Thứ Ba, 5 tháng 11, 2024

VIỆT NAM KHẲNG ĐỊNH CAM KẾT ĐỐI VỚI HỢP TÁC MÊ CÔNG

 Nhận lời mời của Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Lý Cường, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị thượng đỉnh hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) lần thứ 8, Hội nghị cấp cao Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady-Chao Phraya-Mê Công (ACMECS) lần thứ 10, Hội nghị cấp cao hợp tác Campuchia-Lào-Myanmar-Việt Nam (CLMV) lần thứ 11 và làm việc tại Trung Quốc từ ngày 5 đến 8-11.


Chuyến công tác nhằm khẳng định cam kết của Việt Nam đối với các cơ chế GMS, ACMECS và CLMV nói riêng, hợp tác tại khu vực Mê Công nói chung.


GMS là khuôn khổ hợp tác được thành lập đầu tiên tại Tiểu vùng Mê Công vào năm 1992 với sự hỗ trợ của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), bao gồm các nước thành viên là Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Trung Quốc (với hai tỉnh đại diện là Vân Nam và Quảng Tây).


Trong hơn 30 năm qua, hợp tác GMS không ngừng mở rộng về quy mô, đi sâu về nội dung, khẳng định được bản sắc riêng là một cơ chế hợp tác khu vực có uy tín, dựa trên 3 trụ cột hợp tác: Cộng đồng, kết nối và năng lực cạnh tranh.


Kể từ ngày đầu thành lập GMS đến nay, Việt Nam đã và đang tham gia đầy đủ, tích cực các hoạt động hợp tác; đóng góp ý kiến xây dựng các kế hoạch, chiến lược trong tiểu vùng; tham gia và triển khai có hiệu quả Chiến lược giao thông vận tải GMS 2030; tiếp nhận 2 dự án “Phát triển cơ sở hạ tầng du lịch hỗ trợ cho tăng trưởng toàn diện Tiểu vùng Mê Công mở rộng” giai đoạn 1 từ năm 2014 đến 2019 và giai đoạn 2 từ năm 2019 đến 2024. Trong Khung đầu tư khu vực, giai đoạn 2021-2025, Việt Nam huy động được hơn 100 dự án trị giá trên 10,4 tỷ USD.


ACMECS là khuôn khổ hợp tác kinh tế gồm 5 nước Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar và Thái Lan. Hợp tác ACMECS bao gồm 8 lĩnh vực là thương mại-đầu tư, nông nghiệp, công nghiệp-năng lượng, giao thông, du lịch, phát triển nguồn nhân lực, y tế và môi trường. Nguyên tắc hợp tác ACMECS là tập trung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực thông qua nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác.


Là thành viên có trách nhiệm, Việt Nam luôn tích cực đề xuất và triển khai nhiều ý tưởng mới, đóng góp xây dựng các văn bản quan trọng, hình thành và thúc đẩy các sáng kiến, hỗ trợ phát triển cho các nước thành viên, trong đó có phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hạ tầng cơ sở. Đáng chú ý, Việt Nam đang tiến hành các thủ tục trong nước để sớm công bố phương án đóng góp tài chính đối với Quỹ phát triển ACMECS, qua đó thúc đẩy việc sớm thành lập quỹ, bảo đảm công tác triển khai hiệu quả các dự án trong Kế hoạch tổng thể ACMECS, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân và các nền kinh tế ACMECS cũng như sự phát triển bền vững của tiểu vùng.


Cùng với đó, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Nhật Bản vào tháng 12-2003 ở Tokyo (Nhật Bản), lãnh đạo cấp cao các nước Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam nhất trí tổ chức Hội nghị cấp cao CLMV lần thứ nhất vào dịp Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 10 tại Vientiane (Lào) vào tháng 11-2004. Việc hình thành hợp tác CLMV là một trong những nỗ lực đáp ứng yêu cầu khách quan của hội nhập Tiểu vùng Mê Công và ASEAN. Hợp tác CLMV là cơ chế hợp tác mở, một mặt phát huy lợi thế, tiềm năng hợp tác sẵn có của các nước CLMV, một mặt là kênh kêu gọi hỗ trợ của các nước ASEAN khác và các đối tác phát triển dành cho các nước CLMV.


Hơn nữa, hợp tác CLMV cũng là diễn đàn để các nước CLMV phối hợp trong tiến trình liên kết kinh tế ASEAN. Ngay từ khi tham gia vào hợp tác CLMV, Việt Nam đã thể hiện rõ vai trò dẫn dắt, tích cực thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia vì sự phát triển chung của khu vực. Đặc biệt, năm 2018, trong vai trò Chủ tịch hợp tác CLMV, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp cao CLMV lần thứ 8 với sự ra đời của Khung khổ Phát triển CLMV-văn kiện có tính định hướng chiến lược đầu tiên được xây dựng về hợp tác kinh tế giữa các nước CLMV kể từ khi cơ chế hợp tác này được hình thành.


Có thể thấy rõ, GMS, ACMECS và CLMV là những cơ chế có mục tiêu thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác phát triển kinh tế cùng có lợi giữa các nước; hỗ trợ các nước thực hiện thành công các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG); đưa Tiểu vùng Mê Công mở rộng nhanh chóng, trở thành vùng phát triển nhanh và thịnh vượng; khai thác và phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng, các nước thành viên, nâng cao sức cạnh tranh, thu hẹp khoảng cách phát triển. Cho đến nay, hợp tác GMS, ACMECS và CLMV được đánh giá đã đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, cũng như củng cố quan hệ hữu nghị, hòa bình và ổn định ở khu vực.


Chúng ta tin tưởng rằng, chuyến công tác tham dự Hội nghị thượng đỉnh GMS lần thứ 8, Hội nghị cấp cao ACMECS lần thứ 10, Hội nghị cấp cao CLMV lần thứ 11 và làm việc tại Trung Quốc của Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam sẽ thành công tốt đẹp, qua đó tiếp tục đóng góp tích cực vào tăng cường quan hệ giữa các nước trong khu vực Mê Công cũng như đưa quan hệ Việt Nam-Trung Quốc không ngừng phát triển./.

