Thứ Tư, 18 tháng 9, 2024

 Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể là “Đảng toàn dân”

Chống phá Đảng, Nhà nước ta nói chung, xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng nói riêng là mục tiêu không thay đổi của các thế lực thù địch. Đặc biệt gần đây, trên không gian mạng xuất hiện không ít luận điệu xuyên tạc cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng toàn dân”, từ đó phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng. Vấn đề này cần được nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”1. Đây là cách diễn đạt hoàn toàn đúng đắn, phù hợp về bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện mới.

Tuy nhiên, với mưu đồ thâm độc, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng vấn đề này, thường xuyên tung ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc về bản chất của Đảng. Họ cho rằng, nếu “ôm đồm” như vậy, Đảng không còn là Đảng của giai cấp công nhân nữa, mà là “Đảng toàn dân”. Để minh chứng cho luận điệu này, chúng còn lấy số liệu thực tế về tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân không cao, trong khi số lượng đảng viên của Đảng xuất thân từ nông dân, trí thức cao hơn để phụ họa. Thâm hiểm hơn, lợi dụng việc Đảng ta chủ trương kết nạp những quần chúng ưu tú là chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng, để suy diễn, xuyên tạc cho rằng: bản chất giai cấp công nhân của Đảng sẽ bị phai nhạt, Đảng Cộng sản đang dần thành “Đảng toàn dân”. Đồng thời, hô hào “Đảng toàn dân” thì mới “chính danh” cầm quyền, “đại diện cho toàn dân tộc”(!).

Có thể khẳng định, những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái, phản động, không ngoài dụng ý xấu là nhằm phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó đi đến xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, làm rõ bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Lý luận Mác - Lênin đã chỉ rõ, bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản là tổng hòa các mặt, các yếu tố thuộc tính, mối liên hệ tất yếu bên trong quy định sự vận động, phát triển của đảng, được biểu hiện thông qua các tính chất, cách tổ chức và hoạt động của đảng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân - giai cấp mà bản chất và lợi ích của nó gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản chất giai cấp công nhân của đảng thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng; ở cương lĩnh, đường lối, nền tảng tư tưởng, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; ở phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; mối quan hệ gắn bó giữa đảng với nhân dân và giải quyết vấn đề dân tộc với đoàn kết quốc tế; do đó, về mặt nhận thức, không thể lẫn lộn đảng với toàn bộ giai cấp, với toàn thể nhân dân và dân tộc. Điều đó cũng được V.I.Lênin khẳng định “... không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp”2. Trên thực tế, Đảng Cộng sản được tổ chức chặt chẽ, khác với các tổ chức khác của giai cấp công nhân, là tổ chức của những người cách mạng, lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp. Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đại hội II của Đảng khẳng định: “Đảng Lao động Việt Nam là đội tiền phong và bộ tham mưu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhưng về thực chất, nó vẫn là một chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam”3.

Ở Việt Nam, xuất phát từ đặc điểm đất nước và điều kiện của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc nên Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Điều này làm cho bản chất giai cấp công nhân của Đảng thống nhất biện chứng với tính nhân dân và tính dân tộc. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã tiếp tục “Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc. Cũng từ đó nhân dân lao động và cả dân tộc đã thừa nhận Đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản và thiết thân của mình”4. Đến nay, cách diễn đạt bản chất của Đảng đã được bổ sung đầy đủ, sâu sắc hơn như ở đầu bài viết đã nêu. Diễn đạt như vậy không hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của Đảng, cũng không trượt sang quan điểm “đảng toàn dân”, “đảng phi giai cấp”, mà diễn giải bản chất giai cấp công nhân của Đảng sâu sắc, biện chứng hơn; phản ánh sự thống nhất về lợi ích, mục tiêu, lý tưởng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, diễn đạt này không trái với học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, bởi: “... giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”5. Khi đã có chính quyền, giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính là đại diện của dân tộc, là chủ nhân của đất nước, thì Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân đương nhiên là đội tiên phong của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.

Bên cạnh đó, Ðảng Cộng sản Việt Nam vốn dĩ ra đời, phát triển ở nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu nên ban đầu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, số lượng còn ít so với các thành phần xã hội khác như giai cấp nông dân,... song luôn chứng tỏ tinh thần cách mạng triệt để, tính tổ chức kỷ luật cao, đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, đủ khả năng lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, tuy số lượng đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ không cao trong Đảng, song có vai trò rất quan trọng. Đại hội IV của Đảng đã khẳng định: “Thành phần xã hội xuất thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên tuy không phải là yếu tố duy nhất hoặc là yếu tố chủ yếu, nhưng rất quan trọng, vì nó góp phần bảo đảm tính chất giai cấp công nhân của Đảng, có ảnh hưởng không nhỏ đến sức chiến đấu, đến sự trong sạch về tư tưởng và tổ chức của Đảng,...”6. Đây là sự vận dụng, phát triển sáng tạo vấn đề thành phần giai cấp trong Đảng ở nước ta. Đồng thời, phù hợp với chỉ dẫn của V.I.Lênin về các tiêu chí đặc biệt quan trọng để xem xét, đánh giá một đảng có thực sự là đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân, một đảng Mác xít chân chính hay không: “Dĩ nhiên, đại bộ phận Công đảng là công nhân. Nhưng nó có thực sự là một chính đảng của công nhân hay không, điều đó không phải chỉ phụ thuộc vào chỗ đảng đó có bao gồm công nhân hay không, mà cũng còn phụ thuộc vào chỗ ai lãnh đạo nó, và ở tính chất của hành động và của sách lược chính trị của đảng đó ra sao nữa”7. Như vậy, số lượng đảng viên là công nhân tuy có vai trò quan trọng song không quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng mà được quyết định bởi: Ai là người lãnh đạo của Đảng; chất lượng của đội ngũ cán bộ chiến lược của Đảng ra sao; đường lối lãnh đạo và hành động của Đảng có đúng đắn hay không. Từ những phân tích trên cho thấy, luận điệu về cái gọi là “Đảng toàn dân” mà các thế lực thù địch rêu rao, gán ghép cho Đảng Cộng sản Việt Nam đều xuất phát từ những ý kiến chủ quan và không có cơ sở khoa học. Điều đó càng lộ rõ mưu đồ của họ nhằm phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng; từ đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm phai nhạt vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, cũng như mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng.

Thực tiễn đã cho thấy, cùng với lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Dù trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng không hoài nghi, dao động, xa rời mục tiêu, lý tưởng, luôn kiên định lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đã được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”8.

Và để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, năng lực hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả. Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thường xuyên bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với yêu cầu, thực tiễn phát triển đất nước, nguyện vọng của nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội. Đồng thời, Đảng không ngừng củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; giữ vững, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo quan điểm, lập trường, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung, thực sự là tấm gương về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những sâu mọt, làm trong sạch bộ máy lãnh đạo.

Mặt khác, Đảng, Nhà nước ta luôn củng cố quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộcchăm lo đời sống, đại diện và bảo vệ lợi ích của toàn dân tộc; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chú trọng hoàn thiện thiết chế dân chủ hóa đời sống xã hội, thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở; thường xuyên đổi mới, hoàn thiện chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện mà Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”9. Xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức liêm chính, thực sự là công bộc của nhân dân.

Cùng với đó, Đảng, Nhà nước ta luôn kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đẩy mạnh công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế thông qua đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; mở rộng hợp tác với các nước, tổ chức quốc tế, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên đã khẳng định, Ðảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, mãi xứng đáng là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc; lãnh đạo đất nước ngày càng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thực tế đó là minh chứng rõ ràng nhất bác bỏ luận điểm xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng mà các thế lực phản động, thù địch vẫn rêu rao, xuyên tạc./.

Thượng tá, TS. PHAN VĂN LƯƠNG - Trung tá, TS. KHÚC VĂN HƯỞNG
______________

1 - Đảng Cộng sản Việt Nam - Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQGST, H. 2016, tr. 4.

2 - V.I.Lênin - Toàn tập, Tập 8, Nxb Tiến bộ, M. 1979, tr. 289. 

3 - Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 159.

4 - Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 51, Nxb CTQG, H. 2007, tr. 30.

5 - C.Mác và Ph.Ăngghen - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQGST, H. 1995, tr. 623 - 624.

6 - Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 37, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 780 - 781.

7 - V.I.Lênin - Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, M. 1977, tr. 312 - 313.

8 - Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQGST, H. 2011, tr. 70.

9 - Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập INxb CTQGST, H. 2021, tr. 192.

