Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2024

Hệ thống chính trị một đảng cầm quyền ở Việt Nam - sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử

Lịch sử chính trị thế giới đã cho chúng ta nhiều bài học để thấy rằng sự chia rẽ, phân rã, thiếu tập trung về quyền lực chính trị sẽ dẫn đến sự bất hòa, đó chính là mầm mống cho những nỗi thống khổ, bất hạnh của người dân. Thực tiễn cũng cho thấy, chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hoàn toàn không phù hợp với bối cảnh lịch sử-xã hội ở Việt Nam.

Những nghịch lý và hệ lụy của chế độ đa đảng

Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là một khuynh hướng tổ chức đời sống chính trị-xã hội xuất hiện từ đầu thế kỷ 18 với xu hướng tuyệt đối hóa sự đa dạng, đối kháng của các đảng chính trị. Chế độ đa đảng là hệ thống mà ở đó có nhiều đảng chính trị có khả năng giành quyền điều hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh với nhau.

Lịch sử chính trị thế giới cho chúng ta một số bài học để thấy rằng hệ thống đa đảng đối lập nhiều khi không dẫn các quốc gia theo con đường này đến hòa bình, ổn định và phồn vinh, mà ngược lại nó dẫn đến sự bất hòa, phân lập, thậm chí là tê liệt của bộ máy công quyền. Trở lại bối cảnh lịch sử của nước Đức cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Nước Đức thời kỳ này tồn tại nhiều đảng phái chính trị, mỗi đảng đại diện cho những lợi ích xã hội được xác định rõ ràng, tranh giành quyền lực và lợi lộc từ quyền lực, thỏa hiệp và ký kết thỏa hiệp với nhau khi nào có thể. Sự chia rẽ trong đời sống chính trị không chỉ dẫn đến hậu quả đau đớn cho Đức vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 mà hiện vẫn còn dẫn tới sự bất ổn chính trị, làm gia tăng nghèo đói và bạo loạn ở nhiều nước trên thế giới.

Nhìn lại cuộc cách mạng “mùa xuân Ả Rập” diễn ra năm 2011 cho thấy điều đó. Phân hóa giàu nghèo, tham nhũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự nổi dậy lật đổ chính quyền tại một loạt quốc gia ở khu vực Bắc Phi và Trung Đông. Nhưng sau khi lật đổ chính quyền, điều mà người dân trông chờ là một nền chính trị ổn định, ít tham nhũng, quan tâm đến đời sống của đại đa số người dân, những gì mà các thế lực bên ngoài rao giảng đã không được thực thi trên thực tế. Thay vào đó là sự tranh giành quyền lực giữa các đảng phái và thế lực chính trị. Cho đến hiện tại, ở các quốc gia này, không có một đảng chính trị hay một lực lượng chính trị nào đủ mạnh để có thể thống nhất, lãnh đạo đất nước khiến xã hội vẫn chưa đi vào ổn định và phát triển.

Thể chế đa đảng với cách thức tổ chức cho phép các đảng đối lập phản đối chính sách của đảng cầm quyền nhằm thực hiện dân chủ, nhưng nghịch lý của nó là khiến chính phủ trở nên phân rã và chia rẽ. Sự phân cực chính trị làm phân tán nguồn lực và các chính sách đem lại lợi ích cho đa số người dân thường sẽ khó được thực thi. Bởi khi không nắm chính quyền, các đảng chính trị sẽ có nhiệm vụ là tìm mọi cách phê phán chính sách của đảng đối lập; mục đích chính của việc làm này không phải là để có tiếng nói phản biện nhằm làm cho chính sách được thực thi một cách tốt hơn mà là để giành giữ lá phiếu cho đảng mình trong các lần bầu cử tiếp theo.

Nhìn vào đời sống chính trị của các quốc gia tổ chức theo chế độ đa đảng đối lập, chúng ta sẽ thấy các đảng chính trị để tranh giành quyền lực, họ không dựa trên lợi ích của đông đảo người dân nhằm giải quyết các vấn đề mà xuất phát từ lợi ích của đảng phái, thậm chí là lợi ích cá nhân hẹp hòi. 

Sự lựa chọn cho ổn định, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam

Lịch sử chính trị thế giới đã cho chúng ta nhiều bài học để thấy rằng sự chia rẽ, phân rã, thiếu tập trung về quyền lực chính trị sẽ dẫn đến sự bất hòa, đó chính là mầm mống cho những nỗi thống khổ, bất hạnh của người dân.

Tại Việt Nam, vào cuối thập niên 20 của thế kỷ trước, cùng với sự phát triển của các phong trào yêu nước, các tổ chức cộng sản đảng đã ra đời mà tiêu biểu là An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng và Tân Việt Cách mạng Đảng. Sau khi ra đời 3 tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế cộng sản và đều tự nhận mình là đảng cách mạng chân chính. Tuy nhiên sự xuất hiện và tồn tại 3 tổ chức cộng sản đảng cùng hoạt động cách mạng đã dẫn đến sự chia rẽ nguồn lực, các đảng công kích lẫn nhau để tranh giành ảnh hưởng. Sự chia rẽ, công kích lẫn nhau của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thời kỳ này đã gây tổn hại lớn cho sự phát triển của phong trào cách mạng và gây nên tâm trạng nghi ngờ, hoang mang trong quần chúng.

Để chấm dứt sự chia rẽ và công kích lẫn nhau của các tổ chức cộng sản, đầu tháng giêng năm 1930, được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến Hương Cảng để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 là minh chứng lịch sử cho chúng ta thấy cách thức tổ chức một đảng duy nhất cầm quyền, đây là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử, phù hợp với đặc trưng văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta.

So với thể chế đa đảng đối lập, nhiều quan điểm cho rằng các quốc gia có một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo đất nước đó là “chế độ độc đảng toàn trị”. Hằng năm, các báo cáo về chỉ số tự do dân chủ (Democracy Index) vẫn dựa vào tiêu chí đa đảng đối lập để đánh giá mức độ tự do, dân chủ của một quốc gia. Dựa vào các báo cáo này, họ rao giảng rằng các quốc gia như Việt Nam có một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo đất nước thì xu hướng chung “đảng đó sẽ độc chiếm quyền lực, tiếm đoạt các chức năng của nhà nước, kiểm soát toàn bộ đời sống của xã hội nói chung, của cá nhân nói riêng”. Họ "khuyến cáo" rằng, "Việt Nam cần phải thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” để thực hiện dân chủ"(!).

