Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

LẠI THÊM NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN!

     Những ngày này, khi các địa phương trên cả nước đang tích cực triển khai công tác khám sức khỏe (từ ngày 1-11 đến 31-12), gọi thanh niên nhập ngũ thì trên không gian mạng lại xuất hiện các thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc việc tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự (NVQS), đả kích môi trường quân ngũ. Đây là luận điệu nhằm bôi nhọ hình ảnh, truyền thống của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, xuyên tạc việc thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc, tạo dư luận xấu, gieo rắc tư tưởng thoái thác về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân với Tổ quốc, nhất là những người trong độ tuổi thực hiện NVQS!

Những luận điệu sai trái, xuyên tạc
Trên không gian mạng, mạng xã hội, các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị đang rêu rao, tuyên truyền các bài viết, đăng status, dòng trạng thái sai sự thật như: “Trong khi các nước phát triển quan tâm chăm lo đào tạo cho thanh niên lập nghiệp, làm ăn kinh tế thì chỉ có Việt Nam mới bắt ép người dân đi NVQS, nghĩa vụ công an”, “hãy để thanh niên lập nghiệp, làm giàu, đừng bắt đi NVQS”, “mất 2 năm đi NVQS về chẳng được gì”, “chỉ con nhà nghèo mới bị bắt đi nghĩa vụ”...

Trong khi sự thật là, nhiều nước trên thế giới vẫn đang áp dụng bắt buộc nghĩa vụ quân sự, không thực hiện miễn, hoãn-kể cả các ngôi sao nghệ thuật. Nguy hiểm hơn, các thế lực thù địch, phản động còn đăng tải các cảnh bạo lực, quân phiệt của quân đội nước ngoài với lời bình xuyên tạc là ở Việt Nam; họ cắt ghép, dàn dựng hình ảnh, video để bóp méo sự thật, xuyên tạc về đạo đức, tác phong và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội... nhằm kích động một số người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết chia sẻ, lan tỏa trên mạng xã hội, làm nóng vấn đề.

Mục đích của họ là bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Quân đội, với Đảng, Nhà nước. Từ đó, khiến cho công dân đến độ tuổi nhập ngũ và gia đình, người thân “tự diễn biến”, dao động tư tưởng, hoài nghi, thiếu niềm tin, trốn tránh thực hiện NVQS, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Hệ quả là rơi vào âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tham gia biểu tình, chống phá, kích động các quân nhân đào ngũ, bỏ ngũ.

Trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật trường tồn của dân tộc Việt Nam. Lịch sử minh chứng, biết bao thế hệ ông cha đã ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xung phong “xếp bút nghiên lên đường ra trận”, trở thành những chiến sĩ kiên trung, bất khuất.

Những anh hùng liệt sĩ như: Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng, Bế Văn Đàn, Cù Chính Lan, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, 10 nữ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc... là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, niềm tự hào của các thế hệ thanh niên Việt Nam học tập, noi theo: “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể là con đường nào khác”-câu nói đanh thép của Anh hùng Lý Tự Trọng đã trở thành lời hiệu triệu, động lực thôi thúc hàng triệu thế hệ thanh niên Việt Nam mong muốn được cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc.

Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc là quyền lợi và trách nhiệm cao cả của mỗi công dân Việt Nam để bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình cho Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên cho chính quê hương, gia đình, người thân của mình. Thực hiện NVQS đã được hiến định trong Hiến pháp, pháp luật Nhà nước. Điều 45, Chương II, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.

Công dân phải thực hiện NVQS và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân” và Điều 64, Chương IV quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân... Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”. Thể chế hóa Hiến pháp, khoản 1, khoản 2, Điều 4 và khoản 1, Điều 59 Luật NVQS năm 2015 quy định: “NVQS là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân; công dân trong độ tuổi thực hiện NVQS, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện NVQS theo quy định.

Tổ chức, cá nhân có hành vi trốn tránh, chống đối, cản trở việc thực hiện NVQS thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Theo đó, công dân đến tuổi tham gia NVQS không thể đưa ra để bàn luận, so đo, tính toán “đi hay không đi”, “dám hay không dám”. Việc trốn tránh NVQS, trốn tránh trách nhiệm công dân không những vi phạm pháp luật mà còn là tội lớn với thế hệ cha anh đi trước, với Tổ quốc và dân tộc.