 Cách mạng Tháng Tám - chân lý sáng ngời xua tan các luận điệu đen tối

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là bước ngoặt vĩ đại, đưa nước ta trở thành một nước độc lập, tự do, dân chủ, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là những giá trị bất diệt của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mãi là chân lý sáng ngời đã và đang tỏa sáng, thôi thúc chúng ta tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, thách thức trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời, đập tan mọi luận điệu của các thế lực thù địch, phản động.

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang đẩy mạnh các hoạt động Kỷ niệm 79 năm Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - trang vàng chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, sự kiện vĩ đại đã biến mơ ước ngàn đời của nhân dân ta về độc lập dân tộc và xây dựng đất nước phồn vinh, tự do, ấm no, hạnh phúc trở thành hiện thực. Nhưng cũng chính vào thời điểm này, trên một số trang mạng xã hội xuất hiện những luận điệu đen tối nhằm xuyên tạc, công kích lý tưởng và ý nghĩa cao cả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Bất chấp sự thật, những luận điệu đó đã đổi trắng thay đen, coi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chỉ là tự phát của quần chúng nhân dân; do đó không có gì khốc liệt, phức tạp, không có bom rơi, đạn nổ và không có đổ máu, nên đây là sự kiện hết sức bình thường, cần phải lãng quên! Có thể thấy những luận điệu đó không hề hồ đồ, mơ hồ, mà là một ý đồ đen tối, thâm độc, đổi trắng thay đen của các thế lực thù địch. Và, tất nhiên những luận điệu xảo trá đó không thể lừa dối được ai. Bởi, sự thật quá rõ ràng, nhân dân ta rất đỗi tự hào về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và được bạn bè quốc tế thừa nhận, khâm phục ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam.

Thực tế đã chứng minh chân lý sáng ngời: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kiện chính trị đặc biệt thể hiện sự quật khởi của quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng diễn ra liên tục trong suốt 15 năm sau ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930), từ cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, Cuộc vận động dân chủ năm 1936 - 1939, đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Gần 80 năm đã qua càng cho thấy những yếu tố vững chắc để khẳng định Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là mốc son trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta, mà còn là kỳ tích lịch sử ghi đậm dấu ấn vào phong trào cách mạng chung của thế kỷ XX; là sự kiện trời long đất lở chứ khống phải là “sự kiện bình thường” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch; đồng thời, là gương sáng khích lệ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc cho hàng loạt nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh.

Sự kỳ diệu hiếm có của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được làm sáng tỏ bởi một hệ thống các yếu tố sau:

Một làsự chuẩn xác đến kỳ lạ trong việc nhận định thời cuộc của Bộ Tư lệnh Cách mạng. Nhận định đánh giá đúng tình hình chí ít đã là một nửa của thắng lợi. Có thể nêu hai dẫn chứng cụ thể để thấy sự tuyệt vời trong nhận định và định hướng của Bác Hồ và Đảng ta. Thứ nhất, bước vào những năm 40 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những diễn biến hết sức nhanh chóng tác động mạnh đến nước ta. Cùng vào thời điểm này, lãnh tụ Hồ Chí Minh sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài trở về Tổ quốc cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám ở Pắc Bó (tháng 5 năm 1941). Hội nghị quan trọng này đã phân tích những diễn biến mới của tình hình thế giới, nhất là từ khi Pháp đầu hàng Đức, Nhật xâm lược Đông Dương và chỉ ra rằng: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”1Thứ hai, đêm 09/3/1945, Nhật nổ súng đánh Pháp và gần như ngay sau đó, ngày 12/3/1945, Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng, Bắc Ninh đã ra ngay Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị là văn kiện quan trọng của Đảng thể hiện tầm nhìn chiến lược, xuyên suốt giai đoạn tiền khởi nghĩa, có nhận định chính xác tuyệt đối rằng: Pháp sẽ thất bại vì không có tinh thần chiến đấu; thiếu vũ khí tinh xảo; không thống nhất hành động với lực lượng chống Nhật ở Đông Dương. Quả nhiên sau đó Pháp đã thua và đầu hàng Nhật. Từ đó, Chỉ thị định hướng khẩu hiệu hành động là “Đánh đuổi phát xít Nhật” thay cho các khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật, Pháp”, chống lại chính quyền Nhật và chính phủ bù nhìn của bọn Việt gian thân Nhật. Chỉ thị nổi tiếng này thực sự là kim chỉ nam cho các chiến sĩ cộng sản, các thành viên Mặt trận Việt Minh vận dụng, định hướng đấu tranh sát với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, Đó là sự thể hiện trí tuệ khoa học tuyệt vời của Đàng trong đánh giá chính xác tình hình, chứ không phải là sự ăn may như các thế lực thù địch tự rao giảng.

Hai là, sự tài tình trong việc nắm bắt và tận dụng thời cơ. Phải khẳng định rằng, thời cơ cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là những điều kiện chín muồi để có thể phát động đấu tranh giành thắng lợi. Nó chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn, được ví như mũi tên bay hoặc nhanh hơn như một tia chớp. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã khẳng định những cơ hội cho cuộc khởi nghĩa nhanh chín muồi, đó là: (1). Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng); (2). Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước); (3). Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật). Nắm bắt những cơ hội đó, Đảng ta chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Đây là thời kỳ động viên quần chúng sôi nổi, mạnh mẽ, phát triển lực lượng chính trị sâu rộng ở cả nông thôn và thành thị, đồng bằng và rừng núi; kết hợp chặt chẽ các hình thức đấu tranh, đánh du kích, nổi dậy của quần chúng, phá kho thóc giải quyết nạn đói, diệt Nhật trừ gian, đẩy địch vào thế lúng túng, bị động và hoang mang tan rã. Do những nỗ lực chủ quan và yếu tố khách quan làm cho thời cơ đã chín muồi, Đảng ta phát Lệnh Tổng khởi nghĩa. Như vậy, chúng ta nổi dậy khi lực lượng đã được chuẩn bị và đang có khí thế, trong khi quân đội Nhật tuy vẫn còn nguyên vẹn nhưng ý chí bị tan rã; đồng thời, đội quân của phe Đồng minh chưa kịp vào nước ta để tước vũ khí của quân Nhật. Cuộc Tổng khởi nghĩa đã tập trung sức mạnh của nhân dân đập tan bộ máy thống trị của chính quyền trung ương địch ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các thành phố, tỉnh lỵ, làng xã, thôn ấp; chính quyền hoàn toàn về tay nhân dân. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thực sự là nghệ thuật tuyệt vời về việc chọn đúng thời cơ, tận dụng cơ hội giành thắng lợi.

Ba là, sự hoàn hảo của thắng lợi. Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thật ngoạn mục, không thể trọn vẹn hơn. Trong thời gian ngắn, với khí thế cách mạng dâng trào như nước vỡ bờ, cuộc Tổng khởi nghĩa giải quyết bốn mục đích hết sức cơ bản và phức tạp là: chấm dứt chế độ phong kiến hàng nghìn năm; chấm dứt gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp, 05 năm chiếm đóng và khống chế của phát xít Nhật; thống nhất đất nước, đưa giang sơn thu về một mối; giành quyền tự do, dân chủ cho quần chúng lao động, dựng lên nhà nước Cộng hòa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và của Đông Nam Á. Do được chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại phát động nổi dậy đúng lúc, phương thức hành động  hợp lý, mau lẹ và sát hợp với từng địa phương, với một sức mạnh áp đảo nên chúng ta đã giành được chính quyền mà hầu như không đổ máu. Cách mạng nổ ra như sấm sét, bão táp mà không bị tổn thất máu xương, thật là một sự kiện lịch sử hiếm có và là bài học quý. Không chỉ có thế, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn đóng góp cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới một cách thức chặt đứt xiềng xích của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, cổ vũ các dân tộc đứng lên tự giải phóng cho mình.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 càng trọn vẹn hơn khi nó chứng tỏ đó là cuộc cách mạng của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc cách mạng đó đã tập hợp được sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại, đến khi thắng lợi lại hình thành nên sức mạnh mới để dân tộc Việt Nam tiếp tục đương đầu, chiến thắng bọn đế quốc xâm lược và các thế lực thù địch, tay sai. Ngày nay, công cuộc đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giúp đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v. Theo đó, từ một quốc gia kém phát triển, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, tiến bộ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; tiềm lực của đất nước, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam không ngừng nâng cao,… điều đó đã được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”2.

Chính vì thế, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước khởi đầu huy hoàng cho những giai đoạn tiếp theo của cách mạng Việt Nam, mãi là chân lý sáng ngời, in sâu vào ký ức của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau. Chân lý sáng ngời đó sẽ góp phần xua tan những luận điệu đen tối, xuyên tạc, phủ nhận thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của các thế lực thù địch, phản động.