Tuy nhiên phải hiểu rằng, dù đề cập đến dân chủ như một giá trị tốt đẹp, dân chủ như một hình thức cai trị, một cách thức ra các quyết định chung hay dân chủ như một chế độ chính trị thì tất cả các ngữ nghĩa này đều không bắt nguồn từ cách thức tổ chức các đảng chính trị như thế nào. Dù là chế độ một đảng nhưng chúng ta đã, đang thực hiện dân chủ theo những cách riêng, phù hợp với đặc trưng văn hóa, tập quán, lối sống và năng lực thực hành dân chủ của người dân Việt Nam.

Lịch sử đấu tranh cách mạng ở Việt Nam đã cho chúng ta thấy Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo đất nước, đó là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử, phù hợp với phong tục, tập quán, năng lực thực hành dân chủ của người Việt. Nếu ai đó nói với chúng ta rằng Việt Nam cần phải học hỏi các quốc gia trên thế giới, phải xóa bỏ chế độ độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam để tổ chức đời sống chính trị theo chế độ đa đảng, nhất là đa đảng đối lập giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới thì chúng ta đừng hoang mang, dao động, mà hãy nhìn vào đời sống chính trị của các quốc gia theo chế độ đa đảng, đặc biệt là hệ thống đa đảng đối lập đã được phân tích cụ thể ở phần trên. Hãy nhìn vào cuộc sống hiện tại của người dân ở các quốc gia đã trải qua "mùa xuân Ả Rập" hay trải qua "cách mạng sắc màu", những người đã tin theo những lời xúi giục đó, họ đang khát khao như thế nào về một cuộc sống yên bình, ổn định, không có xung đột, đói nghèo và tội phạm gia tăng để cân nhắc quan điểm và lựa chọn hành động cho đúng.

Cho đến hiện nay, chế độ đa đảng, đặc biệt là đa đảng đối lập với đại diện theo tỷ lệ vẫn được các quốc gia phương Tây sử dụng như một “tiêu chuẩn của các nền dân chủ tiên tiến”. Lịch sử tổ chức đời sống chính trị trên thế giới lại cho chúng ta thấy rằng, dân chủ không bắt nguồn từ cách thức chúng ta tổ chức các đảng chính trị như thế nào. Nếu bạn đọc ở đâu đó hay nghe ai đó thuyết giảng rằng Việt Nam cần phải xây dựng chế độ đa đảng giống như mô hình của nhiều quốc gia phương Tây, thì bạn hãy nhớ rằng: Hiện nay, trên thế giới đang có hàng chục quốc gia lựa chọn thể chế "đa nguyên, đa đảng" nhưng đang chìm trong đói nghèo, khủng hoảng chính trị triền miên. Chúng ta có lợi thế hơn họ bởi chúng ta có những tấm gương trước mắt để học hỏi và lựa chọn. Sự lựa chọn đúng đắn nhất của chúng ta là: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đây là sự lựa chọn cho sự ổn định, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân ta và sự phát triển bền vững của đất nước Việt Nam./.

ST.

Ngăn chặn âm mưu dùng sách, báo xấu độc để chuyển hóa tư tưởng lệch lạc

Với âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng, một trong những phương thức mà các thế lực thù địch thường xuyên sử dụng là phát hành các sách, báo có nội dung độc hại, xuyên tạc, phản động. Đáng phê phán là một số cá nhân do nhận thức chính trị hạn chế, thiếu hiểu biết và hám lợi đã “nối giáo cho giặc” khi công khai tán phát, mua bán sách, báo xấu độc. Vì thế, việc ngăn chặn sự thẩm lậu, đấu tranh trực diện với sách, báo xấu độc cần nhất là chủ động, thường xuyên, kịp thời, đi vào thực chất.

Âm mưu đầu độc nhận thức

Đằng sau một cuốn sách, một bài báo chứa đựng tư tưởng, lý lẽ, tâm tư, tình cảm có tác động đến nhận thức, hành vi của độc giả. Bên cạnh những “bảo thư” soi đường, chỉ lối để con người hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ; rèn luyện, phấn đấu tu thân, tích đức để khẳng định bản thân, cống hiến cho xã hội; cũng không hiếm những “tà thư” đầu độc độc giả đưa đường đến với sự tối tăm, hận thù, bi quan, những hành vi lệch chuẩn, thiếu văn hóa và đạo đức, vi phạm pháp luật...

Khác với loại hình tuyên truyền trực quan như tranh, ảnh, phim; sách, báo xấu độc xâm nhập âm thầm, dùng lý lẽ bề ngoài tưởng chừng rất khách quan, khoa học nhưng ngầm ẩn những dụng ý vô cùng thâm hiểm. Chỉ cần độc giả là người thiếu hiểu biết về chính trị, không kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng, có ẩn ức, bất mãn trong đời sống rất dễ bị tiêm nhiễm, dần dần “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lúc nào không hay. Chẳng hạn, khá nhiều sách, báo dưới cái mác nghiên cứu khoa học lịch sử đã “bắn vào quá khứ” khi lập luận rằng: Không cần tiếp thu chủ nghĩa cộng sản, không cần sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Bác Hồ, không cần có Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam cứ “ngoan ngoãn” ở trong “vòng tay bảo hộ” của mẫu quốc Pháp sau Chiến tranh Thế giới thứ hai thì đất nước sẽ phát triển, dân trí nâng cao; rồi sau đó thông qua phương cách hòa bình để có được nền độc lập thì sẽ tốt hơn là phải cầm súng suốt mấy chục năm, làm “kéo lùi lịch sử”. Luận điệu này với những người trưởng thành có hiểu biết lịch sử, có tư duy biện chứng khoa học thì đích thực là phản động, phi thực tế và phản khoa học. Tuy nhiên, nếu là một người trẻ mới mười tám, đôi mươi, sinh ra trong hòa bình thì chưa chắc đã đủ bản lĩnh, trình độ để nhận diện đây là “tà thuyết”.

