Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2024

Thầy cô sính ngoại - nguy hại khôn lường

Mở rộng hợp tác trong lĩnh vực giáo dục giúp những người làm công tác giáo dục ngày càng có nhiều điều kiện, cơ hội đi nước ngoài giao lưu, học tập, nghiên cứu để tiếp thu tinh hoa tri thức nhân loại, làm giàu thêm kho tri thức của bản thân, phục vụ tốt hơn công tác giảng dạy.

Tuy nhiên, do “sức đề kháng” kém nên không ít người đã quay lưng, trở nên tôn sùng, ngợi ca một cách chủ quan những giá trị bề ngoài, hào nhoáng của xã hội, lối sống của nước sở tại, quay lại chê bai đất nước, nhất là ở trên bục giảng, với học trò của mình. Tuy chỉ là số ít nhưng sự nguy hại từ những thầy cô sính ngoại này là rất lớn vì thông qua bài giảng của mình, họ có thể tiêm nhiễm, "đầu độc" tư tưởng sùng ngoại tới hàng trăm, hàng nghìn học sinh, sinh viên...

Sùng ngoại - bài nội

Thầy, cô giáo sính ngoại vì nhiều lý do: Có người do nhận thức chính trị, thiếu kiến thức, thiếu hiểu biết nên bị lợi dụng, kích động; có người chỉ là vô tình; nhưng cũng có người có tư tưởng phản động, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa... Dù vô tình hay cố ý, những thầy, cô giáo sính ngoại đều chẳng khác nào là trung gian tiếp sức, “nối giáo cho giặc”, giúp các thế lực thù địch, phản động thực hiện những chiến dịch tuyên truyền, chống phá, hủy hoại thế hệ tương lai của nước nhà.

Biểu hiện chung của thầy, cô giáo mắc bệnh sính ngoại là: Muốn khoe khoang, chứng tỏ ta đây học rộng biết nhiều, được đi đây đi đó... nên quá trình giảng bài, họ thường kể về những điều được thấy, được trải nghiệm ở nước ngoài như phát hiện mới về một nền văn minh, “đỉnh cao” của xã hội loài người với giọng điệu đầy tán dương, ca ngợi, thán phục. Nhằm thuyết phục thêm, họ lại chỉ lấy những ví dụ và đề cập đến một số hạn chế, bất cập về tình hình kinh tế-xã hội đất nước bằng giọng chê bai, chế giễu hoặc buông một câu lấp lửng “Việt Nam ta thì...” với thái độ bất mãn, tiêu cực. Nhiều người còn ra sức tuyên truyền, quảng bá, tô vẽ, khuếch trương nền giáo dục phương Tây, coi đó là điểm đến lý tưởng, con đường duy nhất để thế hệ trẻ Việt Nam có điều kiện làm “rạng rỡ tương lai, mở mang tiền đồ của đất nước”. Từ đó từng bước nhồi nhét, cài đặt tư tưởng sùng ngoại, bài nội, dần tác động thay đổi tận gốc nhân cách, tạo ra một tầng lớp trí thức mới đề cao chủ nghĩa tư bản, lối sống phương Tây, lệch lạc về giá trị đạo đức và lối sống, đề cao hưởng thụ, sống thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, thiếu trách nhiệm với cộng đồng.

Thầy cô sính ngoại - nguy hại khôn lường
Ảnh minh họa/ TTXVN 

PGS, TS Hà Huy Phượng, giảng viên cao cấp Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho rằng: “Đây là “căn bệnh” không chỉ của riêng một số ít thầy, cô giáo khi được ra nước ngoài học tập, công tác. Nhiều cán bộ, công chức, viên chức được cơ quan cử đi học tập, công tác nước ngoài cũng dễ “nhiễm bệnh” sính ngoại. Họ dễ bị choáng ngợp với những giá trị công cộng mà nước họ đến đạt được, rồi đem so sánh với đất nước mình và chê bai đường lối lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và những thành tựu từ mồ hôi, xương máu của nhân dân. Nguyên nhân lớn nhất để nảy sinh "căn bệnh" sính ngoại lại bắt đầu từ khâu tổ chức các đoàn cán bộ đi công tác. Thường thì có những đoàn cán bộ khi đi nước ngoài chỉ họp đoàn bàn về nội dung chương trình, việc ăn ở, đi lại chứ ít quan tâm quán triệt những vấn đề liên quan đến tư tưởng chính trị, văn hóa... cho các thành viên khi đi ra nước ngoài, nên chuyện phát ngôn chưa chuẩn mực hoặc bị nhiễm “bệnh” sùng ngoại xảy ra là điều dễ hiểu...”.

Chính vì sùng bái, mải mê ca ngợi một chiều các giá trị bề nổi, hào nhoáng của xã hội tư bản nên những thầy cô này chỉ “thấy cây mà không thấy rừng”; họ không giúp học sinh, sinh viên thấy rõ những điều còn hạn chế của nước ngoài, nhất là ở các nước tư bản như sự bất công trong xã hội, khoảng cách giàu-nghèo...; họ cũng chưa thấy hết những thành quả, thành tựu đổi mới, xây dựng và phát triển của đất nước; vai trò, sự lãnh đạo của Đảng; chưa phân tích rõ những mặt tích cực, tiêu cực và nguyên nhân của nó; chưa nghiên cứu kỹ các chủ trương, giải pháp của Đảng trong khắc phục, giải quyết những vấn đề còn hạn chế, yếu kém... để từ đó giúp học sinh, sinh viên nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm trước những vấn đề thời cuộc và với sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Rơi vào tay những người thầy này thì ít hay nhiều, sớm hay muộn học sinh, sinh viên cũng dễ bị gieo rắc, "đầu độc" và có thể hình thành tư tưởng thực dụng, quay lưng với lịch sử, truyền thống dân tộc, chạy theo những cám dỗ vật chất tầm thường. Nguy hiểm hơn nữa là những học sinh, sinh viên bị tiêm nhiễm tư tưởng xấu sẽ lây nhiễm suy nghĩ, cái nhìn lệch lạc tới bạn bè, người thân như vết dầu loang rất khó phòng ngừa. Xin dẫn chứng một vài trường hợp:

Đó là một giáo sư, tiến sĩ từng giảng dạy trong lĩnh vực xây dựng, nhưng khi về hưu, ông này đã viết, tán phát nhiều bài viết trên các trang mạng hải ngoại, cá nhân, núp bóng chiêu bài “phản biện” các chính sách để chống Đảng, phủ nhận những thành quả từ sự lãnh đạo của Đảng, phê phán Chủ nghĩa Mác-Lênin, kêu gọi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập... Song, đó chỉ là bề nổi, điều mà nhiều người quan tâm, lo ngại qua trường hợp này là liệu có phải chỉ sau khi nghỉ hưu ông này mới có những tư tưởng, quan điểm lệch lạc này hay nó đã nảy sinh, tích tụ từ bao giờ? Và suốt thời gian đứng trên bục giảng, ông này có “lồng ghép”, truyền bá những suy nghĩ lệch lạch của mình vào các bài giảng hay không? 

Một trường hợp nữa là giáo viên âm nhạc ở tỉnh Đắk Lắk vừa bị Tòa án Nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tuyên y án 8 năm tù giam và 4 năm quản chế về tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Được biết đến là thầy giáo dạy nhạc hát hay và có kiến thức tốt về âm nhạc, thế nhưng thay vì vận dụng kiến thức, hiểu biết đã học được để truyền tải những lời hay ý đẹp, kiến thức âm nhạc cho các thế hệ học trò thì ông này lại lợi dụng ngay cả diễn đàn dạy học để xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước, đả kích chế độ./.

ST.

