Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

Cần xây dựng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp rõ ràng và tổng thể

 

Chiều 3-11, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, điều hành của Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi). Chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp là vấn đề then chốt của dự án luật này.

Tại phiên họp, Thứ trưởng Bộ Tài chính Cao Anh Tuấn cho biết, dự thảo gồm 4 chương, 20 điều, trong đó ngoài những quy định chung còn bao gồm các nội dung về căn cứ và phương pháp tính thuế; ưu đãi thuế và điều khoản thi hành.

Về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, dự thảo luật bổ sung quy định về các nguyên tắc áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với trường hợp có nhiều văn bản cùng quy định; áp dụng ưu đãi thuế theo tiêu chí địa bàn hay trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp…

Cần xây dựng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp rõ ràng và tổng thể
 Phó chủ tịch Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp. Ảnh: LÂM HIỂN

Về các trường hợp miễn, giảm thuế khác, dự thảo luật sửa đổi, bổ sung quy định về điều kiện để được giảm thuế, mức giảm thuế đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, lao động là người dân tộc thiểu số; bổ sung quy định giảm 50% số thuế phải nộp đối với thu nhập của đơn vị sự nghiệp công lập từ hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; bổ sung quy định miễn thuế 2 năm đối với doanh nghiệp chuyển đổi từ hộ kinh doanh…

Trình bày báo cáo thẩm tra sơ bộ lần thứ 2 đối với dự án luật này, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh nhận định, chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp là vấn đề then chốt của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Trước tiên, đây là chính sách quan trọng để khuyến khích, thu hút đầu tư trong bối cảnh mới, tình hình mới với các làn sóng cạnh tranh, thu hút đầu tư mạnh mẽ trong khu vực và toàn cầu.

Vì vậy, Chính phủ cần hoạch định các chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp một cách rõ ràng và tổng thể, tạo cơ sở vững chắc để thể hiện trong dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) cũng như các luật chuyên ngành khác đang được thảo luận một cách nhất quán.

Cần xây dựng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp rõ ràng và tổng thể
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh phát biểu tại phiên họp. Ảnh: LÂM HIỂN

Để có cơ sở trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến đối với dự thảo Luật Thuế TNDN (sửa đổi), đề nghị cần có sự thống nhất trong các cơ quan của Chính phủ về các chính sách khuyến khích đầu tư để có phương án thể hiện một cách phù hợp trong dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi), bảo đảm sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, liên quan đến Luật Đầu tư và các Luật chuyên ngành hiện hành và các Dự án Luật chuyên ngành khác đang được Quốc hội thảo luận và sẽ thông qua tại Kỳ họp này và tới đây.

Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách cũng đề nghị Chính phủ rà soát lại các nội dung đang luật hoá các quy định của văn bản dưới luật và các quy định chi tiết khác không thuộc thẩm quyền của Quốc hội, không luật hóa những nội dung đã được quy định tại các nghị định, thông tư để bảo đảm luật chỉ quy định những vấn đề về nguyên tắc, ngắn gọn, đơn giản, bảo đảm dễ hiểu, dễ thực hiện và được áp dụng lâu dài.

Cần xây dựng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp rõ ràng và tổng thể
Thứ trưởng Bộ Tài chính Cao Anh Tuấn thông tin điểm chính của dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi).

Kết luận phiên thảo luận nội dung này, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải nêu rõ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ tiếp thu ý kiến của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và cơ quan thẩm tra để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật trình Quốc hội vào thời điểm thích hợp khi đủ điều kiện.

Phó chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị, tiếp tục rà soát, bổ sung, làm rõ các ý kiến của cơ quan thẩm tra về hồ sơ dự án luật, tính cụ thể, đơn giản và khả thi của các quy định trong dự thảo luật, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; quy định về người nộp thuế, thu nhập được miễn thuế, doanh thu tính thuế, chi phí được trừ, chi phí không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp…

KHÁNH AN

Tháo gỡ vướng mắc trong sử dụng quỹ đất để phát triển nhà ở thương mại

 

Tiếp tục chương trình làm việc ngày 3-11, tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến dự thảo Nghị quyết thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.

Quy định chặt chẽ điều kiện, tiêu chí để nhà đầu tư được thực hiện dự án thí điểm

Theo Tờ trình của Chính phủ, việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội để cho phép thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất nhằm tiếp tục cụ thể hóa chủ trương đường lối của Đảng về “Tiếp tục thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại”.

Tháo gỡ vướng mắc trong sử dụng quỹ đất để phát triển nhà ở thương mại
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn chủ trì phiên họp.

Đồng thời, tạo lập hành lang pháp lý để quản lý thị trường quyền sử dụng đất, thị trường bất động sản phát triển ổn định, lành mạnh, công khai, minh bạch; tạo điều kiện thuận lợi để người sử dụng đất, nhà đầu tư chủ động trong việc thực hiện các dự án nhà ở thương mại, dự án phát triển đô thị, giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan hành chính, hạn chế phát sinh thủ tục hành chính, giảm bớt chi phí; tuân thủ, hạn chế việc Nhà nước thu hồi đất dễ dẫn đến khiếu kiện của người dân; góp phần thúc đẩy tiến trình đô thị hóa đất nước, giải quyết nhu cầu đất ở, nhà ở cho nhân dân.

Dự thảo Nghị quyết thí điểm gồm 6 điều. Điều 1: Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; Điều 2: Điều kiện thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất; Điều 3: Tiêu chí lựa chọn dự án thực hiện thí điểm; Điều 4: Trình tự, thủ tục thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất; Điều 5: Tổ chức thực hiện; Điều 6: Điều khoản thi hành.

Thời gian thực hiện thí điểm của Nghị quyết là 5 năm.

Tháo gỡ vướng mắc trong sử dụng quỹ đất để phát triển nhà ở thương mại
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nêu ý kiến tại phiên họp.

Chính phủ cũng cho biết, quá trình xây dựng dự thảo Nghị quyết cơ quan soạn thảo cũng đã đánh giá tác động mặt tích cực, mặt tiêu cực để từ đó đề xuất các quy định cụ thể nhằm hạn chế các tác động tiêu cực có thể xảy ra khi thực hiện Nghị quyết thí điểm.

Cụ thể, dự thảo Nghị quyết đã tính toán đưa ra phạm vi thí điểm giới hạn về không gian, thời gian đảm bảo cân đối hài hòa giữa các phương thức tiếp cận đất đai. Về không gian thí điểm: Mặc dù thực hiện trên phạm vi toàn quốc, nhưng tại mỗi tỉnh có giới hạn về không gian cho phép thực hiện đó là tại khu vực đô thị, khu vực được quy hoạch phát triển đô thị.

Cùng với đó, về quy mô diện tích đất thực hiện thí điểm: Không vượt quá 30% diện tích đất ở tăng thêm trong kỳ quy hoạch (so với hiện trạng sử dụng đất ở) theo phương án phân bổ và khoanh vùng đất đai trong quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030 đã được phê duyệt nhằm đảm bảo diện tích được quy hoạch đất ở còn lại được sử dụng cho các phương thức tiếp cận đất đai khác như đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất.

Theo Chính phủ, dự thảo Nghị quyết đã quy định rất chặt chẽ điều kiện, tiêu chí để nhà đầu tư được thực hiện dự án thí điểm… Cụ thể, nhà đầu tư phải là tổ chức kinh doanh bất động sản. Dự án của nhà đầu tư phải đáp ứng các điều kiện: Phù hợp quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc nằm trong quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị; phù hợp với chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở của địa phương đã được quyết định, phê duyệt; không thuộc các dự án quy định tại khoản 4 Điều 67 của Luật Đất đai; không thuộc danh mục công trình, dự án phải thu hồi đất được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua....

Cần thiết xây dựng Nghị quyết 

Đại diện cơ quan thẩm tra dự thảo nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhất trí với sự cần thiết xây dựng Nghị quyết như Tờ trình của Chính phủ, đề nghị Chính phủ đánh giá chi tiết, toàn diện tình hình thực tiễn của việc phát triển nhà ở thương mại, hiệu quả của việc sử dụng quỹ đất dành cho phát triển nhà ở thương mại tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; đánh giá thực trạng của việc mua gom, đầu cơ đất đai; giải pháp để hạn chế tác động tiêu cực của việc thí điểm.

Tháo gỡ vướng mắc trong sử dụng quỹ đất để phát triển nhà ở thương mại
Quang cảnh phiên họp.

Thảo luận tại phiên họp, một số ý kiến của thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ làm rõ cơ sở, căn cứ, tính cấp thiết, tính hiệu quả, khả thi, phù hợp với kết luận của cấp có thẩm quyền về việc chọn thí điểm trên phạm vi toàn quốc, các điều kiện, tiêu chí lựa chọn dự án thí điểm. Việc thực hiện thí điểm phải đảm bảo tuân thủ các quy định về diện tích trồng lúa, tỷ lệ che phủ rừng, các chỉ tiêu về đất đã được cấp có thẩm quyền quyết định...

KHÁNH AN

CÂU CHUYỆN QUỐC TẾ: THẾ GIỚI ƠI, LẦN NÀY THÌ SAO?

     Trong hai ngày 29 - 30/10, tại trụ sở Liên hợp quốc ở New York (Mỹ), Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) Khóa 79 đã thảo luận về đề mục “Sự cần thiết chấm dứt cấm vận kinh tế, thương mại và tài chính do Mỹ áp đặt đối với Cuba”.

Đại sứ Đặng Hoàng Giang - Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại LHQ - nhấn mạnh các biện pháp cấm vận vi phạm luật pháp quốc tế, đi ngược lại các tôn chỉ, nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ, không những gây khó khăn cho người dân Cuba mà còn ngăn cản các nước khác tiếp cận hỗ trợ của Cuba, nhất là hỗ trợ nhân đạo và y tế. 
Là đất nước từng hứng chịu hậu quả nặng nề do bị cấm vận, Việt Nam phản đối mọi hình thức áp đặt đơn phương và cấm vận đối với quốc gia có chủ quyền.