Trường học lớn để thanh niên phấn đấu
Cần khẳng định, Quân đội là trường học lớn để lớp lớp thế hệ thanh niên phấn đấu rèn luyện, trưởng thành. Được phục vụ trong môi trường Quân đội, cống hiến sức trẻ bảo vệ Tổ quốc là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân. Với kỷ luật tự giác và nghiêm minh, môi trường văn hóa quân sự là cơ hội để thanh niên học tập, rèn luyện, trưởng thành và cống hiến.

Cùng với sự phát triển của đất nước, đời sống vật chất, tinh thần, chế độ, chính sách đối với quân nhân ngày càng được quan tâm, bảo đảm tốt. Quá trình thực hiện NVQS, thanh niên được học tập, tiếp thu những kiến thức về chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ hữu ích cho bản thân. Trong môi trường quân ngũ, họ được học tập, quán triệt đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là về quốc phòng, an ninh, chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; được giáo dục chính trị, truyền thống, giáo dục pháp luật...

Thông qua đó, thanh niên trưởng thành về nhận thức chính trị, hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nhận diện rõ, đúng những vấn đề thời sự, chính trị diễn ra trong nước và thế giới; đồng thời, nâng cao tinh thần yêu nước, nhận thức, ý thức cảnh giác cách mạng, có lập trường chính trị vững vàng, có khả năng “miễn dịch” trước những luận điệu xuyên tạc, kích động, chống phá của các thế lực thù địch.

Môi trường quân ngũ còn giúp thanh niên được rèn luyện sức khỏe, thể lực dẻo dai; tác phong chững chạc, có trách nhiệm cao với công việc, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm; giao tiếp, ứng xử đúng mực, có văn hóa. Quân đội cũng chính là môi trường giáo dục tốt nhất về tình đồng chí, đồng đội; tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái; cán bộ, chiến sĩ đồng sức, đồng lòng cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Đó còn là nơi mà thanh niên thấm nhuần sâu sắc tình đoàn kết, gắn bó máu thịt quân dân, tình yêu quê hương, đất nước trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Bên cạnh đó, sau khi huấn luyện, những quân nhân có đủ điều kiện sẽ được tuyển chọn, bố trí công việc phù hợp với khả năng hoặc cử đi đào tạo để trở thành sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp (nếu có nguyện vọng phục vụ lâu dài trong Quân đội). Những quân nhân hoàn thành NVQS, khi xuất ngũ sẽ được hưởng chính sách ưu đãi như cộng điểm khi thi tuyển sinh vào các trường đại học, học viện, hỗ trợ đào tạo học nghề, tạo công ăn việc làm...

Khi xuất ngũ được hưởng trợ cấp xuất ngũ, trợ cấp việc làm, trợ cấp bảo hiểm, thanh toán nghỉ phép, quà Tết, phụ cấp, thẻ học nghề giúp thanh niên lập thân, lập nghiệp và ổn định cuộc sống sau này. Điều đó minh chứng, môi trường Quân đội không những không “xấu” như sự bịa đặt, xuyên tạc của các thế lực thù địch mà còn là nơi có điều kiện tốt để thanh niên rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành về mọi mặt.

Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm mà trên hết đó còn là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân Việt Nam, góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, hội nhập quốc tế. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các thế hệ thanh niên được tu dưỡng, rèn luyện và trưởng thành trong môi trường “Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng”. Thực tiễn sinh động đó là minh chứng bác bỏ, phê phán các luận điệu xuyên tạc về thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THƯỢNG TƯỚNG, VIỆN SĨ, TIẾN SĨ NGUYỄN HUY HIỆU, NGUYÊN THỨ TRƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG “ CHÍNH TRỊ LÀ HỒN CỐT, LÀ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH SỨC MẠNH CỦA QUÂN ĐỘI”!

     Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc và dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Ngay từ khi thành lập, Bác Hồ đã xác định 3 chức năng cho Quân đội nhân dân Việt Nam: Đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân sản xuất. Đây là một điều rất khác biệt đối với quân đội các nước, vì quân đội các nước chỉ có chức năng chiến đấu!
Trong suốt 80 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại. Quân đội ta là Quân đội nhân dân. Nhân dân có Đảng lãnh đạo, Đảng có chính cương, chính sách. Đã là Quân đội nhân dân thì phải học chính sách của Đảng... Học tập chính cương, chính sách của Đảng cho hiểu mà làm cho đúng tức là thực hành Chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính cương và chính sách của Đảng đối với công việc kháng chiến và kiến quốc là áp dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh của cách mạng ta”.