Tu tài phải gắn chặt với dưỡng đức

Hội nhập giáo dục là một phần tất yếu trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước ta. Nó mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít nguy cơ, thách thức. Thực tế là đã có những âm mưu lợi dụng hợp tác quốc tế về giáo dục-đào tạo để hòng tạo ra một lớp người Việt Nam có quan điểm, tư tưởng không phù hợp với những đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Chiêu trò này nhằm vào đối tượng là thanh niên, sinh viên để tiêm nhiễm, kích động tư tưởng chống đối trong giới trẻ thông qua đội ngũ giáo viên, giảng viên thoái hóa về tư tưởng chính trị. Vì vậy, người làm công tác giảng dạy cần thấy được vinh dự lớn của bản thân khi được tổ chức tin tưởng, tín nhiệm cử đi giao lưu, học tập, nghiên cứu ở nước ngoài; lấy đó làm động lực để nỗ lực phấn đấu, trách nhiệm hơn với công việc của mình, của đơn vị mình; ra sức học tập, nghiên cứu, tiếp thu tinh hoa tri thức nhân loại, làm giàu hơn kho tri thức của bản thân, từ đó phụng sự sự nghiệp giáo dục-đào tạo của đất nước. Chỉ có không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, nhân cách, tiếp thu tri thức thì người thầy mới có cái nhìn toàn diện, sâu sắc; mới phân biệt rõ cái hay, cái dở để từ đó có thái độ ứng xử phù hợp, nhân rộng cái hay, thu hẹp cái dở, giúp học sinh, sinh viên của mình luôn có cái nhìn tiến bộ, tích cực.

Thời nào cũng vậy, thanh niên, học sinh, sinh viên luôn là thành phần tiên phong trong tiếp thu cái mới, hăng hái, nhiệt tình trong hoạt động thực tiễn. Họ cũng là đội ngũ có kiến thức nên càng năng động, nhạy cảm với cái mới, khát khao đổi mới. Thế nhưng họ lại chưa đủ "độ chín" về tư tưởng chính trị, dễ bị cảm xúc lấn át nên thường thiếu sâu sắc khi phân tích, nhận định những vấn đề về chính trị-xã hội, cái tích cực-tiêu cực trong xã hội đa chiều, phức tạp. Vì vậy, nếu không được định hướng kỹ càng, sâu sát, rất có thể họ sẽ phạm sai lầm trong nhận thức và hành động. Do đó, họ rất cần được những người thầy vừa có tâm trong sáng vừa có tầm cao trình độ kiến thức dìu dắt, định hướng để thực sự trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước.

NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG HẬU QUẢ CỦA CƠN BÃO YAGI ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA

 

 Trước những thông tin về tình hình bão lũ đang diễn biến hết sức phức tạp sau cơn bão lịch sử Yagi gây ra tại các tỉnh miền Bắc, cả hệ thống chính trị và nhân dân cả nước đang nỗ lực, đồng lòng cùng nhau ứng phó và giải quyết hậu quả nặng nề của bão lũ. Thế nhưng, đi trái lại với truyền thống “lá lành đùm lá rách”, trước những đau thương của đồng bào, các thế lực phản động lại lợi dụng tình hình thiên tai, ngập lụt đặc biệt sự cố sập cầu Phong Châu của tỉnh Phú Thọ do nước sông lên cao, chảy xiết; để phát tán những luận điệu nhằm chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Những luận điệu này thường mang tính chất kích động, bôi nhọ và gây hoang mang dư luận. Vì vậy, nhận diện và đấu tranh những luận điệu đó là hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay.

Theo báo điện tử Đảng Cộng sản đưa tin: Do ảnh hưởng của bão số 3, nước lũ trên sông Thao (sông Hồng) lên rất cao, tại Ấm Thượng là +27,25m (trên báo động 3 là 1,25 m). Do nước sông lên cao, chảy xiết, vào khoảng 10 giờ 2 phút ngày 9/9, cầu Phong Châu tại km18+300 Quốc lộ 32C (kết nối 2 huyện Tam Nông, Lâm Thao - tỉnh Phú Thọ) bị sập, cuốn trôi trụ T7 và 2 nhịp dàn chính (nhịp 6 và nhịp 7 phía bờ hữu sông Thao, thuộc địa bàn huyện Tam Nông). Sơ bộ ban đầu xác định, tại thời điểm xảy ra sự cố có 10 phương tiện đang di chuyển trên cầu (trong đó có 1 xe ô tô tải, 2 xe ô tô đầu kéo, 6 xe mô tô, 1 xe máy điện); 8 người mất tích; đã cứu, đưa 3 người bị thương đi cấp cứu tại cơ sở y tế (báo cáo nhanh ban đầu là có 5 người bị thương). Sau khi nhận được thông tin, Đoàn công tác của Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc và Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương đã trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo công tác tìm kiếm, cứu nạn, cứu chữa người bị thương, thăm hỏi, động viên người bị nạn; chỉ đạo thực hiện các biện pháp trước mắt để khắc phục sự cố và các giải pháp lâu dài để đảm bảo an toàn giao thông.

Trong lúc các ban ngành chức năng và người dân đang nỗ lực tìm kiếm các nạn nhân mất tích thì các thế lực thù địch, phần tử chống đối chính trị, phản động lại ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh của người lãnh đạo Đảng nhằm chống phá Nhà nước Việt Nam. Trên trang cá nhân của Việt Tân ra sức đưa ra luận điệu có tính quy chụp, chúng suy diễn về nguyên nhân gây ra sự cố sập cầu Phong Châu  như do có sự tiếp tay, làm ngơ, bảo kê cho tình trạng cát tặc lộng hành; hay do sự tắc trách của chính quyền địa phương không tu sửa kịp thời, chúng so sánh cầu Long biên được Pháp xây dựng từ thế kỉ 19 vẫn còn chất lượng tốt còn cầu Phong Châu do Việt Nam xây dựng mới 29 năm đã đổ sập, ... Từ những luận điệu này chúng chuyển sang cáo buộc đó là sự yếu kém trong quản lý và giám sát của các cơ quan nhà nước, tham nhũng, rút ruột công trình, hoặc sự can thiệp của các nhóm lợi ích trong quá trình đấu thầu và thi công, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, dẫn đến chất lượng công trình kém, dễ gây ra tai nạn.

Đó đều là sự xuyên tạc và quy chụp một cách thiếu căn cứ. Xin thưa Việt Tân, với bất kỳ công trình xây dựng nào, kể cả những công trình ở các nước phát triển, đều có nguy cơ gặp sự cố do nhiều yếu tố khác nhau như yếu tố thời tiết, kỹ thuật, hoặc lỗi thiết kế. Ở Việt Nam luôn chú trọng trong việc kiểm tra và giám sát các dự án hạ tầng, và khi xảy ra sự cố, các biện pháp điều tra, khắc phục đều được triển khai kịp thời và nghiêm túc. Trên thực tế trong các năm 2013, 2019, 2023 cầu Phong Châu đã đều được sửa chữa và sau khi sửa chữa cầu không phải gắn biển hạn chế tải trọng xe qua cầu. Tuy nhiên, theo điều tra ban đầu, Sở Giao thông vận tải tỉnh Phú Thọ đã có Báo cáo sơ bộ về nguyên nhân dẫn tới vụ việc do ảnh hưởng của bão số 3 gây mưa lũ, nước sông Hồng dâng cao, lưu tốc dòng chảy xiết đã làm thay đổi địa hình, địa mạo dưới lòng sông khu vực cầu Phong Châu, kéo đổ trụ T7 làm sập 2 nhịp dàn chính của cầu. Ngay sau khi nhận được thông tin, đoàn công tác của trung ương đã đến kiểm tra, trực tiếp chỉ đạo, cùng phối hợp với lãnh đạo UBND tỉnh Phú Thọ để chỉ đạo huy động các lực lượng chức năng (công an, quân đội, y tế, nhân dân địa phương…) triển khai ngay các biện pháp khẩn cấp để cứu người, ứng phó, khắc phục sự cố.