Kết quả bỏ phiếu đề nghị dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Cuba tại Liên Hợp Quốc:
- 187 quốc gia đã bỏ phiếu "Có", số phiếu kỷ lục trong 24 năm qua. 
- Chỉ có Mỹ và Israel bỏ phiếu "Không". 
- Moldova bỏ phiếu trắng. Afghanistan, Venezuela và Ukraine không bỏ phiếu. 

Với số phiếu bầu đa số chưa từng có, Liên Hợp Quốc kêu gọi Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận kinh tế, thương mại và tài chính đối với Cuba./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: SỬA ĐỔI LUẬT SĨ QUAN ĐÁP ỨNG NHIỆM VỤ TRONG TÌNH HÌNH MỚI!

     Việc sửa đổi Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, đặc biệt là tăng tuổi công tác, sẽ giúp nâng cao chất lượng đội ngũ, tạo điều kiện để sĩ quan phát triển sự nghiệp và ổn định cuộc sống. Bên cạnh đó, một số chính sách mới tạo động lực để thu hút nhân tài, giữ chân cán bộ, giảm tình trạng chảy máu chất xám, góp phần xây dựng Quân đội ngày càng vững mạnh!

Tăng tuổi công tác để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
Quá trình công tác hơn 20 năm trong Quân đội, từ đơn vị đủ quân làm nhiệm vụ, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, chuyển về đơn vị bộ đội địa phương, tôi nhận thấy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam lần này có nhiều điểm mới mang lại nhiều tác động tích cực.

Trong đó, đối với cán bộ sẽ có thêm thời gian để tích lũy kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn, đảm nhận những vị trí lãnh đạo quan trọng hơn. Với thời gian công tác dài hơn, sĩ quan sẽ có mức lương hưu cao hơn, nhất là với những sĩ quan mang quân hàm thiếu tá, trung tá, bảo đảm cuộc sống ổn định hơn sau khi nghỉ hưu, điều này cũng phù hợp với Bộ Luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội.

Cùng với đó, việc tận dụng kinh nghiệm của những sĩ quan có nhiều năm công tác phần nào giúp giảm thiểu chi phí đào tạo cán bộ, tuy nhiên, việc tăng tuổi công tác cũng đặt ra một số quy định để có cơ chế đánh giá, phân loại cán bộ bảo đảm những sĩ quan được kéo dài thời gian công tác thực sự có đủ phẩm chất, năng lực, có chế độ đãi ngộ hợp lý để thu hút và giữ chân những sĩ quan có trình độ cao.

Quá trình hoàn thiện chế độ chính sách đối với sĩ quan trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam quy định rõ hơn một số chế độ, chính sách với sĩ quan, như thăng quân hàm, nâng lương trước thời hạn, chế độ bảo hiểm xã hội, chế độ nhà ở, đất ở, chăm sóc sức khỏe… tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, rèn luyện để đạt được những thành tích cao hơn. Trong đó, quy định về bảo đảm chế độ nhà ở giúp đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ trẻ yên tâm công tác, giảm bớt gánh nặng về kinh tế, tập trung vào nhiệm vụ chính trị. Khi các chế độ chính sách tốt sẽ thu hút những người có tài, năng lực, có trình độ vào làm việc trong Quân đội.

Mặt khác, khi cán bộ được bảo đảm về đời sống, họ sẽ có tâm lý ổn định, gắn bó hơn với đơn vị, được xã hội tôn trọng và tin tưởng, từ đó nâng cao ý thức kỷ luật, kỷ cương, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được hiệu quả cao, việc thực hiện chính sách cần phải đi đôi với các giải pháp đồng bộ như nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, quản lý, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, đánh giá, phân loại cán bộ công bằng, thực chất, nghiêm minh, có cơ chế luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ trẻ vào những vị trí quan trọng.

Do vậy, việc tăng tuổi theo dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam là một bước đi cần thiết để hoàn thiện chế độ chính sách đối với sĩ quan, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới./.
Theo QĐND
Yêu nước ST.

BẢN SẮC DÂN TỘC GẮN KẾT TÌNH QUÂN DÂN

 

Yêu thích những làn điệu hát ru, hát dân ca và nhạc cổ truyền, giữ gìn nét văn hóa dung dị song cũng rất sâu sắc, uyên bác của cha ông ta để lại, hơn 1.000 cán bộ, hội viên, chiến sĩ thuộc 38 cơ quan, đơn vị đã mang đến Liên hoan hát ru, hát dân ca và âm nhạc cổ truyền của dân tộc Việt Nam trong phụ nữ Quân đội năm 2024 những chương trình, tiết mục dàn dựng quy mô, giàu bản sắc.

Với chủ đề “Lời ru giữ bình yên Tổ quốc”, liên hoan được Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức tại Nhà hát Quân đội (Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội) từ ngày 29-10 đến 1-11 đã để lại dấu ấn trong lòng khán giả.

Tình yêu Tổ quốc từ lời hát ru, hát dân ca

Đông đảo khán giả xem phần thi của Đoàn Bộ đội Biên phòng (BĐBP) với tiểu phẩm kịch hát dân ca đậm màu sắc xứ Nghệ mang tên “Bông hồng thép” đã không cầm được nước mắt. Trong những làn điệu dân ca mượt mà, sâu lắng của quê hương ví, giặm kết hợp với kịch hát dân ca Nghệ An, Hà Tĩnh, các “nghệ sĩ” BĐBP tái hiện hình ảnh câu chuyện kể về bộ đội Thanh-nữ cán bộ vận động quần chúng của Đồn Biên phòng Môn Sơn (BĐBP tỉnh Nghệ An) đã hết lòng chăm lo cho con em đồng bào dân tộc Đan Lai nơi vùng biên Tổ quốc. Cao trào của tiểu phẩm kịch dân ca là bộ đội Thanh không quản ngại hiểm nguy vượt qua mưa lũ để đi tìm một học sinh vì nhớ nhà mà bỏ ký túc xá. Bộ đội Thanh bị mưa lũ cuốn trôi, nhưng may mắn được đồng đội, bà con Đan Lai tìm thấy và cứu chữa tận tình. Khi vừa mở mắt tỉnh dậy, câu đầu tiên của bộ đội Thanh gấp gáp hỏi đồng chí của mình là đã tìm thấy em học sinh chưa?

Theo Thượng tá Đỗ Thị Hải Yến, Trợ lý phụ nữ BĐBP, “Bông hồng thép” dựa trên câu chuyện có thật của Đồn Biên phòng Môn Sơn. Nguyên mẫu là Trung tá QNCN Nguyễn Thị Trần Thanh (hiện nay chị đã chuyển sang Đồn Biên phòng Tam Hợp), đang công tác tại Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Nghệ An và sinh sống cùng gia đình ở TP Vinh, nhưng đã viết đơn tình nguyện lên biên giới công tác. Đồn Biên phòng Môn Sơn cũng là một trong những đơn vị tiêu biểu của BĐBP xây dựng và duy trì mô hình ký túc xá vùng biên. Thông qua hình tượng bộ đội Thanh trong tiểu phẩm, Chương trình “Biên cương thắm mãi lời ru” của phụ nữ BĐBP đã thể hiện được nhiều mô hình hay, ấn tượng của BĐBP như: “Con nuôi đồn biên phòng”; “Ký túc xá vùng biên”; câu lạc bộ đàn hát, dân ca và âm nhạc cổ truyền; giúp đỡ nhân dân trong công tác cứu hộ, cứu nạn, hướng dẫn nhân dân phát triển kinh tế-xã hội; tuyên truyền pháp luật, loại bỏ các hủ tục trong đồng bào các dân tộc thiểu số...

Thượng tá Đỗ Thị Hải Yến cho biết thêm, sở dĩ chọn màu sắc Quân khu 4 đi tham dự liên hoan lần này bởi các đơn vị nơi đây đang có những câu lạc bộ đàn, hát dân ca, hát ru và âm nhạc cổ truyền rất phát triển; ngoài nhiệm vụ công tác, chị em phụ nữ đã hướng dẫn nhau sưu tầm bài hát ru, hát dân ca của đồng bào các dân tộc để chuyển soạn lời mới sử dụng trong công tác tuyên truyền pháp luật, tảo hôn, phát triển kinh tế hiệu quả. Đặc biệt là nhiều chị em còn mở lớp truyền dạy, hướng dẫn phụ nữ và em nhỏ của đồng bào các dân tộc thiểu số hát ví, giặm.

Đoàn Quân khu 7 lại mang đến chương trình với chủ đề “Đất mẹ” thông qua những câu hò, điệu lý mang nét đặc trưng của miền Nam như: Lý quạ kêu, hát ru vọng cổ, lý năm căn, lý chiều chiều, lý kéo chài... “Đất mẹ” tái hiện một không gian từ cánh rừng bạt ngàn đến đồng lúa mênh mông, chảy trôi theo dòng sông Đồng Nai, sông Vàm Cỏ xuôi ra biển lớn, lời ru trên đất mẹ miền Đông đã đong đầy tuổi ấu thơ con với giấc mơ thần Phù Đổng vươn mây, cùng khí thế mạnh mẽ trong "Bình Ngô đại cáo" và ánh nắng Ba Đình rực rỡ. Lời ru ấy dạy con biết chiều sâu của nhân nghĩa thủy chung, hun đúc cho bao thế hệ sẵn sàng hiến dâng đời mình viết nên tên đất nước. 