Lời dạy của Người vừa kế thừa đúng đắn học thuyết Mác-Lênin về xây dựng quân đội của giai cấp công nhân, vừa kế thừa những giá trị truyền thống nhân văn, nhân nghĩa của cha ông ta trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính điều này, đã tạo sức mạnh vô địch cho Quân đội nhân dân Việt Nam chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược qua các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, mặc dù chúng ta thua kém hơn kẻ thù ngoại xâm về tiềm lực kinh tế, vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh.

Trong thời gian công tác, tôi đã được phân công phụ trách đối ngoại Quốc phòng trong thời gian khoảng 10 năm. Trong đó, tôi nhớ nhất kỷ niệm là trong chuyến đi thăm Bỉ, có quan chức Bỉ hỏi tôi: Tại sao Quân đội nhân dân Việt Nam đánh thắng được Quân đội hùng mạnh của 2 cường quốc: Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tôi trả lời: Quân đội nhân dân Việt Nam chúng tôi đánh thắng kẻ thù mạnh hơn bằng trí tuệ Việt Nam, truyền thống Việt Nam, lịch sử Việt Nam, văn hóa Việt Nam và bằng chiến tranh nhân dân Việt Nam mà quân đội các nước đó không có. Những giá trị chính là hồn cốt, là yếu tố quyết định sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiếp đó, bạn còn hỏi tôi về chức năng công tác của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tôi trả lời, Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ... không có nhân dân thì không có bộ đội. Chính vì vậy, chúng tôi luôn giáo dục cho bộ đội biết kính trọng dân, thương yêu dân, giúp đỡ dân, để xây dựng niềm tin, xây dựng thế trận lòng dân. Khi nhân dân yêu mến thì nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Chính trị là hồn cốt, là yếu tố quyết định sức mạnh của Quân đội ta và là linh hồn, mạch sống của Quân đội cách mạng. Cũng nhờ tuân thủ vấn đề cơ bản này mà 80 năm qua, Quân đội ta không chỉ tạo nên được sức mạnh chiến đấu tổng hợp, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam./.
Yêu nước ST.

Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội

 


Đây là đặc trưng tổng quát, bao trùm, chi phối các đặc trưng khác. Đảng ta xác định, chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng phải thiết thực, cụ thể, phải làm sao cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc… Đồng thời, đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội mới mà nhân dân ta xây dựng.

Dân giàu, là một trong những tiêu chí cốt lõi của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội qua phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tạo nên nguồn của cải vật chất dồi dào, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng nâng cao.

Nước mạnh, là một tiêu chí quan trọng nhằm đưa đất nước vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu. Sức mạnh quốc gia được nâng cao toàn diện trên tất cả các lĩnh vực xã hội. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; giữ vững môi trường hoà bình để phát triển đất nước; vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao.

Dân chủ, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.

Công bằng, đảm bảo toàn diện trên các lĩnh vực xã hội đối với nhân dân. Về kinh tế, thực hiện công bằng xã hội đối với các thành phần kinh tế, xóa bỏ những thành kiến thiên lệch trong sự đánh giá và đối xử với người lao động thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Về xã hội, từng bước hoàn thiện chính sách xã hội, làm tốt chính sách bảo trợ xã hội, xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo. Về xây dựng hệ thống chính trị, công bằng xã hội phải được thể hiện trong từng hoạt động, từng chính sách phát triển.

Văn minh, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội hiện đại, văn minh, giàu bản sắc dân tộc. Xây dựng một xã hội có sự tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại kết hợp với sự kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

 


Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội luôn thể hiện tính thống nhất biện chứng giữa các nhân tố: Kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và đạo đức. Theo Người, “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”[1].

Theo cách tiếp cận riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều quan niệm khác nhau về chủ nghĩa xã hội. Tiếp cận theo mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Người đặt câu hỏi:Chủ nghĩa xã hội là gì”[2] và trả lời: “Chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho đời sống nhân dân ngày càng sung sướng, ăn no, mặc ấm, được học hành, ốm đau có thuốc”[3]. Tiếp cận theo các mặt của xã hội: Về phân phối sản phẩm: “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con[4]. Về lĩnh vực chính trị: “Nhà nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân chỉ lo làm lợi cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, ngày càng tiến bộ về vật chất và tinh thần, làm cho trong xã hội không có người bóc lột người”[5].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm tổng quát: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”[6]. Tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội ngày càng được thể hiện rõ cả về lý luận và thực tiễn, một xã hội phát triển hài hòa trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, vì con người.



