Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024
LẠI THÊM NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THƯỢNG TƯỚNG, VIỆN SĨ, TIẾN SĨ NGUYỄN HUY HIỆU, NGUYÊN THỨ TRƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG “ CHÍNH TRỊ LÀ HỒN CỐT, LÀ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH SỨC MẠNH CỦA QUÂN ĐỘI”!
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
Đây là đặc trưng
tổng quát, bao trùm, chi phối các đặc trưng khác. Đảng ta xác định, chủ nghĩa
xã hội mà nhân
dân ta xây dựng phải thiết thực, cụ thể, phải làm sao cho dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh; mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ,
được sống cuộc đời hạnh phúc… Đồng thời, đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân
dân Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội mới mà nhân dân ta xây
dựng.
Dân giàu, là một trong những tiêu chí cốt lõi của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội qua phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất, tạo nên nguồn của cải vật chất dồi dào, đời sống vật chất của
nhân dân ngày
càng nâng cao.
Nước
mạnh, là một tiêu chí quan trọng nhằm đưa đất nước vươn lên sánh vai với các cường quốc năm
châu. Sức mạnh quốc gia được nâng cao toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực xã hội. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng; giữ vững môi trường hoà bình để phát triển đất nước; vị thế
và uy tín quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao.
Dân
chủ, là bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa, mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Đồng thời,
dân chủ vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
Công
bằng, đảm bảo toàn diện trên các lĩnh vực xã hội đối với nhân dân. Về kinh tế, thực hiện công
bằng xã hội đối với các thành phần kinh tế, xóa bỏ những thành kiến thiên lệch
trong sự đánh giá và đối xử với người lao động thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau. Về xã hội, từng bước hoàn thiện chính sách xã hội, làm tốt
chính sách bảo trợ xã hội, xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch
giàu nghèo. Về xây
dựng hệ thống chính trị, công bằng xã hội phải được thể hiện trong từng hoạt
động, từng chính sách phát triển.
Văn
minh, xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội hiện đại, văn minh, giàu bản sắc dân tộc. Xây dựng
một xã hội có sự
tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại kết hợp với sự kế thừa những
giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội luôn thể hiện
tính thống nhất biện chứng giữa các nhân tố: Kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa và đạo đức. Theo Người, “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,
tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”[1].
Theo cách tiếp cận riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều quan
niệm khác nhau về chủ nghĩa xã hội. Tiếp cận theo
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Người đặt câu
hỏi: “Chủ nghĩa xã hội là gì”[2] và trả lời:
“Chủ nghĩa xã
hội nhằm làm cho đời sống nhân dân ngày càng sung sướng, ăn no, mặc ấm, được
học hành, ốm đau có thuốc”[3]. Tiếp cận theo các mặt của xã hội: Về phân phối sản phẩm: “Ai
làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất
nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”[4]. Về lĩnh vực chính trị: “Nhà nước xã hội chủ nghĩa và
dân chủ nhân dân chỉ lo làm lợi cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động,
ngày càng tiến bộ về vật chất và tinh thần, làm cho trong xã hội không có người
bóc lột người”[5].
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm tổng quát: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ
nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm
cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”[6]. Tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã
hội ngày càng được thể hiện rõ cả về lý luận và thực tiễn, một xã hội phát
triển hài hòa trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, vì con người.
[1] Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 438.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn
tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 399.
[3] Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 437.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn
tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 390.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 453.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 415.
Quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội
Trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ
nghĩa xã hội khoa học khẳng định, sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa là kết quả tất yếu của sự phủ định biện chứng hình thái kinh tế -
xã hội tư bản chủ nghĩa, do sự vận động, phát triển của các quy luật khách quan
chi phối, mà trước hết và chủ yếu là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh
giải quyết các mâu thuẫn về kinh tế và chính trị - xã hội trong lòng xã hội tư
bản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện và được phân chia thành các thời kỳ và các giai đoạn khác nhau. Dựa
trên cơ sở khoa học, chủ nghĩa Mác - Lênin phân chia hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa thành một thời kỳ
(thời kỳ quá độ) và hai giai đoạn: Giai đoạn thấp (Chủ nghĩa xã hội); giai đoạn
cao (Chủ nghĩa cộng sản).
Chủ nghĩa xã hội, theo
quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, là giai
đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, là kết quả trực
tiếp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những cơ sở kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội tương ứng bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội tồn tại và phát
triển lên chủ nghĩa cộng sản.
