Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

Củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng trong giai đoạn mới

 TCCS - Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu có vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu tố chủ yếu tạo nên sức mạnh, sự thống nhất ý chí, bảo đảm cho toàn Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Theo đó, việc củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là nhiệm vụ có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn; bởi lẽ, đây là những người có vị trí, vai trò quan trọng và quyết định trực tiếp đến chất lượng hoạt động của cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp.

Đại tướng Tô Lâm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước dự Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc năm 2024 tại phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, ngày 2-8-2024_Ảnh: TTXVN

1. Bản lĩnh chính trị của cán bộ là sự hiểu biết sâu sắc, niềm tin tuyệt đối, ý thức chấp hành nghiêm túc và sự kiên định đối với nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong mọi hoàn cảnh, nhất là trước những khó khăn, thử thách, những thời điểm có tính bước ngoặt của cuộc cách mạng.

Củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ là hoạt động có mục đích của cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức, cơ quan có trách nhiệm và từng cán bộ trong việc xác định và tổ chức thực hiện hiệu quả những yêu cầu về tư tưởng chính trị, thường xuyên tự phê bình và phê bình, uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức và hành động, nhằm làm cho đội ngũ cán bộ có trình độ nhận thức lý luận chính trị, nắm vững và tin tưởng tuyệt đối vào đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có kiến thức và quyết tâm đổi mới, có khả năng vượt qua khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.

Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ giữ vai trò đặc biệt quan trọng, định hướng, chi phối toàn bộ sự nghiệp chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên và là yếu tố chủ yếu tạo nên ý chí, khát vọng, khả năng vượt qua mọi khó khăn, thử thách để phấn đấu, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng giao cho.

Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu dựa trên sự nắm vững tri thức khoa học và khả năng đúc rút tri thức mới từ thực tiễn hoạt động chính trị, với yêu cầu “phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra”(1).

Trong mọi giai đoạn của cách mạng, nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên luôn trung thành với Đảng, luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của cách mạng, của Đảng, không ngừng phấn đấu, hy sinh, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, góp phần tạo nên thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam.

Tuy vậy, trong thời kỳ đổi mới, liên tiếp 3 kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương trong 3 nhiệm kỳ đại hội Đảng gần đây đều ban hành nghị quyết, kết luận những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, trong đó xác định vấn đề cấp bách nhất vẫn là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả ở cấp cao. Đó là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và Kết luận số 21 của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””.

Quan điểm nhất quán của Đảng là “Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Tạo bước phát triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh, ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, ngày càng được nhân dân tin tưởng; đủ uy tín và năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(2).

Củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là tất yếu khách quan và là nhiệm vụ cấp bách hiện nay.

Sở dĩ đây là nhiệm vụ mang tính cấp thiết là bởi lẽ, cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu có vai trò quan trọng nhất và quyết định trực tiếp đối với chất lượng hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp. Người lãnh đạo, người đứng đầu giữ vai trò hạt nhân, quy tụ mọi thành viên trong tổ chức tạo nên sự đoàn kết, thống nhất, kết thành sức mạnh to lớn của tổ chức. Trong những yếu tố tạo nên phẩm chất, năng lực, phong cách của người lãnh đạo, người đứng đầu thì bản lĩnh chính trị là yếu tố đầu tiên, chi phối, dẫn dắt tập thể vượt qua mọi khó khăn để thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị của tổ chức. Trong mọi thời kỳ và mọi giai đoạn cách mạng, bản lĩnh chính trị của người lãnh đạo, người đứng đầu, nhất là cán bộ cao cấp luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu tố chủ yếu tạo nên sức mạnh, sự thống nhất ý chí, là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho toàn Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi.

Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận cán bộ, bao gồm cả những người giữ chức vụ không nhỏ, do thiếu rèn luyện, không đủ bản lĩnh để vượt qua những cám dỗ của cuộc sống nên đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn vun vén lợi ích cá nhân, sa vào “lợi ích nhóm”, làm giàu bất chính. Điều đó làm suy giảm sức mạnh của tổ chức, tổn hại đến thanh danh, uy tín của Đảng.

Trong thời gian tới, trước yêu cầu của tình hình mới, toàn Đảng đang tích cực thực hiện “nhiệm vụ then chốt” - xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng. Theo đó, nhiệm vụ “then chốt” của “then chốt” là tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới. Trong đó, việc củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là người lãnh đạo, người đứng đầu trong điều kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền có vai trò, tầm quan trọng đặc biệt.

2- Củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu bao gồm các nội dung chính sau đây:

Thứ nhất, xây dựng tiêu chuẩn chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.

Lãnh đạo là chức năng của Đảng, hoạt động của cán bộ lãnh đạo là tham gia lãnh đạo tập thể của cấp ủy các cấp - người “cầm lái, dẫn đường”. Các quyết sách của cơ quan lãnh đạo của Đảng đều ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc và toàn diện đến sự phát triển bền vững của mỗi địa phương, đơn vị và cả nước. Hoạt động của người đứng đầu trong các tổ chức của hệ thống chính trị là hoạt động lãnh đạo, quản lý, chủ trì tổ chức thực thi quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ do tổ chức có thẩm quyền giao.

Tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”(3). Đồng thời, để thực hiện những nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Đảng, trong đó giải pháp cấp bách nhất là phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, thì giải pháp về củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị đều đặt lên hàng đầu và đều nhấn mạnh trước hết đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.

Trong công tác cán bộ, việc xây dựng tiêu chuẩn cán bộ là khâu quan trọng đầu tiên, là tiền đề, là căn cứ khoa học và pháp lý để thực hiện các khâu khác của công tác cán bộ, nhất là đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, đánh giá, bố trí và giới thiệu cán bộ ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo các cấp trong hệ thống chính trị. Tiêu chuẩn chính trị đã được đề cập khá cụ thể trong Nghị quyết số 03-NQ/HNTW, ngày 18-6-1997, của Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, “Về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Theo đó, cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, bên cạnh yêu cầu đáp ứng tiêu chuẩn chung, còn phải: “Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”(4).

Với quan điểm: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”(5), thì yêu cầu về bản lĩnh chính trị được đặt lên hàng đầu. Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 4-8-2017, “Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”, trong đó có yêu cầu về chính trị, tư tưởng.