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 438.

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 399.

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 437.

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 390.

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 453.

[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 415.

Quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội

 


Trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định, sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là kết quả tất yếu của sự phủ định biện chứng hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, do sự vận động, phát triển của các quy luật khách quan chi phối, mà trước hết và chủ yếu là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh giải quyết các mâu thuẫn về kinh tế và chính trị - xã hội trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa.

Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện và được phân chia thành các thời kỳ và các giai đoạn khác nhau. Dựa trên cơ sở khoa học, chủ nghĩa Mác - Lênin phân chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành một thời kỳ (thời kỳ quá độ) và hai giai đoạn: Giai đoạn thấp (Chủ nghĩa xã hội); giai đoạn cao (Chủ nghĩa cộng sản).

Chủ nghĩa xã hội, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, là kết quả trực tiếp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những cơ sở kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội tương ứng bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội tồn tại và phát triển lên chủ nghĩa cộng sản.

Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội

Khẳng định hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội với tư cách là một xã hội mới, tiến bộ hơn chủ nghĩa tư bản, Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Trước hết, việc quản lý công nghiệp và tất cả các ngành sản xuất nói chung sẽ không còn nằm trong tay của cá nhân riêng lẻ cạnh tranh với nhau nữa. Trái lại, tất cả các ngành sản xuất sẽ do toàn thể xã hội quản lý,... Do đó, chế độ tư hữu cũng phải được thủ tiêu và phải được thay bằng việc sử dụng chung tất cả mọi công cụ sản xuất và việc phân phối sản phẩm theo sự thỏa thuận chung,... Thủ tiêu chế độ tư hữu là một cách nói vắn tắt nhất và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội; việc cải tạo này là kết quả tất yếu của sự phát triển của công nghiệp. Cho nên, những người cộng sản hoàn toàn đúng khi đề ra việc thủ tiêu chế độ tư hữu thành yêu cầu chủ yếu của mình”[1]. Kế thừa và bổ sung phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí. Và nếu quần chúng lao động đang xây dựng chủ nghĩa xã hội mà không biết đem ứng dụng những cơ quan của mình cho phù hợp với những phương thức hoạt động của đại công nghiệp cơ khí, thì không thể nói đến việc thiết lập chủ nghĩa xã hội được”[2]. Trên cơ sở luận chứng một cách khoa học về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:

Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp hiện đại.

Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.

Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.

Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.

Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.



[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 467.

[2] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2005, tr. 193.

Trách nhiệm của Quân đội nhân dân Việt Nam và cán bộ quân sự cơ sở trong thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam

 


Quân đội nhân dân Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội đặc thù, một tổ chức công cụ bạo lực của giai cấp công nhân Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục, rèn luyện và lãnh đạo. Với chức năng, nhiệm vụ của Quân đội là đội quân vũ trang và lực lượng chính trị, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, để bảo vệ những thành quả cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân ta đã giành được; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó, việc chăm lo xây dựng Quân đội vững mạnh về mọi mặt để hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ của mình là một vấn đề quan trọng thường xuyên của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Nhất là trong tình hình mới hiện nay, trước yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng Quân đội ta theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bưc hiện đại, một s quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưỏng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội và Công an tuyệt đốì trung thành với Tổ quốc, vi Đảng, Nhà nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưng cách mạng của Đảng, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống[1]. Thực hiện tốt việc tăng cường giáo dục, rèn luyện bản chất giai cấp công nhân cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng trong Quân đội. Kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nhất là trước âm mưu tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa hòng “phi chính trị hóa Quân đội”. Trước thực tiễn đó, Quân đội ta cần phải phát huy tốt vai trò chức năng của mình hơn bao giờ hết để góp phần thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Cán bộ quân sự xã, phường là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng ở cơ sở. Với chức năng tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng, quân sự, đồng thời cũng là người trực tiếp tổ chức thực hiện công tác này góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở. Đào tạo đội ngũ cán bộ cán bộ quân sự xã, phường trình độ cao đẳng, đại học ngành quân sự cơ sở có năng lực, trình độ chuyên môn tương đương sĩ quan dự bị cấp phân đội trở lên; trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước từ trung cấp trở lên là bước tiến quan trọng trong xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp, là chủ trương chính sách lớn của Đảng, Nhà nước về công tác quân sự, quốc phòng, có ý nghĩa quan trọng cả trước mắt và lâu dài. Tăng cường giáo dục, rèn luyện bản chất giai cấp công nhân góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự xã, phường vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, bảo đảm là lực lượng chính trị tin cậy của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân ở cơ sở.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 157 - 158.