Những
đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
Khẳng định hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội với tư cách là một xã hội mới,
tiến bộ hơn chủ nghĩa tư bản, Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Trước
hết, việc quản lý công nghiệp và tất cả các ngành sản xuất nói chung sẽ không
còn nằm trong tay của cá nhân riêng lẻ cạnh tranh với nhau nữa. Trái lại, tất
cả các ngành sản xuất sẽ do toàn thể xã hội quản lý,... Do đó, chế độ tư hữu
cũng phải được thủ tiêu và phải được thay bằng việc sử dụng chung tất cả mọi
công cụ sản xuất và việc phân phối sản phẩm theo sự thỏa thuận chung,... Thủ tiêu chế độ tư
hữu là một cách nói vắn tắt nhất và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế
độ xã hội; việc cải tạo này là kết quả tất yếu của sự phát triển của công
nghiệp. Cho nên, những người cộng sản hoàn toàn đúng khi đề ra việc thủ tiêu
chế độ tư hữu thành yêu cầu chủ yếu của mình”[1]. Kế thừa và bổ sung phát
triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội
là sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí. Và nếu quần chúng lao động đang xây
dựng chủ nghĩa xã hội mà không biết đem ứng dụng những cơ quan của mình cho phù
hợp với những phương thức hoạt động của đại công nghiệp cơ khí, thì không thể
nói đến việc thiết lập chủ nghĩa xã hội được”[2]. Trên cơ sở luận chứng một cách khoa
học về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:
Cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp hiện đại.
Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, xây
dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Chủ nghĩa
xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Chủ nghĩa xã hội
thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa
là nhà nước kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích,
quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Con người được
giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho
con người phát triển toàn diện.
Trách nhiệm của Quân đội nhân dân Việt Nam và cán bộ quân sự cơ sở trong thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Quân đội nhân dân Việt Nam là một tổ chức
chính trị - xã hội đặc thù, một tổ chức công cụ bạo lực của giai cấp công nhân
Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục,
rèn luyện và lãnh đạo. Với chức năng, nhiệm vụ của Quân đội là đội quân vũ
trang và lực lượng chính trị, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, để bảo
vệ những thành quả cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân ta đã giành
được; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất
nước, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó, việc chăm lo xây dựng Quân đội vững
mạnh về mọi mặt để hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ của mình là một vấn
đề quan trọng thường xuyên của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Nhất là trong
tình hình mới hiện nay, trước yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng Quân đội ta theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó lấy xây
dựng về chính trị làm cơ sở. “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một
số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025,
cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn
đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưỏng, đạo đức, tổ chức và cán
bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội
và Công an tuyệt đốì trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà
nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng
của Đảng, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống”[1]. Thực hiện tốt việc tăng cường giáo dục, rèn luyện bản chất giai cấp công
nhân cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng trong Quân đội. Kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch, nhất là trước âm mưu tách Quân đội khỏi sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa hòng “phi chính trị hóa Quân
đội”. Trước thực tiễn đó, Quân đội ta cần phải phát huy tốt vai trò chức năng
của mình hơn bao giờ hết để góp phần thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam, xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Cán bộ quân sự xã, phường là
lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng ở cơ sở. Với chức
năng tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc
phòng, quân sự, đồng thời cũng là người trực tiếp tổ chức thực hiện công tác
này góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở. Đào
tạo đội ngũ cán bộ cán bộ quân sự xã, phường trình độ cao đẳng, đại học ngành
quân sự cơ sở có năng lực, trình độ chuyên môn tương đương sĩ quan dự bị cấp
phân đội trở lên; trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước từ trung cấp trở
lên là bước tiến quan trọng trong xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp, là
chủ trương chính sách lớn của Đảng, Nhà nước về công tác quân sự, quốc phòng,
có ý nghĩa quan trọng cả trước mắt và lâu dài. Tăng cường giáo dục, rèn luyện
bản chất giai cấp công nhân góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự xã, phường
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, bảo đảm là lực lượng chính
trị tin cậy của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân ở cơ sở.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 157 - 158.
Khái niệm giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm
trù trung tâm của chủ nghĩa xã hội khoa học song để làm rõ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân, trước hết phải hiểu rõ giai cấp công nhân là gì? C.Mác
và Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô sản thực ra
là gì, và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm
gì về mặt lịch sử”[1].
Giai cấp
công nhân là giai cấp những người lao động hoạt động sản xuất trong các ngành
công nghiệp thuộc các trình độ kỹ thuật khác nhau, mà địa vị kinh tế - xã hội
tuỳ thuộc vào chế độ xã hội đương thời.