Với quan điểm: cán bộ giữ vị trí lãnh đạo càng cao thì yêu cầu tiêu chuẩn chính trị càng lớn, ngày 4-8-2017, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 90-QĐ/TW, “Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”, đặt ra yêu cầu cao hơn về chính trị, tư tưởng: “Tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia - dân tộc và nhân dân; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có lập trường, quan điểm, bản lĩnh chính trị vững vàng để bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước và phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị...”(6).

Lãnh đạo Tỉnh ủy Lai Châu thăm mô hình sản xuất nông nghiệp tại huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu_Ảnh: TTXVN

Thứ hai, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng để củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.

Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu không phải tự nhiên mà có, mà do nhiều yếu tố tạo nên. Yếu tố cơ bản, hàng đầu là tính khoa học, đúng đắn của nền tảng tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Có lý luận cách mạng, khoa học mới giúp Đảng xác định rõ mục tiêu, xây dựng đường lối đúng đắn, hệ thống pháp luật đầy đủ, khả thi, làm căn cứ, tạo niềm tin vững chắc cho đội ngũ lãnh đạo, người đứng đầu. Bên cạnh đó, yếu tố quan trọng có tính quyết định là việc học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Vì thế, trong các nhóm giải pháp về xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để tạo nền tảng chính trị vững chắc cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.

Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phụ thuộc vào nhận thức lý luận, tình cảm và ý chí cách mạng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu: “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường./ Tận trung với nước. Tận hiếu với dân(7). Do đó, Đảng chủ trương “Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tổng kết thực tiễn 40 năm đổi mới để bổ sung, phát triển lý luận của Đảng. Tiếp tục bổ sung, phát triển hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(8).

Để củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải tích cực, tự giác học tập lý luận chính trị để nắm chắc đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở được trang bị hệ thống lý luận khoa học là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Hệ thống giáo dục lý luận của Đảng phải “Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn; đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng”(9). Học tập phong cách tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong nghiên cứu lý luận cần nắm vững phép biện chứng duy vật để vận dụng sáng tạo và phát triển vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; tránh giáo điều, bảo thủ, xơ cứng, trì trệ; phải nắm bắt tinh thần, phương pháp khoa học để giải quyết các vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra.

Các cơ quan quản lý cán bộ cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Khi bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu được nâng cao sẽ góp phần đẩy lùi các nguy cơ đối với vai trò cầm quyền của Đảng, đồng thời nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng. Nhận thức đúng đắn của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng phải được thể hiện trong kế hoạch học tập các nghị quyết, quy định của Đảng về chế độ học tập lý luận chính trị(10).

Thứ ba, thực hiện đúng quy định của Đảng, thể hiện và phát huy bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu trong mọi hoạt động lãnh đạo, quản lý.

Bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu không phải là vấn đề trừu tượng, khó đoán định, mà được thể hiện thường xuyên trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. Người đứng đầu (với tư cách là người chủ trì hoạt động của cấp ủy) phải mẫu mực trong thực hiện các nguyên tắc của Đảng, bảo đảm thực hiện nguyên tắc của Đảng một cách đầy đủ, đúng đắn và hiệu lực, hiệu quả nhất. Trên cơ sở chuẩn bị nghiêm túc, thấu đáo những vấn đề đưa ra tập thể bàn bạc, quyết định, thực sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, thực sự khách quan, công tâm, người chủ trì phải biết lắng nghe, có khả năng thuyết phục, giải đáp và xử lý được những ý kiến khác nhau, bảo vệ chân lý, lẽ phải, bảo đảm đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thực hiện đúng đắn ở cơ sở. Đó chính là bản lĩnh chính trị của người đứng đầu.

Là người lãnh đạo, tham gia lãnh đạo (với tư cách là thành viên, cấp ủy viên) của tổ chức, cơ quan lãnh đạo, vấn đề bản lĩnh chính trị thể hiện ở chính kiến khi tham gia xây dựng các quyết sách thuộc thẩm quyền của tập thể lãnh đạo, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, địa phương và đơn vị. Điều này đặt ra yêu cầu rất cao về thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động được quy định trong Điều lệ Đảng: Tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật cũng như các quy chế, quy định khác của Đảng. Người lãnh đạo, tham gia lãnh đạo cần tỏ rõ chính kiến, thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh, thậm chí khi chưa được tiếp thu ý kiến của mình (dù mình cho là đúng đắn) thì thực hiện quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số. Nếu thực hiện đúng nguyên tắc này thì sẽ không xảy ra sai phạm khiến tập thể phải bị xử lý kỷ luật chỉ vì nể nang, “dĩ hòa vi quý”, không dám “đấu tranh”. Điều này đang là “điểm nghẽn” trong hoạt động lãnh đạo của không ít cấp ủy, tổ chức đảng hiện nay, cần sớm khắc phục.

Thứ tư, phát huy vai trò tự giác rèn luyện để củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.

Từ nhận thức đúng, cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu tự ý thức rèn luyện - yếu tố quyết định bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ. Bản lĩnh của một con người hay bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu luôn mang sắc thái riêng, thể hiện đặc tính, tố chất của mỗi cá nhân và tạo nên nhân cách của mỗi người. Vì thế, chỉ khi mỗi cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu nhận thức đúng đắn vai trò của bản lĩnh chính trị thì mới thực sự tự giác học tập đạt kết quả thiết thực, bền vững. Bởi lẽ, mỗi lần tham gia quyết định lãnh đạo tập thể hay đưa ra quyết định của cá nhân theo chế độ thủ trưởng đều là sự hội tụ của trình độ lý luận, trí tuệ, của sự thấu hiểu thực tiễn, hoàn cảnh của địa phương, cơ quan, đơn vị, đất nước và lợi ích của nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo, cần xử lý các mối quan hệ, nhất là quan hệ giữa chiến lược và sách lược phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, tức là học tập, xây dựng cho mình phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, không lệ thuộc vào người khác hay cái có sẵn. Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thể hiện rõ nhất khi được trang bị đầy đủ, sâu sắc những vấn đề lý luận, trung thành và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn để phân tích, đánh giá đúng tình hình, tìm ra bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng; từ đó, đưa ra được giải pháp phù hợp, tập hợp và phát huy được sức mạnh để vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được mục tiêu chính trị đề ra.

Việc rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải được tiến hành đồng bộ thông qua việc thường xuyên bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn, phương pháp làm việc, năng lực công tác,... gắn liền với việc tự giác tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người. Không thể coi học tập ở trường, lớp là đủ và cũng không chỉ học một lần là xong, mà phải học tập thường xuyên để cập nhật kiến thức, hiểu biết sâu sắc hơn, nhất là kinh nghiệm xử lý tình huống lãnh đạo, quản lý, kể cả tình huống phức tạp về chính trị.