Ngăn chặn âm mưu dùng sách, báo xấu độc để chuyển hóa tư tưởng lệch lạc
Cần tiếp tục nỗ lực xuất bản, giới thiệu nhiều sách, báo có nội dung lành mạnh, nhân văn. Ảnh minh họa: TTXVN

Theo số liệu của Bộ Công an, tính từ năm 2009 đến 2022, lực lượng an ninh chính trị nội bộ đã phối hợp thu thập, nghiên cứu hơn 500 đề tài, bản thảo; kiến nghị không cho xuất bản hoặc sửa chữa lại nội dung trước khi xuất bản 350 đề tài, bản thảo; ngừng phát hành, thu hồi, tiêu hủy 150 ấn phẩm có nội dung phức tạp, nhạy cảm, vi phạm; xử phạt vi phạm pháp luật trên lĩnh vực xuất bản hơn 760 trường hợp. 

Khi những ý đồ thâm hiểm không phát huy dưới dạng “chính ngạch”, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động thông qua phương thức cũ đó là tán phát sách, báo xấu độc theo con đường “tiểu ngạch”, nhất là trên không gian mạng. 

Sách, báo xấu độc chủ yếu được xuất bản dưới chế độ cũ trước năm 1975, sau này in ấn ở hải ngoại. Dù là thể loại hư cấu hay phi hư cấu, sách, báo xấu độc đều có chung một số đặc điểm về nội dung, đó là: Ra sức cổ vũ quan điểm thù địch, chống đối Đảng Cộng sản Việt Nam; kêu gọi người dân không chấp nhận Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội; phủ định lý luận về chủ nghĩa xã hội và sự đúng đắn tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đòi xét lại lịch sử, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín, danh dự của các anh hùng dân tộc, lãnh tụ của Đảng, các bậc tiền bối cách mạng; khoét sâu vào những mặt trái của xã hội nhằm phủ nhận thành tựu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân...

Đáng lo ngại là một số cá nhân chuyên kinh doanh sách, báo, dịch vụ in ấn nhận thấy sách, báo xấu độc bị cấm phổ biến, lưu hành là “hàng hiếm” nên đã sưu tập, tái sản xuất, bày bán công khai trên mạng xã hội dưới dạng sách in và sách điện tử. Chỉ cần đặt hàng trên mạng xã hội, bất cứ tác phẩm xấu độc nào trong vài giờ đã có thể chuyển đến tận tay người có nhu cầu.

Vấn đề đáng bàn là vì sao sách, báo xấu độc do các tác giả phản động lại có thể “đội mồ sống dậy” lưu hành dễ dàng mà các cơ quan chức năng chưa kịp thời ngăn chặn?

Kết hợp giữa phòng và chống hiệu quả

Chúng ta cần xác định phương thức tán phát, phổ biến sách, báo xấu độc là thủ đoạn mà các thế lực thù địch sẽ không bao giờ từ bỏ. Cho nên, đấu tranh với sách, báo xấu độc là việc làm lâu dài, thường xuyên để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đặc biệt cần chú ý kết hợp giữa phòng và chống một cách linh hoạt, tùy từng trường hợp cụ thể để mang lại hiệu quả thực chất.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị-xã hội, thuần phong mỹ tục”. 

Quán triệt, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, với lĩnh vực xuất bản, ông Nguyễn Nguyên, Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông), Phó chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam cho rằng: Trước hết, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực xuất bản. Phát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan xuất bản, cơ quan chủ quản trong công tác xuất bản với yêu cầu giữ vững tôn chỉ, mục đích, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, biên tập viên, thực hiện chặt chẽ quy trình xuất bản, thẩm định kỹ nội dung bản thảo, tránh để xảy ra sai sót nội dung nghiêm trọng về chính trị.

Cùng với đó, công tác hậu kiểm cần tiếp tục được đẩy mạnh nhằm ngăn chặn triệt để các xuất bản phẩm có nội dung vi phạm quy định Luật Xuất bản; các cơ quan bảo vệ pháp luật triển khai đồng bộ các giải pháp đấu tranh, xử lý những ấn phẩm lưu hành bất hợp pháp, nhất là các ấn phẩm có nội dung xấu độc. Riêng với các địa chỉ lưu giữ, tán phát xuất bản phẩm xấu độc trên không gian mạng, cần phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng an ninh chính trị nội bộ, an ninh mạng tập trung sử dụng những biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn hoạt động và sức phổ biến, tiếp cận đến với người đọc.        

Theo ông Nguyễn Thái Bình, Phó giám đốc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, vấn nạn sách, tài liệu xấu độc được in ấn, mua bán công khai hiện nay là nguy cơ dẫn đến mất kiểm soát vì vô tình tạo thói quen, hành vi vi phạm pháp luật cho bạn đọc, người sử dụng thiếu hiểu biết. Các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chức năng cần sớm vào cuộc, xử lý bảo đảm đủ răn đe với những hành vi vi phạm pháp luật. Với những nhóm người có chủ ý thu lợi cá nhân hoặc có kế hoạch, chủ động tán phát sách, báo xấu độc cần phải bị xử lý hình sự để răn đe những đối tượng khác. Với những cá nhân nhỏ lẻ, nếu chỉ hám lợi đơn thuần thì sớm tiếp cận, nhắc nhở.

Ông Nguyễn Thái Bình cũng nhấn mạnh đến vai trò của các cấp ủy Đảng cần chủ động định hướng, cung cấp thông tin thường xuyên để cán bộ, đảng viên không tìm hiểu, không tiếp cận với sách, báo xấu độc; xử lý nghiêm những trường hợp cán bộ, đảng viên phổ biến, giới thiệu sách, báo xấu độc dưới bất cứ hình thức nào. Đặc biệt, đối với các cơ quan quản lý nhà nước cần phải chủ động trong truyền thông chính sách, giúp cho người dân hiểu và làm việc theo pháp luật. Phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trong hoạt động tuyên truyền miệng để cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân không mua bán, tàng trữ, sử dụng, phổ biến sách, báo xấu độc; đồng thời, nâng cao khả năng nhận diện nội dung xấu độc, tham gia đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Một giải pháp mà các chuyên gia trong lĩnh vực xuất bản, phát triển văn hóa đọc nhiều lần nhắc đến, đó là: Ngành xuất bản cần tiếp tục nỗ lực xuất bản, giới thiệu nhiều sách, báo có nội dung lành mạnh, nhân văn, có giá trị học thuật dưới nhiều hình thức đa dạng, hấp dẫn, gắn với phát triển văn hóa đọc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua đó, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, tác động tích cực để xây dựng nhận thức đúng đắn, bồi đắp tâm hồn, nâng cao dân trí cho nhân dân, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.