VŨ DŨNG
_________________
       

1 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 113.

2 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 322.

 Phản bác luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam

Gần 80 năm qua, sự ra đời và phát triển của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) với những thành tựu to lớn đạt được đã khẳng định tính cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Thế nhưng, các thế lực thù địch luôn tìm cách bóp méo, xuyên tạc tư tưởng, phủ nhận công lao của Người về vấn đề này. Đó là dã tâm đen tối, luận điệu trơ trẽn, phản động cần phải vạch trần, bác bỏ.

Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh - từ lý luận đến thực tiễn

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới là hệ thống luận điểm về bản chất, tính chất và yêu cầu xây dựng một nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đối lập với mô hình nhà nước của thiểu số kẻ thống trị. Với khát vọng tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần quan điểm “chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội”, nhưng theo Người, vấn đề quan trọng là bản chất của chính quyền nhà nước đó. Trên cơ sở dày công nghiên cứu các mô hình nhà nước đương thời, nhất là nhà nước tư sản ở Mỹ, Pháp,... Người nhận thấy, mặc dù mô hình nhà nước tư sản có những bước tiến bộ hơn so với nhà nước phong kiến chuyên chế, nhưng về bản chất, các nhà nước đó vẫn chỉ là sự thay thế ách thống trị của giai cấp bóc lột này bằng giai cấp bóc lột khác. Chỉ sau khi nghiên cứu về nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Người khẳng định: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra sẽ thi hành những nhiệm vụ,...”1. Người cũng chỉ rõ “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương đều do dân cử ra”2. Điều này có nghĩa là mọi lợi ích, quyền hành, lực lượng đều thuộc về dân và trách nhiệm xây dựng nhà nước là của toàn dân. Trên thực tế, ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẩn trương chỉ đạo tổ chức tổng tuyển cử, chỉ đạo xây dựng hệ thống pháp luật, đặc biệt là xây dựng Hiến pháp để đảm bảo cho Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, pháp quyền. Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thể hiện sự thống nhất chặt chẽ giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là cơ sở lý luận trực tiếp, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng nhà nước ta từ khi ra đời đến nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với sự đồng lòng, tin tưởng và ủng hộ của nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xây dựng và ngày càng hoàn thiện, thực sự là nhà nước kiểu mới - nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, sau gần 40 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ngày càng hoàn thiện và có những bước phát triển mới, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đóng góp vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Điều đó càng khẳng định và minh chứng giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.

Nhận diện và đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc

Với dã tâm, mưu đồ đen tối, các thế lực thù địch đã dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, mượn danh “nghiên cứu lịch sử”,… để xuyên tạc và phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh; trong đó, xuyên tạc tư tưởng về nhà nước kiểu mới là một trọng tâm của chúng.

Một là, chúng xuyên tạc, cho rằng: “Hồ Chí Minh không tuân thủ mô hình nhà nước công nông binh do Đảng Cộng sản Việt Nam chọn từ năm 1930, mà chọn mô hình nhà nước “cộng hòa” kiểu Pháp, không phải là nhà nước chuyên chính vô sản”. Đây là luận điệu thể hiện rõ mưu đồ đen tối nhằm xuyên tạc và phủ nhận công lao của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc kiến tạo nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chúng ta biết, trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã nghiên cứu kỹ lưỡng các mô hình nhà nước trên thế giới và phác họa mô hình “Chính phủ công nông binh” - nhà nước chuyên chính vô sản. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (tháng 5/1941), Người đã đề xuất mô hình Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với mục tiêu “độc lập - tự do - hạnh phúc”, tạo nền tảng để tập hợp lực lượng và thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng thành công, đảm bảo sự ra đời của nhà nước chuyên chính vô sản. Người đã soạn thảo và thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” công bố với thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới, tên gọi “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” - một quốc gia tự do, độc lập. Trong nhà nước này, nhân dân là chủ nhân, với tất cả quyền hành, lực lượng, lợi ích đều thuộc về dân. Như vậy, việc lựa chọn và đặt tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ mô hình nhà nước công nông binh sang mô hình nhà nước đại diện cho khối đoàn kết toàn dân là bước đi sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, phù hợp với đặc thù và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Đó thực chất vẫn là một nhà nước chuyên chính vô sản, chứ không phải “mô hình kiểu Pháp” như các thế lực thù địch đang bịa đặt, rêu rao.

Hai làxuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chúng viện dẫn việc Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời, bao gồm các đảng phái: Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội và mời các nhân sĩ, trí thức tham gia Đoàn Cố vấn tối cao của Chính phủ mới để xuyên tạc rằng: “Nhà nước mà Hồ Chí Minh áp đặt ở Việt Nam không mang bản chất giai cấp công nhân, mà mang tính chất tư sản, tiểu tư sản”. Phải khẳng định rằng, ngay từ đầu, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam luôn mang bản chất giai cấp công nhân và được thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc. Khi chỉ đạo xây dựng Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”3. Nghĩa là, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, hướng đến mục tiêu đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên, ngay sau khi Nhà nước ta ra đời, trước tình thế phải tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai để bảo vệ thành quả cách mạng và chính quyền non trẻ nên việc tập hợp các đại biểu của các đảng phái yêu nước, thậm chí “rút bớt các thành viên cộng sản” để lập chính phủ mới là một sách lược mềm dẻo, sáng tạo và linh hoạt. Điều này thể hiện tầm nhìn và trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, nhằm quy tụ, tập hợp lực lượng và hoàn toàn không phải như các thế lực thù địch xuyên tạc, bịa đặt.

Ba làphủ nhận tính pháp quyền của nhà nước kiểu mới ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng: “Nhà nước mà Hồ Chí Minh xây dựng là nhà nước của dân, do dân, vì dân chỉ là mị dân, không có tính pháp lý” và lập luận rằng: “không thể xây dựng một nhà nước dân chủ trong một đất nước nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam; thể chế nhà nước dân chủ chỉ có ở các nước phát triển phương Tây”, v.v. Những luận điệu này thực chất nhằm xóa nhòa những giá trị lý luận và thực tiễn về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng, lãnh đạo thực hiện. Trên thực tế, ngay từ năm 1919, trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Chính phủ Pháp và chính quyền thuộc địa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu ban hành hiến pháp, bãi bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng các đạo luật và khẳng định: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền hợp hiến, có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là điểm nổi bật trong xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam của Hồ Chí Minh. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách là phải có một hiến pháp dân chủ và đề nghị “Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay” cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu trong cả nước để sớm có quốc hội và nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra vào ngày 06/01/1946. Sau đó, Quốc hội đã bầu ra Chính phủ của toàn dân. Như vậy, cả trong tư tưởng và thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tính pháp lý và vai trò làm chủ của nhân dân trong nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Điều này đã phản bác hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, cho rằng đó là “nhà nước mị dân, không có tính pháp lý”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng chân chính, cả cuộc đời luôn phấn đấu vì dân, vì nước và thực tiễn trong suốt 24 năm đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch nước, Người đã cống hiến hết mình vì dân tộc, cùng toàn Đảng, toàn dân đạt được những thắng lợi to lớn. Mong muốn tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”4, và “tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”5. Dù có nhìn ở khía cạnh nào đi chăng nữa, thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng ngời, tận trung với nước, tận hiếu với dân, không như những gì các thế lực thù địch bôi nhọ, xuyên tạc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, cùng di sản tư tưởng vô giá, trong đó có tư tưởng về nhà nước kiểu mới. Nắm vững tư tưởng của Người, vận dụng và phát triển sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ, mà còn là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đó là hành động thiết thực nhất phản bác, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN SỸ HỌA - Đại tá, TS. ĐÀM QUANG ĐỨC

 Bàn về tổ chức, sử dụng lực lượng vũ trang quân khu ứng phó với dịch bệnh

Lực lượng vũ trang quân khu là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng cũng như ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố, thiên tai, dịch bệnh và tìm kiếm, cứu nạn trên địa bàn, v.v. Từ thực tiễn phòng, chống đại dịch Covid-19 và những nguy cơ tiềm ẩn khó lường của dịch bệnh hiện nay, đòi hỏi cần nghiên cứu thấu đáo việc tổ chức, sử dụng lực lượng vũ trang quân khu trong ứng phó với hiểm họa dịch bệnh.