Khái niệm giai cấp công nhân

 


Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù trung tâm của chủ nghĩa xã hội khoa học song để làm rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết phải hiểu rõ giai cấp công nhân là gì? C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”[1].

Giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các trình độ kỹ thuật khác nhau, mà địa vị kinh tế - xã hội tuỳ thuộc vào chế độ xã hội đương thời.

Trong quá trình nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ giai cấp công nhân như: giai cấp vô sản, giai cấp lao động làm thuê, giai cấp công nhân, hay các thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để chỉ các loại công nhân trong các ngành khác nhau: công nhân nông nghiệp, công nhân công nghiệp, công nhân cơ khí, công nhân khai khoáng… Cho dù các ông sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau song bản chất chỉ là một - đều chỉ giai cấp vô sản hiện đại hay giai cấp công nhân. Trong tác phẩm “Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh”, Ph.Ăngghen đã viết: “tôi thường dùng những từ: người lao động hoặc công nhân (working men) và người vô sản, giai cấp công nhân, giai cấp không có của, giai cấp vô sản như những từ đồng nghĩa”[2].

C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra hai tiêu chí để phân biệt giai cấp công nhân với những người lao động khác: Thứ nhất, về nghề nghiệp. Giai cấp công nhân là những lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao. Đây là tiêu chí cơ bản xác định rõ môi trường lao động và phương thức lao động của họ là các ngành công nghiệp có trình độ kỹ thuật khác nhau. Lực lượng công nhân hiện đại gắn với nền đại công nghiệp ngày càng phát triển là bộ phận cơ bản, hạt nhân của giai cấp công nhân. Hiện nay, khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng với tính chất xã hội hoá ngày càng cao, cơ cấu của nền sản xuất công nghiệp có sự thay đổi. Bên cạnh các ngành công nghiệp truyền thống, đã xuất hiện ngày càng nhiều các ngành sản xuất và dịch vụ mới. Cùng với công nhân của nền công nghiệp cơ khí, đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp với trình độ kỹ thuật cao ở các dây chuyền sản xuất tự động hoá, làm cho giai cấp công nhân cũng có sự phát triển mới về nghề nghiệp. Những sự biến đổi đó không hề làm giảm giai cấp công nhân trong nền kinh tế mà trái lại càng làm cho giai cấp công nhân tăng thêm cả về số lượng và chất lượng. Bởi vậy, những người lao động trong các ngành dịch vụ mà phần lớn là dịch vụ công nghiệp vẫn là công nhân, xét về tiêu chí nghề nghiệp. Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất. Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư, khiến cho những người công nhân trở thành giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau”[3].

Với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cũng như sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, hiện nay, giai cấp công nhân ngày càng được trí thức hoá, nâng cao trình độ mọi mặt, đời sống của công nhân ở các nước tư bản phát triển cũng được cải thiện so với trước đây, một bộ phận công nhân đã có chút ít tư liệu sản xuất, hoặc, có bộ phận công nhân có cổ phần trong xí nghiệp… Tuy nhiên, không có nghĩa địa vị của họ trong xã hội tư bản chủ nghĩa đã thay đổi, họ vẫn là giai cấp lao động làm thuê cho giai cấp tư sản trong hoạt động sản xuất công nghiệp. Trước kia công nhân bán sức lao động chân tay là chủ yếu, thì nay họ bán cả lao động chân tay và lao động trí óc, thậm chí có bộ phận chủ yếu bán sức lao động trí óc như những công nhân lao động sản xuất ở những dây chuyền công nghệ cao, các lĩnh vực sáng chế, ứng dụng sản xuất công nghiệp, vì vậy, họ còn bị bóc lột giá trị thặng dư bằng những hình thức tinh vi hơn.