Thứ nămtạo môi trường thuận lợi cho cán bộ thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị gắn với việc đấu tranh chống tư tưởng, việc làm sai trái, thiếu bản lĩnh chính trị của người lãnh đạo, người đứng đầu.

Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu được thể hiện khi họ hoạt động trong môi trường có nhiều thử thách, trong tình huống phức tạp; càng nhiều khó khăn, thử thách càng bộc lộ rõ bản lĩnh chính trị. Bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thể hiện ở tác phong làm việc sâu sát cơ sở, nắm vững thực tiễn, nhất là khả năng giải quyết khó khăn và vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn.

Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung và nhấn mạnh những đặc trưng cơ bản rất quan trọng mà đội ngũ cán bộ cần có, đó là “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(11). Bộ Chính trị có Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22-9-2021, “Về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP, ngày 29-9-2023, “Quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”. Đây là căn cứ chính trị, pháp lý và cũng là cơ hội để cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu thể hiện bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy, tầm nhìn và tài năng khắc phục “điểm nghẽn” của cơ chế, chính sách, có những phát kiến mới, tiến bộ để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Thời gian qua, vẫn chưa xuất hiện nhiều đề án, đề xuất thí điểm để tổng kết, có thể nhân rộng mô hình, hoàn thiện cơ chế quản lý đem lại hiệu quả thiết thực do công tác quán triệt, thực thi chủ trương, chính sách đó chưa đầy đủ, rõ ràng, mạnh mẽ. Vì vậy, một mặt, phải tuyên truyền, nhân rộng mô hình, giải pháp thí điểm, đổi mới sáng tạo hiệu quả; kịp thời xem xét, nghiên cứu để thể chế hóa thành quy định pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để nhân rộng mô hình, giải pháp đó; biểu dương, khen thưởng xứng đáng; ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo, hiệu quả cao; mặt khác, phải xử lý nghiêm việc lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đây có thể coi là điểm mới và là điểm nhấn trong củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu giai đoạn hiện nay.

Đồng thời với quá trình giáo dục, rèn luyện, nêu gương của mỗi cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chất vấn, đối thoại nhằm làm cho bản lĩnh chính trị của người lãnh đạo, người đứng đầu bộc lộ rõ nét và thường xuyên hơn. Thời gian qua, khi không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý bị xử lý kỷ luật không chỉ do tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, mà còn do một số cơ chế, chính sách quy định chồng chéo, lạc hậu, nhưng chậm sửa đổi, khó khả thi, đã dẫn đến tình trạng nhiều cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu sợ sai, né tránh trách nhiệm, không muốn hoặc không dám làm, để công việc trì trệ, kéo dài.

Thứ sáutrong đổi mới công tác đánh giá, xếp loại cán bộ, lãnh đạo, người đứng đầu cần chú trọng đánh giá thực chất về bản lĩnh chính trị.

Đổi mới tư duy về công tác đánh giá, xếp loại cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và căn cứ vào quan điểm của Đảng. Khi tiến hành đánh giá thực hiện tiêu chuẩn chính trị theo hướng dẫn hằng năm, cần hết sức tránh việc đánh giá một cách chung chung, mà phải thông qua hoạt động cụ thể theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Trước hết, cần dựa vào các tiêu chuẩn chính trị đã được quy định và các quy định cụ thể về vị trí việc làm để đánh giá, xếp loại cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu. Khi xem xét, đánh giá cán bộ, đảng viên nói chung, đánh giá về bản lĩnh chính trị nói riêng cần căn cứ vào đặc thù từng lĩnh vực, từng địa phương mà họ công tác. Tránh tình trạng quan liêu trong đánh giá, phân loại cán bộ. Điều đó cần cấp trên xem xét toàn diện hơn, qua đó bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, mạnh mẽ, quyết liệt trong hành động vì lợi ích của Đảng, của địa phương, đất nước. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đề ra một trong những giải pháp đột phá trong công tác cán bộ: “Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương”.

Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định quan điểm: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”; trong đó, củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là một trong những nhiệm vụ quan trọng, bao trùm./.

---------------------


Một số vấn đề về phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay

 TCCS -  Tham nhũng trong xây dựng pháp luật hay còn gọi là tham nhũng chính sách, là hình thức tham nhũng lớn, vô cùng phức tạp; là biểu hiện tha hóa quyền lực nhà nước ở mức độ cao nhất; là sự “bắt tay” giữa các chủ thể công, tư, “nhóm lợi ích”, “nhóm thân hữu” nhằm trục lợi chính sách từ văn bản pháp luật. Do đó, cần nhận diện đầy đủ về bản chất, đặc điểm, nguyên nhân, điều kiện phát sinh để góp phần nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta hiện nay.

Bản chất và đặc trưng của tham nhũng trong xây dựng pháp luật

Tham nhũng trong xây dựng pháp luật là hành vi của người, nhóm người, tổ chức có chức vụ, nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động xây dựng pháp luật đã lợi dụng chức vụ, nhiệm vụ, quyền hạn đó để vụ lợi cho cá nhân, nhóm, tổ chức của mình(1). Các hành vi tham nhũng diễn ra trong toàn bộ chu trình chính sách công, gồm các giai đoạn, như lựa chọn chính sách; xây dựng và ban hành chính sách; thực thi chính sách; đánh giá, hậu kiểm chính sách.

Tham nhũng trong xây dựng pháp luật mang đầy đủ bản chất của tham nhũng nói chung: (i) Là hành vi của thể nhân/pháp nhân/nhóm xã hội có chức vụ, quyền hạn; (ii) thể nhân/pháp nhân/nhóm xã hội này đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó với mục đích vụ lợi; (iii) khách thể mà hành vi tham nhũng xâm hại đồng thời là các giá trị liêm chính, sự phát triển bền vững và lành mạnh của khu vực công và tư, các quyền về tài sản, quyền bình đẳng về cơ hội cho mọi công dân và các chủ thể pháp luật. Ngoài ra, tham nhũng trong xây dựng pháp luật có những dấu hiệu đặc trưng khác biệt trong so sánh với các dạng tham nhũng khác, cụ thể:

Một là, về phạm vi: Tham nhũng trong xây dựng pháp luật là hành vi tham nhũng diễn ra trong toàn bộ quá trình của hoạt động xây dựng pháp luật, như: Khảo sát, đánh giá thực tiễn; phát hiện và nêu ý tưởng chính sách; đề xuất chính sách; duyệt/quyết định chương trình và nội dung chính sách; soạn thảo chính sách thành dự luật; quyết định, thông qua chính sách/pháp luật; tổng kết, sơ kết đánh giá chính sách, pháp luật và quá trình thực thi chính sách, pháp luật chuẩn bị cho đề nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành mới chính sách, pháp luật.