Lan tỏa hồn quê

Có thể khẳng định, các đơn vị đã mang đến liên hoan nhiều tiết mục đặc sắc, phong phú về thể loại, đa dạng về nội dung; có nhiều hoạt cảnh hấp dẫn, sáng tạo; có cốt truyện, nổi bật chủ đề tư tưởng, phản ánh sát thực hoạt động của phụ nữ từng cơ quan, đơn vị trong việc lan tỏa tình yêu quê hương, đất nước, gắn kết tình quân dân. Tiêu biểu là các kịch bản: “Vọng mãi lời ru” của Quân khu 5; “Lời ru giữ bình yên Tổ quốc” của Tổng cục Chính trị; “Câu ví giặm dâng Người” của Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh; “Lắng đọng những lời ru và khúc hát dân ca” của Quân đoàn 12; “Lời ru từ nơi gió ngàn” của Quân khu 1... Rất nhiều tiết mục đã nhận được tình cảm của khán giả bởi nội dung mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện được tình yêu thương con người và các giá trị truyền thống tốt đẹp.

Đại tá Nguyễn Thị Thu Hiền, Trưởng ban Phụ nữ Quân đội, Trưởng ban tổ chức liên hoan cho biết, thành công của liên hoan khẳng định tính hiệu quả trong triển khai mô hình Câu lạc bộ “Phụ nữ yêu thích và bảo tồn các làn điệu hát ru, hát dân ca” trong toàn quân; tạo nên không khí sinh hoạt văn hóa, tinh thần sôi nổi, góp phần vào việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị tại các cơ quan, đơn vị, vào kết quả Phong trào Thi đua Quyết thắng, kết quả thực hiện các nhiệm vụ quân sự quốc phòng và xây dựng gia đình hạnh phúc. Liên hoan đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, sức lan tỏa sâu rộng; góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống./.

St

VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG VÀ THỰC HIỆN TỐT QUYỀN CON NGƯỜI

 

Ngày 18/10/2024, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “ kiến thêm về Nghị định 126: Tổ chức, hoạt động, quản lý hội”, nội dung xuyên tạc, vu khống Nghị định 126 của Chính phủ mới ban hành là gia tăng sự kiểm soát của Nhà nước, hạn chế sự phát triển của các tổ chức xã hội độc lập và quyền tự do lập hội. Bài viết tập trung kích động tuyên truyền, bịa đặt với luận điệu: Nghị định ra đời nhằm đối phó áp lực quốc tế với nhu cầu gắt gao phải có bước tiến trong vấn đề nhân quyền và xã hội dân sự. Nhưng chính thực tiễn đã bác bỏ toàn bộ những lời lẽ xuyên tạc, suy diễn bịa đặt, phán bừa của y, bởi vì:

Thứ nhất, bảo vệ và thực hiện nghiêm túc quyền con người là ưu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Đảng ta luôn nhất quán xem quyền con người, đảm bảo quyền tự do, dân chủ của nhân dân là mục tiêu hàng đầu. Trong các văn kiện của mình, Đảng ta luôn xác định con người là trung tâm của sự phát triển; coi con người là vốn quý nhất, chăm lo cho con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ. Mọi chủ trương, chính sách phát triển đều xuất phát từ con người, lấy con người làm trung tâm. Trong đó, phát triển kinh tế vì con người, phát triển các mặt về văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, bảo vệ môi trường cũng vì hạnh phúc của nhân dân. 

Đồng thời, Nhà nước luôn đặt quyền con người của công dân lên hàng đầu, sự tôn trọng và đảm bảo được quy định rõ trong Hiến pháp và các quy định của pháp luật. Ðiều 15, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.

Trong Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Ðiều 331 quy định về “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” là sự cụ thể hóa Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân; giúp điều chỉnh, ngăn chặn, có chế tài đối với các hành vi vi phạm, lệch chuẩn trong các quan hệ xã hội, ngăn ngừa những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Thực tế chứng minh, công dân Việt Nam có đầy đủ các quyền như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do lập hội, quyền khiếu nại, tố cáo… và được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền đó. Việc mỗi tổ chức và cá nhân thông qua nhiều hình thức đa dạng để bày tỏ ý kiến cá nhân, nổi lên thời gian qua là việc thiết lập và sử dụng tài khoản mạng xã hội như là xu thế tất yếu trong bối cảnh của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ 4.0 hiện nay.

Thứ hai, thực thi quyền con người bảo đảm bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Tính ưu việt của chế độ dân chủ ở Việt Nam đã góp phần quan trọng trong xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Quốc hội đã từng bước cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng trong tổ chức hoạt động, trong lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao, nhằm hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đáp ứng được khát vọng của nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn Việt Nam. Thực tế chứng minh, công dân Việt Nam có đầy đủ các quyền như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do lập hội, quyền khiếu nại, tố cáo… và được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền đó. Việc mỗi tổ chức và cá nhân thông qua nhiều hình thức đa dạng để bày tỏ ý kiến cá nhân, nổi lên thời gian qua là việc thiết lập và sử dụng tài khoản mạng xã hội như là xu thế tất yếu trong bối cảnh của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ 4.0 hiện nay.

Pháp luật luôn tôn trọng và bảo vệ những tư tưởng, ý chí, nguyện vọng của mỗi tổ chức và cá nhân khi đưa lên công khai trên phương tiện truyền thông, trên mạng xã hội nếu phù hợp với tinh thần xây dựng và thượng tôn pháp luật, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và truyền thống văn hóa của dân tộc. Ðồng thời, nếu những tổ chức và cá nhân sử dụng mạng xã hội với mục đích xấu, động cơ không trong sáng, núp dưới danh nghĩa bảo vệ quyền tự do dân chủ mà thực chất là có những hành vi chà đạp lên quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác, xâm phạm đến Nhà nước thì đều phải chịu các chế tài xử phạt tương ứng. Ðiều này thể hiện rõ tính nghiêm minh của pháp luật, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với các hành vi vi phạm pháp luật, răn đe, trừng phạt thích đáng đối với những đối tượng có hành vi vi phạm. 

Thực tiễn trên đã minh chứng cho việc nội dung bài viết đã xuyên tạc sự thật, lập luận vô căn cứ nhằm phủ nhận việc bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của Đảng và Nhà nước ta với mục đích làm suy giảm niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện rõ bộ mặt phản động, chống phá của các thế lực thù địch đối với đất nước ta hiện nay. Chúng ta cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh vạch trần với những luận điệu nêu trên./.

St

TĂNG CƯỜNG Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CỦA THANH NIÊN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 

Không gian mạng góp phần tích cực vào phát triển nhận thức, tư duy và kỹ năng sống của con người; vào sự phát triển của văn hóa cộng đồng đồng thời góp phần thúc đẩy, mở rộng hội nhập quốc tế. Để làm chủ không gian mạng đòi hỏi thanh niên không chỉ cần có kiến thức mà cần nêu cao ý thức chấp hành pháp luật góp phần vào việc giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội mà còn tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp Nhân dân thực hiện nghiêm túc Hiến pháp, pháp luật Nhà nước trên không gian mạng và ngoài xã hội. Bên cạnh những yếu tố tích cực, không gian mạng cũng tồn tại những hạn chế như: Môi trường thông tin trên không gian mạng thật giả dễ lẫn lộn, khó kiểm chứng và kiểm soát. Không gian mạng tác động tiêu cực đối với sự phát triển văn hóa cộng đồng. Không gian mạng làm gia tăng nguy cơ lộ lọt bí mật, suy giảm quyền lực nhà nước và sức mạnh quốc gia. Không gian mạng đã và đang trở thành công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành phá hoại kinh tế, tư tưởng, chính trị, quốc phòng, an ninh; là môi trường thuận lợi cho các tổ chức khủng bố, tội phạm hoạt động.

Thanh niên khi tham gia vào không gian mạng cần thiết phải tăng cường nâng cao ý thức chấp hành pháp luật là hoạt động có mục đích, có tổ chức của các lực lượng và bản thân thanh niên nhằm không ngừng lan toả những hành động thiết thực, hiệu quả trong học tập, công tác, lao động và rèn luyện:

Một là, từ vị trí, vai trò của thanh niên trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng và phát triển đất nước. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, lớp lớp các thế hệ thanh niên đã nô nức lên đường tham gia chiến trận, không tiếc tuổi xuân, sẵn sàng dâng hiến cả cuộc đời và tuổi thanh xuân của mình cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của Nhân dân. Những thắng lợi của dân tộc luôn gắn liền với tên tuổi của những chàng trai, cô gái với tuổi đời còn rất trẻ, họ đã làm bừng sáng lên khí phách, truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất, viết nên bản anh hùng ca về bản lĩnh, ý chí và sức mạnh con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Sự hiểu biết toàn diện, sâu sắc về kiến thức đã cho phép thanh niên không quản khó khăn, gian khổ, sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất kỳ việc gì khi non sông đất nước cần.

Hai là, từ yêu cầu, nhiệm vụ của hội nhập ngày càng sâu rộng vào quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá, mở cửa, hội nhập và phát triển vào nền kinh tế thế giới đang đặt ra những yêu cầu rất cấp bách cho các chủ thể trong xã hội, nhất là với thanh niên cần trang bị cho mình sự hiểu biết toàn diện kiến thức về pháp luật để nắm được luật chơi, hoà nhập mà không hoà tan, giữ được giá trị văn hoá của dân tộc mình, không để đối phương đưa vào những thế bị động.