Nước ta nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, cùng với đó là nhu cầu giao thương, du lịch ngày càng tăng cao nên nguy cơ lây lan, bùng phát của các loại dịch bệnh là rất lớn. Ứng phó với dịch bệnh là một nhiệm vụ chính trị quan trọng - nhiệm vụ “chiến đấu trong thời bình” của toàn quân, trong đó có lực lượng vũ trang các quân khu. Đây là lực lượng tại chỗ, luôn nắm chắc tình hình và hoạt động ổn định trên địa bàn nên được xác định là một trong những lực lượng nòng cốt phối hợp cùng cấp ủy, chính quyền địa phương, các ban, ngành, đoàn thể và các lực lượng khác ứng phó và khắc phục hậu quả do dịch bệnh gây ra ngay từ cơ sở. Đặc biệt, khi dịch bệnh xảy ra, nhất là dịch bệnh truyền nhiễm có khả năng lây lan nhanh, đe dọa tính mạng, sức khỏe của nhân dân thì vai trò, hiệu quả của lực lượng vũ trang quân khu trong triển khai tổng hợp các biện pháp phòng, chống dịch bệnh kịp thời càng có ý nghĩa quan trọng. Trong đó, việc tổ chức, sử dụng lực lượng hợp lý, chặt chẽ, khoa học, là vấn đề có ý nghĩa quyết định nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao chất lượng, hiệu quả phòng, chống dịch.

Hiện nay, việc ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống nói chung, dịch bệnh nói riêng là một nội dung quan trọng trong hoạt động phòng thủ dân sự. Công tác này được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Chính phủ, trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, quản lý, điều hành của chính quyền các cấp và người đứng đầu các cơ quan, tổ chức1. Từ quy trình đó và dưới sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng thì quân khu và các đơn vị trực thuộc từ cấp trung đoàn và tương đương trở lên phải tổ chức ban chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh, trực tiếp làm tham mưu cho cấp ủy, người chỉ huy cùng cấp lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động quan trọng này. Đồng thời, chỉ đạo cơ quan quân sự các địa phương tham mưu cho cấp ủy, chính quyền thành lập ban chỉ đạo ở từng cấp theo quy định.

Do tính chất phức tạp, nguy hiểm khó lường của dịch bệnh, đòi hỏi quân khu phải chỉ đạo các đơn vị dự kiến thành phần, quy mô tổ chức ban chỉ đạo phòng chống dịch các cấp và xây dựng quy chế hoạt động, mối quan hệ công tác của ban chỉ đạo, v.v. Đây là cơ sở để ban chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh các cấp, trước hết là cấp quân khu được thành lập, hoạt động ngay sau khi dịch bệnh được công bố. Để hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thành phần ban chỉ đạo cấp quân khu có thể gồm các đồng chí: phó tư lệnh quân khu phụ trách hậu cần làm trưởng ban; phó tham mưu trưởng quân khu, phó chủ nhiệm chính trị, phó chủ nhiệm hậu cần, phó chủ nhiệm kỹ thuật quân khu làm phó trưởng ban và chỉ huy các cơ quan, đơn vị2 làm ủy viên. Ban chỉ đạo phòng, chống dịch cấp quân khu làm tham mưu cho thường vụ đảng ủy, bộ tư lệnh quân khu và là trung tâm phối hợp, hiệp đồng với cấp ủy, chính quyền các tỉnh, thành phố trên địa bàn lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động phòng, chống dịch. Đồng thời, nhanh chóng xây dựng, ban hành quy chế làm việc, thành lập tổ giúp việc, có thể do đồng chí phó chủ nhiệm hậu cần quân khu làm tổ trưởng. Tổ giúp việc tham mưu, đề xuất triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh trong quân khu, giúp ban chỉ đạo ban hành các văn bản, tiếp nhận thông tin về dịch bệnh, tổng hợp tình hình báo cáo (định kỳ, đột xuất) theo yêu cầu của ban chỉ đạo. Tăng cường phối hợp với các cơ quan của Chính phủ, Bộ Y tế, Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh Bộ Quốc phòng; chỉ đạo công tác chuyên môn, tham mưu cho ban chỉ đạo quân khu triển khai công tác kết hợp quân - dân y, lựa chọn cơ sở chẩn đoán, xây dựng phương án vận chuyển, cấp cứu người mắc bệnh; tiến hành kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống dịch bệnh trên địa bàn. Căn cứ tình hình cụ thể của dịch bệnh, quân khu có thể thành lập ban chỉ huy ứng phó cấp quân khu và chỉ đạo thành lập đến cấp huyện đúng, đủ thành phần theo Nghị định số 02/2019/NĐ-CP của Chính phủ về Phòng thủ dân sự. Quá trình hoạt động, ban chỉ đạo quân khu trực tiếp chỉ đạo công tác phòng, chống dịch bệnh trong toàn quân khu theo kế hoạch của Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc gia, Ban Chỉ đạo Bộ Quốc phòng và hướng dẫn của Bộ Y tế; chỉ đạo tổ chức thực hiện đồng bộ các biện pháp ứng phó với từng cấp độ dịch, vừa bảo đảm tốt yêu cầu nhiệm vụ phòng, chống dịch bệnh, vừa bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ quân sự, quốc phòng theo chức năng, nhiệm vụ. Thực tế trong phòng, chống dịch Covid-19, Quân khu 7 đã ban hành Quyết định số 779/QĐ-BTL, ngày 20/3/2020 thành lập Ban Chỉ huy lâm thời phòng thủ dân sự Quân khu 7 (Ban Chỉ huy ứng phó với dịch bệnh), gồm các đồng chí: Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu làm Trưởng ban; Phó Tư lệnh Quân khu phụ trách hậu cần làm Phó ban thường trực; Phó Chính ủy Quân khu và các đồng chí Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố làm Phó Trưởng ban và các ủy viên (Phó Tham mưu trưởng phụ trách tác chiến; Chủ nhiệm Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật Quân khu; Chánh Thanh tra quốc phòng; Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh; Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng; đại diện Ban Giám đốc Công an, Sở Y tế các tỉnh, thành phố), bảo đảm đủ sức chỉ huy phòng, chống dịch hiệu quả.

Cùng với tổ chức hệ thống ban chỉ đạo phòng, chống và ban chỉ huy ứng phó với dịch bệnh, các quân khu cần tổ chức lực lượng ứng phó với dịch bệnh ở các cấp. Lực lượng này được tổ chức dựa trên cơ sở lực lượng của phòng quân y quân khu; ban quân y các sư đoàn, tỉnh, thành phố; quân y lữ đoàn; hệ thống y học dự phòng (đội y học dự phòng và các tổ phòng chống dịch của các đơn vị); hệ thống tiếp tế gồm các kho thuốc, trang bị (phân kho quân y/kho quân khu, bệnh viện tỉnh, thành phố, sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn); hệ thống cơ sở điều trị (các bệnh viện quân y, quân dân y; bệnh viện các tỉnh, thành phố; bệnh xá sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn; phòng khám, trung tâm y tế quân dân y,...). Lực lượng tại chỗ do bộ chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố chỉ đạo mỗi quận, huyện sử dụng 01 trung đội dân quân thường trực và sẵn sàng huy động các trung đội, đại đội dân quân cơ động, các trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, trung đội trực thuộc; các quận, huyện chỉ đạo mỗi xã, phường sử dụng 01 tiểu đội dân quân thường trực thực hiện nhiệm vụ phối hợp bảo vệ các mục tiêu và tham gia phòng, chống dịch bệnh. Đối với lực lượng cơ động, quân khu sử dụng lực lượng của các trung đoàn thuộc sư đoàn chủ lực; các lữ đoàn, tiểu đoàn binh chủng trực thuộc thực hiện nhiệm vụ chốt chặn các đầu mối giao thông quan trọng, ngăn chặn người, phương tiện qua lại giữa các vùng có dịch; tuần tra, tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành nghiêm quy định về phòng, chống dịch; vận chuyển lương thực, thực phẩm, v.v. Về lực lượng tham gia phối hợp, quân khu chỉ đạo các địa phương, đơn vị căn cứ vào tình hình dịch bệnh trên địa bàn để sử dụng lực lượng còn lại tham gia làm nhiệm vụ phòng, chống dịch bệnh kết hợp thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng cơ động bảo vệ an toàn đơn vị. Theo đó, cùng với sử dụng lực lượng bộ đội thường trực và lực lượng dân quân tự vệ, cần chú trọng huy động, tổ chức sử dụng lực lượng dự bị động viên nhằm thực hiện tốt phương châm “4 tại chỗ” trong phòng, chống dịch. Tuy nhiên, để nâng cao năng lực ứng phó với dịch bệnh tại chỗ, các địa phương phải đặc biệt quan tâm đến việc quản lý, huấn luyện, huy động lực lượng này; trong đó, cần chú trọng quan tâm đến sử dụng lực lượng dự bị động viên binh chủng (công binh, hóa học,..) có trang bị phương tiện kỹ thuật để phục vụ cho việc xử lý một số tình huống ở các cấp độ dịch, bảo đảm cho lực lượng này được tổ chức, chỉ huy chặt chẽ, tạo cơ sở để huy động được nhanh chóng thực thi nhiệm vụ trong tình trạng dịch bùng phát nhanh, khó kiểm soát.