Hai là, về chủ thể: Chủ thể của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật hết sức phong phú, có thể là cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; tổ chức xã hội, pháp nhân, nhóm xã hội và cá nhân. Những chủ thể này có điểm chung là có nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm hoặc lợi ích liên quan trong quá trình xây dựng pháp luật và liên quan đến nội dung chính sách của văn bản quy phạm pháp luật là sản phẩm của hoạt động xây dựng pháp luật trong tương lai. Trong số này, chủ thể có ảnh hưởng nhất là các “nhóm lợi ích” thuộc khu vực công và tư, bao gồm bộ, ngành, địa phương, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ.

Ba là, về đối tượng và khách thể xâm hại: Đối tượng xâm hại của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật là nội dung chính sách trong văn bản pháp luật; khách thể xâm hại là tính đúng đắn của nội dung chính sách trong văn bản quy phạm pháp luật được hình thành trong tương lai. Theo đó, các chính sách đã được ban hành hướng tới phục vụ “lợi ích nhóm” nào đó là các chính sách đã bị xâm hại, thao túng bởi hành vi tham nhũng.

Bốn là, về đối tượng tác động: Đối tượng tác động của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật chính là các chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, lợi ích trong hoạt động xây dựng pháp luật. Trong nhiều trường hợp, đối tượng bị tác động của hành vi tham nhũng có thể hoán đổi để đồng thời là chủ thể của hành vi tham nhũng - nghĩa là một thể nhân/pháp nhân/nhóm xã hội nào đó vì lợi ích của mình, có thể vừa thực hiện hành vi đưa hối lộ và nhận hối lộ liên quan đến cùng một quá trình xây dựng văn bản pháp luật cụ thể.

Năm là, về động cơ và mục tiêu. Mục tiêu “vụ lợi” của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật thường là mục tiêu sâu xa, có tính lâu dài, chưa hiện thực nhưng sẽ đạt được trên thực tế vì lợi ích không chính đáng của cá nhân, nhóm, tổ chức đã được “cài, cắm” vào nội dung văn bản pháp luật sẽ được ban hành. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số chủ thể, chẳng hạn chủ thể của hành vi nhận hối lộ có thể đã đạt được lợi ích bất hợp pháp của mình ngay trong quá trình đề xuất hoặc soạn thảo văn bản pháp luật.

Sáu là, về biểu hiện khách quan. Tham nhũng trong xây dựng pháp luật diễn ra vô cùng tinh vi, rất khó phát hiện bản chất của mối quan hệ “thân hữu” giữa biểu hiện bên ngoài và động cơ thực sự bên trong. Đặc biệt, trong nhiều trường hợp, nó được che đậy bằng các “lập luận khoa học”, chẳng hạn coi đó là các hành vi nhân danh lợi ích chung; thể chế hóa đường lối của Đảng và Nhà nước; đáp ứng nhu cầu xã hội; theo thông lệ quốc tế, thông lệ kinh doanh, thông lệ đầu tư; đã có tiền lệ, phổ biến; phù hợp với tập quán, văn hóa truyền thống; phù hợp với kinh tế thị trường và điều kiện Việt Nam…, nhưng thực chất là sự bao biện nhằm hướng đến lợi ích cục bộ của một “nhóm thân hữu”, một tổ chức, một ngành nghề trong và ngoài khu vực công.

Bảy là, về hậu quả, tác hại: Tham nhũng trong xây dựng pháp luật có hậu quả thường nặng nề, lâu dài, phạm vi rộng lớn, có thể trên phạm vi toàn quốc và trên mọi phương diện của đời sống xã hội và thường không thể lượng hóa. Về kinh tế, tham nhũng trong xây dựng pháp luật làm cho môi trường kinh doanh trở nên thiếu bình đẳng; cản trở sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp; khoa học - công nghệ, năng suất lao động và hiệu quả đầu tư xã hội chậm được cải thiện; các doanh nghiệp phải gồng mình với các gánh nặng chi phí đủ loại và nguy cơ phá sản hoặc bỏ lỡ cơ hội phát triển, nâng cao sức cạnh tranh. Về chính trị - xã hội, tham nhũng trong xây dựng pháp luật làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước; làm sai lệch bản chất chế độ, tha hóa cán bộ; đe dọa sự phát triển ổn định của hệ thống thể chế và sự lành mạnh nền kinh tế - tài chính quốc gia; làm gia tăng sự phân hóa và bất bình đẳng xã hội; tước đoạt cơ hội của các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp “thân cô thế cô”, nhóm yếu thế trong xã hội; làm mất lòng tin của nhân dân vào các giá trị cốt lõi(2); ngăn cản các mục tiêu phát triển bền vững của các quốc gia. Đặc biệt, “lũng đoạn nhà nước” - cấp độ cao nhất của tham nhũng trong xây dựng chính sách, pháp luật sẽ gây ra tác hại vô cùng to lớn cho nhiều chủ thể khác nhau. So với các hình thức tham nhũng khác, tác hại của “lũng đoạn nhà nước” nghiêm trọng hơn nhiều, vì nó có phạm vi rộng, làm biến đổi, méo mó các quy tắc pháp lý và đạo đức, từ đó tác động tiêu cực lên toàn bộ xã hội(3).

Tham nhũng trong xây dựng chính sách sẽ phát sinh trong điều kiện chính trị - pháp lý và xã hội sau:

Thiếu dân chủ trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật; trong tiếp cận thông tin; trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và giám sát quá trình này từ phía người dân; thiếu sự công khai, minh bạch và bảo đảm về trách nhiệm giải trình của các cơ quan đề xuất chính sách, soạn thảo và thông qua văn bản luật. Đây là cơ hội, điều kiện lý tưởng để các “nhóm thân hữu”, tiêu cực “đi đêm”, chi phối thực tế quá trình chính sách.