ST.

Chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

“Bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nguyên nhân sinh ra chủ quan và suy thoái về tư tưởng chính trị, dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đe dọa sự tồn vong của Đảng.

Vì thế, chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là yêu cầu thường xuyên và cấp bách hiện nay.

Sự nguy hại của “bệnh lười” học tập, coi khinh lý luận

Nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của lý luận Mác-Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là Chủ nghĩa Lênin”. Việc khẳng định Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt và lựa chọn Chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt chính là việc xác định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thực hiện tư tưởng này của Người, suốt từ khi thành lập đến đầu năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động, nhờ đó mà Đảng luôn luôn vững mạnh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi to lớn.

Đại hội lần thứ VII (6-1991), Đảng xác định: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Từ đây, cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

Chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Ảnh minh họa:Internet

Từ vai trò to lớn và hết sức quan trọng của lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã và đang đặt ra yêu cầu thường xuyên và cấp bách đối với mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu lý luận, góp phần tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Nhận thức đúng và thực hiện nghiêm túc yêu cầu thường xuyên, cấp bách này, các thế hệ cán bộ, đảng viên của Đảng đã góp phần quyết định bảo đảm cho Đảng trong sạch, vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong suốt 94 năm qua. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên mắc phải “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nhìn nhận thực trạng của “căn bệnh” này, từ tháng 10-1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “bệnh chủ quan” của không ít cán bộ, đảng viên, mà theo Người: “Nguyên nhân của bệnh chủ quan là: Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông”. Người cho rằng “Vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”.

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ một trong 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay là “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Tiếp đó, Đại hội Đảng lần thứ XIII nhấn mạnh, cần “khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”.

Điều đáng lo ngại hiện nay là một số cơ sở nghiên cứu, giáo dục-đào tạo (GD-ĐT), nhất là những cơ sở nghiên cứu, GD-ĐT lý luận chính trị chưa thật chú trọng quan tâm và đặt ra yêu cầu cao về học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó dẫn tới một bộ phận không nhỏ cán bộ khoa học, sinh viên và học viên sau đại học còn ngại, né tránh, mắc “bệnh lười” học tập và tìm tòi, nghiên cứu để nắm vững tính cách mạng, khoa học, nhân văn trong tư tưởng, quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và bảo vệ, vận dụng, phát triển sáng tạo những tư tưởng, quan điểm đó trong thực tiễn. Bên cạnh đó, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, sách tham khảo, khóa luận, luận văn và luận án nghiên cứu trên lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn không chú trọng đi sâu luận giải có tính hệ thống đầy đủ và sâu sắc cơ sở lý luận và những nội dung lý luận cụ thể, cần thiết liên quan tới đề tài nghiên cứu-biểu hiện của “bệnh lười” học tập, nghiên cứu lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi đó, có nhiều hội đồng nghiệm thu đề tài, duyệt sách và chấm khóa luận, luận văn, luận án đã coi nhẹ và không kiên quyết đòi hỏi thực hiện nghiêm túc yêu cầu này, dẫn tới dễ dãi, bỏ qua hạn chế, góp phần làm cho “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng thêm trầm trọng hơn.

“Bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ dẫn tới nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên mà còn làm cho họ thiếu hiểu biết sâu sắc về lý luận, từ đó không dám và không có khả năng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận tính cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để góp phần bảo vệ, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới.

Giải pháp căn cơ góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay

Thực trạng và tính chất nguy hại của “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong một bộ phận cán bộ, đảng viên nêu trên đặt ra yêu cầu thường xuyên và cấp bách phải kiên quyết chống “căn bệnh” này, góp phần bảo vệ và tăng cường nền tảng tư tưởng của Đảng thêm vững chắc trong tình hình mới.

Một là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tiếp tục thực hiện nghiêm túc, hiệu quả nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã xác định: “Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Học tập, nghiên cúu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên có tư duy khoa học, có phương pháp làm việc biện chứng; có phương thức lãnh đạo và tổ chức quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội... phù hợp với quy luật khách quan. Nếu không học tập, nghiên cứu sẽ không có hiểu biết về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dễ lạc phương hướng và “mù chính trị”, thậm chí xa rời cách mạng. Học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ góp phần để cán bộ, đảng viên nâng cao bản lĩnh chính trị, vận dụng hiệu quả những tri thức lý luận vào giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra mà còn là cẩm nang để giúp mỗi cán bộ, đảng viên gần dân, hiểu dân và trọng dân, xứng đáng là người lãnh đạo gương mẫu, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Hai là, xây dựng chế tài, kịp thời có biện pháp xử lý mọi biểu hiện “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bên cạnh thực hiện nghiêm túc quy định trong Điều lệ Đảng về trách nhiệm của đảng viên phải tích cực học tập lý luận nói chung, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị, địa phương phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phòng, chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các cơ sở nghiên cứu, GD-ĐT lý luận chính trị cần có các điều khoản cụ thể, đầy đủ trong quy chế, quy định về nghiên cứu khoa học và GD-ĐT để khắc phục “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, cần có chế tài đủ mạnh và kịp thời xử lý với những biện pháp kiên quyết để chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh biểu hiện ở kết quả của những sản phẩm nghiên cứu như đề tài khoa học các cấp, sách chuyên khảo, tham khảo, khóa luận, luận văn, luận án...

Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, đẩy mạnh đấu tranh phê bình và tự phê bình chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Kiểm tra, thanh tra là khâu không thể thiếu nhằm bảo đảm nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch của cấp ủy đảng và chính quyền các cấp về bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên, góp phần khắc phục “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các cơ sở nghiên cứu, GD-ĐT lý luận chính trị càng phải chú trọng tăng cường kiểm tra, thanh tra, qua đó nhân rộng những điển hình tiên tiến, những mô hình hay, cách làm tốt trong học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đồng thời, phát hiện những biểu hiện của “căn bệnh” này để có biện pháp phòng ngừa, xử lý kịp thời.

