cần, chu đáo của Người đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về những việc phải làm sau ngày cách mạng toàn thắng và miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Người ký thác niềm tin và hy vọng vào tất cả chúng ta về tương lai tươi sáng của dân tộc, thực hiện hoài bão và khát vọng phát triển Việt Nam giàu mạnh, văn minh, hiện đại. Tâm nguyện ấy của Người bắt nguồn từ một tư tưởng lớn: yêu nước, yêu dân, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân.

Đã 55 năm kể từ ngày Người đi xa và cũng là hơn nửa thế kỷ chúng ta thực hiện Di chúc của Người. Những giá trị to lớn trong Di chúc đang được chúng ta thấm nhuần và nỗ lực thực hiện. Tầm nhìn vượt thời đại trong Di chúc của Người đang tiếp tục khai sáng tâm trí, thúc đẩy chúng ta hành động sao cho xứng đáng với dân tộc anh hùng, Đảng quang vinh và Bác Hồ vĩ đại, vững bước đi lên trên con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dưới ngọn cờ dẫn dắt của tư tưởng Hồ Chí Minh.

2. Cùng với những tác phẩm tiêu biểu khác, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành “Bảo vật quốc gia”1. Đó là Quốc bảo đồng thời là Pháp bảo của muôn đời. Tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh thể hiện và kết tinh thành những giá trị to lớn trong Di chúc, có thể khái quát vào mấy điểm cốt yếu sau đây:

Thứ nhất, Di chúc khẳng định niềm tin khoa học sâu sắc và tinh thần cách mạng kiên định của toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ở cương vị người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khẳng định của Người về tính tất thắng của cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập thống nhất Tổ quốc có sức cổ vũ, động viên to lớn đối với đồng bào, chiến sĩ cả nước và bầu bạn quốc tế. Di chúc chỉ rõ, cuộc chiến đấu của chúng ta còn có thể kéo dài (mà Người hình dung “mấy năm nữa” như một điều tiên tri, dự báo). Đối mặt với thế lực đế quốc hùng mạnh, giàu có nhưng gây tội ác chiến tranh tàn bạo, phi nhân tính, nhân dân ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người.

Song, với bản lĩnh, tầm nhìn và một niềm tin mãnh liệt, Người khẳng  định: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”2. Nhìn lại thời điểm Người viết Di chúc (1965 - 1969), đó là lúc cuộc chiến cam go, ác liệt, đế quốc Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam, tiếp sức cho chế độ ngụy quyền; đồng thời, gây ra chiến tranh phá hoại miền Bắc tàn bạo đến mức hủy diệt; chính trường quốc tế và các nước, kể cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em đang diễn biến phức tạp với những bất đồng ngày một nghiêm trọng,… mới thấy hết sự bình tĩnh, dũng cảm, mưu lược, đầy bản lĩnh và dự cảm sáng suốt của Hồ Chí Minh. Ở bản viết ngày 10/5/1969, Người khẳng định còn mạnh mẽ hơn: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”3. Có thể ví như giữa sóng to gió lớn, bàn tay chèo lái của người thuyền trưởng quan trọng biết chừng nào tới cả phong trào, sự nghiệp. Người gieo niềm tin vào lòng dân, trao gửi vào dân sức mạnh vô giá để chiến đấu và chiến thắng.

Thứ hai, Di chúc khẳng định tầm vóc của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam và cống hiến lịch sử của dân tộc ta đối với sự nghiệp cách mạng thế giới. Tầm vóc lớn lao ấy đồng thời cũng là vinh dự lớn của nước ta, là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc. Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đã đưa Việt Nam đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong chống đế quốc, thực dân, lại một lần nữa minh chứng cho niềm tin và sự khẳng định chiến thắng của Người trong Di chúc. Đánh bại cả chủ nghĩa thực dân cũ (Pháp) lẫn chủ nghĩa thực dân mới (Mỹ) làm thức tỉnh các dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh cho hòa bình và công lý, cho chân lý và đạo lý lớn nhất của cả loài người: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong thế kỷ XX in đậm dấu ấn thiên tài tư tưởng và tổ chức của Hồ Chí Minh và Đảng ta.