Bảo đảm hậu cần có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác phòng, chống dịch bệnh; do đó, việc sử dụng lực lượng hậu cần cần tính toán một cách khoa học. Theo đó, ngay từ khi chưa xuất hiện dịch bệnh, quân khu chỉ đạo cục hậu cần và các cơ quan, đơn vị rà soát thực lực, tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy xây dựng kế hoạch (dự kiến) thành lập các bệnh viện dã chiến truyền nhiễm (toàn quân khu có thể tổ chức từ 03 - 04 bệnh viện), với quy mô từ 300 đến 500 giường/bệnh viện cùng các phương tiện, trang thiết bị hậu cần phục vụ đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng. Để đáp ứng yêu cầu cao trong phòng, chống dịch, những bộ phận làm nhiệm vụ tại các địa bàn dịch bùng phát mạnh cần phối hợp với lực lượng của Bộ Y tế, y tế khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố phải cử cán bộ thuộc cục hậu cần có trình độ, kinh nghiệm trực tiếp xuống chỉ đạo. Do nhu cầu cao về số lượng và chuyên môn, quân y các đơn vị tham mưu, lựa chọn một số chiến sĩ có trình độ văn hóa 12/12 trở lên và một số quân nhân chuyên nghiệp để tổ chức bồi dưỡng, tập huấn và thành lập lực lượng “chiến sĩ vệ sinh” tham gia phục vụ tại các điểm cách ly y tế, bệnh xá, bệnh viện. Đồng thời, tổ chức lực lượng bảo đảm ăn uống (nhân viên nhà ăn, nhà bếp; lực lượng tiếp phẩm; tiếp tế ăn uống,...) để phục vụ người bệnh tại các bệnh viện, bệnh xá, khu cách ly. Ngành doanh trại   các đơn vị tổ chức kiện toàn lực lượng đáp   ứng yêu cầu dồn dịch, bảo đảm ăn ở, sinh hoạt trong điều kiện có dịch và giãn cách phòng, chống. Cùng với đó, sử dụng lực lượng vận tải của các cơ quan, đơn vị (có lực lượng dự bị, thay thế); trong đó, chú trọng chuẩn bị phương tiện phù hợp với yêu cầu vận chuyển (máy bay, ô tô, tàu, xuồng,...), đáp ứng nhu cầu vận chuyển số lượng lớn ca bệnh và trang thiết bị y tế, nhu yếu phẩm,... khi dịch bệnh bùng phát trên diện rộng. Trong trường hợp cần thiết có thể huy động các tổ chức, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp (bệnh viện, bưu điện, hội chữ thập đỏ, đoàn thanh niên, tổ chức thanh niên xung phong, các đơn vị, công ty xây dựng,...) cùng tham gia.

Tổ chức, sử dụng lực lượng vũ trang quân khu ứng phó với dịch bệnh là nội dung quan trọng, quyết định đến thắng lợi nhiệm vụ phòng, chống dịch bệnh trên địa bàn (nếu xảy ra). Đây mới là nghiên cứu bước đầu, cần tiếp tục được đẩy mạnh trong thời gian tới, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng tổ chức, sử dụng lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, tạo sức lan tỏa hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

 Khẳng định sức mạnh, khả năng cơ động của quân đoàn “tinh, gọn mạnh”

Sáng 17/9, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị rút kinh nghiệm thành lập Quân đoàn 12. Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì hội nghị. Dự hội nghị có Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam.



Ngay sau khi Quân đoàn thành lập đã khẳng định được sức mạnh, khả năng cơ động, năng lực chỉ huy, hiệp đồng tác chiến của cán bộ các cấp và khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ tác chiến trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao. 

Qua gần một năm kiện toàn, Quân đoàn 12 đã khắc phục khó khăn ban đầu, từng bước ổn định, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Các cơ quan, đơn vị trong toàn Quân đoàn duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sẵn sàng chiến đấu, tổ chức tuần tra, canh gác, bảo đảm an toàn các mục tiêu, nhất là trong các dịp lễ, Tết và các sự kiện trọng đại của Đảng, Nhà nước.

Đặc biệt, Quân đoàn đã chủ động xây dựng, điều chỉnh củng cố các hệ thống văn kiện sẵn sàng chiến đấu, phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn theo phương án mới ở các cấp; hiệp đồng với các địa phương phương án, nhiệm vụ ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn; chủ động luyện tập các phương án chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Phát biểu tại hội nghị, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương ghi nhận và biểu dương kết quả thực hiện nhiệm vụ của Quân đoàn 12. Thượng tướng Nguyễn Tân Cương đề nghị các cơ quan, đơn vị chức năng của Bộ Quốc phòng đánh giá, rút kinh nghiệm, khắc phục những mặt hạn chế trong quá trình thành lập Quân đoàn 12 để vận dụng hiệu quả vào việc thành lập Quân đoàn 34. Trong đó, tập trung vào việc kiện toàn các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng bảo đảm cho mọi hoạt động của Quân đoàn 34 không bị gián đoạn.

Các cơ quan chức năng triển khai thực hiện đúng quy trình, quy định theo phân cấp việc điều động, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ; bảo đảm đội ngũ cán bộ, hạ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật của Quân đoàn sau khi thành lập có đủ số lượng, chất lượng. Đặc biệt, cần thực hiện tốt công tác chính sách, nhất là giải quyết số cán bộ dôi dư, số cán bộ quá tuổi quy hoạch theo đúng quy định.

Nguồn: qdnd.vn

Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh về "Đoàn kết là sức mạnh của Đảng"

 Cùng với việc chỉ ra vai trò to lớn của sự đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đưa ra cách thức, phương pháp để thực hiện đoàn kết nhất trí trong Đảng. Người viết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Đây không chỉ là sự đúc kết, khái quát mang tầm lý luận sâu sắc mà còn là biểu hiện tầm cao trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nêu lên mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ và đoàn kết trong Đảng: Không thực hiện dân chủ thì không đoàn kết được, nhất là dân chủ trong Đảng. Vì Đảng ta cầm quyền, không dân chủ trong Đảng thì làm sao dân chủ trong dân được. Nhờ có dân chủ mà Đảng ta đã khơi dậy, phát huy cao nhất trí tuệ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Nhờ có dân chủ trong Đảng nên đã khắc phục được tình trạng bè cánh, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, xa rời quần chúng. Vì vậy, “thực hành dân chủ rộng rãi” là điều vô cùng cần thiết trong Đảng.

9.9 TT (Sưu tầm)


Tìm hiểu Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng vững mạnh

 Chủ tịch Hồ Chí Minh “nói về Đảng” đầu tiên:

Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc từ năm 1965 và nhiều lần chỉnh sửa (năm 1966, 1967), bổ sung (năm 1968, 1969). Nhưng dù có sửa lại hay bổ sung cho hoàn chỉnh thì vấn đề xây dựng Đảng vẫn luôn được Bác đặt lên vị trí hàng đầu.

Trong Di chúc được công bố năm 1969, Bác dành phần đầu tiên (sau lời giới thiệu về Di chúc) để “nói về Đảng”. Trước tiên, Bác khẳng định vị trí, vai trò của Đảng: “Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Đây là sự tổng kết mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc về vị trí, vai trò của Đảng. Thực tế cho thấy, từ khi được thành lập, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta tiến hành Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, lập nên nhà nước công nông đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Tiếp đó, Đảng lãnh đạo Nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược. Và cho đến thời điểm Người viết Di chúc, Đảng lãnh đạo Nhân dân tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất nước nhà.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, yếu tố cốt lõi mang đến sự thành công trong việc tổ chức, lãnh đạo của Đảng đó là “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc”. Đây chính là yếu tố quan trọng giúp cho Đảng có khả năng tổ chức, lãnh đạo, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, phát huy được sức mạnh của cả dân tộc trong sự nghiệp cách mạng. Do đó, Người căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là cơ sở của đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế, là sức mạnh của Đảng và là nguồn gốc của mọi thắng lợi. Có giữ gìn được đoàn kết trong Đảng mới giúp cho Đảng sáng suốt trong tổ chức, lãnh đạo Nhân dân, trong xác định đường lối cách mạng. Ngược lại, Đảng không giữ gìn được sự đoàn kết, khác nào mắt bị hỏng con ngươi, như người mù không thấu tỏ đường đi. Đó chính là hàm ý sâu xa ẩn trong câu so sánh của Bác: “giữ gìn đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

9.9 TT (Sưu tầm)



Bộ đội Cụ Hồ “bốn dám”

 


Đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung là một trong những đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ được khái quát trong Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12 của Quân ủy Trung ương (sau đây gọi là Nghị quyết 847).