PBVN ST 

THỰC HIỆN MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC 100 NĂM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, 100 NĂM THÀNH LẬP NƯỚC - BÀI 1: CHUẨN BỊ ĐẠI HỘI XIV VÀ TẦM NHÌN MỚI

 

Sau 40 năm đổi mới, Việt Nam đã tích lũy được nền tảng thế và lực, hội tụ đủ những điều kiện cần thiết để đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ hiện thực hóa mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập Nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 10, khóa XIII đã nhận định như vậy. Báo Quân đội nhân dân đã tiến hành phỏng vấn các chuyên gia về những định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện khát vọng hùng cường, thịnh vượng của dân tộc.

Trong bối cảnh đất nước đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, việc nhận thức sâu sắc về ý nghĩa và tầm quan trọng của thời kỳ này là vô cùng cần thiết. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Phòng, Giảng viên cao cấp, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Viện trưởng Viện Triết học, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

Phóng viên: Thưa GS, TS Trần Văn Phòng, chúng ta đang đứng trước cơ hội lịch sử để đưa nước ta trở thành nước công nghiệp phát triển, hiện thực hóa khát vọng hùng cường, thịnh vượng. Điều này đặt ra cho Đảng ta vấn đề gì về nội dung, phương thức lãnh đạo?

GS, TS Trần Văn Phòng: Xin cảm ơn câu hỏi của đồng chí. Việc Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 10, khóa XIII đặt ra quyết tâm chuẩn bị thật tốt cho Đại hội XIV của Đảng, nhằm sớm đạt được mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập Nước có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, có tầm quan trọng đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang trải qua những biến động lớn từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, biến đổi khí hậu và những thách thức an ninh phi truyền thống, việc nhận thức đúng thời cơ, vận mệnh và hành động kịp thời để đưa đất nước bước vào thời kỳ mới là nhiệm vụ cấp thiết.

Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, quy mô GDP tăng đáng kể, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng nâng cao. Đây chính là "thế và lực" mới, tạo nền tảng vững chắc để chúng ta bước vào một giai đoạn phát triển mới, là sự chuyển đổi về chất trong quá trình phát triển. Chúng ta đang đứng trước những thời cơ và vận hội chưa từng có, nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn và thách thức từ bối cảnh quốc tế phức tạp và biến động nhanh chóng, khó lường, khó dự báo.

Trong thời kỳ mới thì Đại hội lần thứ XIV của Đảng sẽ là một dấu mốc quan trọng trên con đường phát triển của đất nước. Bởi vậy, tại phiên họp Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm lưu ý, việc xây dựng Báo cáo chính trị lần này có ý nghĩa rất quan trọng, phải thật sự có chất lượng, thật sự là cơ sở định hướng cho các văn kiện khác, thậm chí là “ngọn đuốc soi đường” cho những kỳ đại hội tiếp theo.

Nhận thức về thời kỳ mới đòi hỏi Đảng ta phải có chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi. Đường lối ấy cần phải kết tinh trình độ lý luận, tầm cao trí tuệ của toàn Đảng, niềm tin và khát vọng của cả dân tộc, phản ánh những quy luật khách quan, xu thế vận động mới của thời đại và thực tiễn đất nước; kết tinh toàn bộ tinh hoa, giá trị của quá khứ, hiện tại và hướng tới tương lai; đưa đất nước đạt các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập Nước; phải phản ánh đầy đủ thực tiễn đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, củng cố luận cứ vững chắc để định ra phương pháp cho Cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.

Phóng viên: Theo ông, những yếu tố nào sẽ giữ vai trò nòng cốt, thúc đẩy đất nước phát triển, đạt được các mục tiêu chiến lược trong thời kỳ mới?

GS, TS Trần Văn Phòng: Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới nhờ vào nhiều yếu tố quan trọng thúc đẩy. Sau 40 năm Đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội đáng kể. Quy mô nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, từ GDP 26,3 tỷ USD trong những năm đầu Đổi mới lên đến 430 tỷ USD vào năm 2023. Thu nhập bình quân đầu người tăng 58 lần, đạt hơn 4.300 USD, và tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, chỉ còn 2,9% theo chuẩn nghèo đa chiều. Việt Nam đã trở thành nước có quy mô nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN, thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Những con số này không chỉ minh chứng cho sự phát triển vượt bậc mà còn khẳng định vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới.

Cùng với đó, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, trong đó có 8 nước đối tác chiến lược toàn diện, 11 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Việt Nam đã thiết lập đối tác chiến lược toàn diện và đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tham gia tích cực vào hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực, ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) kết nối với 60 nền kinh tế chủ chốt, đưa quy mô thương mại vào top 20 quốc gia trên thế giới. Những nỗ lực hội nhập sâu rộng này đã biến Việt Nam thành điểm đến hấp dẫn cho đầu tư quốc tế, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao như bán dẫn.

Sự ổn định chính trị và xã hội cũng là yếu tố then chốt cho phát triển kinh tế bền vững. Môi trường chính trị ổn định, xã hội an ninh, trật tự được bảo đảm nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân, đã tạo ra môi trường thuận lợi để triển khai các chính sách phát triển toàn diện trên tất cả các mặt.

Khát vọng và quyết tâm vươn lên của toàn dân tộc là động lực nội sinh mạnh mẽ. Tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cùng với sự đồng lòng của hơn 100 triệu người dân Việt Nam, trong và ngoài nước, là nguồn lực to lớn thúc đẩy quá trình phát triển.

Hơn nữa, Việt Nam đang tích cực tham gia vào Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực. Việc ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được coi là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ mới. Lực lượng lao động trẻ, năng động, sáng tạo, sẵn sàng tiếp thu kiến thức và công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động hiện đại, là một lợi thế lớn. Việt Nam đã đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng giao thông, năng lượng, viễn thông và hạ tầng số đã tạo nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, kết nối với khu vực và thế giới.

Cuối cùng, tinh thần đoàn kết và hội nhập quốc tế sâu rộng tiếp tục được phát huy. Việt Nam duy trì chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, chủ động, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Sự hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, hưởng lợi từ xu thế toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Phóng viên: Theo Giáo sư, mục tiêu chiến lược của dân tộc trong thời kỳ mới này là gì?

GS, TS Trần Văn Phòng: Với thế và lực đã đạt được, trong thời kỳ mới, ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là thực hiện thành công hai mục tiêu 100 năm mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra. Cụ thể, đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà XHCN Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói khác đi, đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam là nước phát triển, tạo nền tảng vững chắc bước vào thời kỳ phát triển mới vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tầm nhìn chiến lược này định hướng cho mọi hoạt động xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc để toàn Đảng, toàn dân phấn đấu tới phát triển bền vững.