Thứ ba, Di chúc tập trung và làm nổi bật những điều hệ trọng cần thực hiện sau ngày cách mạng toàn thắng. Đó là những trù tính chiến lược về đường lối, chủ trương, chính sách mà Người căn dặn Đảng và Nhân dân ta khi cách mạng chuyển sang một thời kỳ mới. Trong Di chúc, Người đặc biệt nhấn mạnh: “Trước hết nói về Đảng” từ Trung ương đến các chi bộ phải “giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình”4. “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”5. Chỉ trong một đoạn ngắn nói về Đảng, Người bốn lần nhắc đến chữ “thật”, đó là lời dạy thiêng liêng, mãi còn vẹn nguyên giá trị và tính thời sự. Người còn dặn, trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố phát triển sự đoàn kết, thống nhất; mỗi đảng viên, đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Người tin tưởng rằng, “làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy, chúng ta cũng nhất định thắng lợi”6. Đảng ta đang ra sức thực hiện lời dạy của Người, coi xây dựng Đảng là then chốt, bởi Đảng và sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi.

Về vấn đề con người, trong Di chúc, Hồ Chí Minh quan tâm tới mọi đối tượng con người, mọi cảnh đời và số phận, dường như không sót một ai, từ em nhỏ đến người lớn, từ đồng bào nông dân đã bao đời khổ cực mà vẫn một lòng son sắt theo Đảng và cách mạng cho đến thanh niên, phụ nữ. Người căn dặn: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”7. Đặc biệt, Người có ý miễn thuế nông nghiệp một năm cho bà con nông dân ngay sau ngày thắng lợi, để bà con hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất. Đó là an dân để quốc thái bền vững.

Chăm lo dân sinh là sự chăm lo đặc biệt của Người, không chỉ vì thương dân và nêu cao trách nhiệm với dân mà còn là lòng nhân ái, đức khoan dung, vị tha thấm đậm chất nhân văn của Hồ Chí Minh. Người không chỉ phấn đấu cho độc lập tự do mà còn chăm lo hạnh phúc cho dân từ những điều cụ thể, bình dị nhất. Người từng nói: “Thiên thời, địa lợi là quan trọng nhưng nhân hòa là quan trọng nhất”.

Thứ tư, Di chúc còn đề cập tới phong trào cộng sản và công nhân quốc tế với nỗi đau lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự bất hòa giữa các đảng anh em. Đây là trách nhiệm cao cả, hết lòng tận tụy của Người đối với quốc tế cũng như đối với dân tộc. Người căn dặn: “Về phong trào cộng sản thế giới - Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em! Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình. Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”8. Lời tâm sự bộc bạch và nỗi đau nhân tình thế sự của Người làm xúc động muôn triệu tấm lòng. Lại thêm một lý do nữa để hiểu về Bác: Người cộng sản đích thực, nhà nhân văn chủ nghĩa hiện đại.

Thứ năm, đạo đức cao cả toát lên từ lời Bác dặn “Về việc riêng”. Một đời tiết kiệm để lo cho dân, vì dân, để nêu gương, nay nói về việc riêng - việc tang lễ cho mình, Người yêu cầu đừng có điếu phúng linh đình, lãng phí ngày giờ, tiền bạc của nhân dân. Người muốn nằm trong lòng đất mẹ. Đau đáu với miền Nam, Người căn dặn: “Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam”9. “Trên mộ, nên xây một cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi. Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp”10. Giản dị và thanh cao, dấn thân để hóa thân - đó là Hồ Chí Minh, “con người của mọi người”, “trái tim của muôn triệu trái tim”. Trong lòng nhân dân và nhân loại, Người là bất tử, vĩnh hằng. Đó là năm giá trị to lớn chủ yếu của Di chúc và còn bao nhiêu giá trị, ý nghĩa khác, lấp lánh như ánh sáng bởi “Đời Hồ Chí Minh trong như ánh sáng” đúng như nhận định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Những giá trị to lớn ấy, tự nó đã bao hàm cả tầm nhìn vượt thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn nữa, còn rạng ngời phong cách đặc sắc của nhà tư tưởng Mácxít hiện đại, mang cốt cách hiền triết Á Đông và đậm đà bản sắc Việt Nam. Nhà thơ Chế Lan Viên từng nói: “Người ra đi từ con sông Lam của quê hương, con sông Hồng của Tổ quốc, trải qua bốn bể năm châu, thâu thái mọi trí thức Đông Tây, kim cổ để rồi trở về, nhìn lại con sông Lam của quê hương, con sông Hồng của Tổ quốc với tầm mắt đại dương”11. “Tầm mắt đại dương ấy chính là tầm nhìn vượt thời đại” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề sau:

Một là, dự báo khoa học, vô cùng chính xác về chiến thắng của nhân dân ta, đánh bại hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.

Hai là, nhạy cảm sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Gắn liền điều đó với phẩm giá và tài năng sáng tạo, đức hy sinh và lòng dũng cảm của nhân dân ta, thấm thía và tin tưởng ở vai trò, sức mạnh của nhân dân. Tự hào bao nhiêu về sự lớn mạnh của phong trào cách mạng thì Người càng đau lòng bấy nhiêu về những bất hòa quốc tế. Trong linh cảm sâu xa của Người, đây sẽ là một hiểm họa mà cách mạng Việt Nam phải vượt qua.

Ba là, với Đảng cách mạng, người cách mạng, nhất là khi Đảng đã cầm quyền, đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là bảo đảm căn bản nhất cho thắng lợi, nên phải đặt đạo đức lên hàng đầu. Hồ Chí Minh là lãnh tụ hiếm hoi, sớm nhận ra chính trị không chỉ là quyền lực mà còn là đạo đức, như Người định nghĩa “Chính trị là đoàn kết và thanh khiết”, “Đảng là đạo đức, là văn minh”. Trong số các chính khách, lãnh tụ, dường như chỉ có Hồ Chí Minh đã nhận ra “tình huống đạo đức khi cầm quyền” và sớm cảnh báo nguy cơ tha hóa, thất bại, đổ vỡ nếu “sa vào chủ nghĩa cá nhân” - giặc nội xâm nguy hiểm nhất.

Bốn là, bày tỏ tâm nguyện, “điều mong muốn cuối cùng” mà làm hiển lộ hệ giá trị của chủ nghĩa xã hội, trở thành định nghĩa khoa học về chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Người đã nêu trong “điều mong muốn cuối cùng của mình” những giá trị căn bản nhất của hệ giá trị quốc gia mà Đảng ta đã đề cập gần đây trong Đại hội XIII.

Năm là, nếu đến Đại hội VI, năm 1986, Đảng ta mới khởi xướng đổi mới, thì hơn nửa thế kỷ trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về đổi mới trong Di chúc. Đó là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời, hư hỏng để xây dựng những cái mới mẻ, tiến bộ, tốt tươi. Đó là sự nghiệp của nhân dân, của toàn Đảng, toàn dân ta, làm cho đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

Với tầm nhìn vượt thời đại đó, Di chúc của Hồ Chí Minh thực sự là một thiết kế lý luận; đồng thời, là chương trình hành động, chiến đấu và chiến thắng, Đổi mới - Sáng tạo và Phát triển để không ngừng chăm lo đời sống hạnh phúc cho nhân dân. Có thể nói nhiều tới phong cách Hồ Chí Minh: chân thành và khiêm tốn, giản dị mà sâu sắc, nhân ái và bao dung, truyền thống và hiện đại, hàm súc, cô đọng và vô cùng tinh tế. Nhưng trong Di chúc của Người, chỉ nhấn vào hai điểm đặc sắc đó là: bản lĩnh dùng cái tối thiểu (1.000 từ) để chuyển tải một cái tối đa như một đại tổng kết lý luận - thực tiễn cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ và thắng Mỹ; “chữ” ít nhất để “nghĩa” nhiều nhất. Đó là hội tụ, kết tinh cả Tư tưởng - Đạo đức - Phong cách của một vĩ nhân.