- Đạo đức liêm chính và năng lực của các chủ thể nhà nước trong lập chính sách công và chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế, bất cập. Theo đó, các cơ quan chủ trì hoặc cán bộ, công chức, đại biểu dân cử có trách nhiệm đề nghị, đề xuất, soạn thảo, tiếp thu - giải trình, góp ý - phản biện, quyết định văn bản quy phạm pháp luật... không đủ liêm chính khi lợi dụng quyền hạn của mình chủ động “vòi vĩnh” hối lộ để “ban ơn” chính sách cho các doanh nghiệp, hiệp hội, “nhóm lợi ích” công - tư hoặc cá nhân; hoặc thụ động nhận hối lộ để ghi nhận, thể hiện trong dự thảo văn bản pháp luật các nội dung chính sách cục bộ của một “nhóm lợi ích”. Mặt khác, cơ quan chủ trì hoặc cán bộ, công chức, đại biểu dân cử thiếu năng lực, khả năng phân tích, dự báo chính sách; thiếu kỹ năng thể chế hóa chính sách thành quy phạm và khả năng tiếp thu, giải trình đối với các chủ thể có liên quan, dẫn tới thụ động chấp nhận, ghi nhận, thể hiện trong văn bản dự thảo hoặc thông qua những văn bản đã bị các “nhóm lợi ích” chi phối về nội dung chính sách trong đó.

- Trình độ dân trí thấp là môi trường lý tưởng cho tham nhũng trong xây dựng pháp luật. Khi người dân không có đủ năng lực góp ý, phản biện đối với dự kiến chính sách hay dự thảo luật; không có khả năng phản hồi về tác động, tính thực tiễn, khả thi của dự luật thì các “nhóm lợi ích” có thể dễ dàng thao túng toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật. Ngược lại, việc tham gia rộng rãi, hiệu quả của các tầng lớp nhân dân vào quá trình xây dựng luật sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan đề xuất ý tưởng chính sách và soạn thảo chính sách, hạn chế tối đa hành vi tham nhũng.

- Quy trình xây dựng pháp luật thiếu khoa học, không chặt chẽ, tạo nguy cơ tham nhũng trong xây dựng pháp luật. Nếu quy trình xây dựng pháp luật không thu hút sự tham gia thực chất, hài hòa của các đối tượng chịu tác động; không bảo đảm sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các chủ thể có liên quan và khả năng kiểm soát hoạt động xây dựng pháp luật từ phía Nhà nước và nhân dân; không bảo đảm sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật thì các “nhóm lợi ích”, các chủ thể có liên quan lợi dụng trục lợi trong quá trình xây dựng pháp luật.

- Bất cập về điều kiện tài chính, kỹ thuật cho công tác xây dựng pháp luật. Với nguồn lực tài chính đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật không được bảo đảm, các hoạt động nghiên cứu, tổng kết, khảo sát thực tiễn; trưng cầu, tiếp thu, phản hồi, giải trình ý kiến góp ý đối với dự luật sẽ không thể bảo đảm chất lượng các dự án luật. Cơ quan chủ trì soạn thảo và các nhà hoạch định chính sách, chuyên gia pháp lý rất dễ chịu sự tác động tiêu cực của các “nhóm lợi ích” và các chủ thể có liên quan.

- Thiếu cơ chế hữu hiệu nhằm kiểm soát quyền lực trong hoạt động xây dựng pháp luật. Thực tiễn cho thấy, tình trạng tham nhũng chính sách xảy ra chủ yếu ở những ngành, lĩnh vực, địa phương mà cơ chế kiểm soát quyền lực còn lỏng lẻo, bao gồm “tiền kiểm - hậu kiểm” văn bản/dự thảo văn bản pháp luật và kiểm soát nội bộ hay kiểm soát từ bên ngoài. Việc tổ chức giám sát, phản biện chính sách của các lực lượng chức năng còn hình thức; thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm trong hoạt động xây dựng pháp luật bị “buông lỏng” đã tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát sinh và gia tăng của hành vi tham nhũng trong xây dựng pháp luật.

Cần nhận diện đầy đủ về bản chất, đặc điểm, nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng trong xây dựng pháp luật để góp phần nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng (Trong ảnh: Kiểm toán nhà nước kiểm tra tài chính nhà nước, quá trình quản lý, sử dụng tài sản công) _Nguồn: vietnamplus.vn

Nhận diện tham nhũng trong xây dựng pháp luật

Tham nhũng có thể xảy ra trong các giai đoạn của hoạt động xây dựng pháp luật, cụ thể:

- Giai đoạn lựa chọn vấn đề chính sách: Trong thực tiễn có rất nhiều vấn đề đang đặt ra cần được giải quyết bằng chính sách. Tham nhũng trong xây dựng pháp luật bắt đầu bằng hành vi vận động của các chủ thể nhà nước và xã hội để vấn đề, lợi ích của chủ thể được ưu tiên “luật hóa”, được giải quyết ở tầm chính sách và chính sách đó phải được lựa chọn đưa vào chương trình xây dựng pháp luật.

- Giai đoạn soạn thảo chính sách thành pháp luật. Trong giai đoạn này, nội dung chính sách đã được duyệt hay định hình từ trước đó, “nhóm lợi ích” vẫn có thể trực tiếp hoặc gián tiếp đưa những nội dung hay phương án hoặc “cài” câu, chữ “có lợi” vào văn bản dự thảo; cũng có thể đưa ra các thủ tục - điều kiện, các “giấy phép con” vào dự thảo văn bản để sau này có thể trục lợi. Trong giai đoạn này, các “nhóm lợi ích” thường “núp bóng” với lý do bảo đảm “an ninh quốc gia”, “lợi ích nhân dân”, “sự ổn định” hay “sự đổi mới” hoạt động của ngành - lĩnh vực, “tuân thủ điều ước quốc tế”… để che đậy mục đích tham nhũng.

- Giai đoạn thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật: Đây là giai đoạn mang tính chất quyết định, nên các hành vi tham nhũng diễn ra trong giai đoạn này hướng vào việc “mua phiếu”, “mua quyết định” của những chủ thể có thẩm quyền quyết định về chính sách hay biểu quyết thông qua dự thảo văn bản pháp luật. Như vậy, tham nhũng có thể xảy ra khi những đại biểu dân cử hay những người đứng đầu cơ quan hành chính, tư pháp không giữ được phẩm chất đạo đức liêm chính và đã “trục lợi” khi quyết định hoặc tác động để thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có lợi cho “nhóm lợi ích”.