Khác với giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân ở các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành giai cấp thống trị, giai cấp cầm quyền và lãnh đạo cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới (mặc dù, ít nhiều họ còn bị bóc lột, song về hình thức và mức độ không giống như công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa), họ đã trở thành những người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của nền sản xuất mới, cùng với nhân dân lao động hợp tác, lao động cho chính mình. Vì vậy, trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân được xác định chủ yếu bằng tiêu chí nghề nghiệp, còn tiêu chí thứ hai - địa vị trong quan hệ sản xuất mới đã có sự thay đổi căn bản, họ đã được giải phóng khỏi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Cho đến nay, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là cơ sở để luận giải và nhận diện giai cấp công nhân hiện nay.

Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng giai cấp công nhân.

Đại hội XIII, Đảng ta chỉ rõ: “Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân[4]. Rà soát, bổ sung, sủa đổi, xây dựng các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm và đời sống vật chất, tinh thần; tập trung trước hết vào những chính sách liên quan trực tiếp đến những vấn đề bức xúc đang đặt ra về việc làm và đời sống của công nhân. Bổ sung, sửa đổi, xây dựng các chính sách để phát huy các nguồn lực và trách nhiệm của cả Nhà nước, người sử dụng lao động, các tổ chức chính trị - xã hội, của toàn xã hội và của công nhân trong việc chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân tương xứng với năng suất lao động và những đóng góp của công nhân. Nhà nước có chính sách đầu tư cho các tỉnh, thành phố để xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi công cộng cho công nhân. Đại hội XIII, Đảng ta yêu cầu: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của công đoàn phù hợp với cơ cấu lao động, nhu cầu, nguyện vọng của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế”[5]. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong xây dựng giai cấp công nhân. Khẩn trương xây dựng và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả chiến lược về giai cấp công nhân gắn với chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm các chủ trương, chính sách lớn về đào tạo, trí thức hóa công nhân; về vấn đề xuất khẩu lao động, kể cả ở các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư kinh doanh ở nước ngoài; vấn đề tạo nguồn để phát triển đảng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, trong quản lý sản xuất kinh doanh xuất thân từ công nhân; vấn đề nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân...



[1] C.MácPh.Ăngghen, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 56.

[2] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 328.

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 605.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 166.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 166.

Ý nghĩa nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học về mặt thực tiễn

 


Nghiên cứu Chủ nghĩa xã hội khoa học với những minh chứng sinh động bởi các sự kiện cách mạng, những thành tựu rực rỡ của sự nghiệp đổi mới, cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, chúng ta càng củng cố bản lĩnh kiên định, tự tin tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Nghiên cứu Chủ nghĩa xã hội khoa học là cơ sở để khẳng định việc sự cần thiết của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống mọi biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, dao động, thoái hóa, biến chất trong đảng và cả xã hội, giáo dục lý luận chính trị - xã hội một cách cơ bản khoa học tức là ta tiến hành củng cố niềm tin thật sự đối với chủ nghĩa xã hội… cho mọi cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên, phụ nữ và nhân dân.

Góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và mở rộng hợp tác quốc tế; tiến hành hội nhập quốc tế, xây dựng “kinh tế tri thức”, xây dựng nền kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa… đang là những vận hội lớn, đồng thời cũng có những thách thức lớn đối với nhân dân ta. Đó cũng là trách nhiệm lịch sử rất nặng nề và vẻ vang cả thế hệ trẻ đối với sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa trên đất nước ta.

Chủ nghĩa xã hội khoa học góp phần quan trọng trong việc giáo dục niềm tin khoa học cho Nhân dân vào mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Niềm tin khoa học là sự thống nhất giữa nhận thức, tình cảm, ý chí và quyết tâm trở thành động lực tinh thần hướng con người đến hoạt động thực tiễn một cách chủ động, tự giác, sáng tạo và cách mạng.

Đối với cán bộ chỉ huy quân sự cấp xã, phường, thi trấn, việc nghiên cứu nắm vững lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học giúp họ thấm nhuần mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng; nắm được quy luật vận động, phát triển tất yếu của lịch sử, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ đó, tự nguyện, tự giác chấp hành đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương, quyết tâm xây dựng quyê hương giàu mạnh. Đồng thời, trên cơ sở giác ngộ sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, Chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng, cán bộ chỉ huy quân sự cấp xã, phường, thi trấn mới có cơ sở để làm tốt nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã, phường, thị trấn lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự theo quy định của pháp luật; làm tốt công tác tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện giáo dục quốc phòng và an ninh; tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện; thực hiện chính sách hậu phương quân đội, chính sách ưu đãi người có công với cách mạng...