Ba là, từ thực trạng nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của thanh niên trên không gian mạng thời gian qua. Việc tăng cường giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của thanh niên rất được các cơ quan, ban ngành tiến hành thường xuyên, có kế hoạch cụ thể, rõ ràng và đã có những chuyển biển tích cực. Nhiều tấm gương thanh niên chấp hành nghiêm ý thức pháp luật xuất hiện đã thực sự trở thành điểm sáng để nhắc nhở cho những người xung quanh lấy đó làm tấm gương để học tập, làm theo. Tuy nhiên, vẫn còn có một số ít thanh niên chấp hành không nghiêm pháp luật Nhà nước cảnh báo cho sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh niên, sự thiếu hiểu biết về pháp luật Nhà nước. Thực tế đó, đã và đang đặt ra cho mỗi cấp, ngành có những nhìn nhận, đánh giá đúng bản chất của từng sự việc, hiện tượng để phối hợp hành động, đưa thanh niên trở về với đúng con đường phát triển của tuổi trẻ, góp ích vào sự nghiệp dựng xây, kiến thiết đất nước. Theo đó cần thực hiện tập trung một số giải pháp nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên ở nước ta trên không gian mạng như:

Thứ nhất, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho thanh niên. Các chủ thể làm công tác quản lý cần đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng cho thanh niên có động cơ trong sáng, lành mạnh, ý thức cao trong chấp hành pháp luật khi tham gia bất kỳ các hoạt động nào.

Thứ hai, đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp cần căn cứ vào tính chất, yêu cầu nhiệm vụ, từng khu vực, địa bàn, đối tượng để xây dựng chương trình cho phù họp, bảo đảm ai cũng có thể hiểu và nắm được, tránh nội dung cao siêu, xa rời thực tiễn.

Thứ ba, phát huy vai trò của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh các cấp trong tổ chức những hoạt động thực tiễn để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên.

Thứ tư, phát huy tinh thần tự học, tự rèn của thanh niên trong chấp hành nghiêm ý thức pháp luật của Nhà nước.

St

Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2024

CHUYỆN KỂ Ở ĐẠI ĐỘI: CÂU CHUYỆN KỶ LUẬT - SUÝT LỖI NỌ CHỒNG LỖI KIA!

     Sau khi xem dự thảo báo cáo kết quả công tác huấn luyện năm 2024, Tiểu đoàn trưởng Hoàng bấm điện thoại gọi Tuyến, Trợ lý Tham mưu lên phòng hỏi:

- Dự thảo báo cáo tổng kết công tác huấn luyện năm do cậu chuẩn bị à?

- Vâng ạ!

- Thế cậu đã đọc kỹ chưa?

- Báo cáo Tiểu đoàn trưởng, tôi đã đọc kỹ, cân nhắc từng câu, rà soát, tính toán cẩn thận số liệu, phụ lục rồi!

Thấy Tuyến chưa nhận ra vấn đề, Tiểu đoàn trưởng Hoàng hỏi tiếp:

- Năm nay, đơn vị tổ chức huấn luyện bơi cho học viên khi nào mà tôi không nắm được? Hay các đồng chí triển khai nội dung này đúng thời điểm tôi đi công tác?

Nghe đến đây, Tuyến mặt biến sắc, đưa tay gãi đầu:

- Thưa đồng chí, thực tế là năm nay Tiểu đoàn mình không tổ chức huấn luyện bơi ạ!

- Thế sao trong báo cáo có cả số lượng học viên, số buổi học, kết quả kiểm tra...?

- Thưa, tôi ghi vào cho báo cáo... đẹp hơn ạ!

Nghe đến đây, Tiểu đoàn trưởng Hoàng nghiêm giọng:

- Cậu tự ý thêm nội dung, gian dối trong báo cáo, thống kê? Chỉ cho "báo cáo đẹp" hay còn lý do khác?

- Tôi lo lúc xem báo cáo, cấp trên thấy nội dung huấn luyện của đơn vị sơ sài, không bằng năm trước nên tôi tự thêm nội dung, chứ không có ý gì khác!

- Thôi được. Cậu về chuẩn bị báo cáo trung thực, không được tô hồng, nói sai sự thật. Và phải hiểu rõ, hành động này không chỉ vi phạm kỷ luật mà còn coi thường chỉ huy, xem nhẹ tổ chức, qua mặt cấp trên đấy.

- Thưa Tiểu đoàn trưởng, tôi không dám nghĩ vậy đâu ạ!

- Nếu tôi không đọc, cứ nhắm mắt ký chẳng phải trở thành “đồng lõa” với cậu sao? Lần này tôi bỏ qua cho cậu. Nhưng buổi sinh hoạt cuối năm, tôi sẽ đưa sự việc này ra cảnh báo, nhắc nhở chung trong toàn đơn vị. Dứt khoát không cho phép hiện tượng “làm láo, báo cáo hay” hoặc không làm cũng dám báo cáo xảy ra ở đơn vị này được!

- Thưa vâng. Tôi xin hứa sẽ không tái phạm! 

Trên đường về đơn vị, Tuyến suy nghĩ về lời Tiểu đoàn trưởng, bụng bảo dạ: Thật may chỉ huy còn phát hiện, điều chỉnh chứ không thì mình lỗi nọ chồng lỗi kia chỉ vì suy nghĩ đơn giản./.
Yêu nước ST.

 NHÂN VĂN - GIÁ TRỊ ĐỊNH DANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ 

Cái đẹp mang tên Bộ đội Cụ Hồ có từ quá khứ, hiển hiện trong cuộc sống hôm nay với những giá trị tinh thần to lớn, bền vững và sức lan tỏa rộng rãi. Đó là những vầng sáng có thực trong cuộc sống hôm nay. Mỗi việc tốt được làm nên từ phẩm chất, trí tuệ, tâm hồn của Bộ đội Cụ Hồ rất xứng đáng được ghi nhận. Tôi nghĩ rằng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ sẽ có sức truyền cảm mạnh mẽ không chỉ trong Quân đội ta mà còn lan rộng ra trong cả nước và thế giới.

1. Những gì tốt đẹp thuộc về truyền thống Bộ đội Cụ Hồ không phải tự nhiên mà có, cũng chẳng phải là kết quả có được chỉ qua ngày một ngày hai, mà nó chính là hành trình được hình thành, kết tụ, bồi đắp lâu dài. Như phù sa có trong một dòng chảy vạm vỡ đi suốt thời gian, không gian kỳ vĩ, trải muôn vàn thăng trầm quanh co để tạo dựng thành văn hóa của một đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng quang vinh.

Đấy không phải là sự tô hồng mà chính là lịch sử, là chặng đường 80 năm Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, hiếu nghĩa với dân, vượt qua gian khó, hy sinh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao phó. Đó cũng là kết quả tất yếu để hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trở thành biểu tượng tốt đẹp của lòng yêu nước, thương dân, của đạo đức, phẩm chất cao cả và những cống hiến to lớn cho dân tộc và nhân loại. Nói đến văn hóa dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam không thể không khẳng định tính nhân văn của Quân đội ta-một đội quân cách mạng đã làm nên tính chính danh của Bộ đội Cụ Hồ.

Trước hết cần nói ngay rằng, chủ nghĩa nhân văn là một trong những giá trị cao quý của loài người. Đó chính là cái chung, cái phổ quát mang tầm nhân loại; là một trong những tiêu chuẩn cơ bản để con người hướng tới sự tốt đẹp, văn minh. Chủ nghĩa nhân văn được coi là tư tưởng, quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp.

Chủ nghĩa nhân văn bao hàm cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và nhân loại. Chủ nghĩa nhân văn đương nhiên phải lấy con người làm trung tâm, vị thế con người luôn được đặt vào số 1 trên hành tinh và được nhìn nhận, soi chiếu trước hết qua những đóng góp, cống hiến của con người cho đất nước, quê hương mình.

Chủ nghĩa nhân văn khi trở thành cách nghĩ, cách sống của một dân tộc mặc nhiên sẽ là cốt lõi của nền văn hóa cộng đồng, quốc gia, với bản sắc riêng mang dấu ấn lịch sử rành mạch, dẫu rằng không thể bỏ qua sự giao thoa, tiếp biến với cái chung toàn cầu. Lịch sử đã chứng minh rằng, dân tộc Việt Nam luôn đề cao nhân nghĩa mà hạt nhân của nó không gì khác là sự yêu thương.

Yêu thương, nhân nghĩa, bao dung đã trở thành căn tính của người Việt. Từ thế kỷ 15, Nguyễn Trãi từng viết trong “Bình Ngô đại cáo”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Sau này, xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh suy cho cùng cũng là lòng yêu nước, thương dân, đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta/ Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa/ Chỉ biết quên mình cho hết thảy/ Như dòng sông chảy nặng phù sa”.

2. Quân đội ta vừa được kế thừa truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam bồi đắp, tỏa sáng từ mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước bi tráng vừa được giáo dục, phát huy từ sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Truyền thống dân tộc được hòa quyện vào tư tưởng tiến bộ của thời đại tạo ra bản chất chế độ định hướng chủ nghĩa xã hội cũng là bản chất của Quân đội ta vốn từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ.

Lý tưởng của Đảng cũng là khát vọng của dân tộc; khát vọng đất nước độc lập, tự do, non sông hòa bình, thống nhất và đồng bào được ấm no, hạnh phúc cũng là lý tưởng của Quân đội ta. Lý tưởng cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ lựa chọn hướng tới dân tộc và nhân loại, không vì lợi ích của riêng ai hay của một nhóm người nào cả.

Chủ nghĩa nhân văn cao cả tập trung ở đó, là sự trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cũng như dân tộc Việt Nam, Quân đội ta tha thiết yêu hòa bình. Chiến tranh luôn là lựa chọn cuối cùng của chúng ta và các cuộc kháng chiến giải phóng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, của Quân đội ta thấm đẫm lòng yêu nước nồng nàn. Đấy là các cuộc kháng chiến chính nghĩa, có sức mạnh vô địch của lòng dân đoàn kết đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Biểu hiện nhân văn có trong hầu hết hoạt động của Quân đội, từ tinh thần chiến đấu dũng cảm trên mặt trận, chiến trường ác liệt đến tình quân dân cá nước, tình đồng chí, đồng đội gắn bó, cách đối xử với tù, hàng binh... Chúng ta chưa bao giờ lấy thù hận để kích hoạt chiến tranh xung đột, càng không lấy oán thù trả oán thù khi đối phương đã bị thất bại.