Trước hết, phải khẳng định rằng, đổi mới, sáng tạo và “bốn dám” (dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm) vì lợi ích chung là đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ được hun đúc trong kháng chiến, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua thời gian, phẩm chất đó ngày càng được bồi đắp, phát huy. Thực tiễn cho thấy, hơn 77 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội ta luôn quan tâm, coi trọng, động viên, cổ vũ các phong trào thi đua, sáng tạo trong đội ngũ cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ.

Từ thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và lao động xây dựng đất nước đã xuất hiện nhiều tấm gương Bộ đội Cụ Hồ đổi mới, sáng tạo và “bốn dám” vì lợi ích dân tộc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh đầu tiên của Quân đội ta là người luôn đau với từng vết thương của mỗi người chiến sĩ, tiếc từng giọt máu của bộ đội. Trong những giờ phút cam go nhất của trận chiến, tại cuộc họp Đảng ủy và Bộ chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ, mặc dù nhiều ý kiến chưa thông suốt nhưng Đại tướng vẫn quyết định chuyển phương châm đánh nhanh, thắng nhanh sang đánh chắc, tiến chắc, hoãn nổ súng, kéo pháo ra. Thực tế lịch sử đã cho thấy đó là một quyết định sáng suốt và đầy trách nhiệm của Đại tướng và Bộ chỉ huy chiến dịch, giúp quân và dân ta giành thắng lợi "lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu".

Phát huy truyền thống quân đội “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, trong môi trường đặc thù, nhiều gian khó, nên phẩm chất đổi mới, sáng tạo và "bốn dám” vì lợi ích chung càng được bộc lộ rõ. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đổi mới, sáng tạo được coi là động lực quan trọng để phát triển quốc gia.

Chúng ta đều biết, khẳng định và làm nên tên tuổi của Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel) hôm nay chính là từ quyết sách của đơn vị: Để giải quyết việc khó nhất, Viettel phải đi kiếm tìm, chiêu mộ và đào tạo nên những người giỏi nhất. Với khẩu hiệu: “Đổi mới, đổi mới, đột phá, tiên phong” từ trong thực tiễn công tác đã xuất hiện nhiều tấm gương biết cách giải quyết việc khó nhất theo cách làm khác biệt, đạt hiệu quả cao; đóng góp được nhiều nhất cho tổ chức, đơn vị. Đó là minh chứng về tinh thần đổi mới, sáng tạo và “bốn dám” của Bộ đội Cụ Hồ trong thời đại 4.0 hiện nay.

Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, trong cuộc chiến chống “giặc Covid-19” vừa qua, đã xuất hiện nhiều tấm gương cá nhân, tập thể dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung. Trong cuộc chiến ấy, nhiều gia đình quân nhân có cha mẹ, vợ con bị nhiễm Covid-19, nhiều người thân của cán bộ, chiến sĩ từ trần, nhưng vì công cuộc chống dịch, bảo vệ nhân dân, họ đã nén đau thương, gác lại niềm riêng để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ.

Không ít cán bộ, chiến sĩ bị nhiễm bệnh trong quá trình chống dịch, vừa khỏi bệnh lại xung phong ở lại tiếp tục phục vụ nhân dân. Cùng với đó, các đơn vị quân đội tăng cường vào miền Nam chống dịch tựa như những cánh quân, vững vàng, linh hoạt, mưu trí, sáng tạo, xử lý tốt các tình huống, đem lại cuộc sống mới bình yên cho nhân dân.

Từ năm 2014 đến nay, bằng việc tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, đã có hàng trăm cán bộ, chiến sĩ khắc phục sự khác biệt về ngôn ngữ, phong tục, tập quán địa phương, tích cực tham gia các hoạt động giúp đỡ nhân dân nước sở tại, qua đó tạo được uy tín, ấn tượng tốt đẹp, góp phần giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam thân thiện, yêu hòa bình với bạn bè quốc tế; góp phần thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. 

Trên đây chỉ là một trong nhiều ví dụ về tinh thần đổi mới, sáng tạo và “bốn dám” vì lợi ích chung của Bộ đội Cụ Hồ. Mỗi cán bộ, chiến sĩ, tuy trên những cương vị khác nhau nhưng đều có một mẫu số chung, đó là, xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và tâm huyết, trăn trở với công việc mà luôn mạnh dạn trong suy nghĩ, quyết đoán trong hành động, sẵn sàng hy sinh lợi ích bản thân vì mục tiêu phát triển bền vững của đất nước, của cơ quan, đơn vị.

Thực tiễn cũng cho thấy, càng trong khó khăn, gian khổ, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ càng tỏa sáng, có sức thuyết phục, góp phần bồi dưỡng nhận thức, tư tưởng, tình cảm, khơi dậy và nhân lên mặt tích cực trong nhân dân và bạn bè quốc tế.

Chúng ta khuyến khích tinh thần đổi mới, sáng tạo và “bốn dám” vì lợi ích chung. Thế nhưng thực tế hiện nay vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên có tư tưởng “trung bình chủ nghĩa”, làm việc theo kiểu hết giờ làm, chưa tích cực đổi mới sáng tạo, trông chờ, thụ động, né tránh công việc được giao, khi gặp việc khó thì dồn lên cấp trên. Nguyên nhân một phần vì tâm lý sợ sai sót, vì đổi mới, sáng tạo là không đi theo lối mòn, nên rất nhiều rủi ro.

Trong khi đó, một số tổ chức, cơ quan còn có tâm lý áp đặt, quy chụp khi đánh giá cán bộ, đảng viên mới gặp sai sót, khó khăn ban đầu, điều đó dễ làm nhụt chí tiến bộ. Nghị quyết 847 chỉ rõ: Còn một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức chưa sâu sắc, trách nhiệm trong giữ gìn, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ chưa cao; thiếu tự giác, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, băn khoăn dao động trước diễn biến phức tạp của tình hình... Thực trạng trên đã làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ và quân đội. 

Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ không phải là sản phẩm tự phát, bất biến, mà là kết quả tất yếu của quá trình lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện không ngừng và luôn vận động, phát triển phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và yêu cầu xây dựng quân đội qua từng giai đoạn cách mạng.

Để phát huy phẩm chất đổi mới, sáng tạo và “bốn dám” vì lợi ích chung, trước hết, các cấp ủy, tổ chức đảng cần có chính sách khuyến khích, động viên cán bộ đổi mới, sáng tạo và “bốn dám”. Mỗi cơ quan, đơn vị cần thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tạo môi trường tốt, dân chủ để cán bộ, đảng viên rèn luyện, dám bày tỏ chính kiến, cống hiến trí tuệ, sức lực cho Đảng, Tổ quốc và nhân dân.  

Đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, đảng viên phát huy tính sáng tạo, đổi mới; theo dõi, kiểm tra, giám sát, phát hiện những vấn đề nảy sinh, kịp thời động viên, hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn. Trong đánh giá cán bộ, đảng viên cần phải xem sự sáng tạo, đột phá của cán bộ là tiêu chí quan trọng.

Cán bộ, đảng viên tốt hay kém đến đâu thì ghi nhận và đánh giá đến đó; cương quyết không “dĩ hòa vi quý”, cào bằng trong đánh giá cán bộ. Mặt khác, cần định kỳ sơ kết, tổng kết, đẩy mạnh tuyên truyền, nhân rộng những mô hình, giải pháp; biểu dương, khen thưởng xứng đáng; ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo, hiệu quả.

Nghị quyết 847 cũng chỉ rõ: Tăng cường công tác lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng tiếp tục phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Bởi vậy, mỗi cán bộ, đảng viên dù trên cương vị nào cũng phải mạnh dạn phát huy phẩm chất đổi mới, sáng tạo và “bốn dám”; phải có khát vọng vươn lên, thể hiện được bản lĩnh, trí tuệ, sự quyết đoán, xuất phát từ cái chung, không vì danh vọng, tư lợi cá nhân.

Quân đội là môi trường đặc thù nên càng trong khó khăn, cán bộ, đảng viên càng cần năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, không được thụ động, trông chờ, ỷ lại mới có thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.