Cần đẩy mạnh đấu tranh phê bình và tự phê bình chống mọi biểu hiện “bệnh lười” học tập, nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tự phê bình và phê bình là để hướng tới làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận ra những khuyết điểm, giúp nhau sửa chữa và khắc phục “bệnh lười” học tập, nghiên cứu lý luận, phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị. Trong tình hình hiện nay, để đấu tranh chống “căn bệnh” này có hiệu quả, đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên “mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa và giúp đồng chí mình sửa chữa” như Hồ Chí Minh đã dạy.

Bốn là, phát huy vai trò tự giác học tập và nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời... Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Vì thế, mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần lời dạy đó của Người, thường xuyên học tập, trau dồi nâng cao trình độ lý luận và phẩm chất đạo đức cách mạng, gắn việc học lý luận với thực tiễn công việc hằng ngày. Trong học tập, nghiên cứu cần “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của Chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”(1), tránh giáo điều, tiếp thu lý luận một cách máy móc, kinh viện, tránh lý luận suông, không biết vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể.

“Bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay là một trong những mối đe dọa “đạo đức, văn minh” và sự tồn vong của Đảng; nó sinh ra “bệnh chủ quan” và dẫn tới suy thoái về tư tưởng chính trị, làm suy yếu nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây chính là một trong những khuyết điểm, sai lầm trong đội ngũ chiến sĩ tiên phong của Đảng. Chính vì thế, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng lúc này cần phải thấm nhuần lời dạy của V.I. Lênin: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta... Nếu chúng ta sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”. Từ đó, phải kiên quyết chống “căn bệnh” này, thông qua tích cực học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới./.

ST.

Vì sao dễ đánh mất mình?

Xã hội phát triển, sự cám dỗ của đồng tiền cũng hiện diện trong muôn mặt đời sống. Tư tưởng thực dụng, tôn sùng đồng tiền ở vị trí độc tôn của một bộ phận người trẻ càng bùng phát mạnh mẽ trong thời buổi kinh tế số. Suy nghĩ có tiền là có tất cả, nhiều tiền đồng nghĩa với thành công, việc đánh đồng tiền bạc với mục tiêu, lý tưởng sống đã dẫn dụ một bộ phận người trẻ vào chỗ lầm đường lạc lối.

Nô lệ của “người chủ xấu”

Bàn về tính hai mặt của đồng tiền, dân gian ví von rằng đồng tiền là đầy tớ trung thành nhưng là người chủ xấu. Tiền bạc là người đầy tớ trung thành khi ta sử dụng vào mục đích tốt đẹp, lương thiện, làm chủ được nó. Trái lại, khi con người bị đồng tiền sai khiến, vì tiền mà gây ra tội ác thì nó lại trở thành người chủ xấu. Một bộ phận giới trẻ tự biến mình thành nô lệ của đồng tiền khi bằng mọi cách, mọi giá, bất chấp lương tâm, đạo đức và pháp luật, cốt sao kiếm được tiền bạc, của cải để thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ.

Vì tiền mà những thanh niên như Nguyễn Đức Nghĩa, Lê Văn Luyện không ghê tay thảm sát người vô tội, nguy hại thay lại trở thành “thần tượng” trong mắt một số người trẻ. Bởi muốn nhanh kiếm được nhiều tiền để đua đòi ăn chơi, một số thanh thiếu niên dù gia đình không thuộc diện khó khăn đã sớm bỏ học, rủ nhau đi trộm cướp hoặc làm ăn phi pháp. Do hám tiền mà không ít người bỏ qua lương tri, đạo đức, đứng trên sức khỏe, thậm chí là tính mạng của người khác để kiếm lời từ kinh doanh thuốc giả, thực phẩm giả, đủ các loại hàng giả. Rồi biết bao nhiêu vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện bởi bàn tay của những người trẻ đã bị phanh phui...

Đồng tiền từ chỗ là phương tiện duy trì cuộc sống trở thành mục đích sống tối thượng khiến người trẻ trở nên hám lợi, ích kỷ. Khi quá coi trọng đồng tiền, họ dễ bị chi phối bởi những toan tính nhỏ nhen, quên đi các giá trị đích thực của cuộc sống, bất chấp mọi giá để đạt được mục đích cá nhân.  

“Mình bịa CV để đi xin việc như thế nào”, “Mình kiếm tiền trên Tinder như thế nào”, “Mình sinh ra không phải để đi làm và bạn cũng thế”... Ít ai ngờ rằng, đây là các tiêu đề được đặt công khai trên các trang mạng xã hội, thu hút hàng trăm nghìn lượt người xem.

Đáng nói ở chỗ, những đoạn video với nội dung và tiêu đề phản cảm như vậy được chính người sáng tạo nội dung thừa nhận là cách bản thân chia sẻ những trải nghiệm thực tế của mình, từ đó muốn lan tỏa, chia sẻ, truyền đi nguồn cảm hứng, phong cách sống tới cộng đồng người trẻ. Không chỉ là những mánh khóe bịa hồ sơ ứng tuyển, moi tiền từ ứng dụng hẹn hò mà cả những tệ nạn trầm kha khác như cờ bạc, khoe thân cũng là những thứ giới trẻ đang truyền cho nhau trên mạng xã hội-không gian vô hình từ trước đến nay vốn đã khó bề kiểm soát hết.

Không chỉ làm dậy sóng, bức xúc trong dư luận từ những video đăng tải trên mạng xã hội, thời gian qua, hàng loạt buổi livestream đánh bạc, hướng dẫn những mánh khóe gian lận cờ bạc thu hút lượng theo dõi có lúc lên tới hàng nghìn người xem trong một buổi phát trực tuyến, với đa dạng thành phần và một bộ phận không nhỏ các bạn trẻ. Nhiều người chỉ từ những lần xem để giải trí cho vui, cho biết, nhưng nghe lời hướng dẫn, mách nhỏ của chủ livestream mà lấn sâu vào con đường nghiện cờ bạc lúc nào không hay.