 

Tự phê bình và phê bình trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Trong bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà đặc biệt là tự phê bình và phê bình, được Người đề cập và xác định là việc làm trước tiên sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi. Những di huấn quan trọng này của Người vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là tất yếu khách quan, quy luật tồn tại và phát triển của Đảng; là việc tuyệt đối cần thiết cho tất thảy mọi chính đảng sống và đầy sức sống; là vũ khí sắc bén nhất giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh; là thang thuốc hay nhất “trị bệnh cứu người”. Nếu sợ tự phê bình, che giấu sai lầm, khuyết điểm thì không phải là người cách mạng, không phải là đảng chân chính cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: “kiêu ngạo cộng sản” là một căn bệnh nguy hiểm, nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của đảng và chế độ. Vấn đề có tính quy luật là tất cả các đảng cách mạng, cán bộ, đảng viên tự cao tự đại, không biết cách nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, sợ sệt không dám công khai thừa nhận sai lầm, vạch rõ nguyên nhân sai lầm và phân tích hoàn cảnh sai lầm để sửa chữa, thì đảng đó sớm hay muộn sẽ hỏng. Tự phê bình và phê bình là nguyên lý căn bản giúp đảng cầm quyền tự hoàn thiện mình, trở thành một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.

Tự phê bình và phê bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn đến và gương mẫu thực hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Người chỉ rõ: khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền thì tự phê bình và phê bình trong Đảng là điểm mấu chốt vì: “Đảng ta không phải trên trời sa xuống, mà từ trong xã hội sinh ra”1; đảng viên và cán bộ cũng là người, ai cũng có tính tốt và tính xấu. Thói xấu cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Có bệnh mà giấu, không dám uống thuốc, thì bệnh ngày càng nặng. Với tinh thần đó, trong Di chúc, Người viết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”2.

Thực hiện Di chúc của Bác, trong 55 năm qua, có không ít tập thể, cá nhân làm tốt tự phê bình và phê bình, trở thành điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, được xã hội ghi nhận, tôn vinh. Song, bên cạnh đó, việc tự phê bình và phê bình trong Đảng vẫn còn hạn chế, “Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao”3.

Để tạo bước chuyển mới, tích cực hơn nữa trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chúng ta cần hiểu thấu và làm đúng tự phê bình và phê bình trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; trong đó, tập trung vào những nội dung chủ yếu sau.

Một là, nhận thức đúng mối quan hệ giữa tự phê bình và phê bình. Trong thực hiện hai nội dung này, có ý kiến cho rằng, Bác luôn đặt tự phê bình trước phê bình để nhấn mạnh tự phê bình quan trọng hơn phê bình. Nhận thức như vậy không đúng. Bởi, trong nhiều trường hợp Bác đặt phê bình trước tự phê bình, như: Bài nói tại Hội nghị Trung ương chuẩn bị cho Đại hội lần thứ II của Đảng (ngày 10/5/1950) có mục “phê bình và tự phê bình”; hay bài viết “phê bình và tự phê bình” của Bác, năm 1957, v.v. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác viết: “phê bình mình cũng như phê bình người” tức là phê bình bao hàm cả tự phê bình và phê bình. Như vậy, tự phê bình và phê bình cần được hiểu là hai mặt của một vấn đề, như “hai cánh của một con chim”. Theo Bác, nói tự phê bình trước vì chúng ta phải “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”; đồng thời, yêu cầu mọi người phải thẳng thắn phê bình: “Tự phê bình rồi lại phải phê bình người khác nữa”4.

Những luận giải của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy tự phê bình và phê bình đều quan trọng và cần thiết như nhau. Hiện nay, trong sinh hoạt, các cấp ủy, tổ chức đảng phải chú trọng, quan tâm đúng mức cả hai mặt này như lời căn dặn: “... các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”5.

Hai là, tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính dân chủ rộng rãi. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phê bình là quyền lợi nhiệm vụ của mọi người, là thực hành dân chủ. Cấp dưới có quyền phê bình cấp trên. Nhân dân có quyền phê bình cán bộ, phê bình chính quyền, Đảng và các đoàn thể”6. Dân chủ rộng rãi trong thảo luận và phê bình tức là phải đường hoàng, chính đáng: “mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh”7. Ngược lại, nếu không dân chủ thì: “... các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau. Quần chúng với Đảng rời xa nhau”8. Rõ ràng, không dân chủ trong phê bình là hết sức nguy hại.