Kết thúc 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” với hàng nghìn tù binh Pháp được đối xử tử tế. Ngày 10/10/1954, Thủ đô Hà Nội tưng bừng đón đoàn quân chiến thắng trở về trong cuộc tiếp quản hòa bình. Sau hơn 20 năm "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", Việt Nam lại viết nên khúc khải hoàn ca mới với dấu mốc lịch sử rực rỡ ngày 30/4/1975. Kẻ thù của ta từng rêu rao, tưởng tượng ra một cuộc "tắm máu" tàn khốc bởi “bàn tay sắt của cộng sản” sau khi Sài Gòn bị thất thủ nhưng không có chuyện đó. Thực tế hoàn toàn không có một cuộc trả thù nào dành cho kẻ bại trận.

Những người lính giải phóng khi đã đi đến đích chiến thắng cuối cùng rưng rưng ngắm bầu trời hòa bình, rồi nghẹn ngào thốt lên: “Tự do xanh quá, mênh mông quá” (Hữu Thỉnh). Trước đó, biết bao người lính cách mạng cùng những người thân nhất của họ đã phải gánh gồng số phận nghiệt ngã của dân tộc trên vai: “Một đời người mà chiến chinh nhiều quá/ Em níu giường, níu chiếu đợi anh" (Hữu Thỉnh). Và thật xót xa khi nói rằng đã có hàng triệu người thương vong trong cuộc chiến kéo dài thăm thẳm đó. Hậu quả dai dẳng của nó vẫn chưa hao vơi nhiều trong cuộc sống hôm nay. Những người thắng trận có đủ lý do để “trả thù” đấy chứ. Nhưng những người lính Cụ Hồ có đủ nhân văn để khép lại quá khứ, quên đi thù hận, cùng sự bao dung dâng tràn trong lòng người chiến thắng.

Mấy ai ngờ rằng, chỉ một ngày sau khi lá cờ giải phóng được kéo lên trên nóc Dinh Độc Lập, giữa lòng thành phố Sài Gòn vừa im tiếng súng có một đêm giao hưởng cực kỳ hoành tráng vang ngân. “Cát bụi đường xa, khẩu súng ngọn cờ/ Ngửa bàn tay gặp bàn tay nhạc trưởng/ Mở tấm lòng gặp tấm lòng giao hưởng/ Bổng trầm cung bậc tìm nhau” (Anh Ngọc). Suối nguồn nhân nghĩa dào dạt tuôn trào, mỗi người lính trường chinh góp phần làm nên cung bậc hòa bình muôn vàn xúc động.

Chẳng cần nói gì nhiều, chỉ cần nhìn vào công việc của những người lính Cụ Hồ đã làm cho Tổ quốc, cho nhân dân, cho cả những kẻ từng nhằm bắn vào ta đã thấy ánh sáng nhân văn lan tỏa. Vì thế, cái đẹp nhân văn của Bộ đội Cụ Hồ tự lan tỏa như những giá trị văn hóa tuyệt vời và chắc chắn sẽ rất bền lâu nếu không muốn nói là mãi mãi.

3. Dù thời chiến hay thời bình, thời nào thì người lính vẫn có mặt nơi gian khổ nhất, vẫn phải chịu đựng nhiều thiệt thòi, hy sinh nhất. Trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống nào, dù nghiệt ngã đến mấy, người lính Cụ Hồ vẫn rất gần gũi với nhân dân, là điểm tựa tin cậy của đồng bào khi thiên tai, dịch bệnh, hoạn nạn xảy ra. Gần đây nhất, trong và sau cơn bão lịch sử Yagi mùa thu năm 2024, hình ảnh người lính Cụ Hồ đã làm xúc động bao trái tim.

Tôi thực sự nghẹn lòng khi được xem hình ảnh cán bộ, chiến sĩ ta dầm mình trong bùn đất lầy lội ở Làng Nủ (Phúc Khánh, Bảo Yên, Lào Cai) để tìm từng thân xác người dân bị nạn sau cơn lũ quét kinh hoàng. Họ lặng lẽ làm việc, trong mưa chan nắng giội, trong những hiểm nguy có thể ùa ập đến bất cứ lúc nào, không ồn ào, cũng chẳng hề “phông bạt” khoe mẽ.

Nơi nào có dấu chân người lính, nơi ấy có ấm áp tình thương và những niềm tin cứ thế được vun đắp thêm. Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ vẫn luôn được lưu giữ rất đỗi tự nhiên, sâu nặng trong lòng nhân dân. Từ thuở "đầu súng trăng treo" cho đến hôm nay, người lính Cụ Hồ vẫn khiến đi dân nhớ, ở dân thương. Đâu dễ để được dân nhớ, dân thương một cách đầy xúc động như thế.

Cái đẹp mang tên Bộ đội Cụ Hồ có từ quá khứ, hiển hiện trong cuộc sống hiện tại với những giá trị tinh thần to lớn, bền vững và sức lan tỏa rộng rãi. Đó là những vầng sáng có thực trong cuộc sống hôm nay. Mỗi việc tốt được làm nên từ phẩm chất, trí tuệ, tâm hồn của Bộ đội Cụ Hồ rất xứng đáng được ghi nhận. Tôi nghĩ rằng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ sẽ có sức truyền cảm mạnh mẽ không chỉ trong Quân đội ta mà còn lan rộng ra trong cả nước và thế giới.

Bằng chứng sinh động là hình ảnh những quân nhân đến từ Việt Nam trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc đã tạo nhiều ấn tượng sâu sắc với bè bạn quốc tế. Coi trọng nhân văn từ nhận thức đến hành động là biểu hiện rất rõ nét của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là phần tốt đẹp định danh giá trị truyền thống vẻ vang của Bộ đội Cụ Hồ. Từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, cùng với hành trình xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, chủ nghĩa nhân văn sẽ mãi mãi được bồi đắp và lan tỏa.

Ý chí và tâm hồn, sức mạnh và vẻ đẹp của người lính Cụ Hồ sẽ luôn hướng tới sự cao cả bình dị. Ngay chính trong cuộc sống, từ cuộc sống của mỗi người chiến sĩ luôn gắn bó với Tổ quốc và nhân dân. Không có gì là dễ dàng, mỗi người lính hôm nay cũng phải tự vượt lên chính mình, tự gạn đục khơi trong, tỉnh táo nhận ra đúng-sai để nhận thức và hành động đúng đắn. "Mãi mãi lòng chúng ta, ca bài ca người lính". Khúc quân hành Bộ đội Cụ Hồ mãi ngân vang trên mỗi nẻo đường Tổ quốc, lòng yêu nước, thương dân vẫn vằng vặc sáng chưa hề tắt. Bởi trong mỗi trái tim Bộ đội Cụ Hồ luôn mang một vẻ đẹp nhân văn bình dị mà cao cả.


NGUYỄN HỮU QUÝ

 “KHÔNG QUÂN ĐỘI NÀO, KHÔNG KHÍ GIỚI NÀO CÓ THỂ ĐÁNH NGÃ ĐƯỢC TINH THẦN HY SINH CỦA TOÀN THỂ MỘT DÂN TỘC”

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 77, ngày 29 tháng 10 năm 1945.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, núp bóng quân Anh, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, rồi đánh chiếm rộng ra cả Nam Bộ, Nam Trung Bộ và phần lớn Cam-pu-chia; khống chế vùng nông thôn rộng lớn ở Lào,... từng bước thực hiện dã tâm xâm lược Đông Dương lần thứ hai. Nền độc lập mà dân tộc ta mới giành lại được phải đương đầu với nhiều kẻ thù, bị uy hiếp từ nhiều phía. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi đồng bào Nam Bộ giữ vững tinh thần chiến đấu, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc; trong đó Người tiếp tục khẳng định tinh thần chiến đấu anh dũng hy sinh của dân tộc ta là sức mạnh vô địch để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần “Quyết tử, để Tổ quốc quyết sinh” là nhân tố bao trùm, tạo nên bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần quả cảm của dân tộc Việt Nam, được hun đúc trong lịch sử và tỏa sáng trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Những giá trị văn hóa ấy, không chỉ có sức mạnh tập hợp, đoàn kết trong suốt hai cuộc trường kỳ kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh mà còn lan xa, thấm đậm trong lòng bạn bè quốc tế, thức tỉnh lương tri nhân loại trên thế giới ủng hộ Việt Nam đánh bại mọi đế quốc, thực dân xâm lược và bè lũ tay sai, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và gặt hái được những thành tựu bước đầu có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ra đời vào thời điểm đầy gian khó của cách mạng Việt Nam, trong cuộc đấu tranh sống còn của dân tộc chống ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân - phong kiến, Quân đội ta đã được Đảng và Bác Hồ thành lập, tổ chức, giáo dục, rèn luyện; từ 34 cán bộ, chiến sĩ, trang bị vũ khí thô sơ của ngày đầu thành lập, Quân đội ta đã không ngừng phát triển, trưởng thành, lập nên những chiến công chói lọi. Cán bộ, chiến sỹ đã hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, sẵn sàng “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh” trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng chống, giảm nhẹ thiên tai... Với truyền thống vẻ vang và những chiến công vang dội đó, Quân đội ta thật sự là Quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.

QĐND

 CHỐNG LÃNG PHÍ - CUỘC ĐẤU TRANH

VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA ĐẤT NƯỚC

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tham ô có hại, nhưng lãng phí có khi còn có hại nhiều hơn. Nó tai hại hơn tham ô vì lãng phí rất phổ biến…”.