Thứ ba, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số mang đến cả cơ hội và thách thức. Nếu không nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các công nghệ mới, chúng ta có nguy cơ bị tụt hậu, mất đi lợi thế cạnh tranh. Sự thay đổi trong cơ cấu lao động, với việc tự động hóa và trí tuệ nhân tạo thay thế nhiều công việc truyền thống, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tập trung vào đào tạo kỹ năng mới.

Phóng viên: Để đạt được những mục tiêu chiến lược nêu trên, cần phải làm gì thưa Giáo sư?

GS, TS Trần Văn Phòng: Để sớm đạt được mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập Nước, cần nỗ lực thực hiện với ba ưu tiên đột phá chiến lược đã được nêu rõ trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là thể chế, con người và cơ sở hạ tầng.

Bên cạnh đó, những bài học kinh nghiệm từ quá khứ cũng là nguồn tài sản vô giá giúp chúng ta định hướng đúng và thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong tình hình hiện nay. Để Việt Nam thành công trong giai đoạn quan trọng này, chúng ta có thể tham khảo một số bài học quan trọng đã được đúc kết từ lịch sử đấu tranh và xây dựng đất nước.

Trước hết, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc là một trong những bài học quý báu nhất. Lịch sử đã chứng minh rằng, mỗi khi dân tộc ta đồng lòng, chung sức, chúng ta đã vượt qua mọi khó khăn, thách thức, từ cuộc đấu tranh giành độc lập đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình hiện nay, việc củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Sự đoàn kết không chỉ giữa các tầng lớp nhân dân, mà còn giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đất nước.

Thứ hai, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nguyên tắc nền tảng đã dẫn dắt chúng ta qua nhiều giai đoạn lịch sử. Sự kiên định này giúp chúng ta giữ vững định hướng phát triển, bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế và các lĩnh vực khác phát triển. Trong bối cảnh thế giới biến động phức tạp, việc giữ vững lập trường, không dao động trước những thách thức là yếu tố then chốt để đạt được những mục tiêu chiến lược đã đề ra.

Thứ ba, bài học về đổi mới tư duy và sáng tạo từ công cuộc Đổi mới năm 1986 là minh chứng rõ rệt cho sức mạnh của việc dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Chính nhờ sự đổi mới này, chúng ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở ra giai đoạn phát triển mạnh mẽ trong hơn ba thập kỷ qua. Trong thời kỳ mới, việc tiếp tục đổi mới, thúc đẩy sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số là cần thiết để bắt kịp xu thế của thời đại và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Thứ tư, học hỏi kinh nghiệm quốc tế và hội nhập sâu rộng là bài học quan trọng giúp Việt Nam tận dụng cơ hội từ quá trình toàn cầu hóa. Việc tham gia tích cực vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, mở rộng quan hệ ngoại giao, kinh tế với nhiều quốc gia đã giúp chúng ta tiếp cận thị trường, công nghệ và nguồn vốn mới. Tuy nhiên, hội nhập cần đi đôi với việc giữ vững bản sắc văn hóa, bản sắc dân tộc, độc lập, tự chủ và lợi ích quốc gia.

Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định cho sự phát triển nhanh và bền vững. Lịch sử cho thấy, con người luôn là trung tâm của mọi sự phát triển. Đầu tư vào giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao động sẽ tạo ra lực lượng nhân lực đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nền kinh tế tri thức. Đồng thời, cần chú trọng bồi dưỡng đạo đức, lối sống, khơi dậy khát vọng cống hiến, phát triển đất nước của toàn dân, trong đó có thế hệ trẻ.

Thứ sáu, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bài học từ quá trình cải cách kinh tế. Một thể chế minh bạch, hiệu quả, công bằng sẽ tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, thu hút đầu tư, thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới. Việc tiếp tục cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục, chống tham nhũng, lãng phí là cần thiết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.

Thứ bảy, phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là bài học từ những hậu quả của phát triển thiếu bền vững. Chúng ta cần chú trọng cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, giải quyết những vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, hướng tới phát triển bền vững. Điều này không chỉ đáp ứng yêu cầu trong nước mà còn phù hợp với xu hướng toàn cầu, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ tám, phòng chống tham nhũng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là điều kiện tiên quyết để duy trì niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái đạo đức, tư tưởng sẽ tạo ra môi trường chính trị, xã hội lành mạnh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội.

Thứ chín, phát huy tinh thần tự lực, tự cường và khát vọng phát triển là động lực nội sinh mạnh mẽ. Lòng yêu nước, ý chí vươn lên, không cam chịu nghèo nàn, lạc hậu đã giúp dân tộc ta vượt qua nhiều thử thách trong lịch sử. Trong giai đoạn từ nay cho đến năm 2045, việc khơi dậy và phát huy tinh thần này sẽ tạo ra sức mạnh to lớn để chúng ta vượt qua mọi khó khăn, hiện thực hóa khát vọng xây dựng một Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Cuối cùng, tận dụng lợi thế địa chính trị và kinh tế của đất nước. Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, là cầu nối giữa các nền kinh tế lớn. Việc khai thác hiệu quả lợi thế này sẽ giúp chúng ta thu hút đầu tư, mở rộng hợp tác quốc tế, nâng cao vai trò và ảnh hưởng trên trường quốc tế.

Tổng kết lại, những bài học kinh nghiệm từ lịch sử và công cuộc Đổi mới là kim chỉ nam giúp chúng ta có tầm nhìn mới, có định hướng đúng và hành động đúng trong thực hiện mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập Nước. Việc kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa nội lực và ngoại lực, giữa giữ vững bản sắc dân tộc và hội nhập quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, giúp Việt Nam tự tin tiến bước trên con đường phát triển. Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự đồng lòng của toàn dân, tôi tin tưởng rằng chúng ta sẽ đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa, đưa đất nước vững bước vào thời kỳ mới, xây dựng một Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong muốn của Bác Hồ kính yêu!

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Giáo sư!./.