Để thực hành dân chủ được rộng rãi thì vai trò của cấp ủy, người đứng đầu rất quan trọng. Theo Bác, người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta nhấn mạnh: “Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng, cán bộ chủ chốt, nhất là cấp Trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương mẫu”; “nghiêm túc tự kiểm điểm, tự phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế”9. Là người luôn tâm huyết, tận trung với Đảng, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng đúc rút: “Kinh nghiệm cho thấy muốn tự phê bình và phê bình có kết quả tốt, điều quan trọng là phải thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, người đứng đầu phải gương mẫu và phải có các hình thức dân chủ để quần chúng đóng góp phê bình cán bộ, đảng viên và phải nghiêm túc tiếp thu những ý kiến phê bình đúng đắn”10.

Ba là, cách thức tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, nghiêm chỉnh dựa trên tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau. Đây là sự đúc kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt mấy chục năm rèn luyện Đảng ta. Tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, như mỗi ngày phải rửa mặt, để trong Đảng không có bệnh và Đảng mạnh khỏe. Người căn dặn: “Người cách mạng và đoàn thể cách mạng cần phê bình và tự phê bình thiết tha như người ta cần không khí. Cách mạng sở dĩ phát triển mãi, tiến bộ mãi, càng gặp nhiều gian khổ càng mạnh mẽ thêm, là nhờ có phê bình và tự phê bình”11. Phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh là phải hết sức đúng đắn và chặt chẽ. Phê bình nghiêm chỉnh là phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nói bóng bẩy, không nể nang, không thêm bớt; phải vạch rõ cả ưu và khuyết điểm với thái độ đúng mực. Chính sự nghiêm chỉnh là biểu hiện rõ nét nhất của tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, vì chỉ có lòng thân ái, lòng thành thật thì mới ráo riết phê bình đồng chí mình một cách nghiêm chỉnh. Nghiêm chỉnh không có nghĩa là cứng nhắc, mà là phải: “... biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình để tự mình sửa chữa”12. Chúng ta phải: “Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định sẽ hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”13.

Quan điểm của Bác về phê bình và tự phê bình được Đảng ta quán triệt sâu sắc trong các nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng; trong đó, nhấn mạnh đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Đảng ta chỉ rõ: “Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”14. Rút kinh nghiệm của những nơi làm qua loa, đại khái, Đảng ta yêu cầu cần thực hiện nghiêm chỉnh việc tự phê bình và phê bình, đó là: “Hết sức tránh làm lướt, làm qua loa, hình thức, chiếu lệ. Khắc phục tình trạng xuê xoa, nể nang, thậm chí biến cuộc họp phê bình và tự phê bình thành nơi vuốt ve, ca tụng lẫn nhau; cũng như tình trạng lợi dụng dịp này để “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với những động cơ không trong sáng. Nghiêm khắc xử lý những trường hợp trù dập phê bình và vu cáo người khác”15. Điều này, đang được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quán triệt, triển khai thực hiện để nâng cao chất lượng sinh hoạt tự phê bình và phê bình.

Bốn là, mục đích của tự phê bình và phê bình là để đoàn kết và đi tới thắng lợi của cách mạng. Phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, để tiến bộ, để đoàn kết và thống nhất nội bộ. Phê bình và tự phê bình là một khâu trong công tác chỉnh đốn Đảng, mà mục đích chỉnh đốn Đảng theo Hồ Chí Minh là nhằm: “... làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”16. Trong Di chúc của mình, Người cũng đã chỉ rõ, tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Chính nhờ sự đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc nên Đảng ta mới tập hợp, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đúc kết một cách ngắn gọn, thì mục đích gần của phê bình là tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; mục đích xa là vì sự thắng lợi của cách mạng. Đại đoàn kết sẽ dẫn tới đại thành công. Đó là vấn đề mà trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, Đảng ta và cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn nhấn mạnh, đề cao tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp. Bởi vì, chỉ có thực hiện tốt tự phê bình và phê bình thì Đảng ta mới không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu, thực sự có sức mạnh, bản lĩnh, trí tuệ - nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

 

“Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác”

 “Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần kiệm liêm chính, để đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, để đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công, để xây dựng thuần phong mỹ tục trong toàn dân, toàn quốc”.

Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Chống quan liêu, tham ô, lãng phí”, đăng trên Báo Nhân dân, số 68, ngày 31/7/1952. Những tư tưởng về chống tham ô, lãng phí của Bác Hồ mang tầm chiến lược và có giá trị thực tiễn vô cùng sâu sắc. Thấu triệt tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành đồng bộ các nghị quyết, chỉ thị, qui định và các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; mở rộng dân chủ rộng rãi ở cơ sở; tăng cường công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan chức năng, gắn với phát động và động viên sự giám sát của nhân dân theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” thể hiện quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng, không có vùng cấm để loại bỏ thứ giặc nội xâm ra khỏi đời sống xã hội đã trực tiếp củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, với chế độ góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và thành công trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Học tập và làm theo lời Bác dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai quyết liệt, đồng bộ các biện pháp thông qua việc tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, qui định của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Qui định trách nhiệm của người cán bộ chủ trì và tổ chức cho cán bộ, đảng viên đăng ký cam kết chấp hành nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, qui định của Đảng, Nhà nước; thực hiện nghiêm, có chất lượng qui định về kê khai tài sản với các đối tượng theo qui định; phát huy dân chủ rộng rãi thông qua sinh hoạt Đảng, sinh hoạt đơn vị, thực hiện tài chính công khai ngày, tuần, tháng; tổ chức có nền nếp, chất lượng Ngày Chính trị, văn hóa tinh thần; Ngày Pháp luật ở đơn vị. Đồng thời, tích cực triển khai nhiều biện pháp đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành hành tiết kiệm, chống lãng phí trên mọi lĩnh vực học tập, công tác, sinh hoạt ở đơn vị tạo bầu không khí dân chủ, tin cậy, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dẫn dắt, soi sáng cho công tác xây dựng Đảng

 

Khi vĩnh biệt thế giới này, Bác Hồ của chúng ta không có tài sản gì để lại, chỉ để lại “Muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. 

Trong Di chúc, lời căn dặn đầu tiên của Người là: “Trước hết nói về Đảng”. Bác viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Những chỉ dẫn của Bác về Đảng tập trung vào 3 vấn đề lớn gồm: Đoàn kết, tự phê bình và phê bình và đạo đức cách mạng. Đây là 3 nội hàm quan trọng bậc nhất, quyết định sự trường tồn của Đảng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Đảng phải thể hiện bằng tư tưởng và hành động; trong Đảng không thể có tình trạng “Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”; phải thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh.

Sau khi khẳng định nhờ có sự đoàn kết và tinh thần phục vụ giai cấp, phục vụ Nhân dân, phục vụ Tổ quốc, Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Bác đã chỉ ra: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.

Có thể khẳng định, mỗi khi đọc lại, nghe lại bản Di chúc thiêng liêng của Bác, mỗi người dân Việt Nam ai cũng vẹn nguyên xúc động, xao xuyến. Là những người làm công tác đảng nhiều năm, chúng tôi càng thấm thía, càng thấy sâu sắc bản Di chúc bất hủ, chứa đựng đầy ắp, chứa chan tình cảm thân thương của Bác đối với Đảng, Tổ quốc, với Nhân dân.

Toàn bản Di chúc chỉ trên 1.000 từ được cân nhắc từng câu, từng chữ, vậy nhưng chỉ trong hơn 3 dòng ngắn gọn, cô đọng để dành nói về Đảng cầm quyền, Bác dùng tới 4 chữ “thật, thật sự”: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”

Đối với Nhân dân, Bác lo cái lo của dân, đau nỗi đau của dân. Quan điểm của Bác về vấn đề nhân dân rất rõ ràng. Đó là, Đảng muốn mạnh, muốn vững phải dựa vào nhân dân. Sau này, những nguyên tắc, quan điểm của Đảng đã cụ thể hóa quan điểm của Bác: Phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng gần đây, nhiều Quy định của Trung ương, của Bộ Chính trị đã khẳng định vai trò kiểm tra, giám sát của Nhân dân với Đảng và Đảng phải giữ mối liên hệ mật thiết với Nhân dân, phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân, phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.