Những nguy cơ tiềm ẩn tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam

Thời gian qua, thể chế về xây dựng pháp luật ở Việt Nam không ngừng được hoàn thiện. Tuy nhiên, một số hạn chế về xây dựng pháp luật hiện hành là nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng:

Một là, quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật làm gia tăng khả năng xung đột lợi ích trên thực tế. Với quy định trưởng ban soạn thảo “là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo”(4), trong hầu hết các trường hợp, đó là bộ trưởng các bộ, cơ quan ngang bộ phụ trách lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật đó điều chỉnh. Quy định này luôn tiềm ẩn rủi ro là việc xây dựng luật từ chức năng của Quốc hội thực tế đã “tự động” chuyển sang cho cơ quan hành pháp. Tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” có thể đã làm gia tăng khả năng xung đột lợi ích, là nguyên nhân  dẫn đến tình trạng một số văn bản quy phạm pháp luật chỉ có “tác dụng - ý nghĩa” tăng thêm quyền lực của “nhóm lợi ích” là bộ, ngành nào đó. Đồng thời đẩy cái khó cho người dân, doanh nghiệp, không tính đến hoặc đề cập rất chung chung, mờ nhạt về quyền của các nhóm chủ thể khác, nhất là các chủ thể xã hội.

Hai là, thiếu cơ chế phản biện từ bên ngoài trong xây dựng thông tư. Quy trình xây dựng thông tư, thông tư liên tịch hiện còn có tình trạng “đóng kín”, thiếu cơ chế thẩm định, phản biện từ bên ngoài hiệu quả, nhất là thiếu tiền kiểm nhằm bảo đảm tính khách quan, minh bạch, trách nhiệm giải trình và phòng, chống “lợi ích nhóm” trong hoạt động xây dựng thông tư của bộ, ngành. Do đó, thông tư được ban hành luôn tiềm ẩn rủi ro là sẽ chỉ tập trung phản ánh ý chí chủ quan của bộ, ngành hoặc mong muốn của “nhóm lợi ích” mà không quan tâm đúng mức đến nhu cầu của các chủ thể khác, nhất là các đối tượng xã hội chịu sự tác động của thông tư.

Ba là, góp ý, phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật còn hình thức. Các quy định hiện hành chưa bảo đảm sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của các chủ thể có trách nhiệm trong việc đề nghị, đề xuất, ban hành chính sách, pháp luật trên thực tế. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chưa quy định cụ thể về trách nhiệm phòng, chống tham nhũng của các chủ thể công và tư thông qua góp ý, phản biện chính sách, pháp luật(5). Do đó, nội dung các góp ý, phản biện thường không đề cập đến khả năng phát sinh tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng của văn bản quy phạm pháp luật trong tương lai, cũng như không nhận được ý kiến góp ý, phát hiện, phản biện về hiện tượng “lợi ích nhóm” và “vận động hành lang” trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Bốn là, quy định hiện hành chưa có yêu cầu đánh giá tác động của chính sách đến tình trạng tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng. Các quy định hiện hành về đánh giá tác động chính sách chưa đề cập đến khả năng tham nhũng và phòng, chống tham nhũng của chính sách trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thực tiễn cho thấy, không có bất kỳ chủ thể có thẩm quyền nào đề cập đến đánh giá tác động về tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng trong các đề nghị, đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh. Mặt khác, việc đánh giá tác động chính sách chỉ thực hiện đối với dự thảo luật trước khi cơ quan chủ trì soạn thảo trình Chính phủ; nhưng ở các giai đoạn tiếp theo, khi Chính phủ trình dự thảo luật sang Quốc hội thì nhiều nội dung chính sách đã được điều chỉnh mà không được đánh giá tác động. Quy định pháp lý về đánh giá tác động chính sách hiện chưa chặt chẽ, tạo ra điều kiện để các nhóm chủ thể khu vực công và tư cài cắm lợi ích cục bộ, đơn lẻ trong các giai đoạn xây dựng pháp luật.

Năm là, thiếu các quy định pháp lý cụ thể về kiểm soát tham nhũng trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; về nguy cơ phát sinh tham nhũng và khả năng phòng, chống tham nhũng trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thể chế về xây dựng pháp luật thiếu quy định về kiểm soát tham nhũng trong quá trình đề nghị và xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cũng như thiếu quy định về nguy cơ phát sinh tham nhũng và khả năng phòng, chống tham nhũng trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thực tiễn cho thấy, trong nhiều trường hợp, quá trình xây dựng pháp luật tuy không có biểu hiện can thiệp của “lợi ích nhóm” nhưng khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành và có hiệu lực đã bộc lộ nhiều sơ hở, tạo điều kiện phát sinh tham nhũng. Nguyên nhân chính là do thiếu quy định pháp lý về tiền kiểm và hậu kiểm của các cơ quan chức năng của Chính phủ, Quốc hội hay cơ quan tư pháp về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trong quá trình xây dựng pháp luật, trong nội dung chính sách của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Sáu là, thiếu quy định về hậu kiểm văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Các hoạt động hậu kiểm văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm giám sát, kiểm tra của cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan hành chính nhà nước đều hướng tới mục tiêu phát hiện và xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật(6). Tuy nhiên, đặc điểm chung của các quy định này là không giả định tình huống “văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu làm phát sinh tham nhũng, tiêu cực” hoặc “văn bản quy phạm pháp luật không bảo đảm yếu tố phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực”. Theo đó, trách nhiệm và trọng tâm ưu tiên phát hiện và xử lý sai phạm qua công tác giám sát và kiểm tra văn bản chỉ tập trung vào việc xem xét, đánh giá văn bản đó có trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên hay không. Việc xem xét, đánh giá “văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu làm phát sinh tham nhũng, tiêu cực” hoặc “văn bản quy phạm pháp luật không bảo đảm yếu tố phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực” là yêu cầu chưa có tiền lệ, chưa được coi trọng, nên chưa được xác định là những tiêu chí chính trị - pháp lý phổ quát, bắt buộc.

Bảy là, thiếu chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động xây dựng pháp luật. Trong các quy định pháp luật hiện hành không đề cập đến phòng ngừa, xử lý các hành vi “lợi ích nhóm”, tham nhũng chính sách trong quá trình xây dựng pháp luật. Các quy định về trách nhiệm của các chủ thể có liên quan tới hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung mà không thể áp dụng trực tiếp, cũng không quy định rõ các trách nhiệm chính trị, hành chính - công vụ, đạo đức hay hình sự, do đó, thiếu tính khả thi trong xử lý các hành vi vi phạm trên thực tiễn(7).