 

PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM SAI TRÁI VỀ LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

 

Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu phải chăng như một bằng chứng hiển nhiên của sự sai lầm, lỗi thời của chủ nghĩa Mác -Lênin và cùng với nó là con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội? Phải chăng có một lôgíc thực tế là chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ là do lý thuyết về chủ nghĩa xã hội là sai lầm?

Trước hết, cần phải nói rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thực tế đã mang lại sự thay đổi rung trời chuyển đất, tạo ra một mảng sáng không thể phủ nhận ở Liên Xô, Đông Âu và một loạt nước trên thế giới. Nó đã mang lại cuộc sống tốt đẹp cho một phần to lớn của nhân loại. Nó đã tạo nên một sức mạnh mà trước đó không thể tưởng tượng về nguồn lực vật chất và tinh thần, đủ sức để động viên sức người, sức của, tạo thành lực lượng chủ yếu đánh thắng cả những lực lượng to lớn của liên minh các thế lực tư bản trong Chiến tranh thế giới thứnhất cũng như đội quân phát xít tàn bạo của trục ma quỷ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bằng thực tế sinh động tốt đẹp trên các đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, nó đã động viên, thúc đẩy cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ, hòa bình, giải phóng dân tộc trên toàn trái đất. Hàng loạt dân tộc bị áp bức đã giành được độc lập, tự do dưới ảnh hưởng và sự giúp đỡ vô tư của các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô dẫn đầu. Chính chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh rộng lớn, mạnh mẽ của nhân dân lao động trên toàn thế giới đã là động lực thúc đẩy, buộc các thếlực tư bản, đế quốc phải thừa nhận quyền tự do, độc lập của các dân tộc trong hệ thống thuộc địa rộng lớn của chủ nghĩa tư bản thực dân, đế quốc; mặt khác, tạo thành sức ép, buộc các thế lực tư bản có những cải cách xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân lao động ở chính quốc. Chủ nghĩa xã hội đã là một hiện thực hùng mạnh đủ để những chiến lược gia, các nhà lý luận tư sản phải run sợ, đã đưa ra những dự báo về sự thất bại, kết thúc không thể đảo ngược của chủ nghĩa tư bản. Những thừa nhận đắng cay của Henry Kissinger, Brêginxki thời kỳ những năm 60, 70 của thế kỷ XX vẫn còn nguyên đó trong các cuốn sách, bài báo của họ

Tất nhiên, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã là một bài học đau đớn không chỉ cho những người cộng sản, mà còn cho cả nhân loại tiến bộ. Đó là kết quả của sự bảo thủ, không nhìn thẳng vào thực tế, chậm đổi mới nhận thức và đổi mới các chính sách cũng như những giải pháp cần thiết để giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, những mâu thuẫn tất yếu nảy sinh trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Đó cũng chính là sự sai lầm của những người cộng sản ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây mắc phải do không nhận thức đúng đắn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính biện chứng và quan điểm lịch sử - cụ thể trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã cố chấp và thiên kiến mà bỏ qua bài học phương pháp luận quý báu của V.I.Lênin, không “dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt nhất của nước ngoài” để xây dựng, phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa

Mặt khác, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội cụ thể. Tuyệt nhiên đó không phải là sự sụp đổ của một học thuyết khoa học, càng không thể là sự sụp đổ về một tương lai tốt đẹp mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới. Điều ấy không chỉ được minh chứng bằng việc ngay ở thời điểm hiện nay, một loạt nước ở tây bán cầu cận kề nước Mỹ đang tìm tòi con đường và cách thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội theo một mô hình mới. Nó cũng được minh chứng bởi một loạt quốc gia ở chính châu Âu, nhất là Bắc Âu đã và đang lấy chủ nghĩa xã hội làm mục đích và cảm hứng để xây dựng, phát triển đất nước mình.

Đương nhiên còn một minh chứng hiện hữu là một số nước kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, đã đạt được những thành tựu có tính lịch sử trong xây dựng, phát triển

Từ tất cả thực tế ấy, không thể nói rằng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước khác sụp đổ trong những năm cuối thế kỷ XX có nghĩa là học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội là sai lầm và lỗi thời và ngược lại, sẽ là ảo tưởng khi nghĩ rằng chủ nghĩa tư bản đang thắng thế. Thực tế đang chỉ ra rằng, chính chủ nghĩa tư bản đang đứng trước những thách thức đầynguy hiểm. Chính sự mâu thuẫn lợi ích, căn bệnh bản chất của chủ nghĩa tư bản đang làm nảy sinh sự chia rẽ khó tránh khỏi trong các liên minh tưởng chừng bền vững của họ. Hiện tượng Brexit của nước Anh chỉ là một dấu hiệu đầu tiên và tất yếu của sự chia rẽ từ chính trong lòng của nó khi chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu mất đi đối trọng là khối các nước xã hội chủ nghĩa. Khi không còn phải đối mặt với nguy cơ từ bên ngoài thì những mâu thuẫn không thể tránh khỏi về lợi ích sẽ hiện nguyên hình, phá vỡ mối liên kết yếu ớt của các thế lực tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, những cuộc khủng bố đã hiện diện ngay trung tâm của châu Âu trong những năm qua, không chỉ đe dọa an ninh mà còn tạo nên sự bất ổn sống còn của chế độ tư bản chủ nghĩa./.

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN CỦA VIỆT NAM

 

Gần đây, trang Daploisongnui.org đăng tải bài viết: “Sự khác nhau giữa đối tác kiếm ăn và đồng minh ý thức hệ cộng sản”, xuyên tạc rằng: “Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 8 quốc gia, thì có 6 quốc gia dân chủ tư bản phát triển; Việt Nam vẫn là một quốc gia tụt hậu, hay không muốn nói là nghèo khổ so với các lân bang, chứ chưa cần với quốc gia phát triển; Việt Nam ký kết hợp tác chiến lược toàn diện, nó không giúp ích gì cho sự phát triển của quốc gia; mô hình chính trị của Việt Nam hoàn toàn khác biệt so với các quốc gia dân chủ; chế độ của chúng ta thiếu tôn trọng nhân quyền, không dặt con người là trung tâm của sự phát triển”...