Hội nghị lần thứ tám (khóa XII) đã ban hành Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018 “Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương” và các Quy định trong nhiệm kỳ khóa XIII như: Quy định số 142-QĐ/TW ngày 23-4-2024 của Bộ Chính trị “về quy định thí điểm giao quyền, trách nhiệm cho người đứng đầu trong công tác cán bộ”; Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9-5-2024 của Bộ Chính trị “về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”; Quy định số 148-QĐ/TW ngày 23-5-2024 của Bộ Chính trị “về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước”… càng cho thấy Đảng ta đang kiên trì, quyết tâm đẩy mạnh nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng theo tư tưởng của Người.

55 năm thực hiện Di chúc, chúng ta đã làm được nhiều việc theo đúng lời căn dặn của Người. Trong đó, Đảng ta luôn kiên trì thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách sáng tạo, khoa học. Toàn Đảng đang đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIIkhóa XIII),

Nhờ có các nghị quyết, chỉ thị mà cán bộ, đảng viên đã nhận thức đầy đủ hơn tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nhằm đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống, nhiều nơi có cách làm sáng tạo như tổ chức hội thi kể chuyện về tấm gương của Bác. Nhiều mô hình, cách làm hay về xây dựng Đảng mang lại hiệu quả thiết thực như mô hình “Chi bộ bốn tốt”, “Giữ trọn lời thề đảng viên”, “Đảng viên dìu dắt quần chúng”, “Làm việc theo chức trách, nêu gương trong hành động”, “Đề cao trách nhiệm, giữ nghiêm kỷ luật, “Đảng viên tình nguyện tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Mỗi ngày, mỗi cán bộ, đảng viên miệng nói một điều hay, tay làm mười việc tốt”, “Học Bác mỗi ngày”, “Lời Bác dạy ngày này năm xưa”… đã có sức lan tỏa mạnh mẽ và trở thành phong trào cách mạng lớn ở tất cả các ngành, cơ quan, đơn vị và nhân dân trong cả nước.

Di chúc là 1 trong 5 tác phẩm bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công nhận là Bảo vật quốc gia. Di chúc của Người để lại mãi mãi là động lực to lớn, là ngọn hải đăng dẫn dắt Đảng ta, dân tộc ta trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Đồng thời, tiếp tục dẫn dắt, soi sáng cho công tác xây dựng Đảng hiện nay.

Thực hiện theo Di chúc của Người, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng phấn đấu, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, làm cho Đảng ta xứng đáng là đạo đức, là văn minh, đáp ứng niềm tin yêu của Nhân dân, phấn đấu thực hiện tâm nguyện cuối cùng của Người là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Mới đây, trong bài viết “Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tô Lâm khẳng định: “Đặc biệt coi trọng và không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Từ Trung ương đến chi bộ, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”; Đảng phải huy động cho được toàn bộ trí tuệ, sức mạnh của toàn dân tộc, sức mạnh thời đại trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng tự soi rọi lại mình; nỗ lực phấn đấu xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Nhớ Bác, học tập và làm theo Bác, chúng ta nguyện một lòng đi theo con đường mà Bác đã vạch ra cho dân tộc: “Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi, vững như muôn ngọn dải Trường Sơn (Theo chân Bác - Tố Hữu).

“Nhờ tinh thần anh dũng và lòng yêu nước của toàn thể Nhân dân Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi”.

 Đó là khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tròn 15 tuổi”, Người viết vào cuối tháng 8-1960.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, đã lật đổ chế độ quân chủ phong kiến hơn một nghìn năm, ách thống trị thực dân hơn 80 năm, giải phóng đất nước khỏi sự chiếm đóng của phát-xít Nhật. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ thực sự của đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Trong những nguyên nhân làm nên thắng lợi vĩ đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao tinh thần anh dũng, lòng yêu nước của toàn thể Nhân dân Việt Nam.

Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước, toàn dân ta nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà, không sợ hy sinh gian khổ, quyết tâm giành độc lập, tự do và sự thật Việt Nam đã trở thành một nước độc lập, tự do.