Người trẻ và cán cân lý tưởng - đồng tiền trong nhịp sống hiện đại-Bài 2: Vì sao dễ đánh mất mình?
 Ảnh minh họa: Báo Thanh niên

Đánh mất mình không chỉ bởi ham muốn vật chất tầm thường, một bộ phận người trẻ bị chếnh choáng bởi cái hư danh được nhìn nhận, tôn sùng là người giàu có, thành đạt. Nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng “nghèo mà sang chảnh” là lối sống khá phổ biến hiện nay của một số người trẻ. Thu nhập không cao, tiền bạc không rủng rỉnh nhưng luôn muốn xuất hiện với vẻ ngoài sáng chói, mạnh tay mua sắm hàng hiệu xa xỉ, mỹ phẩm đắt tiền, điện thoại sang bắt nhịp xu thế công nghệ mới nhất... trong khi những món đồ ấy vượt quá thu nhập của bản thân, là lý do cụm từ “nghèo mà sang chảnh” xuất hiện trong đời sống của người trẻ. 

Lối sống "nghèo mà sang chảnh" bắt nguồn từ thói quen chi tiêu theo cảm xúc, nhất là sự ganh đua thể hiện bản thân bằng cái vẻ hào nhoáng bề ngoài và khát khao được giống với những “idol”, “KOL” với lối sống xa hoa, mỹ miều, ảo vọng hão huyền được là người giàu có trong mắt thiên hạ. Lâu dần, thói quen ăn sâu bén rễ khiến một số bạn trẻ bất chấp, sẵn sàng làm nhiều cách để sống ảo.

Có bạn khoe chiếc điện thoại đời mới nhất được mua bằng giá trị cả năm tiền lương của mình, thế nhưng đằng sau đó là sự chắt bóp chi tiêu để trả góp hằng tháng. Có bạn để sắm được những món đồ hàng hiệu cho bằng bạn bằng bè đã đi vay mượn khắp nơi, ngập trong nợ nần rồi sa chân vào tín dụng đen, nợ xấu. Một số người tìm đủ cách nói dối để rút hầu bao của bố mẹ, phục vụ nhu cầu chi tiêu quá đà của bản thân...

“Nghèo mà sang chảnh” không còn đơn giản là một lối sống mà trở thành sự lệch lạc trong nhận thức của người trẻ. Tự ti, không dám đối mặt với hoàn cảnh và nỗ lực vươn lên mà cho rằng chỉ cần khoác trên mình những bộ cánh lộng lẫy, đắp thật nhiều thứ hào nhoáng ra ngoài sẽ tự khắc trở nên đẳng cấp, là cách sống và tư duy độc hại biến người trẻ trở thành nô lệ của đồng tiền.

Gục ngã trước cám dỗ nguy hại

Bàn về nguyên nhân của thực trạng người trẻ tha hóa vì tiền, một số chuyên gia xã hội học nhắc đến sự tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường. Xã hội càng phát triển, đời sống vật chất càng cao thì đồng tiền càng có vị thế. Hầu như mọi thứ trong đời sống vật chất đều có thể đánh đổi bằng tiền, thậm chí tiền có thể mua cả một số giá trị tinh thần nếu như người ta “bán rẻ” nó, chẳng hạn như quyền lực, danh tiếng, sự trọng vọng của xã hội.

Với không ít người, đồng tiền còn chính là cái căn cơ của vui, buồn, sướng, khổ, là thứ quyền lực vô song có thể đưa đẩy người ta tới thành công hay thất bại. Bởi vậy mà ngày nay, nhiều người vẫn truyền tai nhau câu thơ như một cách bày tỏ sự ngao ngán mặt trái của xã hội kim tiền: “Thế thái nhân tình gớm chết thay/ Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy/ Hễ không điều lợi, khôn thành dại/ Ðã có đồng tiền, dở cũng hay”.

Trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cơ hội để thanh niên mở rộng giao lưu và tìm kiếm khả năng phát triển ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, với những đặc trưng riêng của lớp trẻ, mặt trái của giao lưu, hội nhập quốc tế lại càng dễ tác động nhanh và sâu sắc đến tầng lớp thanh niên.

Do các bạn trẻ thiếu kỹ năng nhận diện những giá trị tích cực, đôi khi bắt chước một cách máy móc, lai căng, xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, ca ngợi một chiều các giá trị của chủ nghĩa tư bản, sùng bái vật chất, không điều khiển được bản thân trước sức hút ghê gớm của đồng tiền. Hành vi sai lệch bắt đầu từ đó di chuyển vào đời sống và trở thành định hướng cá nhân để rồi đồng hóa lý tưởng sống với việc đi nhanh, đi gấp... cốt sao có được nhiều tiền.

Tác động xấu của cơ chế thị trường với tư tưởng thực dụng đã ăn sâu, len lỏi vào đời sống của nhiều gia đình kể từ sau khi đất nước mở cửa, tác động mạnh mẽ đến nhận thức, lý tưởng của con trẻ. Nhìn ở những góc độ khác, nhiều ý kiến cho rằng, môi trường giáo dục còn chưa đề cao đạo đức, nhân cách, hay do gia đình quá bận rộn chỉ lo kiếm tiền mà thiếu đi sự quan tâm, sát sao với con cái.

Việc nắm bắt diễn biến tư tưởng, tình cảm của thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên từ các bậc phụ huynh, nhà trường, ngành giáo dục và các ngành chức năng còn chưa theo kịp thực tiễn. Bên cạnh đó, vai trò của Đoàn, Đội và công tác quản lý học sinh, sinh viên còn nhiều bất cập, chưa đổi mới và chưa có sức thu hút các lực lượng thanh thiếu niên tham gia. Công tác tuyên truyền pháp luật, giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên chưa được đổi mới, còn mang nặng hình thức, chưa thường xuyên và thiếu sức thuyết phục...

Suy cho cùng, xã hội, gia đình, nhà trường đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, chăm lo, định hướng, còn yếu tố quyết định vẫn nằm ở bản thân, ý thức chủ quan của mỗi người trẻ. Gia đình, nhà trường, xã hội khó có thể gieo vào tâm hồn, nhận thức của thanh niên những lý tưởng đẹp nếu bản thân họ từ chối tiếp thu, hoặc cố tình tiếp nhận sai lệch, biến tướng.