Trên thế giới cũng cũng đã xảy ra nhiều sự cố sập cầu và gây ra hậu quả nghiêm trọng như: Cầu Nanfang’ao ở Đài Loan mới xây dựng được 20 năm đã sập vào ngày 1 tháng 10 năm 2019 khiến ít nhất 20 người bị thương, 6 ngư dân mắc kẹt. Một xe tải đang ở trên cầu vào thời điểm tai nạn. Cây cầu sụp xuống trúng 3 tàu đánh cá đang ở bên dưới mặt nước.

Hay ở Italy một đất nước rất phát triển về khoa học kĩ thuật, trong vòng 5 năm (2013-2018) xảy ra liên tiếp 11 vụ sập cầu, có một cây cầu cạn nối Palerme với Catane ở Sicile được khánh thành nhưng đã không thể sử dụng. Tháng 11-2013, hai cây cầu đã bị cơn bão mạnh phá hủy ở Sardaigne.

Cầu Tacoma Narrows được xây dựng năm 1939, nằm ở Washington, Mỹ, đã đổ sập vào ngày 7 tháng 11 năm 1939 do hiện tượng cộng hưởng gió. Cây cầu này đã bị nghiêng và đổ xuống chỉ sau vài tháng hoạt động và sự kiện này đã trở thành một bài học quan trọng trong thiết kế cầu.

Như vậy, từ những bằng chứng trên cho thấy việc một cây cầu bị đổ sập nó do nhiều yếu tố gây ra và là sự việc không ai mong muốn xảy ra, nguyên nhân do đâu thì hãy để các nhà chuyên môn và các cơ quan có thẩm quyền điều tra. Việt Tân đừng ở đó hòng xuyên tạc, đưa những thông tin sai lệch làm mất niềm tin của người dân vào chính quyền, Đảng, Nhà nước và gây mất an ninh chính trị, bất ổn trong xã hội. Vì vậy, hơn lúc nào hết, với mỗi cán bộ, đảng viên luôn phải có lập trường, tư tưởng vững vàng, đề cao tinh thần cảnh giác, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là không những không tin, không nghe, mà còn chủ động phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, vu khống về công tác phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn của Đảng và Nhà nước ta.


Tâm lý bất mãn - trạng thái nguy hiểm dễ bị kẻ xấu lợi dụng

Trong cơ quan, đơn vị, cũng như xã hội thường có những người bất đắc chí, không được toại nguyện theo nhu cầu bản thân, từ đó sinh ra trạng thái buồn chán, bất mãn, luôn nhìn đời bằng lăng kính xám màu.

Đây chính là một trạng thái tâm lý nguy hiểm, dễ bị kẻ xấu lợi dụng. Thế lực thù địch luôn dùng các thủ đoạn thao túng tâm lý để lôi kéo, kích động các đối tượng nói trên thực hiện theo mưu đồ của chúng hòng gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ cơ quan, tổ chức, cũng như gây bất ổn xã hội. Do đó, cần những giải pháp hiệu quả để hạn chế, ngăn chặn hiện tượng trên.

Tôi có quen một nghệ sĩ tài danh. Tuy nhiên, đáng tiếc là người nghệ sĩ này có một con mắt nhìn đời rất u ám. Bất cứ việc gì, dù là những việc tốt lành, những thành tựu, thành công của đất nước, anh cũng luôn nhìn dưới góc nhìn đầy nghi kỵ, với đủ thuyết âm mưu và đều có xu hướng phủ nhận những thành tựu ấy, cho rằng đó chỉ là sự “đánh bóng, không đúng thực tế”, “không thực chất”.

Ngay cả thành công của bóng đá Việt Nam trong những năm qua, anh cũng cho là “do ăn may”. Theo cách nghĩ của anh thì đất nước Việt Nam luôn đầy rẫy những yếu kém, bất cập, tiêu cực, không minh bạch và “có nằm mơ mới bắt kịp được trình độ phát triển của các nước trên thế giới”. Chính cách nhìn đời u ám ấy khiến anh luôn có một trạng thái tâm lý đầy bức bối.

Tâm lý bất mãn - trạng thái nguy hiểm dễ bị kẻ xấu lợi dụng
 Ảnh minh họa: Tuyengiao.vn

Những người có trạng thái tâm lý như trên không hiếm gặp. Đáng lo ngại có cả những cán bộ, đảng viên, thay vì thể hiện tính tiền phong, gương mẫu, hăng hái trong thi đua thực hiện nhiệm vụ thì lại có trạng thái tâm lý rất tiêu cực, ngồi đâu cũng nói xấu lãnh đạo cấp trên, nói xấu đồng nghiệp, để từ đó ảnh hưởng tới chất lượng công tác của bản thân, tới uy tín của cơ quan, đơn vị, địa phương, gây tâm lý hoài nghi trong quần chúng, nhân dân.

Có nhiều nguyên nhân tạo ra trạng thái tâm lý đó, nhưng có lẽ chủ yếu xuất phát từ sự bất mãn cá nhân, do những mong muốn, nguyện vọng của bản thân không được đáp ứng, tích tụ lâu ngày hình thành tâm lý bất mãn, thậm chí thù ghét mọi thứ xung quanh.

Trong cơ quan, đơn vị rất khó tránh việc xuất hiện những người bất đắc chí, ấy là vì họ chưa được đề bạt, cất nhắc, bổ nhiệm; chưa được vào biên chế; chưa được nâng lương, thăng quân hàm đúng niên hạn; chất lượng hoàn thành công việc không được đánh giá cao; bị kỷ luật vì có vi phạm, khuyết điểm... Nếu những trạng thái tâm lý này không được kịp thời phát hiện, sớm có biện pháp giải tỏa thì lâu ngày sẽ tạo thành một căn bệnh bất mãn kinh niên, rất nguy hiểm cho sự ổn định của cơ quan, đơn vị, tổ chức.    

Việc có cách nhìn bi quan, u ám về cuộc sống, về môi trường làm việc trước hết ảnh hưởng tới bản thân mỗi con người. Những người mang tâm lý ủ dột, bức xúc thì kết quả lao động, sản xuất, thực hiện nhiệm vụ thường không tốt. Họ thường không muốn làm việc, không muốn cống hiến tối đa năng lực của mình, vì thế rất khó phát triển, thậm chí còn bị thụt lùi. Vì họ thường tự kỷ ám thị, cường điệu thái quá về những mặt trái, những hiện tượng tiêu cực trong môi trường xung quanh, từ đó tự đánh mất động lực để phấn đấu.

Họ nghĩ rất tiêu cực rằng có làm việc, cống hiến tới đâu thì kết quả cuối cùng dành cho bản thân vẫn không tương xứng với công sức bỏ ra. Trạng thái tâm lý đó hết sức nguy hiểm, bởi không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của nhân sự trong cơ quan, đơn vị mà còn có thể dẫn đến những rủi ro khó lường khác.  

Đáng chú ý là các thế lực xấu, thù địch luôn ra sức lợi dụng, sử dụng các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị làm lực lượng xung kích, tiên phong để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”. Những kẻ xấu, thế lực thù địch thường lợi dụng tâm lý bất ổn của một số cá nhân trong cơ quan, tổ chức và nhóm người trong xã hội để tiếp tục bơm thông tin xấu độc, lôi kéo, kích động, thao túng tâm lý, từ đó tạo ra ý muốn phản kháng.