Phát huy tinh thần anh dũng và lòng yêu nước nồng nàn của toàn thể dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục lãnh đạo toàn dân, toàn quân đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, là lực lượng nòng cốt cùng với toàn Đảng, toàn dân làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày nay, Quân đội ta tiếp tục giữ vững vai trò nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD), thế trận QPTD gắn với xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; ngăn chặn, phản bác kịp thời những thông tin, luận điệu sai trái; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.


“Cán bộ phải thương yêu đội viên”

 Đó là lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Lê Hồng Phong 2, họp từ ngày 23 đến 28-10-1950 tại tỉnh Cao Bằng.

Tình đồng chí, đồng đội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, vừa là thuộc tính bản chất của quân đội cách mạng, vừa là cơ sở tạo nên sức mạnh của quân đội, trong đó quan hệ giữa cán bộ với chiến sĩ là mối quan hệ đặc trưng bản chất. Mối quan hệ giữa cán bộ với chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam được hình thành, phát triển trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, chiến thắng của quân đội. Một mặt, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, chức năng, nhiệm vụ, điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định của quân đội; mặt khác, dựa trên tình thương yêu giai cấp, tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, đoàn kết gắn bó chặt chẽ keo sơn “lúc thường cũng như lúc ra trận” giữa những con người cùng chung lý tưởng, mục tiêu, cùng thực hiện nhiệm vụ cao cả của người quân nhân cách mạng. Đó cũng là nguồn sức mạnh vô tận để bộ đội ta vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Chính vì vậy, đòi hỏi cán bộ phải luôn là tấm gương sáng để cấp dưới và chiến sĩ học tập, noi theo. Tình thương yêu đồng chí, đồng đội được tôi luyện, thiết lập vững chắc trong Quân đội ta qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và trở thành nét đẹp truyền thống, thành bản chất, là một trong những nhân tố cấu thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội ta.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ căn dặn, đội ngũ cán bộ các cấp trong quân đội các thời kỳ luôn quan tâm thiết thực, chu đáo đến đời sống tinh thần và vật chất của bộ đội, hết lòng chăm lo xây dựng đơn vị, tôn trọng và thương yêu cấp dưới như “chân tay”, do vậy cấp dưới sẽ kính trọng, coi lãnh đạo, chỉ huy của mình “như đầu óc”, như người thân; từ đó họ sẽ mang hết khả năng của mình để thực hiện chỉ thị, mệnh lệnh một cách tự giác và có hiệu quả cao nhất. Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy phải thường xuyên phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện xứng đáng là người anh, người “chị hiền” tận tuỵ chăm lo cho tập thể, cho bộ đội, là hạt nhân đoàn kết thống nhất xây dựng đơn vị VMTD

“Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở”

 Đó là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết: “Đoàn kết tiến lên giành thắng lợi mới”, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 33 Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930/3-2-1963), trong bối cảnh dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đang tích cực thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và cùng với đồng bào, chiến sĩ miền Nam tiến hành cuộc đấu tranh anh dũng để thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà.

Yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng lúc này đặt ra tính cấp thiết phải đoàn kết và phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Tuy nhiên, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân chỉ có thể được phát huy khi mỗi chi bộ đảng ở cơ sở phải thực sự là hạt nhân lãnh đạo và là tấm gương mẫu mực về sự đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động. Mặt khác, để phát huy trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và các chi bộ đảng phải làm tốt công tác dân vận.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ yêu cầu đối với việc xây dựng các chi bộ ở các địa phương, các cấp, các ngành. Theo Người, các chi bộ phải thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo, phải biết đoàn kết, gắn bó và phát huy vai trò của quần chúng; đồng thời chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Trung ương.

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành phương châm cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các chi bộ và là mục tiêu phấn đấu, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên. Lời dạy của Người đã củng cố ý chí, quyết tâm, sự đoàn kết, thống nhất của các chi bộ ở cơ sở, góp phần quan trọng thúc đẩy thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc và phát huy sức mạnh của đồng bào, chiến sĩ miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đến nay vẫn còn nguyên giá trị trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.