1. Thực chất đây là những quan điểm sai trái, thù địch của một số người tự xưng là “người yêu nước”, “nhà dân chủ”, “học giả” thù địch; thường xuyên tung hỏa mù, “chọc gậy bánh xe”, vừa cố tình vu cáo, miệt thị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, vừa phá hoại đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam, hạ thấp uy tín, vai trò của Việt Nam với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc. Lợi dụng các bài viết dưới mác “phân tích cơ sở khoa học” nhằm phủ định nền tảng tư tưởng, vai trò lãnh đạo, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; cố tình suy diễn, xuyên tạc, chống phá đường lối đối ngoại, quốc phòng, an ninh, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tác động vào niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng còn cho rằng, Việt Nam đang có sự điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại nhằm tìm kiếm đối tác chiến lược toàn diện, thiết lập liên minh mới để đối phó với những quốc gia đang gây áp lực với mình... Lại có kẻ còn trắng trợn nói rằng, Việt Nam đang ngấm ngầm “theo chân” nước này để chống nước kia...bằng nhiều chiêu trò, chúng mưu toan đẩy mạnh tuyên truyền, phát tán những thông tin sai lệch, bịa đặt, nhằm mục đích tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia-dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước đối tác, nhất là các nước lớn, các nước láng giềng, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam. Dù có giở chiêu trò gì đi chăng nữa, các thế lực thù địch, phản động cũng không thể phủ nhận được những thành tựu trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong những năm qua, đó là: Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trong công tác đối ngoại. Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.

2. Chuyến công tác, làm việc của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Hoa Kỳ càng có ý nghĩa quan trọng khi diễn ra vào thời điểm tròn một năm Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững, cũng như trước thềm kỷ niệm 30 năm quan hệ ngoại giao. Đây là dịp để hai bên cùng nhìn lại chặng đường đã qua, đúc rút, chia sẻ và lan toả những bài học, kinh nghiệm hay về quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời tôn vinh và tri ân những thế hệ bạn bè đã và đang tích cực đóng góp cho quan hệ hai nước. Bên cạnh mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế theo tinh thần Việt Nam là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Đảng, Nhà nước ta luôn phát huy cao độ tinh thần đại đoàn kết toàn dân, chủ động tự lực, tự cường nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Như vậy, thực tế sự phát triển mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ hay giữa Việt Nam với quốc gia nào trên thế giới đều là tất yếu khách quan, phù hợp xu thế chung của thời đại.

Điều đó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Nếu ai đó nói rằng Việt Nam dựa vào nước này để chống nước kia thì đó là hành động cố tình xuyên tạc, bịa đặt nhằm mưu đồ xấu, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, hòng làm cho tình hình thêm phức tạp, gây hoài nghi, mất ổn định, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt Nam cũng đã tích cực tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế lớn và nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế, đóng góp tích cực vào sự ổn định, phát triển của khu vực và thế giới; xây dựng mối quan hệ tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau.

3. Quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng, Việt Nam luôn kiên trì phương châm là bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở độc lập tự chủ và nguyên tắc của luật pháp quốc tế.

Mục đích của Việt Nam là tạo được lợi ích chung với các nước - đó là duy trì hòa bình, ổn định. Việt Nam đã nhiều lần khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ. Việt Nam không bao giờ liên minh, liên kết với một nước khác để chống lại nước thứ ba, không đi với nước này để chống nước kia. Trong giải quyết những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định là phải trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị, độc lập, tự chủ, bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế... Chủ trương và cách giải quyết đó của Đảng, Nhà nước ta đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân cũng như toàn xã hội, được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ. Trong đối ngoại của Việt Nam, Đảng ta luôn xác định, đối tác chiến lược toàn diện là một dạng thức quan hệ có tầm quan trọng lớn và có tính chiến lược, dài hạn giữa các quốc gia với nhau hoặc giữa quốc gia với tổ chức quốc tế và là một hình thức của quan hệ đối tác chiến lược bên cạnh các hình thức khác như đối tác chiến lược, đối tác chiến lược lựa chọn theo từng lĩnh vực, đối thoại chiến lược. Hiện nay đối tác chiến lược toàn diện là cấp cao nhất trong hệ thống thứ bậc đối tác ngoại giao ở Việt Nam. Với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, các bên xác định gắn bó lợi ích lâu dài, hỗ trợ lẫn nhau và thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng và toàn diện trên mọi lĩnh vực mà các bên cùng có lợi và hướng tới lòng tin chiến lược. Việt Nam hiện đã có 8 quốc gia là đối tác chiến lược toàn diện gồm Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Australia và Pháp; đồng thời ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)... Tính đến tháng 9/2024, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 194 quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài. Việt Nam cũng là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng.

Đó là những vấn đề thực tế không thể chối cãi được, nó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Đó là minh chứng khách quan, sinh động, phản bác những luận điệu bôi nhọ, chống phá, những hành động trơ trẽn và lạc lõng của các thế lực thù địch./.

 

GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT

 

KHÔNG LẠM DỤNG LÀM BIẾN TƯỚNG TỪ “QUỐC DÂN”

Để góp phần giữ gìn sự chuẩn mực, trong sáng của tiếng Việt, với vai trò là cầu nối thông tin văn hóa với công chúng, báo chí truyền thông cần có trách nhiệm hiểu đúng, dùng đúng từ “quốc dân”, không nên sử dụng từ này một cách tràn lan, ghán ghép một cách khiên cưỡng.

Từ “quốc dân” mang ý nghĩa lớn lao, trang trọng

Quốc dân vốn có nghĩa là “người trong một nước”, “nhân dân trong một quốc gia”. Đây là một từ ngữ mang ý nghĩa chính trị, thể hiện tính trang nghiêm, trang trọng và thường gắn liền với những sự kiện, hoạt động gắn với đời sống chính trị của quốc gia.

Một trong những sự kiện chính trị quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam gắn liền với từ “quốc dân”, đó là ngày 16/8/1945, tại đình Tân Trào (Tuyên Quang), dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng bộ Việt Minh (Việt Nam độc lập Đồng minh hội) đã tổ chức khai mạc Đại hội đại biểu quốc dân (còn gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào). Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc-Trung-Nam, đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc và một số Việt kiều ở Thái Lan và Lào để bàn kế hoạch tổng khởi nghĩa giành chính quyền về nhân dân. Quốc dân Đại hội Tân Trào là tiền thân của Quốc hội Việt Nam - cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân và thể hiện sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam.