Tám là, thiếu quy định pháp lý về vận động chính sách công. Pháp luật Việt Nam chưa quy định chính thức về vận động chính sách công. Hiến pháp năm 2013 của nước ta có nhiều quy định xác lập căn cứ cho việc nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật. Đây là cơ sở quan trọng cho việc vận động chính sách trong xây dựng pháp luật của các chủ thể. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, theo đó, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật và cơ quan, tổ chức liên quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật(8). Tuy nhiên, góp ý, phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hiện nay vẫn còn hình thức. Việc chậm ban hành quy định về vận động chính sách công sẽ tạo cơ hội để các “nhóm lợi ích” “móc ngoặc” với nhau trong hoạt động xây dựng pháp luật.

Quan điểm, định hướng phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam trong thời gian tới

Một là, tiếp tục thể chế hóa các chủ trương của Đảng về phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định vai trò của các cấp ủy trong “lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật”(9); “Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ”(10). Đảng ta cũng đã có những chỉ đạo định hướng liên quan đến xây dựng pháp luật và phòng, chống “lợi ích nhóm”. Mới đây, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 178-QĐ/TW, ngày 27-6-2024, "Về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật". Đây là văn bản chỉ đạo chuyên biệt đối với vấn đề phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật, cần sớm được cụ thể hóa thành các quy định của pháp luật trong thời gian sớm nhất, nhất là nghiên cứu thể chế các nội dung của Quy định số 178-QĐ/TW vào Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi).

Đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua một dự luật_Ảnh: TTXVN

Ba là, bảo đảm minh bạch, trách nhiệm giải trình trong xây dựng pháp luật. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định đây là một trong những yêu cầu hết sức quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là: “Xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(11). Do đó, cần tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong xây dựng pháp luật phù hợp với quan điểm, mục tiêu trong Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đến năm 2030.

Bốn là, tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống “lợi ích nhóm”. Quán triệt và thực hiện hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””, các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, góp phần xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, “duyệt - cấp”; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, “sân sau”, trục lợi trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Năm là, đổi mới nhận thức về bản chất của pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật. Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần đổi mới mạnh mẽ “triết lý” về pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật theo quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”..., mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Sáu là, hoàn thiện thể chế phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luậtTrọng tâm hoàn thiện thể chế nhằm phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật gồm các quy định về thẩm quyền, quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; các quy định pháp luật chuyên ngành về phòng, chống tham nhũng và các quy định có liên quan của Bộ luật Hình sự, Luật Cán bộ, công chức, các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng pháp luật.

Bảy là, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện Việt Nam. Phòng, chống tham nhũng trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu, rộng. Do đó, việc hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế trong công tác này rất cần thiết nhằm tiếp thu kinh nghiệm trong phòng, chống tham nhũng, nhất là kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng chính sách của các quốc gia có nền quản trị tiên tiến, như kinh nghiệm nhận diện, phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng chính sách; thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài; kiểm soát tài sản thu nhập của cán bộ, công chức và kiểm soát tài sản xã hội; công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật.../.

---------------------

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX

TCCS - Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã nhất tề đứng lên tạo thành cơn bão táp cách mạng, lật nhào ách thống trị của phát xít Nhật, giành lại quyền độc lập cho dân tộc. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ những giá trị và tầm vóc to lớn đó, Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khẳng định là một trong những “chiến công hiển hách và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại của dân tộc Việt Nam”(1) trong thế kỷ XX.

Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập _Ảnh: Tư liệu

1- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đập tan ách thống trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, phát xít tàn bạo, chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến lỗi thời; thiết lập nền dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, nhân dân lao động làm chủ đất nước. Sự ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân ở Việt Nam là bước nhảy vọt to lớn, là cuộc cải biến xã hội vĩ đại không chỉ của lịch sử dân tộc Việt Nam mà của cả lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thể hiện nhãn quan chính trị nhạy bén của Đảng khi nhận định những mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân Việt Nam và đế quốc, tay sai đã trở nên sâu sắc, từ đó yêu cầu độc lập dân tộc được đặt ra bức thiết, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu. Đây không phải là nhận thức “ngẫu nhiên” mà là kết quả của cả một quá trình đúc rút kinh nghiệm của Đảng qua cao trào cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xô-viết Nghệ - Tĩnh và cao trào cách mạng dân tộc dân chủ những năm 1936 - 1939, có sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là cơ sở quan trọng để Đảng xác định đối tượng chính của cách mạng ở từng giai đoạn cụ thể, từ đó tổ chức lực lượng đánh bại kẻ thù, mở đường cho Cách mạng Tháng Tám đi đến thành công, bởi “Nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong kiến khăng khít với nhau là một vấn đề chiến lược cách mạng. Nếu tách hai nhiệm vụ đó ra thì có thể đưa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến chỗ thất bại. Tuy vậy, hai nhiệm vụ đó không tiến hành song song nhất loạt ngang nhau. Đó là một kinh nghiệm quan trọng về chỉ đạo chiến lược của Đảng ta”(2).

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc vùng dậy và chiến đấu anh dũng của cả dân tộc, là đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh đoàn kết toàn dân, thể hiện tầm cao trí tuệ dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng vĩ đại nhất, là trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất. Với Cách mạng Tháng Tám, “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(3). Cách mạng Tháng Tám làm nên “cuộc đổi đời” cho toàn dân tộc. Từ thân phận nô lệ, nhân dân ta trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Trong những ngày Cách mạng Tháng Tám (từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945), quần chúng nhân dân thông qua hình thức đấu tranh chính trị, như mít tinh, biểu tình, vận động binh lính,... có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, đã nhanh chóng giành thắng lợi. Có thể nhận thấy, Cách mạng Tháng Tám diễn ra chỉ với một khoảng thời gian ngắn, gánh chịu ít hy sinh, tổn thất là do sự nhạy bén, sáng tạo của Đảng trong việc đánh giá tình hình, chủ động nắm bắt thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa bằng phương pháp đấu tranh phù hợp. Trong bối cảnh phát xít Nhật ở Đông Dương tan rã, chính quyền tay sai tê liệt, quân đồng minh chưa tiến vào Việt Nam, lực lượng chính trị và vũ trang cách mạng được rèn luyện qua thực tiễn đấu tranh..., Đảng ta đã phát động tổng khởi nghĩa, lãnh đạo quần chúng nhân dân giành chính quyền. Nhờ vậy, cách mạng đã tránh được sự đụng đầu với kẻ thù khi còn đang mạnh, đồng thời tạo nên thế hợp pháp, chính nghĩa của Chính phủ lâm thời khi đón tiếp quân đồng minh. Tổng kết về Cách mạng Tháng Tám, Nghị quyết Đại hội III của Đảng chỉ rõ: “Nếu Đảng ta trước đó không xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập những khu căn cứ rộng lớn để làm chỗ dựa cho lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh chính trị, và khi điều kiện đã chín muồi không mau lẹ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng cũng không thể mau chóng giành được thắng lợi”(4).