Trong quá trình nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác
nhau để chỉ giai cấp công nhân như: giai cấp vô sản, giai cấp
lao động làm thuê, giai cấp công nhân, hay các thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để
chỉ các loại công nhân trong các ngành khác nhau: công nhân nông nghiệp, công
nhân công nghiệp, công nhân cơ khí, công nhân khai khoáng… Cho dù các ông sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau song bản
chất chỉ là một - đều chỉ giai cấp vô sản hiện đại hay giai cấp công nhân. Trong
tác phẩm “Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh”, Ph.Ăngghen đã viết: “tôi thường
dùng những từ: người lao động hoặc công nhân (working men) và người vô sản, giai
cấp công nhân, giai cấp không có của, giai cấp vô sản như những từ đồng nghĩa”[2].
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra hai tiêu chí để phân biệt giai cấp
công nhân với những người lao động khác: Thứ nhất, về nghề nghiệp. Giai cấp công nhân là
những lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao. Đây là tiêu chí cơ bản
xác định rõ môi trường lao động và phương thức lao động của họ
là các ngành công nghiệp có trình độ kỹ thuật khác nhau. Lực lượng
công nhân hiện đại gắn với nền đại công nghiệp ngày càng phát triển là bộ phận
cơ bản, hạt nhân của giai cấp công nhân. Hiện
nay, khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, làm cho lực lượng sản
xuất phát triển nhanh chóng với tính chất xã hội hoá ngày càng cao, cơ cấu của
nền sản xuất công nghiệp có sự thay đổi. Bên cạnh các ngành công
nghiệp truyền thống, đã xuất hiện ngày càng nhiều các ngành sản xuất và
dịch vụ mới. Cùng với công nhân của nền công nghiệp cơ khí, đã xuất hiện
công nhân của nền công nghiệp với trình độ kỹ thuật cao ở các dây chuyền sản
xuất tự động hoá, làm cho giai cấp công nhân cũng có sự phát triển mới về nghề
nghiệp. Những sự biến đổi đó không hề làm giảm giai cấp công nhân trong nền
kinh tế mà trái lại càng làm cho giai cấp công nhân tăng thêm cả về số lượng và
chất lượng. Bởi
vậy, những người lao động trong các ngành dịch vụ
mà phần lớn là dịch vụ công nghiệp vẫn là công nhân, xét về
tiêu chí nghề nghiệp. Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất. Trong quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người lao động không có tư liệu sản
xuất, phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột
giá trị thặng dư, khiến cho những người công nhân trở thành giai cấp đối kháng
trực tiếp với giai cấp tư sản. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Giai cấp tư sản, tức
là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện
đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm
được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc
phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác;
vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau”[3].
Với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cũng như sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, hiện nay, giai cấp công nhân ngày càng được trí thức
hoá, nâng cao trình độ mọi mặt, đời sống của công nhân ở các
nước tư bản phát triển cũng được cải thiện so với
trước đây, một bộ phận công nhân đã có chút ít tư liệu sản
xuất, hoặc, có bộ phận công nhân có cổ phần trong xí nghiệp… Tuy nhiên, không có nghĩa địa vị của họ trong xã hội tư bản chủ nghĩa đã thay đổi, mà họ vẫn
là giai cấp lao động làm thuê cho giai cấp tư sản trong hoạt động sản xuất công
nghiệp. Trước kia công nhân bán sức lao động chân tay là
chủ yếu, thì nay họ bán cả lao động chân tay và lao động trí óc, thậm chí có bộ
phận chủ yếu bán sức lao động trí óc như những công nhân lao động
sản xuất ở những dây chuyền công nghệ cao, các lĩnh vực sáng chế, ứng dụng
sản xuất công nghiệp,
vì vậy, họ còn bị bóc lột giá trị thặng
dư bằng những hình thức tinh vi hơn.
Khác với giai cấp công nhân ở các nước tư bản
chủ nghĩa, giai cấp công nhân ở các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành giai cấp
thống trị, giai cấp cầm quyền và lãnh đạo cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới (mặc dù, ít nhiều
họ còn bị bóc lột, song về hình thức và mức độ không giống như công nhân trong
xã hội tư bản chủ nghĩa), họ đã trở
thành những người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của nền sản xuất mới,
cùng với nhân dân lao động hợp tác, lao động cho chính mình. Vì vậy, trong chủ
nghĩa xã hội, giai cấp công nhân được xác định chủ yếu bằng tiêu chí nghề
nghiệp, còn tiêu chí thứ hai - địa vị trong quan hệ
sản xuất mới đã có sự thay đổi căn bản, họ đã được giải phóng khỏi quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Cho đến nay, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai
tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là
cơ sở để luận giải và nhận diện giai cấp công nhân hiện nay.
Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực
hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật,
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng giai cấp công nhân.