Đổi mới, sáng tạo và “bốn dám” thiết nghĩ cũng không phải là việc gì “xa vời, cao siêu” mà mỗi cán bộ, đảng viên nên bám vào thực tiễn công tác của cơ quan, đơn vị để đề xuất cái mới, sáng kiến phục vụ nâng cao hiệu quả công tác của đơn vị, ví như: Người cán bộ quân nhu thì sáng chế ra máy thái thịt cho bếp ăn đơn vị; người lính vận tải thì sáng chế ra thiết bị nâng hạ hộp số ô tô; người lính quân y thi sáng chế ra máy phun khử khuẩn để phòng, chống dịch Covid-19...

Đối với cán bộ là chuyên gia, nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong quân đội cũng cần đột phá vào các công trình, các lĩnh vực mũi nhọn, các chương trình, đề án góp phần tạo ra hiệu quả bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế-xã hội. Tựu trung lại, mỗi sáng kiến, đề xuất dù lớn hay nhỏ đều thể hiện tinh thần đổi mới, sáng tạo và “bốn dám” vì lợi ích chung, đó là phẩm chất cao quý của Bộ đội Cụ Hồ ngày nay.

         

70 năm truyền thống thanh niên Quân đội: Vươn tới những đỉnh cao quyết thắng

 


Thứ Hai, 07/02/2022 14:58 | 

Thời sự

Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, thanh niên là lực lượng đông đảo, có tiềm năng lớn, lực lượng dự bị hùng hậu của Đảng, bổ sung và kế tục đội ngũ cán bộ cho Quân đội.

Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu, cống hiến và trưởng thành (8/2/1952 - 8/2/2022), dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng, trực tiếp là sự chỉ đạo của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và hướng dẫn của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; tổ chức đoàn trong Quân đội nhanh chóng lớn mạnh, trở thành hạt nhân chính trị của phong trào thanh niên, là nòng cốt tổ chức, tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, phát huy vai trò của thanh niên Quân đội trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.

Các thế hệ cán bộ, đoàn viên, thanh niên Quân đội đã đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến đấu anh dũng và chiến thắng vẻ vang, có nhiều cống hiến xuất sắc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân viết nên những trang sử hào hùng, xây đắp nên truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. 

Liên kết phong trào thanh niên Quân đội với phong trào thanh niên toàn quốc

Những năm đầu của thập kỷ 50, thế kỷ XX, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bước vào giai đoạn ác liệt, cùng với phong trào đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang của quần chúng nhân dân, Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh chóng cả về tổ chức và hoạt động. Tuy nhiên, trong Quân đội, hệ thống tổ chức Đoàn chưa được thành lập, điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết cần đưa những người cộng sản trẻ tuổi vào sinh hoạt trong một tổ chức quần chúng tiên tiến, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Quyết nghị của Tổng Quân ủy về tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Quân đội, củng cố, kiện toàn các tổ chức quần chúng, thống nhất hệ thống tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn quốc, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã thống nhất với Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam chỉ đạo việc nghiên cứu, thành lập tổ chức Đoàn Thanh niên Cứu quốc trong Quân đội.

Sau 5 tháng nghiên cứu, chuẩn bị về mọi mặt, ngày 8/2/1952, Chi đoàn Thanh niên Cứu quốc đầu tiên trong Quân đội được thành lập tại Đại đội 29, Tiểu đoàn 183, Trung đoàn 246 (Đoàn Tân Trào), là đơn vị bảo vệ Trung ương Đảng, bảo vệ Bác Hồ và Bộ Tổng Tư lệnh (nay là Đại đội 9, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 246, Sư đoàn 346, Quân khu 1). Chi đoàn có 32 đoàn viên, do đồng chí Phạm Ngọc Rao, Chi ủy viên, Trung đội trưởng Trung đội 1 làm Bí thư. Đến tháng 9/1952, Chi đoàn Thanh niên Cứu quốc được thành lập ở tất cả các đại đội và các ban chuyên môn của Trung đoàn 246, đánh dấu bước phát triển mới của công tác thanh niên trong Quân đội.

Ngay sau khi ra đời, Chi đoàn Thanh niên Cứu quốc đầu tiên của Quân đội đã có nhiều hoạt động thiết thực trong công tác tập hợp, giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện thanh niên; phát huy vai trò xung kích sáng tạo của tuổi trẻ vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị. 

Cùng với quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội, hệ thống tổ chức đoàn và đội ngũ cán bộ đoàn, cán bộ đảm nhiệm công tác thanh niên trong Quân đội được quan tâm, chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dư­ỡng phát triển từ cơ sở đến toàn quân. Khởi nguồn từ một chi đoàn, ngày nay, tổ chức đoàn được xây dựng trong toàn quân, trải khắp mọi miền, trở thành lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Sự kiện Chi đoàn Thanh niên Cứu quốc trong Quân đội ra đời khẳng định nguyên tắc Đảng luôn nắm chắc, liên hệ mật thiết với lực lượng quần chúng, thấy rõ vai trò và sức mạnh của quần chúng để tổ chức tập hợp quần chúng; đồng thời đáp ứng nguyện vọng thiết tha của thanh niên Quân đội là được sống, học tập và rèn luyện trong tổ chức của những ngư­ời cộng sản trẻ tuổi để thi đua phấn đấu, cống hiến tài năng, sức lực, trí tuệ cho cách mạng. 

Đặc biệt, sự kiện Chi đoàn Thanh niên Cứu quốc trong Quân đội ra đời còn là một mốc son lịch sử quan trọng đối với sự ra đời, phát triển của công tác đoàn và phong trào thanh niên trong Quân đội. Kể từ đó, cùng với các tổ chức khác trong Quân đội, tổ chức đoàn, hệ thống cơ quan thanh niên và nay là hệ thống phòng, ban (trợ lý) công tác quần chúng (thanh niên) các cấp cho đến Ban Thanh niên Quân đội đã không ngừng phát triển, lớn mạnh, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Từ những căn cứ lịch sử, thể theo nguyện vọng của các thế hệ cán bộ, đoàn viên, thanh niên trong Quân đội, ngày 20/6/2016, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã ký Quyết định số 1034/QĐ-CT, công nhận ngày 8/2/1952 là ngày Truyền thống của Thanh niên Quân đội và Ban Thanh niên Quân đội.

 

“Phi chính trị hóa” quân đội – thủ đoạn cũ nhưng ngày càng tinh vi, sảo quyệt

 


“Phi chính trị hóa” quân đội là một chiêu bài, âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm, tinh vi, sảo quyệt, thâm độc trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta. Vì thế, đấu tranh phòng, chống âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội trở thành tất yếu khách quan, một nội dung đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng cũng chỉ rõ một trong những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là: “Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hoá” quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an”.

Mục đích của âm mưu “Phi chính trị hóa” quân đội là tách Quân đội nhân dân Việt Nam ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phá hoại nền tảng tư tưởng của quân đội, xuyên tạc, phủ định mục tiêu, lý tưởng và bản chất, truyền thống của quân đội ta… từ đó làm mất bản chất giai cấp công nhân của quân đội, mất phương hướng và mục tiêu chiến đấu, không còn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn này.
“Phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nói chung, “phi chính trị hóa” quân đội nói riêng là một thủ đoạn không mới, nhưng cực kỳ nguy hiểm, bởi nội dung của âm mưu này hết sức đa dạng, với nhiều biểu hiện khác nhau. Thực chất của những toan tính phản động đó là phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam. Để thực hiện điều đó, lực lượng thù địch, phản động ra sức tuyên truyền phủ nhận quan điểm, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân; xuyên tạc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối quân sự của Đảng ta. Đặc biệt, thời gian gần đây, chúng tăng cường xuyên tạc, phủ nhận chức năng, nhiệm vụ của quân đội nhân dân; xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng về công tác QP-AN, xây dựng LLVT nhân dân, xây dựng nền QPTD gắn với thế trận ANND…
Để âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, các thế lực thù địch không từ bỏ bất cứ một phương thức, biện pháp nào, trong đó, chúng triệt để lợi dụng mạng internet để thực hiện mưu đồ đen tối, như: Sử dụng các website, các trang mạng xã hội, blogger… để lôi kéo, tuyên truyền kích động bạo lực, khủng bố, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; cổ xúy tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong, mỹ tục; đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân… Hoạt động chống phá diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi vì đối tượng chúng hướng đến để tuyên truyền những thông tin, luận điệu xuyên tạc là các tầng lớp nhân dân, nhưng trọng tâm, trọng điểm là thế hệ trẻ, trong đó có quân đội.

Ba2505 

 

Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị tiếp tục đẩy mạnh thực hiện, ngày càng quyết liệt ở tất cả các cấp, các ngành với quan điểm “không có vùng cấm,” “không có hạ cánh an toàn” và đã đạt được những kết quả rõ rệt; được người dân đồng tình, ủng hộ; các tổ chức quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

 


Được triển khai quyết liệt trong nhiệm kỳ XII của Đảng và ngay trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ khóa XIII, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực vẫn đang tiếp tục được đẩy mạnh.

Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã rất quyết liệt kiểm tra dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên liên quan đến các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo.

Qua công tác kiểm tra đã xử lý, kiến nghị xử lý kỷ luật nhiều cán bộ cấp cao, cả đương chức và đã nghỉ hưu, sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang, cán bộ quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước.

Năm 2021, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 32 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó 26 cán bộ liên quan đến các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo.

Các cơ quan tố tụng cả nước đã khởi tố, điều tra 3.725 vụ/7.066 bị can (tăng 1.186 vụ/2.652 bị can so với năm 2020) về tội tham nhũng, lạm dụng chức vụ, kinh tế; trong đó, riêng án tham nhũng, lạm dụng chức vụ đã khởi tố 390 vụ/1.011 bị can.

[Ủy ban Kiểm tra Trung ương xem xét kỷ luật nhiều tập thể, cá nhân]

Điểm nổi bật là cơ quan chức năng đã khởi tố mới nhiều vụ án lớn, mở rộng điều tra, khởi tố thêm nhiều bị can là cán bộ cấp cao, cả đương chức và nghỉ hưu, sỹ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Trong đó, tập trung điều tra, xử lý nghiêm nhiều vụ án, vụ việc tiêu cực xẩy ra trong lĩnh vực giáo dục, y tế, và mới đây nhất là vụ án vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng; đưa hối lộ, nhận hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xẩy ra tại Công ty Cổ phần công nghệ Việt Á (Công ty Việt Á), Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hải Dương (CDC Hải Dương), các đơn vị, địa phương liên quan.

- Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng,  nhấn mạnh đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, địa phương, dư luận đặc biệt quan tâm, và yêu cầu khẩn trương điều tra làm rõ để xử lý nghiêm.

Xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân sai phạm, cảnh báo, răn đe mạnh mẽ hơn nữa để ngăn ngừa tham nhũng, tiêu cực, củng cố niềm tin của nhân dân, Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã thống nhất đưa vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á vào diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo.

Thường trực Ban Chỉ đạo yêu cầu Đảng ủy Công an Trung ương, Ban cán sự đảng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan, chỉ đạo các cơ quan chức năng tập trung lực lượng, khẩn trương, quyết liệt, mở rộng điều tra làm rõ bản chất của vụ án, xử lý nghiêm các sai phạm theo quy định của pháp luật; không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không chịu bất kỳ sự can thiệp trái pháp luật của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào; giao Ủy ban Kiểm tra Trung ương tiến hành kiểm tra dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên có liên quan để kịp thời xử lý nghiêm theo quy định của Đảng...

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cũng đã yêu cầu Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các cơ quan, các địa phương liên quan đẩy nhanh tiến độ điều tra, xác minh, mở rộng vụ án, thu hồi tài sản bị chiếm đoạt và thất thoát, sớm đưa các đối tượng ra xét xử khách quan, nghiêm minh theo đúng quy định pháp luật.

Mở rộng điều tra vụ án Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Công ty Việt Á, Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Hải Dương (CDC Hải Dương) và các đơn vị, địa phương có liên quan, Cơ quan Cảnh sát điều tra (Bộ Công an) đã ra Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố vụ án về các tội Đưa hối lộ, Nhận hối lộ và Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, đồng thời ra các quyết định, thủ tục tố tụng.

Trước đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã khởi tố vụ án hình sự vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng, đồng thời ra các quyết định khởi tố bị can đối với 7 đối tượng.

Hiện các cơ quan chức năng vẫn đang khẩn trương điều tra, mở rộng vụ án. 5 Giám đốc Trung tâm kiểm soát bệnh tật các tỉnh Hải Dương, Nghệ An, Bắc Giang, Bình Dương và Thừa Thiên Huế đã bị khởi tố do liên quan đến Công ty Việt Á...

Trung tướng Tô Ân Xô- Chánh Văn phòng, người phát ngôn Bộ Công an cho biết, cơ quan điều tra đang tích cực điều tra, xác minh tại các bộ, ngành có liên quan để làm rõ hành vi sai phạm trong việc giao nhiệm vụ nghiên cứu, nghiệm thu, chuyển giao, cấp phép lưu hành sản xuất, hiệp thương giá, thông tin quảng cáo, tổ chức sản xuất, đánh giá chất lượng sản phẩm...

K08.10

Chủ động đấu tranh làm thất bại thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch

 


Trước hết, về mặt nhận thức, tư tưởng, cần xác định rõ: CNĐQ, các thế lực thù địch là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Họ đã và đang tiến hành chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Do đó, chống “Diễn biến hòa bình” thực sự là “cuộc chiến” không khoan nhượng, diễn ra hằng ngày, hằng giờ, hết sức quyết liệt, phức tạp. Trong đó, đối tượng mà họ nhằm vô hiệu hóa, trước hết “phi chính trị hóa” là lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là QĐND và Công an nhân dân. Đây là lực lượng có chức năng bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mục tiêu của họ nhằm tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Quân đội đứng ngoài chính trị, Đảng Cộng sản mất chỗ dựa vững chắc, mất vai trò lãnh đạo đối với Quân đội, dẫn tới mất vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Và, một khi vai trò lãnh đạo của Đảng bị vô hiệu hóa, bị xóa bỏ, thì tất nhiên chế độ XHCN sẽ sụp đổ. Để hiện thực hóa mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội và đạt mục tiêu nêu trên, các thế lực thù địch sử dụng mọi lực lượng, phương tiện, tiền bạc, vật chất và tiến hành bằng mọi biện pháp, mọi “chiêu bài” xảo quyệt, tinh vi, thâm độc, nhưng nhìn chung các hoạt động diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Nội dung mà họ tập trung tuyên truyền chống phá là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho Quân đội ta từng bước rời bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, để chống mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch đạt hiệu quả cao thì trước hết và quan trọng nhất là phải chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội, cốt yếu là nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo đó, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và phải chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt, cả lực lượng, phương tiện, vật chất đảm bảo,… với phương pháp tiến hành (cách thức) linh hoạt, chủ động và có hệ thống giải pháp đồng bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi trong “cuộc chiến” quyết liệt này.

Về lực lượng, cần có lực lượng đấu tranh rộng rãi là toàn dân và lực lượng nòng cốt được tổ chức thành hệ thống trong các bộ, ban, ngành, đoàn thể chính trị, Mặt trận Tổ quốc từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là các viện, trung tâm nghiên cứu, học viện, nhà trường…; trong đó, Quân đội, Công an đóng vai trò xung kích của lực lượng nòng cốt. Những người trong lực lượng nòng cốt phải gồm các nhà nghiên cứu, khoa học có trình độ lý luận chính trị cao, kiến thức rộng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giàu kinh nghiệm viết bài đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội.

Về phương tiện, gồm các phương tiện truyền thông, đấu tranh trên in-tơ-nét, các trang mạng xã hội, Blog,… kết hợp với các phương thức tuyên truyền phong phú, đa dạng, phù hợp với tình hình và đối tượng. Đối với các cơ quan báo chí, cần có sự chỉ đạo chặt chẽ, định hướng kịp thời, phân công và phân cấp tuyên truyền về các sự kiện một cách phù hợp; trong đó báo chí quân đội phải là lực lượng nòng cốt, xung kích trong đấu tranh chống quan điểm “phi chính trị hóa” quân đội.

Về phương pháp đấu tranh, cần phải chủ động, linh hoạt, tránh thụ động khi có sự việc phức tạp xảy ra mới tổ chức tuyên truyền, đấu tranh. Quá trình thực hiện phải coi trọng đấu tranh trực diện, vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, hòng làm phai nhạt bản chất giai cấp, lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu của Quân đội, hoặc kích động gây mất đoàn kết nội bộ, chia rẽ giữa Quân đội với Công an và Đảng, Nhà nước. Cần kết hợp đấu tranh tuyên truyền chống các luận điểm “phi chính trị hóa” quân đội một cách thường xuyên với tuyên truyền theo đợt (cao điểm), nhất là vào thời điểm tổ chức các sự kiện lớn của đất nước và Quân đội.

Về chính sách và cơ chế, cần có chính sách, cơ chế hợp lý nhằm động viên, khuyến khích và bảo vệ những người viết bài đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch, trong đó có “phi chính trị hóa” quân đội. Đồng thời, có cơ chế cung cấp thông tin, định hướng tuyên truyền kịp thời và quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng chỉ đạo, quản lý báo chí và sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí trong và ngoài Quân đội để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.