Sự đúng đắn, nhất quán của Đảng trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, xây dựng lực lượng và phương pháp đấu tranh cách mạng, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện thực tiễn của xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến, được kiểm nghiệm qua chặng đường 15 năm đấu tranh cách mạng, đã dẫn đến đỉnh cao thắng lợi là Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là cơ sở vững chắc bác bỏ những luận điệu về “khoảng trống quyền lực” nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và sự chuẩn bị của toàn dân cho cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ khách quan thuận lợi xuất hiện. Nếu không có sự chuẩn bị kỹ càng, cụ thể về lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và chiến khu, căn cứ địa thì cho dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến mấy cũng không thể tận dụng được để phát động toàn dân đứng lên giành chính quyền trên phạm vi cả nước trong một khoảng thời gian nhanh chóng như vậy.

2. Không chỉ có giá trị và ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn là sự kiện trọng đại của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới trong thế kỷ XX. Đó là đòn quyết định phá tung một mắt xích quan trọng và thúc đẩy sự tan rã nhanh chóng của hệ thống thuộc địa; mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám góp phần làm giàu thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Nó chứng tỏ rằng, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do toàn dân nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác - Lê-nin, có đường lối đúng đắn hoàn toàn có thể giành thắng lợi.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác - Lê-nin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu gian khổ, hy sinh, là đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với xu thế của thời đại là hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc(5).

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lần đầu tiên trong lịch sử, một Nhà nước dân chủ cộng hòa ra đời, gắn bó mật thiết với nhân dân - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó cũng là Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức ở các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh vùng dậy đấu tranh lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc. Đồng thời, góp phần tăng cường sức mạnh của lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới đấu tranh cho độc lập, tự do và tiến bộ xã hội; ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 sẽ tiếp tục được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, phấn đấu vì một nước Việt Nam giàu mạnh và hùng cường_Ảnh: Hoàng Hải Thịnh

3. Thành quả vĩ đại và những bài học lịch sử vô giá của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở thành động lực và sức mạnh to lớn để nhân dân ta bước vào cuộc chiến tranh trường kỳ 30 năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trong những năm đầu sau ngày đất nước giành được độc lập, nước cộng hòa non trẻ phải đối mặt với “thù trong, giặc ngoài”. Vượt lên những khó khăn đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện sách lược tạm hòa hoãn với Pháp và Tưởng để duy trì hòa bình, củng cố chính quyền cách mạng, tiến hành diệt “giặc đói”, “giặc dốt” và chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(6), trên cơ sở đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, với phương châm: Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng; vừa kháng chiến, vừa củng cố hậu phương, và với phương pháp tác chiến thích hợp, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã lần lượt làm phá sản các chiến lược của kẻ thù. Sau chín năm trường kỳ kháng chiến, trải qua hơn 3.000 ngày đêm chiến đấu hy sinh, gian khổ, nhưng vô cùng anh dũng và tự hào, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải rút quân về nước và thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các nước Đông Dương.

Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, “lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”(7).

Sau Hiệp định Geneva năm 1954, hòa bình được lập lại ở miền Bắc, nhưng tại miền Nam, đồng bào ta vẫn rên xiết dưới gót giày của đế quốc, tay sai. Trước tình hình đó, nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thực hiện nhiệm vụ cao cả này, nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến thần thánh đầy khó khăn, gian khổ nhưng với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(8) và với niềm tin sắt đá “dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”(9), dân tộc Việt Nam một lần nữa đứng lên đánh đuổi đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

Trải qua 21 năm chiến đấu anh dũng, với đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh khoa học, linh hoạt của Đảng; với phương châm toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, “mỗi người dân là một dũng sĩ diệt Mỹ”; với sự chi viện của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân loại tiến bộ trên thế giới..., quân và dân ta đã đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc; kết thúc cuộc đấu tranh suốt 30 năm, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị kéo dài hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên đất nước ta; mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX”(10).

Trong những năm đầu sau khi đất nước thống nhất, chúng ta gặp nhiều khó khăn lớn. Một mặt, chúng ta phải giải quyết hậu quả 30 năm chiến tranh; mặt khác, phải tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; trong bối cảnh bị bao vây, cấm vận. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân tộc quyết tâm đồng lòng vượt qua khó khăn, nhanh chóng khôi phục sản xuất, xây dựng, củng cố chính quyền trên phạm vi cả nước, ban hành Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung, bao cấp không còn phù hợp với thực tiễn đã làm bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm, khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Mười năm cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975 - 1985), kể từ khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, là 10 năm Đảng ta tìm tòi con đường đổi mới. Đây cũng là thời kỳ tư duy mới được hình thành từng bước, bắt nguồn từ thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu và khuyết điểm trong mười năm ấy đã để lại những bài học quý giá cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và đổi mới mạnh mẽ tư duy, nhất là tư duy kinh tế, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã chính thức đề ra đường lối đổi mới đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Qua các kỳ đại hội, từ Đại hội VII đến Đại hội XIII, Đảng ta luôn khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội với những bước đi, cách làm phù hợp, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng ta không ngừng phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lãnh đạo toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.

Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đón chào năm mới_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Qua thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước, Đại hội X của Đảng nhận định: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”(11). Đến Đại hội XIII, Đảng ta nêu rõ: “Lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(12).

Cùng với những thành tựu về mặt lý luận, thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước gần 40 năm qua đã “đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(13)Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được duy trì ở mức khá cao; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, đạt nhiều kết quả tích cực. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá, được tiến hành quyết liệt, có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Sự thống nhất, phối hợp đồng bộ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao(14).

Công cuộc đổi mới đã đáp ứng được những đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; có ý nghĩa như một cuộc cách mạng trong thời kỳ mới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của lịch sử. Những thành tựu to lớn đạt được từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay chứng tỏ sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam. Những bài học lịch sử quý báu từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 sẽ tiếp tục được phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, phấn đấu vì một nước Việt Nam giàu mạnh và hùng cường./.

-----------------------