Tư tưởng “ăn xổi” muốn đổi đời nhanh chóng, đặt đồng tiền bao trùm lên nhân cách, phẩm giá, lương tri chính là sản phẩm, hệ quả của sự yếu kém về bản lĩnh, lệch lạc về nhận thức và bản ngã tham lam không biết cách chế ngự, kiểm soát ở người trẻ. Một số khác ôm mộng hão huyền muốn có gia tài, sự nghiệp lớn nhưng bản thân thì sợ khổ, sợ khó, lười học hỏi, không có mục tiêu phấn đấu, dẫn đến suy nghĩ nông cạn, mù quáng, thực hiện hành vi trái đạo đức xã hội, vi phạm pháp luật để có tiền ăn chơi sa đọa.

Không chỉ có người trẻ mà hẳn ai cũng có những ước mơ, khát vọng, nhưng khác nhau chính là cách thực hiện. Bản thân đồng tiền không có lỗi, vấn đề là cách mỗi người làm ra tiền, mục đích sử dụng tiền. Dân gian có câu: “Tiền dùng đúng, tiền hiền như Phật/ Bạc xài lầm, bạc ác hơn ma”.

Kiếm tiền và làm giàu đúng pháp luật là nhu cầu chính đáng của công dân, được Đảng, Nhà nước khuyến khích. Tiếp nối tinh thần của các đại hội trước, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu mục tiêu phấn đấu xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mục tiêu tốt đẹp làm cho "dân giàu" phải được hiện thực hóa bằng những việc làm, cách làm giàu, phương thức tạo ra của cải vật chất một cách chân chính, đúng pháp luật. Giá trị của đồng tiền chỉ thực sự song hành bền vững cùng lý tưởng khi góp phần kiến tạo một xã hội tốt đẹp, nhân văn./.

ST.

Kiếm tiền theo kiểu... bất chấp

Vấn đề đáng lo ngại đang hiện hữu trong một bộ phận giới trẻ hiện nay là lối sống thực dụng, luôn đặt vật chất lên trên và bất chấp giá trị, chuẩn mực, đạo lý để kiếm tiền. Sự lên ngôi của ham muốn bản năng, cơ hội, chạy theo hưởng lạc, lợi ích trước mắt, xa rời mục tiêu phấn đấu cùng thái độ bàng quan, vô cảm, không đấu tranh chống cái sai mà cũng chẳng ủng hộ điều đúng, những tình cảm lành mạnh dần bị thay thế bằng quan hệ kim tiền, là hệ quả đáng báo động của lối sống thực dụng làm tha hóa con người.

Tiền ở đâu thì... đầu ở đó

Chính thức ra mắt tại thị trường nước ta chưa lâu, thế nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Việt Nam đã xếp thứ sáu trong tốp 10 quốc gia sử dụng TikTok nhiều nhất trên thế giới. Từ một nền tảng giải trí, TikTok dần trở thành công cụ đem lại lợi ích lớn cho những người sáng tạo nội dung và đặc biệt phổ biến, thu hút giới trẻ. Sẽ chẳng có gì đáng bàn nếu nền tảng này không bị một số TikToker biến tướng thành không gian mạng bát nháo với đầy rẫy những clip bẩn, phản văn hóa, phi giáo dục chỉ với mục đích câu view, câu like, để rồi mọi thứ đều được quy đổi thành tiền. Một bộ phận người trẻ không ngại lan truyền nhau khẩu hiệu “Tiền ở đâu thì đầu ở đó”, nghĩa là đầu óc được vận dụng hết công suất để có thể kiếm nhiều tiền mà không ngần ngại lách luật, thực hiện đủ các thử thách từ "sex-sốc-sến" đến chà đạp lên những giá trị, chuẩn mực, đạo lý.

Với sự phủ sóng không ngừng và sức ảnh hưởng ngày càng lớn của TikTok tại Việt Nam, nhất là khi ứng dụng “TikTok shop” ra đời, ngay lập tức trở thành mảnh đất màu mỡ cho những nhà sáng tạo nội dung kiêm kinh doanh đa dạng. Để dẫn dụ khách về trang bán hàng của mình, một số người trẻ dùng đủ chiêu trò từ nhảy múa khoe thân, tán phát các clip dung tục đến những hành động bạo lực, quái dị. Một số trường hợp còn lợi dụng lòng thương người, bịa đặt nội dung clip “xin ủng hộ mua hàng” vì gia cảnh gặp khó khăn, người thân bệnh thập tử nhất sinh kèm theo các hình ảnh cắt ghép thể hiện sự thương tâm tột độ. Cũng chẳng khó để tìm được những tài khoản TikTok có tới hàng trăm nghìn người theo dõi, được tạo ra để dẫn dụ người xem đến các trang “18+”, thậm chí nhiều nhóm còn có thêm tính năng cao cấp hơn là xem video "sex độc", livestream sex nếu người dùng chịu trả phí. Những dịch vụ đen như chuyên cung cấp “sugar baby-dùng tình đổi tiền” cũng được một bộ phận giới trẻ lợi dụng triệt để hòng kiếm lời nhanh chóng.  

Không chỉ có TikTok mà nhiều ứng dụng trên các mạng xã hội khác như YouTube, Facebook, Instagram... cũng được một số bạn trẻ tận dụng để kiếm tiền. Theo báo cáo của YouTube gửi Bộ Thông tin và Truyền thông, có rất nhiều nội dung vi phạm chủ yếu do các nhà sáng tạo nội dung của Việt Nam làm ra như khiêu dâm, kích động bạo lực, giang hồ mạng; cổ vũ cờ bạc, dùng ma túy; gây hại cho trẻ em; sử dụng nhạc, hình ảnh vi phạm bản quyền; nhiều video mang nội dung độc hại, nhảm nhí, giật gân để thu hút đông người xem. Vì muốn các nội dung vi phạm quy định này lọt lưới kiểm duyệt của Facebook, Google... các nhà sáng tạo nội dung số nghĩ ra hàng loạt chiêu trò để đối phó. Có những clip ngụy trang là hoạt hình trẻ em nhưng chứa đựng nội dung người lớn. Có video trá hình bán đồ thời trang để mời gọi mua bán hàng cấm... Để đối phó với bộ lọc kiểm duyệt từ ngữ của mạng xã hội, các “chiến thần vượt rào” dùng từ theo kiểu khác quy định để né kiểm duyệt nội dung tự động.  