Đại hội XIII, Đảng ta chỉ rõ: “Chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân; bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân”[4]. Rà
soát, bổ sung, sủa đổi, xây dựng các chính sách, pháp luật về lao động, việc
làm và đời sống vật chất, tinh thần; tập trung trước hết vào những chính sách
liên quan trực tiếp đến những vấn đề bức xúc đang đặt ra về việc làm và đời
sống của công nhân. Bổ sung, sửa đổi, xây dựng các chính sách để phát huy các
nguồn lực và trách nhiệm của cả Nhà nước, người sử dụng lao động, các tổ chức
chính trị - xã hội, của toàn xã hội và của công nhân trong việc chăm lo cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân tương xứng với năng suất lao
động và những đóng góp của công nhân. Nhà nước có chính sách đầu tư cho các
tỉnh, thành phố để xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi công cộng cho công
nhân. Đại hội XIII, Đảng ta yêu cầu: “Đổi
mới tổ chức và hoạt động của công đoàn phù hợp với cơ cấu lao động, nhu cầu,
nguyện vọng của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế”[5]. Tăng cường sự lãnh đạo của
các cấp ủy đảng trong xây dựng giai cấp công nhân. Khẩn trương xây dựng và lãnh
đạo thực hiện có hiệu quả chiến lược về giai cấp công nhân gắn với chiến lược
phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh
tế quốc tế, bao gồm các chủ trương, chính sách lớn về đào tạo, trí thức hóa
công nhân; về vấn đề xuất khẩu lao động, kể cả ở các doanh nghiệp Việt Nam đầu
tư kinh doanh ở nước ngoài; vấn đề tạo nguồn để phát triển đảng và bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, trong quản lý sản
xuất kinh doanh xuất thân từ công nhân; vấn đề nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của công nhân...
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 56.
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 2, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 328.
[3] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 605.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1,
Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 166.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 166.
Ý nghĩa nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học về mặt thực tiễn
Nghiên cứu Chủ nghĩa xã hội khoa học với những minh chứng sinh động bởi các sự kiện
cách mạng, những thành
tựu rực rỡ của sự nghiệp đổi mới, cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa, trong
đó có Việt Nam, chúng ta càng củng cố bản lĩnh kiên định,
tự tin tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo định hướng xã hội chủ nghĩa
mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Nghiên cứu Chủ nghĩa xã hội khoa học là cơ sở để khẳng định việc sự cần
thiết của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống
mọi biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, dao động, thoái hóa, biến chất
trong đảng và cả xã hội, giáo dục lý luận chính trị
- xã hội một cách cơ bản khoa học tức là ta tiến hành củng cố niềm tin thật sự
đối với chủ nghĩa xã hội… cho mọi cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên,
phụ nữ và nhân
dân.
Góp phần đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và mở rộng hợp
tác quốc tế; tiến hành hội nhập quốc tế, xây dựng “kinh tế tri thức”, xây dựng
nền kinh tế
thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa… đang là những vận hội lớn, đồng thời cũng có những thách thức lớn
đối với nhân dân ta. Đó cũng là trách nhiệm lịch sử rất nặng nề và vẻ vang cả thế hệ
trẻ đối với sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, cộng sản
chủ nghĩa trên đất nước ta.
Chủ nghĩa xã hội
khoa học góp phần quan trọng trong việc giáo dục niềm tin khoa
học cho Nhân dân vào
mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Niềm tin khoa học là sự thống nhất giữa
nhận thức, tình cảm, ý chí và quyết tâm trở thành động lực tinh thần hướng con
người đến hoạt động thực tiễn một cách chủ động, tự giác, sáng tạo và cách
mạng.
Đối với cán bộ chỉ huy quân sự cấp xã, phường, thi
trấn, việc nghiên cứu nắm vững lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học giúp họ thấm
nhuần mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng; nắm được quy luật vận động, phát
triển tất yếu của lịch sử, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý của nhà nước, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ đó, tự
nguyện, tự giác chấp hành đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định
của địa phương, quyết tâm xây dựng quyê hương giàu mạnh. Đồng thời, trên cơ sở
giác ngộ sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, Chủ nghĩa xã hội khoa học
nói riêng, cán bộ chỉ huy quân sự cấp xã, phường, thi trấn mới có cơ sở để làm
tốt nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã, phường, thị trấn lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý, điều hành thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự theo quy định của
pháp luật; làm tốt công tác tuyên truyền
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện
giáo dục quốc phòng và an ninh; tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện;
thực hiện chính sách hậu phương quân đội, chính sách ưu đãi người có công với
cách mạng...