Trong nhiều bài viết, bài nói ở những thời điểm quan trọng của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh có lúc dùng từ “quốc dân”, hay “quốc dân đồng bào” với hàm ý đề cao vị trí, vai trò, sức mạnh to lớn của các tầng lớp nhân dân trong nước, qua đó khích lệ đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước thương nòi và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để đánh đuổi thực dân đế quốc, quyết giành độc lập, tự do cho dân tộc. Người từng khẳng định: “Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của cả quốc dân”.

Với ý nghĩa đó, có thể nói rằng, khi nói đến từ “quốc dân” là nói đến những vấn đề mang tính quốc gia đại sự, những việc làm, hành động gắn với quy mô, tầm vóc lớn lao nên có sức tác động, ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống chính trị, xã hội.

Đến lạm dụng từ “quốc dân” tràn lan, biến tướng

Tuy vậy, thời gian gần đây, trên các phương tiện truyền thông đại chúng và truyền thông xã hội xuất hiện khá nhiều từ “quốc dân” gắn vào đối tượng cụ thể, nhất là những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, giải trí, thể thao... gặt hái được một số thành tựu nào đó trong nghề nghiệp và thu hút sự quan tâm của công chúng. Ví như: “Mẹ chồng quốc dân” nói về vai diễn ấn tượng của một nữ diễn viên đóng vai mẹ chồng trong một bộ phim truyền hình dài tập. “Ông bố quốc dân” nói về một nam diễn viên đã có những cử chỉ chăm lo hết mực dành cho đứa con trai kém may mắn. “MC quốc dân” nói về một người dẫn chương trình thường “chiếm sóng” ở nhiều gameshow truyền hình. “Cầu thủ quốc dân” nói về một cầu thủ bóng đá mới nổi trong làng túc cầu Việt Nam. “Hoa hậu quốc dân” nói về một cô hoa hậu là người dân tộc thiểu số hay xuất hiện ở nhiều sự kiện văn hóa, giải trí...

Bên cạnh đó, từ “quốc dân” cũng được gán với những người có hành vi, cử chỉ, ngoại hình ít nhiều tạo sức ảnh hưởng trong cộng đồng, dù đôi khi đó chỉ là hiện tượng nhất thời, ví như: “thầy giáo quốc dân”, “bà vợ quốc dân”, “ông chồng quốc dân”, “bạn trai quốc dân”, “em gái quốc dân”...

Khách quan mà nói, việc dùng từ “quốc dân” gắn với những con người có cử chỉ, hành động, việc làm tích cực, nhân văn, lan tỏa những điều tốt đẹp cho cộng đồng, đất nước cũng không ngoài mục đích nhân lên những giá trị tiến bộ trong cuộc sống, xã hội. Tuy nhiên, sự lạm dụng từ “quốc dân” một cách thái quá, hay gán ghép không đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng sẽ khiến cho không ít người được tung hô rất dễ tự ảo tưởng về bản thân và đó là “mảnh đất màu mỡ” dung túng cho “bệnh ngôi sao” như một “vết dầu loang” làm vẩn đục môi trường văn hóa xã hội và đời sống nghệ thuật, giải trí. Đấy là chưa kể một số người nào đó có những những hành vi tiêu cực, sai trái, nhố nhăng, phản cảm được nhiều người biết đến cũng được báo chí, truyền thông ghép với từ “quốc dân”, ví như: “tên trộm quốc dân”, “gã nghiện rượu quốc dân”, “cô ả hung dữ quốc dân”, “tay ăn chơi quốc dân”... Sự gán ghép này vừa gượng gạo, ngô nghê, vừa làm “ô nhiễm” sự trong sáng của tiếng Việt.

Trên thực tế, không hẳn ai cũng thoải mái với việc được gán ghép với từ “quốc dân”. Mới đây, một hoa hậu khá tên tuổi từng lên tiếng đề nghị báo chí, truyền thông không gọi cô là “hoa hậu quốc dân”. Bởi cô thẳng thắn bày tỏ, từ “quốc dân” mang ý nghĩa lớn lao, trang trọng, nên cô không dám nhận mình là “hoa hậu quốc dân”, mà ngược lại chỉ muốn tự nhận mình là “hoa hậu bình dân” cho thân mật, dân giã, phù hợp với tính cách mộc mạc, giản dị vốn có của cô.

Khi nói đến từ có yếu tố “quốc” (Tổ quốc, quốc gia, quốc dân, quốc kỳ, quốc khánh, quốc thể, quốc lễ...) đều là những từ mang ý nghĩa chính danh, trang trọng, chuẩn mực. Vì vậy, để góp phần giữ gìn sự chuẩn mực, trong sáng của tiếng Việt, với vai trò là cầu nối thông tin văn hóa với công chúng, báo chí truyền thông cần có trách nhiệm hiểu đúng, dùng đúng từ “quốc dân”, không nên sử dụng từ này một cách tràn lan, ghán ghép một cách khiên cưỡng./.

 

GIẢI TRÌNH SỬA ĐỔI LUẬT SỸ QUAN QĐND VIỆT NAM

 

Đại tướng Phan Văn Giang trình Quốc hội sửa Luật Sĩ quan: Tăng tuổi nghỉ hưu, bổ sung quy định chức vụ cơ bản của sĩ quan

Chiều 28-10, tiếp tục chương trình làm việc Kỳ họp thứ tám, Quốc hội họp phiên toàn thể tại hội trường, nghe Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam.

Báo cáo tại phiên họp, Đại tướng Phan Văn Giang nhấn mạnh đến sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.

Theo đó, từ khi Luật Sĩ quan năm 1999 có hiệu lực thi hành (ngày 1-4-2000), đã có nhiều chính sách, pháp luật của Nhà nước được ban hành, như: Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng năm 2015, Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Nhà ở năm 2023, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024,... nên cần phải sửa đổi, bổ sung Luật Sĩ quan để bảo đảm thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của Quân đội “là ngành lao động đặc biệt”.Sửa luật để khắc phục bất cập về quy định chức vụ cơ bản, hạn tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan

Bộ trưởng Phan Văn Giang cho biết, Luật Sĩ quan hiện hành (Điều 11) chỉ quy định 11 chức vụ cơ bản của sĩ quan là cấp trưởng, không quy định chức vụ cơ bản là cấp phó, nên chưa cụ thể hóa các chức danh, chức vụ theo quy định của Bộ Chính trị; chưa quy định đầy đủ các chức danh, chức vụ có thẩm quyền chỉ huy, quản lý trong Quân đội nên chưa khẳng định được vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của chức vụ có thẩm quyền và phân định quyền hạn cấp trên, cấp dưới trong chỉ huy, điều hành, chấp hành điều lệnh, điều lệ, kỷ luật Quân đội.