Ở nước ta, theo thống kê, đến nay có khoảng 77,93 triệu người dùng internet. Sự phát triển của mạng xã hội khiến các thông tin xấu độc có cơ hội luồn lách đi sâu vào đời sống của mỗi con người, rất khó kiểm soát. Các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng mạng xã hội để thao túng tâm lý, kiểm soát tâm trí con người bằng cách đưa thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bịa đặt, dựng chuyện, thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây hoang mang, mất niềm tin, tạo bức xúc trong dư luận xã hội, kích động sự gây rối, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Chúng ta thấy rất đáng tiếc có những cán bộ, công chức vốn là người tốt, nhưng khi công việc, cuộc sống không được như ý thì sinh ra bất mãn, bỗng “nghe theo đài địch” từ đó tuyên truyền thông tin, quan điểm sai trái. Nếu không được phát hiện và có những giải pháp kịp thời thì những người này càng ngày càng trượt dài theo con đường tăm tối, trở thành những phần tử gây rối, thậm chí chống Đảng, chống Nhà nước.   

Nhận thức được vấn đề nêu trên, các cơ quan, đơn vị, địa phương cần quan tâm, thực hiện tốt một số biện pháp như sau:

Thứ nhất, xây dựng lối suy nghĩ tích cực, lối sống tích cực trong cơ quan, đơn vị, địa phương. Cán bộ, đảng viên phải tích cực nêu gương, phải là những tấm gương sáng về công tác, lao động, học tập để tạo niềm tin cho tập thể, cho quần chúng, nhân dân.

Thứ hai, quan tâm, giải quyết tốt các chế độ, chính sách cho cán bộ, đảng viên, quân nhân, công chức, viên chức, người lao động. Lãnh đạo đơn vị nên thường xuyên động viên, thăm hỏi, giải quyết tốt các vướng mắc phát sinh trong quá trình công tác, lao động, học tập, sinh hoạt của đội ngũ cán bộ, nhân viên thuộc quyền.

Thứ ba, kịp thời nắm bắt tâm lý, tình cảm, đời sống cá nhân của từng cán bộ, nhân viên trong cơ quan, đơn vị mình. Quan sát kỹ các trạng thái, cử chỉ, hành động giao tiếp hằng ngày để nắm bắt và phát hiện những biểu hiện tâm lý bất ổn, những vấn đề phát sinh, từ đó có giải pháp cụ thể để giải quyết.

Thứ tư, chủ động cung cấp thông tin chính thống, giải đáp kịp thời mọi thắc mắc của cán bộ, nhân viên trong cơ quan, đơn vị. Trước những sự kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... nhất là những sự kiện phức tạp, nhạy cảm thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận, các cơ quan chức năng cần thông tin kịp thời, chính xác cho công chúng và định hướng suy nghĩ, hành động theo hướng có lợi cho Đảng, Nhà nước và nhân dân. 

Thứ năm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát, quản lý thông tin, phòng, chống tin giả, tin đồn, thông tin xấu độc trên không gian mạng. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong kiểm tra, xác minh, điều tra, truy vết và xác định các hành vi, đối tượng có biểu hiện thông tin sai trái, xuyên tạc để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Thứ sáu, tiếp tục thực hiện tốt công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng môi trường cơ quan, đơn vị, địa phương lành mạnh, minh bạch.

Tựu trung, mỗi cán bộ, đảng viên, nhân viên cũng như mỗi người trong xã hội cần luôn tỉnh táo nhận diện để bản thân có một đôi mắt nhìn đời tinh anh, một lăng kính chính xác, không tô hồng, cũng không bôi đen sự thật. Cần luôn giữ một tinh thần lạc quan, một năng lượng tích cực, hết sức tránh sa vào trạng thái tâm lý tiêu cực không chỉ làm khổ bản thân mà còn có hại cho cơ quan, đơn vị, tổ chức và xã hội./.

ST.

Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị

Chủ tịch Hồ Chí Minh là trường hợp hiện hữu của lịch sử khi đã “trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống” và thời gian càng lùi xa, sức sống và giá trị trong tư tưởng của Người càng tỏa sáng.

Việc luận giải sức sống bất hủ của tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn, vững tin hơn vào nền tảng tư tưởng của Đảng mà tự thân những giá trị to lớn trong tư tưởng của Người là sự phủ nhận hữu hiệu đối với các ý kiến lệch lạc, xuyên tạc Hồ Chí Minh của các phần tử cơ hội chính trị. Mặt khác, việc khẳng định những giá trị trường tồn trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách giúp cán bộ, đảng viên phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị và những biểu hiện lười nhác, xem nhẹ việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thế kỷ 20 đầy bão tố đã khép lại cùng với sự đóng góp của nhiều vĩ nhân, trong đó có Hồ Chí Minh. Điều làm nên sức mạnh và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là những đặc tính tiêu biểu toát lên từ tư tưởng của Người.

Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với học sinh Trường Nghệ thuật sân khấu Trung ương ở Khu Văn công Mai Dịch, Hà Nội. Ảnh tư liệu

1. Nội dung căn cốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.

Khát vọng tự do là đặc tính của con người nên khi chủ nghĩa thực dân đẩy vô số dân tộc vào vòng nô lệ, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là xu thế tất yếu của thời đại. Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh trở thành đại diện của các dân tộc bị áp bức đấu tranh cho quyền được làm người, quyền được sống trong bình đẳng và tự do.

Được trang bị phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin và bằng trải nghiệm thực tiễn, Hồ Chí Minh đưa ra những phát kiến ở tầm thời đại về con đường cứu nước và phương hướng dựng nước của dân tộc Việt Nam: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

Hồ Chí Minh có hệ thống quan điểm hết sức sáng tạo về phương thức giải phóng, đó là cách mạng thuộc địa phải tiến hành một cách chủ động, sáng tạo, không thụ động trông chờ vào cách mạng chính quốc và sẽ thành công trước cách mạng chính quốc. Thực hiện tư tưởng của Người, dân tộc Việt Nam không chỉ giành được độc lập, tự do mà thắng lợi của nhân dân Việt Nam còn góp phần làm tan vỡ hệ thống thuộc địa trên quy mô toàn thế giới. Vì thế, Hồ Chí Minh được mệnh danh là người đã đẩy bánh xe lịch sử theo hướng tiến bộ. Nhà bác học người Anh Béctơrăng Rútxen đã viết: “Sự nghiệp vô tư và quên mình của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho nền độc lập và thống nhất của Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ nay đã làm cho Người trở thành không những là lãnh tụ của dân tộc Việt Nam mà còn là kiến trúc sư nổi tiếng của thế giới đã thoát khỏi chủ nghĩa thực dân”.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh kết tinh những giá trị vĩnh hằng của nhân loại là hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Thế giới tôn vinh Hồ Chí Minh là Nhà văn hóa hòa bình bởi Người luôn nỗ lực giải quyết xung đột với dân tộc khác bằng con đường đối thoại văn hóa, khi buộc phải tự vệ thì Người chủ động hạn chế không gian chiến tranh ở Việt Nam để bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới. Hồ Chí Minh rất yêu chuộng hòa bình nhưng đó phải là hòa bình thực sự-hòa bình trong độc lập, tự do bởi đúng như Người đã tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Với Hồ Chí Minh, độc lập, tự do không chỉ là mục tiêu chính trị mà còn là giá trị đạo đức. Một con người yêu nước, một dân tộc có lòng tự tôn sẽ không cam tâm sống cuộc đời nô lệ. Khi thế giới còn đầy rẫy sự bất công, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh đã trở thành chân lý lớn của thời đại.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng đoàn kết và hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.

Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên khẳng định: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân An Nam”. Có thể coi đây là khởi phát của chiến lược đoàn kết quốc tế của Người. Cần nhấn mạnh rằng, chiến lược ấy ra đời không chỉ vì mục tiêu chính trị mà còn xuất phát từ tình cảm đồng loại: “Quan sơn muôn dặm một nhà/ Vì trong bốn biển đều là anh em”. Tình cảm ấy ở người cộng sản Nguyễn Ái Quốc hết sức sâu đậm nên từ năm 1923, nhà thơ Xô viết Ôxip Manđenxtam đã cảm nhận: “Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy được ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”.

Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Người không ngừng giáo dục nhân dân về tình hữu nghị, về đạo lý “giúp bạn là tự giúp mình”. “Chiến tranh lạnh” đẩy các quốc gia vào thế “đối đầu” nhưng Hồ Chí Minh vẫn kiên trì khẳng định: “Các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hòa bình được”. Hồ Chí Minh là người luôn tìm cách quy tụ thay cho loại trừ, luôn nỗ lực tìm ra “mẫu số chung” chứ không “khoét sâu” sự khác biệt. Với tinh thần “tìm sự thống nhất trong đa dạng”, Hồ Chí Minh không chỉ là người có tư duy quốc tế hiện đại, tinh thần khoan dung văn hóa mà còn là đại sứ của Việt Nam trên toàn cầu.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần đổi mới và hội nhập-xu thế lớn của thời đại ngày nay.

Hồ Chí Minh là người đặc biệt nhạy bén với cái mới. Người định nghĩa cách mạng cũng từ góc độ này: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Trung thành với Chủ nghĩa Mác nhưng Người vẫn đặt câu hỏi: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng mà còn phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin bằng một loạt luận điểm mới, phù hợp với cách mạng Việt Nam. Lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người căn dặn cán bộ tuyệt đối không được giáo điều, bảo thủ. Trong "Di chúc" để lại, mặc dù không trực tiếp sử dụng khái niệm “đổi mới” nhưng Người đã phác thảo một chiến lược đổi mới trên nét lớn và căn dặn: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Sự nghiệp đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề xướng đã trở lại đúng tinh thần đó và thành tựu do đổi mới mang lại thực sự vĩ đại. Đó là minh chứng cho khả năng dự báo chiến lược của Hồ Chí Minh. Khi thế giới đang phát triển với tốc độ nhanh chưa từng có như hiện nay, tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh càng trở nên ý nghĩa.

Hồ Chí Minh cũng là người đặt nền móng cho chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Ngay khi nhà nước cách mạng mới ra đời và chưa được quốc gia nào công nhận, chủ trương mở cửa, kêu gọi đầu tư đã được Người khẳng định trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc” (tháng 12-1946). Trong thương mại quốc tế, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà”. Ngày nay, hội nhập quốc tế toàn diện đã trở thành xu thế tất yếu nhưng vào thập niên 1940, chủ trương của Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế với các nước có sự khác biệt về ý thức hệ và thể chế chính trị, thực sự là tư duy hết sức mới mẻ, tiến bộ.

5. Tư tưởng văn hóa-đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc mà còn để lại hình mẫu về văn hóa làm người.

Với Hồ Chí Minh, văn hóa không phải là cái gì quá cao siêu mà phải trở thành “văn hóa đời sống”, tức là văn hóa phải góp phần loại bỏ những gì lạc hậu, dốt nát, phù hoa, xa xỉ trong tập tục và nâng cao dân trí để mỗi người giải phóng hết “năng lực người” của mình.

Hồ Chí Minh rất sâu sắc khi cho rằng, việc tiếp thu văn hóa nhân loại phải song hành với việc quảng bá văn hóa dân tộc vì ngoài vấn đề lợi ích thì đó còn là sự dâng hiến theo tinh thần “mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay cho người ta hưởng”. Hàm chứa những quan điểm hết sức sâu sắc, cho nên, UNESCO đánh giá: Tư tưởng Hồ Chí Minh “là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”.

Hồ Chí Minh còn là nhà tư tưởng đặc biệt quan tâm đến đạo đức. Nói về tầm quan trọng của đạo đức, Hồ Chí Minh luôn khẳng định đạo đức là cái gốc của con người, là sức mạnh của người cách mạng và Đảng cách mạng, là điều kiện để con người vươn tới tài năng, là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của học thuyết cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cao nhất chính là suốt đời phấn đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân và nhân loại.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giàu sức thuyết phục không chỉ bởi đặc tính khoa học, nhân văn mà còn vì cuộc đời “trong như ánh sáng” và sự hiến dâng trọn vẹn cho dân, cho nước của Người. Không chỉ nhân dân Việt Nam, các trí tuệ lớn của thời đại cũng đã thừa nhận: "Nói tới một con người mà cả cuộc đời mình đã để lại ân tình sâu nặng cho nhân dân thì không có một ai khác ngoài Hồ Chí Minh". Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh-mẫu mực điển hình về sự trong sáng, cao thượng, luôn hòa quyện trong nhau và có ý nghĩa thời sự rất lớn đối với một thế giới nhiều nghịch lý hiện nay.

Thế giới ngày càng giàu có và hiện đại nhưng do sự phát tác thái quá của chủ nghĩa cá nhân, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng giữa các tầng lớp và dân tộc, không ít người đã rơi vào khủng hoảng lẽ sống, niềm tin. Điều đó dẫn đến sự gia tăng bạo lực và lối sống lệch lạc của một bộ phận dân chúng. Đến mức, có người dùng cụm từ “dã man trong văn minh” để nói về thế giới hiện đại. Sinh thời, Thủ tướng Ấn Độ Nêru đã kết luận rất đúng rằng: “Thế giới ngày nay đang trải qua một cuộc khủng hoảng... Cái cần bây giờ là tiếp cận hòa bình, hữu nghị và tình bạn. Hồ Chí Minh là biểu tượng cho sự tiếp cận đó”. Tư tưởng nhân văn-đạo đức Hồ Chí Minh với triết lý nhân sinh “chính tâm và thân dân” sẽ đánh thức phần “thiện” trong mỗi con người, giúp họ tìm ra lẽ sống đúng đắn và cách hành xử hợp đạo lý để có được hạnh phúc đích thực.

Năm tháng trôi qua nhưng Hồ Chí Minh “không phải là một kỷ niệm của quá khứ. Người là một con người diệu kỳ cho tất cả mọi thời đại”. Đó là sự đánh giá xác đáng mà nhân loại đã dành cho Bác Hồ của chúng ta./.

ST.

LẠI LÀ CHIÊU TRÒ LẤY VIỆC KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CƠN BÃO YAGI ĐỂ CHÈO LÁI ĐỊNH HƯỚNG SAI LỆCH CÔNG TÁC KHẮC PHỤC HẬU QUẢ THIÊN TAI CỦA ĐẢNG TA

 

 Liên quan đến sự kiện ngày 07/9/2024 cơn bão số 3 - siêu bão Yagi, cơn bão mạnh nhất trong nhiều thập kỷ qua đã để lại những hậu quả nặng nề khiến nhiều người chết và mất tích, hàng trăm người bị thương; nhiều diện tích lúa và hoa màu bị thiệt hại; nhiều nhà ở, trụ sở cơ quan, trường học, các thiết chế văn hóa bị đổ, tốc mái, hư hại nặng nề…. Lợi dụng vấn đề này ngày 08/9/2024 tổ chức Việt Tân đã đăng tải các thông tin xoay quanh việc khắc phục hậu quả của cơn bão số 3 với mục đích nhằm bẻ lái, xuyên tạc, làm giảm niềm tin của nhân dân với Đảng trong công tác phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc với luận điệu xảo trá “mùa mưa bão là mùa bội thu của các tham quan”. Đây là hành động xuyên tạc trắng trợn, nhằm bôi nhọ danh dự cuả các cấp chính quyền, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong nước, là cớ để lực lượng phản động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.



Như chúng ta đã biết để ứng phó với cơn bão số 3 Yagi, Thủ tướng Chính phủ đặc biệt quan tâm, liên tiếp ban hành 03 Công điện khẩn để chỉ đạo các Bộ, ban ngành địa phương khẩn trương, tập trung triển khai các biện pháp ứng phó với bão. Các lực lượng, địa phương đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc 03 công điện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, hoàn thành khối lượng công việc khổng lồ trước khi bão đổ bộ.