Cho đến thời điểm hiện nay, trong nhận thức của không ít người, chưa thấy hết tác hại vô cùng lớn của lãng phí. Chắc rằng, một phần quan trọng là do chúng ta đang tập trung vào những việc hệ trọng khác, như đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Để góp phần khắc phục tình hình này, bài viết “chống lãng phí” của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã hệ thống lại những việc Đảng và Nhà nước đã triển khai thực hiện xoay quanh vấn đề này, cùng sự lý giải tình hình với những diễn biến cụ thể trên mọi lĩnh vực với mức độ khác nhau của tình trạng lãng phí hiện nay. Đồng thời, xác định những giải pháp mang tính tổng thể, đồng bộ để từng bước khắc phục thực trạng trên, góp phần tạo nguồn lực đưa đất nước bước vào thời kỳ mới, kỷ nguyên cho sự phát triển đột phá của đất nước.

Lãng phí vô hình tồn tại trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, không giản đơn, dễ nhận biết như lãng phí trong tiêu dùng sử dụng cơ sở vật chất từ trong bộ máy Nhà nước đến tiêu dùng và sinh hoạt của toàn xã hội.

Lãng phí từ trong quá trình xây dựng pháp luật, ra các chủ trương, chính sách, các quyết định, rồi sửa luật, điều chỉnh các chủ trương, chính sách, các quyết định… mà chưa được sự suy xét cẩn trọng, khó hòa nhập vào cuộc sống, gây ách tắc trong quản lý, điều hành của Nhà nước, làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người dân.

Xoay quanh vấn đề này, qua các phương tiện truyền thông đã cung cấp cho chúng ta biết bao sự việc cụ thể, điển hình trên mọi lĩnh vực của hoạt động kinh tế - xã hội.

Ở một khía cạnh khác, chậm thực thi, thậm chí không thực thi những chủ trương, nghị quyết, những quyết sách… đã được xác định, đặc biệt là những dự án mang tầm cỡ quốc gia mang tính đột phá đúng thời cơ cho sự phát triển của đất nước, do những nhận định đánh giá chưa sát thực tiễn, mang tính cầu toàn. Sau đó, một thời gian dài lại khởi động triển khai. Đây là một sự lãng phí với những tổn thất vô cùng to lớn, vô hình về nhiều mặt, mà không ai chịu trách nhiệm. Trong chống lãng phí, đây là điều cần xem xét nghiêm túc, rút ra những bài học từ khâu lãnh đạo, chỉ đạo cho đến việc tiếp thu có chọn lọc ý kiến của dư luận xã hội để không bỏ lỡ những cơ hội lịch sử trong tương lai.

Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21-8-2006, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã khẳng định chống lãng phí cũng rất quan trọng như chống tham nhũng.

Trên thực tế, trong thời gian dài, chúng ta chưa thực sự hành động với những giải pháp quyết liệt như phòng, chống tham nhũng!

Lãng phí thực sự là hiểm hoạ của đất nước, nên phải kiên quyết đấu tranh loại trừ. Điều đó càng bức thiết khi chúng ta bước vào kỷ nguyên mới. Có nhiều biện pháp, giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Với giải pháp tổng thể, căn cơ bao gồm 4 nhóm nội dung vừa cơ bản, lâu dài, vừa khẩn trương, cấp bách được xác định trong bài viết của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, tin rằng, sẽ có những bước đột phá mạnh mẽ vào “bức tường” lãng phí, đã được nhận diện từ lâu, nhưng phòng, chống chưa đạt được như ước vọng của chúng ta./.

TÂY NAM BỘ

 THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM - NHÌN TỪ QUÁ KHỨ ĐẾN HIỆN TẠI 

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Vì nó làm chậm trễ công cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính… Vì những lẽ đó, chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận”. ([1])

Nguyên nhân sâu xa của vấn nạn tham nhũng xuất phát từ lòng tham của con người, do chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy trong mỗi người. Khi có những điều kiện có thể bớt xén của công làm của riêng thì lập tức bỏ qua danh dự, lòng tự trọng để vơ vét, đục khoét từ những thứ nhỏ đến khối tài sản lớn, có giá trị. Nếu ví tham nhũng vặt là lũ “chuột nhắt” gây phiền toái rất lớn cho nhiều hộ gia đình, thì còn tồn tại  một loài chuột to lớn hơn nhiều, chuyên hoành hành, phá hoại mùa màng đến độ “chỉ ba năm mà dân không sống nổi, phải bỏ đi biệt xứ”. Sách xưa gọi chúng là “thạc thử” – tức là “con chuột lớn”. Chúng chính là lũ tham quan ô lại nhà giàu nứt đố đổ vách nhưng lòng tham không đáy, cậy quyền cậy thế ra sức vơ vét của công bằng nhiều thủ đoạn tinh vi. Thậm chí ngay cả khi đứng trước vành móng ngựa, chúng còn coi hành vi tham nhũng bị phát giác chẳng qua là do “số đen”, coi việc đi tù như đi “an dưỡng”, ra tuồng thách thức cả pháp luật. Thật không từ ngữ gì diễn tả hết được.

Tham nhũng nhìn từ lịch sử

Lịch sử phong kiến Việt Nam có nhiều tấm gương làm quan thanh liêm, chính trực, không vì vàng bạc châu báu mà làm chuyện đại nghịch vô đạo, ý thức được sự nguy hiểm của vấn nạn tham nhũng trong bộ máy cầm quyền, trong đó phải kể đến Đặng Huy Trứ - vị quan thanh liêm phục vụ dưới triều vua Tự Đức nhà Nguyễn, với tác phẩm độc nhất vô nhị: Từ thụ yếu quy (những quy tắc chủ yếu về sự nhận và không nhận), cuốn sách được coi là kinh điển đầu tiên của Việt Nam về phòng chống tham nhũng. Từ thụ yếu quy không những chỉ dẫn rất rõ ràng giúp người làm quan chân chính nhận ra những chiêu trò của kẻ hối lộ, mà còn có những lời nhắc nhở mang tính cảnh tỉnh đối với người làm quan. Ngoài bìa sách ghi: Bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, tác giả xin được lược thuật một số điều vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay, gọi là “ôn cố tri tân”.

Sách Từ thụ yếu quy bàn về 104 trường hợp phải “từ” (nghĩa là từ chối), chỉ có 5 trường hợp có thể “thụ” (nghĩa là nhận). Đối với 5 trường hợp có thể nhận, có 4 trường hợp xuất phát từ yếu tố văn hoá truyền thống hoặc từ động cơ trong sáng của người biếu, người nhận không cảm thấy hổ thẹn với lương tâm và không vi phạm pháp luật, vì tấm lòng mà có thể nhận, nên không bàn đến. Duy chỉ trường hợp: Tặng quà nhân dịp lễ, tết hàng năm thì cần xem xét lại vì thời nay việc này đã bị biến tướng ít nhiều, làm mất đi ý nghĩa nhân văn sâu sắc của nó. Việc tặng quà Tết vốn mang mục đích tốt đẹp là cầu chúc một năm mới bình an, may mắn, thông qua việc đem tặng nhau những món quà đầu năm không chỉ như gửi lời cảm ơn đến những người đã quan tâm, giúp đỡ mình mà còn mong muốn tăng cường mối quan hệ trong năm mới. Tuy nhiên, ngày nay việc tặng quà Tết lại có thể là cơ hội để việc tham nhũng thông qua “đưa hối lộ” và “nhận hối lộ” một cách hợp pháp. Chính vì vậy, nhiều năm gần đây, năm nào Trung ương Đảng cũng ra Chỉ thị về việc không biếu quà Tết, tặng quà Tết cấp trên. Đấy là về việc biếu quà Tết, còn như người nào khước từ tuốt luốt cả 05 trường hợp có thể nhận, thì theo như lời cụ Đặng nói rằng: “nhân phẩm còn cao hơn ta gấp vạn lần”.

Ngoài 5 trường hợp có thể nhận thì đại đa số là phải từ chối (104 trường hợp, gọi là 104 kiểu “mua bán lương tâm”), có những trường hợp đến giờ vẫn còn nguyên giá trị giáo dục, mang tính thời sự, là lời cảnh tỉnh cho người cán bộ, công chức đang phục vụ trong bộ máy công quyền hiện nay. Xin tóm gọn một vài kiểu hối lộ điển hình:

Địa phương hối lộ các quan đến thanh tra - đã là cán bộ thanh tra, tức là lực lượng nòng cốt chuyên trách phòng chống tham nhũng, tiêu cực, khi được cấp trên giao phó thực hiện kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, tổ chức để phát hiện và ngăn chặn những việc làm trái với quy định, tức là luôn luôn phải “dĩ công vi thượng”, đem lòng chí công vô tư mà đối xử với người, với việc, tất cả vì nhiệm vụ chung, không mảy may có chút chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ, tự tư tự lợi trong thực hiện công vụ. Vậy mà thời nay, có người cán bộ thanh tra ngành ngân hàng, đã làm đến chức vụ lãnh đạo của một Cục, cuộc sống được no đủ hơn nhiều người trong xã hội nhưng vì lòng tham vô đáy, sẵn sàng nhận cả núi tiền hối lộ để rồi “bẻ cong” pháp luật, thực hiện hành vi tiếp tay, bao che, bưng bít cho những sai phạm nghiêm trọng không thể tưởng tượng của một vài cá nhân thuộc ngân hàng nọ, thật đáng xấu hổ. Quan thanh tra “vâng mệnh vua, cầm cờ tiết đi kinh lược việc lớn” mà không biết đấu tranh với chính mình trước những cám dỗ đời thường, thì hỏi rằng triều đình biết trông cậy vào đâu, nhân dân biết trông cậy vào đâu ?