Bên cạnh đó, Điều 13 Luật Sĩ quan quy định hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của sĩ quan (cấp úy 46; Thiếu tá 48; Trung tá 51; Thượng tá 54; Đại tá nam 57, nữ 55 và cấp tướng nam 60, nữ 55) chưa tận dụng được nguồn nhân lực có bản lĩnh, năng lực, kinh nghiệm, sức khỏe; chưa bảo đảm chế độ, chính sách cho một bộ phận sĩ quan khi nghỉ hưu theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.

Ngoài ra, khoản 1 Điều 15 Luật Sĩ quan quy định cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng; tuy nhiên, một số đơn vị đã có sự điều chỉnh, phát triển về quy mô tổ chức, biên chế, bổ sung chức năng, nhiệm vụ và được điều chỉnh chức danh, chức vụ nhưng chưa được quy định cụ thể trong luật.

“Một số đơn vị không thay đổi về tên gọi nhưng có sự điều chỉnh, phát triển về quy mô tổ chức, biên chế và bổ sung chức năng, nhiệm vụ đã gặp vướng mắc trong đề nghị cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh sĩ quan là cấp tướng, do chưa có sự thống nhất cách hiểu để các đơn vị này được xem là “đơn vị thành lập mới”, nên không thuộc thẩm quyền xem xét, quyết định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định tại khoản 4 Điều 15 Luật Sĩ quan”, Bộ trưởng Phan Văn Giang cho biết thêm.

Cùng đó, một số nội dung của luật về tiêu chí, tiêu chuẩn được xét thăng quân hàm vượt bậc và thăng quân hàm, nâng lương sĩ quan trước thời hạn, phong quân hàm sĩ quan dự bị; chế độ nghỉ của sĩ quan và một số chính sách về bảo hiểm xã hội, nhà ở, đất ở, chăm sóc sức khỏe, trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương…quy định chưa cụ thể nên hiệu quả triển khai thực hiện luật chưa cao.

Từ những vấn đề trên, Bộ trưởng Phan Văn Giang nhấn mạnh việc xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam là cần thiết.Những nội dung sửa đổi, bổ sung của dự thảo luật

Việc sửa luật, theo Bộ trưởng Phan Văn Giang, nhằm bảo đảm QĐND Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, thống lĩnh của Chủ tịch nước, quản lý của Chính phủ và chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, phù hợp với thực tiễn xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, hiện đại; chỉ sửa đổi những nội dung vướng mắc, bất cập; không quy định những vấn đề cụ thể về tổ chức bộ máy và quân hàm cấp Trung tướng trở xuống để bảo đảm linh hoạt, phù hợp với tính chất nhiệm vụ của Quân đội.

Bộ trưởng Phan Văn Giang cho biết một số nội dung sửa đổi, bổ sung của dự thảo luật gồm: (1) Chức vụ cơ bản và chức vụ, chức danh tương đương của sĩ quan; (2) Hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của sĩ quan; (3) Cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng; (4) Quy định cụ thể một số nội dung về tiêu chí, tiêu chuẩn được xét thăng quân hàm vượt bậc và thăng quân hàm, nâng lương sĩ quan trước thời hạn, phong quân hàm sĩ quan dự bị, chế độ, chính sách của sĩ quan về bảo hiểm xã hội, nhà ở, đất ở, chăm sóc sức khỏe... để bảo đảm chặt chẽ, có tính khả thi cao.

Về nội dung cơ bản của dự thảo luật, Bộ trưởng Phan Văn Giang cho biết: Dự thảo luật gồm 2 điều, sửa đổi, bổ sung về: Quy định chức vụ cơ bản và chức vụ, chức danh tương đương của sĩ quan tại Điều 11 Luật Sĩ quan; quy định tuổi phục vụ của sĩ quan tại ngũ và sĩ quan dự bị tại Điều 13 và Điều 38 Luật Sĩ quan; quy định về cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan là cấp tướng, cấp tá, cấp úy tại Điều 15 Luật Sĩ quan; giao Chính phủ quy định cụ thể vị trí có bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó đô đốc Hải quân, Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân và cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng của đơn vị thành lập mới, đơn vị được tổ chức lại để thực hiện kết luận của Bộ Chính trị.

Đối với một số nội dung liên quan đến chế độ, chính sách của sĩ quan, dự thảo luật sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hơn về: Tuổi của sĩ quan tại ngũ xét thăng quân hàm từ cấp bậc Đại tá lên Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân và cấp có thẩm quyền quy định tiêu chí, tiêu chuẩn xét thăng quân hàm sĩ quan vượt bậc; thăng quân hàm, nâng lương sĩ quan trước thời hạn; thanh toán cho những ngày không nghỉ phép; chăm sóc sức khỏe đối với sĩ quan và thân nhân sĩ quan tại ngũ; bổ sung quy định về điều kiện nghỉ hưu đối với đối tượng hết tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất; chế độ an điều dưỡng, chăm sóc khi mắc bệnh hiểm nghèo, chế độ thông tin, hỗ trợ tang lễ khi từ trần đối với sĩ quan nghỉ hưu; phong quân hàm sĩ quan dự bị; trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương và bổ sung thẩm quyền của Chính phủ “Ban hành cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút, trọng dụng nhân tài đối với Quân đội” theo kết luận của Bộ Chính trị.

CHỦ NGHĨA QUỐC TẾ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ HIỆN NAY

 

Kể từ khi kết thúc chiến tranh lạnh đến nay, bối cảnh chính trị quốc tế đã có những thay đổi nhanh chóng và sâu sắc, đặt ra những thách thức lớn và phức tạp đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, cũng như đối với các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới trong việc nhận thức và thực hành chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong thời đại mới.