Cùng với đó ngay sau khi cơn bộ số 3 đổ bộ vào đất liền, chính quyền ở các cấp từ trung ương đến địa phương đã tích cực chủ động tổ chức các hoạt động khắc phục hậu quả sau cơn bão. Tại Hội nghị đánh giá công tác chỉ đạo ứng phó, tình hình thiệt hại và triển khai các biện pháp cấp bách khắc phục hậu quả cơn bão số 3, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã khẳng định: Bão số 3 đã hoành hành trên đất liền hơn một ngày, gây hậu quả nghiêm trọng. Hoàn lưu bão sẽ tiếp tục gây mưa lũ, nhất là các tỉnh miền núi phía bắc. Thủ tướng yêu cầu rà soát ngay, hỗ trợ cho các địa phương bị thiệt hại, các gia đình có người thiệt mạng, kịp thời xử lý các vấn đề liên quan tới đời sống người dân, sản xuất, kinh doanh, ứng phó sạt lở, sụt lún.

Như vậy có thể nói rằng về mặt chủ trương Đảng và Nhà nước xác định khắc phục hậu quả sau cơn bão đem lại sự ổn định cho đời sống nhân dân là việc làm cấp thiết đầu tiên. Và việc tổ chức thực hiện một cách đồng bộ từ trung ương đến các cấp chính quyền địa phương trên tất cả các phương diện là một trong những khâu then chốt. Trong đó đội ngũ cán bộ trực tiếp tiến hành kiểm tra đôn đốc và tổ chức thực hiện theo đúng ý kiến chỉ đạo.

Trên thực tiễn thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng, ngay sau khi cơn bão số 3 đi qua, các địa phương đã dồn tổng lực để khắc phục hậu quả. Cụ thể tại Hà Nội tất cả các lực lượng chức năng đơn vị quận, huyện trên địa bàn thành phố đều ra quân dồn lực khắc phục hậu quả sau bão số 3. Lực lượng đoàn viên, thanh niên Thủ đô đã phối hợp các lực lượng chức năng dọn dẹp cây đổ, vệ sinh môi trường, thăm hỏi người già neo đơn, hỗ trợ người dân sửa sang nhà cửa; hỗ trợ và bảo đảm nhu yếu phẩm cho người dân....Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội đã điều động 400 cán bộ, chiến sĩ và 14 phương tiện chuyên dùng của lực lượng chủ lực phối hợp lực lượng tại chỗ giúp địa phương khắc phục hậu quả cây đổ tại 8 quận: Hà Đông, Thanh Xuân, Tây Hồ, Ba Đình, Cầu Giấy, Đống Đa, Hoàng Mai, Hai Bà Trưng. Đồng thời tiếp tục chỉ đạo các đơn vị quân đội, dân quân tự vệ giúp nhân dân thu hoạch hoa màu các vùng ngập úng; thăm hỏi, động viên các gia đình gặp nạn. Lực lượng dân quân tự vệ tại các địa phương đã trợ giúp nhân dân chằng, buộc nhà cửa, di chuyển tài sản đến nơi an toàn. Trên 3.000 dân quân tự vệ, dân quân thường trực tham gia giúp cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân khắc phục hậu quả.

Ngay từ sáng sớm ngày 8/9, các đơn vị duy trì cây xanh đã huy động toàn bộ lực lượng, phương tiện giải tỏa, thu dọn được trên 570 cây đổ, khoảng 500 cành gãy. Hiện nay, các đơn vị đang tiếp tục giải tỏa các trường hợp còn lại theo nguyên tắc: Ưu tiên theo thứ tự giải quyết giải tỏa phục vụ đảm bảo giao thông, các tuyến đường trọng điểm, trục chính, nơi có các cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện. Các điểm ngập trên Thành phố Hà Nội cũng đang được các đơn vị thoát nước xử lý. Bão số 3 gây ra trên 181 sự vụ ảnh hưởng đến hệ thống chiếu sáng công cộng như: Chạm chập, mất pha, gãy cột thép, vỡ hỏng đèn... Các sự vụ trên đang được xử lý, giải tỏa kịp thời.

Các tỉnh thành khác như Quảng Ninh, Thái Bình, Hải Phòng... cũng đang tích cực triển khai công tác khắc phục hậu quả do bão gây ra.Trong đó tập trung cao độ cho việc cứu người, rà soát, tìm kiếm người mất tích; cứu chữa những người bị thương, nhất là những người bị thương nặng; lo hậu sự cho những người xấu số. Khắc phục các sự cố về điện, nước, viễn thông và các lĩnh vực khác để phục vụ lãnh đạo, chỉ đạo, sản xuất kinh doanh và đời sống người dân, ứng phó hậu quả hoàn lưu bão như lũ ống, lũ quét, sạt lở, sụt lún…Các địa phương cũng đã xuất cấp dự trữ để khắc phục các vấn đề cấp bách về ăn, mặc, ở, học tập, khám chữa bệnh của người dân và đề xuất hỗ trợ của Trung ương từ ngân sách dự phòng.

Như vậy xét về mặt thực tiễn thì ngay sau khi cơn bão đi qua tất cả các cơ quan ban ngành chính quyền địa phương đã vào cuộc với một tinh thần kiên quyết, thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả. Hoàn toàn không thấy hình ảnh bóng dáng của những tham quan như lời lẽ của trang Việt Tân đưa tin. Và việc khăc phục hậu quả hệ thống cây xanh bị đổ. Có lẽ là một trong những mặt rất nhỏ trong chuỗi công việc khắc phục hậu quả của cơn bão Yagi. Do đó nếu nói như trang Việt Tân đưa tin chỉ dân khổ trăm bề, tiền vào nhà quan là hoàn toàn không đúng.

 Đến đây chúng ta có thể thấy rằng với thủ đoạn lấy những sự việc mới đang được dư luận xã hội quan tâm là việc khắc phục hậu quả của cơn bão Yagi để tạo được sự thu hút chú ý của người dân thì âm mưu của Việt Tân khi đăng tải bài viết này không có gì khác ngoài việc nhằm bẻ lái, xuyên tạc, làm giảm niềm tin của nhân dân với Đảng trong công tác phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, gây hoài nghi trong công tác lãnh đạo của Nhà nước, làm giảm vị trí vai trò của Đảng trong hoạt động xã hội, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc tạo cơ hội xúi dục bộ phận bị dao động về tư tưởng chống đối Đảng và Nhà nước. Qua đó tiếp tay cho lực lượng phản động trong và ngoài nước can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta, gây mất ổn định an ninh chính trị, gây mất lòng tin người dân với Đảng. Do đó là những người dân thông minh mỗi chúng ta cần phải nhìn nhận cho đúng, tìm hiểu cho sâu để tránh rơi vào bẫy sâu của các thế lực thù địch mà đi ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc.

LẠI THÊM BÀI KHÓC THUÊ CỦA “HRW” CHO NGUYỄN VŨ BÌNH

 

Ngày 10/9/2024, Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội đã mở phiên xét xử, tuyên phạt 7 năm tù giam đối với Nguyễn Vũ Bình về tội “làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự.

Như một thường lệ, trên không gian mạng lại tràn ngập thông tin lá cải được đăng tải trên các trang mạng phản động như VOA Tiếng Việt, RFA, BBC Tiếng Việt, Việt Tân; đặc biệt là Tổ chức theo dõi nhân quyền (tiếng Anh: Human Rights Watch- HRW) đã đưa ra những công bố xuyên tạc nhằm bênh vực Nguyễn Vũ Bình, lên án Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, là bắt giam người bất đồng chính kiến, là hành động hèn hạ trả thù các nhà hoạt động nhân quyền, mà mục đích cuối cùng là nhằm bôi nhọ, chống phá luật pháp công minh, chính xác bình đẳng, tiến bộ mà Đảng, Nhà nước, Nhân dân ta dày công tạo lập.