Người trẻ và cán cân lý tưởng - đồng tiền trong nhịp sống hiện đại - Bài 1: Kiếm tiền theo kiểu... bất chấp
Ảnh minh họa: TTXVN 

Chỉ cần lướt qua Facebook, YouTube, TikTok... sẽ thấy hàng loạt clip với nội dung quái đản như "Thắt cổ không chết”, “Thử thách một ngày làm con vật”, "Troll đổ trứng lên đầu mẹ”, “Muốn giàu nhanh cứ gặp anh”, “Bạn sinh ra không phải để đi làm”, “Tải app và xem em show”... rồi những clip sặc mùi bạo lực, chửi bới của các giang hồ mạng... Gần đây xuất hiện trào lưu NPC-phát trực tiếp để kiếm tiền, mỗi món quà một mệnh giá, người xem phải nạp tiền vào nền tảng để mua, giá trị quà càng lớn, hành động càng phải độc. Nhằm hút khán giả tặng quà nhiều tiền, người livestream chọn những bối cảnh kỳ dị, chấp nhận làm theo hành động được người xem yêu cầu dù là phản cảm hay nguy hiểm cho bản thân.  

Thu nhập hàng trăm đến hàng tỷ đồng trên nền tảng số khiến không ít người trẻ lao vào kiếm tiền bằng mọi giá. Chính vì vậy, trào lưu làm clip nhảm nở rộ và ngày càng tràn lan trong thời gian gần đây, với bí quyết là càng “sex-sốc-sến” càng ăn khách, dù phải đánh đổi cả liêm sỉ, danh dự, lương tri, đạo đức, thậm chí đứng trên pháp luật để kiếm tiền. Điều này phần nào lý giải vì sao những clip nhảm dạy “làm giàu không khó” đánh vào tâm lý lứa tuổi có sức hút ghê gớm, tạo cho người trẻ suy nghĩ sự thành công chỉ đến từ người có nhiều tiền.

Theo các nhà sáng tạo nội dung số, nếu không có biện pháp mạnh, tình trạng clip nhảm sẽ không ngừng tái diễn bởi nguồn lợi hấp dẫn mang lại. Người trẻ sẵn sàng chấp nhận nộp phạt nếu bị phát hiện vi phạm, rồi lại thay đổi phương thức tinh vi hơn để những video bẩn tiếp tục có đất sinh tiền trên không gian mạng.

Chủ nghĩa thực dụng dẫn lối hành động

Trong cách nghĩ thực dụng của các bạn trẻ hiện nay, đồng tiền hay vật chất nói chung luôn đóng vai trò chủ chốt và quyết định mọi hành động, có nhiều tiền đồng nghĩa với thành công. Từ việc chọn trường học, định hướng nghề nghiệp, người trẻ ngày nay có xu hướng đăng ký vào những khối ngành về kinh tế. Đó là lý do vào mùa tuyển sinh, dù điểm chuẩn hằng năm của những trường này cao cách biệt với một số ngành khác nhưng vẫn hút một lượng đông đảo thí sinh dự thi. 

Các đơn vị làm công tác tư vấn tuyển sinh, giới thiệu việc làm đều có chung ghi nhận rằng, trong nhiều năm gần đây, hầu như buổi nào, ở đâu cũng có câu hỏi: Học ngành nào ra trường kiếm được nhiều tiền? Trong khi đó, điều mà học sinh cần quan tâm là nên chọn ngành học nào phù hợp với sở trường và điều kiện của mình lại là vấn đề thứ yếu trong nhu cầu lựa chọn của các bạn. Theo đuổi ngành học để có việc làm tốt với mức lương hấp dẫn không có gì sai, nhưng điều đáng bàn ở đây là hệ quả của sự lựa chọn không phù hợp với khả năng, khiến không ít bạn trẻ dù tốt nghiệp chuyên ngành đúng như mơ ước nhưng lại không thể vận dụng được vào công tác. Nhu cầu tuyển dụng nhiều, lương cao, thưởng hậu hĩnh của các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế đã đánh thẳng vào tâm lý và thị hiếu của người trẻ nên như một phản ứng dây chuyền, hết năm này đến năm khác, đông đảo thí sinh chọn ngành kinh tế như một giải pháp an toàn mà bỏ qua đam mê, sở thích, sở trường, năng lực thật sự của bản thân. 

Không chỉ có việc chọn lựa trường hay khối học, một số sinh viên sẵn sàng bỏ học giữa chừng để lao vào con đường kiếm tiền sớm, kiếm tiền nhanh và kiếm tiền bằng mọi cách. Ở một bộ phận khác, càng dày công việc để kiếm tiền trong khi vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường cũng khiến cho người trẻ chẳng còn thời gian tận hưởng những khoảnh khắc ý nghĩa, đáng nhớ trong quãng thời sinh viên đẹp đẽ. Sự hồn nhiên, vô tư, trong sáng bị thế chỗ bởi những toan tính thiệt hơn cùng ảo mộng phù du đổi đời trong mấy chốc. Tư tưởng thực dụng và đặt đồng tiền lên trên mọi giá trị sống cũng là nguyên nhân hình thành lối sống ích kỷ, vô cảm, khiến người trẻ trở nên xa cách với những giá trị tinh thần quý báu, gia đình, người thân.  

Nhìn sâu ở góc độ khác, trong các mối quan hệ bạn bè và tìm kiếm tình yêu, chúng ta cũng thấy sự thực dụng đang thống trị trong không ít người trẻ. Việc lựa chọn bạn bè hay bạn đời dựa trên tiêu chí tài chính trở nên phổ biến. Giá trị của hạnh phúc, cái nghĩa, cái tình trong cuộc sống được cân-đong-đo-đếm bằng phép cộng, trừ lỗ-lãi trên những mối quan hệ được thiết lập bằng biết bao toan tính./.
ST.