Quan lại xảo quyệt hối lộ cầu được tiến cử/Quản cơ, suất đội hối lộ để được ra coi cửa quan, cửa biển (hối lộ để được bổ vào vị trí có nhiều lợi lộc) - thời xưa, làm quan coi cửa quan, cửa biển thường được coi là “suất vip” vì thu được rất nhiều của cải bất chính. Thuyền đánh cá ngư dân sớm đi chiều về, thuyền buôn trong nước, nước ngoài đi qua đều bị đòi biếu sản vật như là phí “mãi lộ”, khi thì cá tôm, cua bể, khi thì tiền, gạo, thổ sản,… Do vậy nhiều người chạy chọt, hối lộ để được vào những vị trí ấy. Ngẫm lại thời nay, việc mua quan bán chức chẳng phải cũng diễn ra như vậy hay sao? Có người tuy không có điều kiện nhưng mang tư duy sẵn sàng vay mượn tiền của để “mua” những vị trí cao hơn, quyền hành hơn, được chức rồi họ tiến hành “gỡ gạc lại những gì mất” bằng những cách sau: “dùng quyền uy sách nhiễu nhân dân để mà lấy lại, dùng mưu mẹo để mà lấy lại, dùng việc công để mà lấy lại, dùng việc án để mà lấy lại, dùng ngày giỗ cha mẹ để mà lấy lại, dùng việc cưới xin con cái để mà lấy lại” (

2]

). Thật đáng khinh bỉ.


Phụ nữ hối lộ để xin gặp - nào là “đứng mà bẩm không bằng ngồi mà bẩm, ngồi mà bẩm không bằng nằm mà bẩm” (

[3]

). Chuyện đáng chê cười như vậy thời nay chẳng hiếm. Đâu đó vẫn còn những người phụ nữ kém đoan trang, sẵn sàng bán đi phẩm hạnh của mình để cầu tiến thân, cầu danh lợi, như chuyện cô “hot girl” nào đó ở tỉnh lớn nọ thăng tiến thần tốc và sở hữu nhiều biệt thự, xe sang nhờ quan hệ bất chính với một vị lãnh đạo tỉnh là một ví dụ điển hình. Từ một người tạp vụ làm hợp đồng công tác ở Liên đoàn lao động tỉnh, chỉ trong vòng ba năm lên đến chức trưởng phòng của một Sở khi chưa đáp ứng các tiêu chuẩn về thâm niên công tác, về trình độ đào tạo, thậm chí còn quy hoạch lên đến Phó giám đốc Sở. Nếu không có sự “mua bán lương tâm” trong chuyện này thì làm sao nhận được ưu ái của “quan bề trên” lớn đến như vậy. Người phụ nữ khi không giữ được cương thường luân lý sẽ là mối nguy cho gia đình và xã hội.


Và còn vô số trường hợp khác nữa mà ta phải cương quyết từ chối, như câu chốt lại của mỗi trường hợp phải “từ” đều được Đặng Huy Trứ nêu như một định đề đanh thép không thể lay chuyển: “Thứ hối lộ ấy không thể nhận”. Đến đây, chợt nhớ nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường từng viết: “Tôi đề nghị Nhà nước nên tài trợ cho in lại cuốn Từ thụ yếu quy để phát cho người làm quan của mình. Mỗi học viên các trường hành chính các cấp các ngành nên thuộc lòng Từ thụ yếu quy để chống lại một thứ tai nạn xã hội trước sau gì cũng sẽ đến với họ”.


* Phòng chống tham nhũng ngày nay như thế nào ?


Tham ô, tham nhũng hiện đang là căn bệnh nan y ở mọi quốc gia, mọi chế độ, mọi trình độ phát triển. Ý thức được sự nguy hiểm của căn bệnh tham nhũng, tại các kỳ Đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Trong đó, phòng chống tham nhũng, tiêu cực là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng ta. Tuy nhiên, nạn tham ô, tham nhũng đang có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp, cả về mức độ nghiêm trọng và số lượng. Chỉ trong vòng một vài năm trở lại đây đã có biết bao vụ án đại án tham nhũng bị phanh phui, đặc biệt trong thời gian cả nước gồng mình chiến đấu chống đại dịch Covid-19, khiến dư luận và nhân dân hết sức bất bình về sự coi thường luật pháp, coi thường công lý của các đối tượng.


Đâu đó trong cuộc sống hàng ngày, ta vẫn thường nghe những lời nói như mật ngọt rót vào tai, kiểu như: “chuyện này chỉ có trời biết, đất biết, anh biết, tôi biết…”. Nếu ta không cảnh giác, tâm không vững, trí không sáng sẽ rất dễ bị “ma dẫn lối, quỷ đưa đường” đưa ta vào con đường làm những chuyện đại nghịch vô đạo, trở thành loài sâu mọt đục khoét trên xương máu đồng loại. Vậy thì, ta chỉ có thể phòng chống tham nhũng bằng lương tâm thôi sao? Điều đó đúng một phần lớn, bởi nói cho cùng, đối với người làm quan, quan trọng nhất vẫn là lương tâm, là liêm sỉ, là đạo đức công vụ, và hơn thế nữa, đó còn là tấm gương cho thế hệ con cháu nhìn vào đó mà tu thân, tránh xa những cám dỗ, ma lực của đồng tiền hối lộ. Có như vậy, ta mới dám khảng khái, tự tin đứng thẳng trong trời đất.


Ngoài ra, về mặt quản trị nhà nước, phải chăng do ta đã quá nhân đạo, trong việc xét xử tội phạm tham nhũng còn thiên về “đức trị”, “nhân trị” nhiều hơn mà chưa đẩy mạnh “pháp trị”, do vậy các hình phạt chưa đủ sức răn đe người phạm tội? Theo Bộ Luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017, cán bộ tham nhũng vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ bị tử hình, nhưng trong thực tế hiếm khi mức án này được áp dụng. Ngoại trừ vụ án Trần Dụ Châu tham nhũng quân nhu trong quân đội và bị xử tử hình cách đây đã ba phần tư thế kỷ thì đến nay vẫn chưa có một “con sâu mọt đục khoét trên xương máu nhân dân” nào bị kết tội với mức án cao nhất cả. Do vậy, để làm gương cho cán bộ và nhân dân, để cảnh tỉnh những kẻ đang miệt mài nghĩ những trăm phương nghìn kế xoay tiền của bất chính, để trừ khử hết lũ “thạc thử” hoành hành, đục khoét phá hoại từ bên trong, chúng ta đừng nên tiếc đạn đối với chúng.


* Lời kết: Thực hiện những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chống tham ô, tham nhũng trong Đảng, Nhà nước, những năm qua, đặc biệt từ năm 2013, khi Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được tiến hành quyết liệt, với phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, đạt được nhiều kết quả rõ nét, tích cực, toàn diện, được nhân dân đồng tình, ủng hộ và dư luận quốc tế đánh giá cao. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định quyết tâm của người đứng đầu trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng với “giặc nội xâm”.


Đó cũng là quyết tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam, coi phòng, chống tham nhũng là một trong những điều quan trọng nhất, cần phải chấn chỉnh nội bộ một cách quyết liệt để Đảng thật sự trở thành Đảng cầm quyền vững mạnh, gương mẫu, nói không với tham nhũng. Thực tế cho thấy, với bản chất cách mạng, tính tiên phong và năng lực lãnh đạo của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng để phòng, chống tham nhũng một cách hiệu quả, bảo vệ sự lành mạnh trong quan hệ xã hội, đồng thời tăng cường niềm tin và sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân đối với Đảng trong quá trình lãnh đạo đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước hội nhập và phát triển. Chúng ta mong muốn và tin tưởng rằng, trong thời gian ngắn nhất, không còn bóng dáng cả loài “chuột nhắt” lẫn chuột “thạc thử” trên đất nước ta.


Đỗ Việt An

-----------


([1]) Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 7, NXB CTQG, H. 2021, tr. 357 - 358


([2]) Đặng Huy Trứ - Từ thụ yếu quy, NXB CTQGST. tr.38


([3]) Đặng Huy Trứ - Từ thụ yếu quy, NXB CTQGST. tr.158

 “…CHỈ CÓ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA MỘT ĐẢNG BIẾT VẬN DỤNG MỘT CÁCH SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀO ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ CỦA NƯỚC MÌNH THÌ MỚI CÓ THỂ ĐƯA CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC ĐẾN THẮNG LỢI VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐẾN THÀNH CÔNG”[1].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc”, gửi cho báo Pravđa (Liên Xô); Báo Nhân dân, đăng số 4952, ngày 01 tháng 11 năm 1967.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa Mác - Lênin như kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và Người luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó vào thực tiễn cách mạng. Sự khẳng định trên của Bác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định và đánh giá cao bài học kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng, đó là một trong những bài học có tính nguyên tắc và phổ biến, đảm bảo cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Thực tiễn chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiếp tục giành những thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị, nhất là trong công tác xây dựng Đảng. Theo đó, Đảng ta phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; Đảng phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Đối với Quân đội ta, đó cũng là nguyên tắc, nền tảng tư tưởng để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao; xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn cao tinh thần tự giác, tích cực nghiên cứu, học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy đảng; đồng thời biết vận dụng sáng tạo vào hoạt động thực tiễn của đơn vị nhằm thực hiện có hiệu quả chức trách, nhiệm vụ được giao.


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tập 15, tr.391.

 “… CHỚ NÊN CÁI GÌ TỐT THÌ DÀNH CHO MÌNH,  XẤU ĐỂ CHO NGƯỜI KHÁC” [1].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại hội nghị rút kinh nghiệm công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp toàn miền Bắc, đăng trên Báo Nhân dân, số 2056, ngày 02 tháng 11 năm 1959.

Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, các ngành, các cấp ra sức thi đua thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và Chính phủ về xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, xóa bỏ tư hữu cá nhân về ruộng đất để phục vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Lời dạy của Bác có ý nghĩa rất sâu sắc trong bối cảnh toàn miền Bắc đang thực hiện hợp tác xã nông nghiệp, việc xây dựng cũng như quản lý hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn, chưa có kinh nghiệm. Mặt khác, ở một bộ phận cán bộ quản lý vẫn còn tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, cá nhân chủ nghĩa, chỉ muốn nhận cái tốt về mình và đẩy cái xấu, cái chưa tốt cho người khác, làm ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta. Lời dạy của Bác trong thời điểm này, không những chỉ ra những hạn chế, biện pháp khắc phục mà còn là lời căn dặn, nhắc nhở đối với toàn thể cán bộ làm công tác quản lý nhà nước ta nói chung và quản lý hợp tác xã nông nghiệp nói riêng, kịp thời chấn chỉnh những nhận thức, quan điểm lệch lạc của một số tổ chức và cá nhân trong phương thức làm ăn mới, góp phần vào xây dựng tính tập thể, tình đoàn kết toàn dân thành một khối đại đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở cho nông nghiệp miền Bắc phát triển và đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, để cho mỗi cá nhân trong tập thể “tự soi, tự sửa”, xây dựng ý thức và hành động của bản thân, mình vì mọi người, tất cả vì miền Nam ruột thịt, góp phần vào thắng lợi của cách mạng miền Nam.

Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm… Học tập và làm theo lời Bác dạy, đòi hỏi mỗi tổ chức, cá nhân phải luôn đề cao tình đồng chí, đồng đội, biết chia sẻ khó khăn, biết trân trọng những thành quả, quyết tâm khắc phục những hạn chế, thiếu sót, không mắc bệnh “thành tích”, không háo danh, phô trương, không tranh công đổ lỗi cho người khác, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.

Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn nêu cao tinh thần tự giác, tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực; xác định tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, chủ động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”.


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tập t.12, tr.316.

Nơi xuất phát chuyến “tàu không số” đặc biệt

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quảng Bình có vị trí chiến lược hết sức quan trọng: Tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa và hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam; là địa bàn trung chuyển chiến lược, chi viện sức người, sức của cho chiến trường... Quảng Bình cũng chính là nơi chuẩn bị và tổ chức chuyến vận tải hàng đầu tiên chi viện chiến trường miền Nam bằng đường biển của Tiểu đoàn vận tải thủy 603-Tập đoàn đánh cá sông Gianh (đóng tại thôn Thanh Khê, xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch).

Để chuẩn bị cho những chuyến vượt biển vào Nam của Tiểu đoàn 603, ngay từ đầu năm 1959, việc đóng mới tàu, thuyền đã được cấp trên đặc biệt ưu tiên và khẩn trương xúc tiến. Một số cán bộ cơ sở được giao nhiệm vụ bí mật thiết kế mẫu thuyền đánh cá của ngư dân vùng Trung Trung Bộ và đưa vào sản xuất. Quá trình thi công, ngoài việc bảo đảm chất lượng thì yêu cầu đặt lên hàng đầu là sau khi hoàn thành thuyền phải thật giống thuyền đánh cá của ngư dân. Song song với việc đóng thuyền, sau ngày thành lập và hành quân về vị trí đóng quân ở thôn Thanh Khê, được sự quan tâm, giúp đỡ của lãnh đạo chính quyền địa phương, Tiểu đoàn 603 khẩn trương ổn định nơi ăn ở, sinh hoạt, bắt tay vào học tập chính trị, huấn luyện quân sự và chuyên môn kỹ thuật, chuẩn bị cho những chuyến đi vào Nam.

Nơi xuất phát chuyến “tàu không số” đặc biệt
Một chiếc "tàu không số" chuyển vũ khí đạn dược vào miền Nam. Ảnh tư liệu 

Đầu tháng 7-1959, khoảng 70 cán bộ, chiến sĩ đơn vị với trang phục dân sự đã có mặt tại địa phương, được bố trí đóng quân ở xóm Thanh Gianh và xóm Chùa của thôn Thanh Khê. Tuy đóng quân ở hai vị trí, nhưng công việc hằng ngày của hai bộ phận này giống nhau. Buổi sáng tập thể dục, tập bơi, đan lưới, kết phao; buổi chiều sử dụng các loại thuyền nhỏ đánh cá gần bờ, rồi tập xà đơn, xà kép; buổi tối sinh hoạt và thả lưới. Tất cả hoạt động của đơn vị hết sức kín đáo, cách biệt hoàn toàn với bên ngoài, chỉ những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của xã mới biết. Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 603 phải thay đổi trang phục cho giống dân chài miền Trung Trung Bộ, tập giọng nói, xưng hô sao cho đúng là “dân ngư nghiệp chưa hề pha binh nghiệp”. Trong thời gian huấn luyện, lãnh đạo huyện Bố Trạch và xã Thanh Trạch mỗi tuần một lần bí mật tiếp tế khoai, rau, củ, quả và cá cho đơn vị. Nhờ sự giúp đỡ của chính quyền, nhân dân địa phương và Sư đoàn 325 (lúc này đang đóng quân tại Quảng Bình), đến giữa tháng 12-1959, Tiểu đoàn 603 đã có 20 chiếc thuyền buồm giống thuyền đánh cá của ngư dân Khu 5. 100% cán bộ, chiến sĩ đơn vị đều được cấp thẻ căn cước có đóng dấu nổi và chữ ký của Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam, đồng thời triển khai công tác đánh bắt hải sản ven biển từ Nam Đèo Ngang đến Bắc Cửa Tùng, kết hợp vận chuyển, tiếp tế hàng cho bộ đội trên đảo Cồn Cỏ.

Đêm Giao thừa Tết Canh Tý 1960, 6 cán bộ, chiến sĩ của đơn vị cùng một chiếc thuyền và 5 tấn vũ khí, đạn, thuốc quân y lặng lẽ rời cửa sông Gianh lên đường thực hiện chuyến đi đầu tiên vào Nam để vừa thăm dò, tiền trạm, vừa rút kinh nghiệm. Đêm Giao thừa giữa mịt mùng biển khơi và những đợt gió mùa Đông Bắc thổi mỗi lúc một mạnh, khi đến vùng biển quốc tế, thuyền bẻ lái thẳng tiến về Nam. 3 ngày vật lộn với sóng to, gió lớn, mặc dù ý chí quyết tâm cao, nhưng những trận cuồng phong của biển khiến bộ đội không thực hiện được theo kế hoạch ban đầu là sẽ cập bờ tại địa điểm Hố Chuối dưới chân đèo Hải Vân chi viện cho Khu 5. Do bánh lái gãy nên thuyền mất phương hướng, trôi dạt đến đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) và bị địch phát hiện, vây bắt. Trước tình thế không thể chống đỡ, kiên quyết không để hàng rơi vào tay địch, theo lệnh của thuyền trưởng, toàn bộ 5 tấn súng đạn, thuốc quân y đã nhanh chóng được thả xuống biển. Khi tàu địch tiếp cận được thuyền, 6 cán bộ, chiến sĩ bị bắt. Dù đã thống nhất lời khai là ngư dân đánh cá bị bão trôi dạt về đây và có thẻ căn cước của chính quyền ngụy, nhưng chúng không tin, giam riêng từng đồng chí và dùng mọi cực hình tra tấn dã man khiến 4 chiến sĩ anh dũng hy sinh trong nhà lao.

Chuyến đi đầu tiên không thành công, phải chịu tổn thất, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Phòng Nghiên cứu công tác chi viện quân sự miền Nam và Tổng cục Hậu cần tổ chức rút kinh nghiệm, tìm phương án mới để tiếp tục chi viện cho miền Nam. Cũng trong thời điểm ấy, Tiểu đoàn 603 sáp nhập với Tiểu đoàn 301 thuộc Đoàn 559 để thực hiện nhiệm vụ mới.

Đầu năm 1968, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên Chiến trường Trị-Thiên rất khó khăn, ác liệt, nhất là vấn đề bảo đảm vũ khí cho bộ đội đánh giặc. Bộ tư lệnh Mặt trận B5 đề nghị Quảng Bình triển khai chi viện gấp cho chiến trường. Nhiệm vụ vận chuyển vũ khí được lãnh đạo tỉnh chính thức giao cho huyện Quảng Trạch, mà trực tiếp là Đảng bộ và nhân dân xã Cảnh Dương, một địa phương làm nghề cá nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh. Với tinh thần “Tất cả vì miền Nam thân yêu, vì Trị-Thiên ruột thịt”, lực lượng tham gia vận chuyển được tổ chức thành 12 thuyền, mỗi thuyền có trọng tải từ 2 đến 3 tấn và biên chế 6 thuyền viên (đây chính là “Đoàn tàu không số” của Quảng Bình). Ngày 26-2-1968, đoàn thuyền rời Cảnh Dương vào Quang Phú, Đồng Hới tiếp nhận vũ khí. Trong điều kiện gió mùa, mưa rét, trời tối, dù đã chủ động đưa thuyền vào tránh nấp và ngụy trang trước khi trời sáng nhưng vẫn bị địch phát hiện. Ngay lập tức, chúng huy động tàu chiến, máy bay bắn phá vào khu vực đoàn thuyền đang trú đậu, làm một chiếc bị chìm, một chiếc bị hỏng nặng. Trước tình hình trên, chỉ huy đoàn thuyền quyết định một số cán bộ ở lại cùng lực lượng dân quân, công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) trục vớt vũ khí, 8 thuyền còn lại tiếp tục tiến về Nam theo đúng kế hoạch. Sau khi liên lạc được với Mặt trận B5 và bàn giao xong vũ khí, để giữ bí mật, các thuyền viên ở lại cùng với nhân dân địa phương sản xuất và phối hợp với lực lượng du kích đánh giặc chống càn.

Trong chiến dịch vận tải VT5 từ năm 1968 đến 1969, quân dân Quảng Bình tổ chức thành các đội và sử dụng hầu hết các loại phương tiện vận tải, tiếp nhận và chuyển giao được 13,2 vạn tấn hàng hóa, vượt chỉ tiêu so với Trung ương giao hơn một vạn tấn.../.

ST.