Trước hết chúng ta cần tìm hiểu thêm về HRW, đây là tổ chức theo dõi nhân quyền (tiếng Anh: Human Rights Watch- HRW) là một tổ chức phi chính phủ chuyên hoạt động về nhân quyền, có trụ sở tại Hoa Kỳ và văn phòng đại diện ở một số quốc gia. Ra đời từ thời kỳ chiến tranh lạnh (1945-1989, 1991), có thể vì vậy cho đến nay tổ chức này vẫn giữ quan điểm kỳ thị đối với các quốc gia do Đảng Cộng sản lãnh đạo, cầm quyền, đặc biệt là Việt Nam. Hoạt động chính của HRW là: Kết nối giữa các cá nhân, tổ chức hoạt động trên lĩnh vực “nhân quyền”; Lượm lặt/ sưu tập tài liệu, soạn thảo Phúc trình thường niên, đồng thời mặc nhiên cung cấp thông tin cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ soạn thảo “Phúc trình Nhân quyền và Phúc trình Tôn giáo thế giới hằng năm; Cổ vũ cho cá nhân “đấu tranh cho nhân quyền” bằng hình thức trao giải thưởng nhân quyền. Mục tiêu của HRW là dùng vấn đề nhân quyền làm suy yếu, thúc đẩy các chế độ xã hội do các Đảng Cộng sản lãnh đạo và các chế độ xã hội khác chuyển sang chế độ xã hội “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” và thể chế “tam quyền phân lập” kiểu phương Tây. Các Phúc trình của HRW dựa vào “Tin tức lượm lặt trên báo chí nước ngoài, như Đài Á châu Tự do (RFA), Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA), Đài BBC, Mạng lưới Truyền hình Sài Gòn (SBTN), các mạng xã hội như facebook và youtube, các trang mạng độc lập về chính trị như: Dân làm báo, Dân luận, Việt Nam Thời báo, Tin mừng cho người nghèo, Defend the Defenders và các blog cá nhân”. Như vậy có thể nói, Phúc trình hoàn toàn không dựa vào một nguồn tin chính thức nào của cơ quan, tổ chức Nhà nước Việt Nam, kể cả báo chí Việt Nam. Họ cũng không dựa trên bất cứ nguồn tin nào của các tổ chức của Liên hợp quốc, như UNDP, UNESCO, Hội đồng nhân quyền… hoặc của các định chế tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB… mà đều dựa trên những nguồn tin mạng vốn kỳ thị với các chế độ xã hội do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thậm chí cả những “blogger cá nhân”. Về mặt pháp lý, HRW chỉ dựa vào khái niệm “nhân quyền” một cách trừu tượng (như quyền tự do ngôn luận báo chí, internet, quyền lập hội và hội họp hòa bình…) mà không hiểu, hoặc cố tình không hiểu rằng quyền của mỗi người chỉ có thể được bảo vệ, bảo đảm bởi pháp luật và các cơ quan tổ chức quốc gia. HRW cũng cố tình không hiểu rằng nhiều quyền, trong đó có quyền tự do ngôn luận, báo chí, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hội họp… (trong Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị, 1966) đều bị hạn chế nhất định. 

Còn khi nói về Nguyễn Vũ Bình, chúng ta đều thấy rằng, từ những năm 2000 Y đã soạn thảo "điều lệ, cương lĩnh" chuẩn bị cho việc thành lập “đảng Tự do, dân chủ” với mục đích đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam và gửi đơn xin thành lập đảng này nhưng không được Nhà nước Việt Nam cho phép; sau đó Bình đã móc nối, quan hệ với số đối tượng cơ hội chính trị ở trong nước như Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Trần Khuê, Lê Chí Quang... để nhận viết bài có nội dung trái với quan điểm, đường lối của Đảng, vu cáo, xuyên tạc thực trạng dân chủ, nhân quyền Việt Nam, ký tên vào các bản kiến nghị đòi “tự do”, “dân chủ”, vu cáo Nhà nước Việt Nam vi phạm “dân chủ, nhân quyền”. Ngày 5/5/2004, Tòa án nhân dân tối cao tuyên phạt Nguyễn Vũ Bình 7 năm tù giam, 3 năm quản chế sau mãn hạn tù. Ngày 9/6/2007, sau gần 3 năm chấp hành án phạt tù, Nguyễn Vũ Bình được hưởng chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước, được đặc xá trước thời hạn tù do tình hình sức khỏe và Bình cùng thân nhân đã có đơn xin đặc xá gửi các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, ngựa quen đường cũ, ngay sau khi được ân xá, Bình cùng vợ và những kẻ chống phá khác tiếp tục nhận hàng nghìn USD của những tổ chức phản động nước ngoài để đăng tin, viết bài và cung cấp những thông tin không chính xác chống phá Nhà nước ta. Ngày 07/3/2024, Cơ quan Công an Thành phố Hà Nội đã công bố lệnh bắt giam Nguyễn Vũ Bình và Nguyễn Chí Tuyến cùng với tội danh “làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự.

Là những người luôn nói và làm theo pháp luật, chúng ta thấy rằng, đây là những luận điệu hoàn toàn sai lệch, xuyên tạc sự thật và can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam. Bởi lẽ trên thực tế tại Việt Nam, không ai bị bắt giữ, xét xử chỉ vì “bày tỏ chính kiến”, “bảo vệ nhân quyền”. Cũng như các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam kiên quyết đấu tranh với các hành vi lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để vi phạm pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Những hành vi vi phạm pháp luật dù đó là ai đều sẽ bị xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật. Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người phù hợp với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, cũng như với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.

Bản án dành cho Nguyễn Vũ Bình thực sự là bài học cho những ai đã, đang và sẽ có những ý định, hành động trái pháp luật, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Cán bộ, đảng viên và quần chúng cần tỉnh táo trước mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.

Tin giả - sự nguy hại và phương cách ngăn chặn

Tin giả đang nổi lên thành vấn nạn tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn nạn tin giả diễn ra tràn lan, gây thiệt hại lớn trên nhiều lĩnh vực, phương diện, nhất là các thế lực thù địch sử dụng tin giả để thực hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta. Do vậy, ngăn chặn, triệt phá tin giả, thông tin xấu độc là nhiệm vụ cấp thiết trong kỷ nguyên số.

Tin giả - hậu quả thật

Tin giả còn được gọi là tin rác hoặc tin tức giả mạo, là thông tin cố ý bịa đặt hoặc dùng thủ thuật lừa bịp bằng cách lan truyền qua phương tiện truyền thông hay mạng xã hội (MXH). Tin giả thường được tạo ra để tác động đến tư tưởng, quan điểm, tình cảm, cảm xúc, thái độ, hành vi của người dân, gây ảnh hưởng tiêu cực đến diễn biến thực tiễn, nhằm thực hiện các mục đích chính trị, lợi ích kinh tế hay ý đồ xấu xa của chủ thể tiến hành.

Trong điều kiện mới với xu thế phát triển nhanh của MXH và các nền tảng MXH xuyên biên giới, kéo theo việc các thế lực thù địch tăng cường lợi dụng, tung tin giả ngày càng phổ biến với nhiều chiêu trò, cách thức, thậm chí rất khó nhận diện, đấu tranh, đẩy lùi.

Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ người dân sử dụng internet rất cao. Bởi vậy, khi tin giả xuất hiện thì cường độ, tốc độ lan truyền nhanh, tác động rất lớn đến đời sống trên không gian mạng và cộng đồng xã hội. Ví như, khoảng cuối tháng 3, đầu tháng 4-2022, loạt tin đồn thất thiệt trên MXH về việc một số doanh nghiệp ngoài nhà nước niêm yết trên sàn chứng khoán bị thanh tra chuyên đề (hoạt động phát hành trái phiếu và việc thực hiện pháp luật về kế toán, thuế, chứng khoán) gây hoang mang cho nhà đầu tư và gây thiệt hại nghiêm trọng cho các doanh nghiệp. Ngay sau đó, dù có thông tin chính thống để đính chính, trấn an cổ đông, nhà đầu tư nhưng cổ phiếu của các doanh nghiệp này vẫn liên tục giảm mạnh. Điều đó cho thấy, chỉ vì tin giả mà kinh tế đất nước bị ảnh hưởng, chi phối rất nghiêm trọng.

Tin giả - sự nguy hại và phương cách ngăn chặn
Ảnh minh họa: Báo Điện tử Đảng Cộng sản 

Tương tự, tin giả xuất hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là những vấn đề, lĩnh vực "nóng", "nhạy cảm" liên quan đến công tác nhân sự, bầu cử, bỏ phiếu tín nhiệm, xử lý kỷ luật cán bộ cấp cao... Tin giả cũng thường xuất hiện trước những sự kiện chính trị trọng đại của Đảng, đất nước, Quân đội với tần suất ngày càng nhiều và mức độ nguy hiểm, phức tạp khó lường. Đặc biệt, thời gian gần đây xuất hiện nhiều tin giả về tình hình sức khỏe của một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội, gây xáo trộn đến tư tưởng, tình cảm và niềm tin của quần chúng; thậm chí còn tạo ra sự hoang mang, tâm lý tiêu cực trong đời sống xã hội.

Rõ ràng, tin giả là một loại thông tin không có thật, nhưng hệ quả và tác hại của nó thì có thật; ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, quốc phòng, an ninh. Chẳng hạn, vào những năm 80, 90 của thế kỷ 20, trên địa bàn Tây Nguyên, các thế lực phản động ở nước ngoài cấu kết với FULRO tung tin giả về việc người Kinh đang chiếm đất của người Thượng, rồi kích động, lôi kéo một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số tụ tập biểu tình, gây rối chính trị ở nhiều địa bàn Tây Nguyên vào các năm 2001, 2004. Tương tự, những sự vụ, sự việc diễn ra ở Thái Bình (năm 1997), Mường Nhé, Điện Biên (năm 2011) và các "điểm nóng" ở Tây Bắc, Tây Nghệ An, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ... đều bắt đầu từ những tin tức giả mạo, bịa đặt một cách trắng trợn. Hay sự kiện diễn ra ở Bình Thuận và hàng chục địa phương trong nước năm 2018 là bài học đau lòng, khi kẻ thù bịa ra tin giả về việc cán bộ Trung ương “tự quyết” cho nước ngoài thuê đất đặc khu trong 99 năm là nhằm hiện thực lợi ích nhóm của một bộ phận cán bộ... Tin giả ấy đã tạo ra sự bức xúc trên MXH, rồi lan ra đời sống, gây nhiều tổn thất cả về vật chất lẫn tinh thần.

Làm gì để khống chế, đẩy lùi tin giả?

Là quốc gia có nhiều nỗ lực và đạt kết quả quan trọng trong phòng, chống, xử lý tin giả, đến nay, Việt Nam đã hoàn thiện các quy định pháp luật, tăng cường biện pháp quản lý thông tin trên MXH; ban hành các quy định, quy trình xử lý tin sai sự thật; tăng cường hợp tác để yêu cầu các nền tảng xuyên biên giới loại bỏ thông tin sai lệch, vi phạm pháp luật; thiết lập Trung tâm an ninh mạng quốc gia... Thế nhưng, những nỗ lực nêu trên vẫn chưa đủ sức hạn chế, khống chế một cách hiệu quả tình trạng tin giả đang có xu hướng gia tăng trên MXH.

MXH với đặc tính dễ ẩn danh, lan truyền nhanh, khó xác minh, truy vết... đã và đang trở thành môi trường thuận lợi cho việc tán phát tin giả. Hơn thế, trong điều kiện mới, các lực lượng thù địch đang ra sức chống phá cách mạng Việt Nam, trong đó, việc tung tin giả được sử dụng như một mũi công kích chủ yếu.

Để khắc chế, đẩy lùi vấn nạn tin giả, với trách nhiệm rất cao, Việt Nam đã đề xuất thành lập đội phản ứng của ASEAN về tin giả và được các quan chức cao cấp ASEAN đồng thuận, ủng hộ. Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, cách thức vận hành đội phản ứng nhanh để đi vào hoạt động hiệu quả vẫn còn là bài toán nan giải. Cùng với đó, việc phát huy vai trò của Trung tâm an ninh mạng quốc gia và Trung tâm phòng, chống tin giả tuy đạt kết quả bước đầu khả quan nhưng vẫn thụ động; chủ yếu là ứng phó, xử lý sự cố, sự việc khi có tình huống mà chưa đề cao đúng mức tính chủ động trong dự báo, ngăn chặn, đẩy lùi tin giả từ sớm, từ xa...

Cùng với đó, để khống chế, đẩy lùi tin giả thì công tác cung cấp, định hướng thông tin chính thống phải được xem là giải pháp trọng yếu, ưu tiên hàng đầu. Theo đó, cơ quan chức năng phải thực sự “đi trước, đón đầu” trong việc cung cấp thông tin chính xác, đồng bộ, rộng khắp; biến thông tin chính thống thành dòng chủ lưu trong đời sống thông tin xã hội để ngăn chặn, phòng ngừa, đẩy lùi tin giả. Khi xuất hiện tình huống tin giả, cơ quan chức năng cần có ngay các giải pháp quản lý, khống chế cả về số lượng, phạm vi, mức độ, cường độ lây lan của tin giả trên không gian mạng. Phải nỗ lực khắc chế, đẩy lùi tin giả từ khi chúng vừa manh nha hình thành, hay chí ít là khi chúng xuất hiện nhỏ lẻ, chứ không thể để tin giả lây lan rộng khắp, trở thành "điểm nóng" trên MXH rồi mới “theo đuôi”, đi tìm cách khắc phục, xử lý...

Vấn đề đáng bàn ở đây là vì sao những tin tức giả mạo, bịa đặt trắng trợn vẫn có thể xuất hiện kéo dài trên MXH, gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng chưa có cơ quan chức năng kịp thời đứng ra nhận trách nhiệm hoặc chủ động đấu tranh, cung cấp thông tin chính thống nhằm điều chỉnh, uốn nắn, định hướng dư luận ở những thời điểm nhạy cảm? Phải chăng vẫn còn vướng mắc nào đó về mặt cơ chế, hay là do chi phối bởi căn bệnh sợ trách nhiệm? Đây là vấn đề cần nhìn nhận thấu đáo để nghiêm khắc rút kinh nghiệm và có giải pháp khắc phục.

Trên tinh thần đó, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống, đẩy lùi vấn nạn tin giả, Việt Nam cần có những quy định chặt chẽ hơn trong việc xử lý khủng hoảng truyền thông; hoàn thiện quy định, quy chế phát ngôn định hướng dư luận; quy rõ trách nhiệm đối với người đứng đầu và cơ quan chức năng trong việc quản lý, đấu tranh với vấn nạn tin giả. Đó là những vấn đề cần lưu tâm, ưu tiên thực hiện.

Một giải pháp quan trọng nữa là cần đẩy mạnh hợp tác giữa các cơ quan quản lý truyền thông Việt Nam và các quốc gia trên thế giới trong việc phát hiện, khống chế, đẩy lùi tin giả; tăng cường phối hợp giữa các tổ chức nghiên cứu độc lập, tổ chức xác minh và nhà cung cấp MXH để đối phó với vấn nạn tin giả trong khu vực và trên thế giới; tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cấp, ngành, cơ quan, địa phương trong cả nước nhằm chủ động ngăn chặn, phát hiện, đấu tranh và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi tán phát, ủng hộ, cổ xúy tin giả nhằm những mục đích tiêu cực, phản động, vi phạm pháp luật./.

ST.