Một là, nhận thức và hành động trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực, phong trào cộng sản và chủ nghĩa quốc tế rơi vào thoái trào, phân liệt, khủng hoảng sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu - thành trì của chủ nghĩa xã hội, trung tâm đoàn kết, tập hợp lực lượng và phối hợp hành động của cách mạng thế giới, đồng thời là chỗ dựa tinh thần và vật chất to lớn của phong trào cộng sản và chủ nghĩa quốc tế cũng như phong trào giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội thế giới đã sụp đổ. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, phong trào cộng sản và chủ nghĩa quốc tế, phong trào tiến bộ trên thế giới đã mất đi điểm tựa chính trị và tinh thần, cũng như mất đi sự trợ giúp vật chất to lớn, trực tiếp và hiệu quả. Bi kịch này dẫn tới những khó khăn và thách thức nghiêm trọng đối với sự tồn tại và phát triển của Phong trào cộng sản nói chung cũng như của nhận thức luận và hành động theo tinh thần của chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân nói riêng.

Hai là, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới bước vào một thời kỳ mới với xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trở thành xu thế lớn trong đời sống chính trị quốc tế. Sự chia rẽ, phân cực, phân tuyến, thậm chí đối đầu giữa các quốc gia như trong thời kỳ chiến tranh lạnh không còn và không phù hợp với bối cảnh mới, biểu hiện bề ngoài của đấu tranh giai cấp không còn rõ ràng mà đã bị lu mờ. Yếu tố ý thức hệ, tư tưởng và thể chế chính trị không còn là nhân tố then chốt chi phối quyết định việc tập hợp lực lượng và xây dựng đối tác trong quan hệ quốc tế, mà thay vào đó sự tương đồng, gắn kết và chia sẻ về lợi ích trở thành cơ sở quan trọng nhất để lựa chọn và xây dựng các mối quan hệ song phương cũng như đa phương. Hơn nữa, thế giới ngày nay xuất hiện ngày càng nhiều những vấn đề cấp thiết mang tính toàn cầu không một quốc gia, dân tộc nào có thể tự mình giải quyết được mà đòi hỏi sự chung tay phối hợp, hợp tác của tất cả các nước, của toàn thể cộng đồng quốc tế. Theo đó, xu thế lớn của quan hệ quốc tế ngày nay là các quốc gia không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, giàu nghèo, lớn nhỏ vừa hợp tác vừa cạnh tranh và cùng tồn tại hòa bình. Điều này đặt ra những khó khăn đối với việc nhận thức và thực hành chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

Ba là, tiến trình toàn cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa kinh tế dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra ngày càng sâu rộng, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Nó tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, khu vực ngày càng chặt chẽ và sâu sắc. Trong thế giới toàn cầu hóa đang diễn ra, cuộc đua sức mạnh kinh tế trở thành một trong những yếu tố quyết định sức mạnh tổng hợp quốc gia và định vị vị thế mỗi quốc gia trong trật tự thế giới mới. Vì vậy, hội nhập quốc tế, tham gia vào hợp tác và cạnh tranh kinh tế trở thành một lựa chọn khách quan, khả dĩ và tất yếu của hầu hết các quốc gia trên con đường tìm kiếm cơ hội phát triển và kiến tạo sự thịnh vượng cho dân tộc. Trong bối cảnh như vậy, lợi ích quốc gia, dân tộc trở thành động lực, mục tiêu và nguyên tắc nổi bật, thậm chí là tối thượng trong hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại của các quốc gia, dân tộc, đồng thời nó cũng chi phối sự vận động và phát triển của các mối quan hệ quốc tế trong thế giới ngày nay. Điều này đặt ra những vấn đề phức tạp, nhạy cảm và khó khăn trong việc xử lý mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc, giữa lợi ích quốc gia với trách nhiệm và nghĩa vụ quốc tế. Hơn nữa, trước sự chi phối của lợi ích quốc gia, dân tộc trong môi trường hợp tác và cạnh tranh ngày càng gay gắt như vậy, tất yếu nảy sinh ngày càng nhiều những khác biệt, va chạm, cọ xát, thậm chí là mâu thuẫn, xung đột về mặt lợi ích cục bộ cũng như lợi ích chiến lược giữa các nước xã hội chủ nghĩa do đảng cộng sản cầm quyền cũng như giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước. Điều này dễ tạo ra xu hướng ly tâm, chia rẽ, biệt phái trong phong trào cộng sản và chủ nghĩa quốc tế, nhất là giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Bối cảnh quốc tế như vậy đã thách thức trực tiếp cả về mặt nhận thức luận cũng như việc thực hành chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

Bốn là, sự biến đổi nhanh chóng và sâu sắc của kinh tế - xã hội thế giới dưới tác động của toàn cầu hóa kinh tế, cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức, một mặt đã phần nào làm nhạt nhòa ranh giới giữa các giai cấp, tầng lớp, mặt khác đã làm cho sự phân hóa giàu nghèo, phân hóa giai cấp và phân tầng xã hội diễn ra sâu sắc. Ngay bản thân giai cấp công nhân cũng phân hóa rất sâu sắc và phức tạp trong mỗi nước cũng như giữa các nước, các khu vực khác nhau. Trong khi công nhân truyền thống có xu hướng ngày càng ít đi ở các nước phát triển thì đội ngũ này nhiều lên ở các nước đang phát triển cùng với tiến trình công nghiệp hóa. Trong bản thân mỗi quốc gia thì đội ngũ công nhân - trí thức, người lao động có kỹ năng, tay nghề cao cũng ngày càng gia tăng so với công nhân trực tiếp sản xuất. Điều này làm cho sự thống nhất lợi ích và đoàn kết hành động của giai cấp công nhân trở nên ngày càng khó khăn hơn.

Trước bối cảnh quốc tế như trên, nhiều người hoài nghi về sự tồn tại của chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, cho rằng nó không còn phù hợp, thậm chí coi đó là một điều xa xỉ trong chính trị và quan hệ quốc tế hiện đại. Tuy nhiên, lý luận và lịch sử đã cho thấy, nhận thức và thực hành chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là xu hướng hành động tất yếu, khách quan của các đảng cộng sản và công nhân chân chính trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Tuy vậy, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân có thể và cần phải được thể hiện dưới những hình thức, nội dung và sắc thái mới, phong phú, đa dạng và linh hoạt hơn, đồng thời nó cũng cần được nhận thức lại để phản ánh đúng đắn hơn với tinh thần của chủ nghĩa Mác và để phù hợp hơn, thích ứng hơn với bối cảnh mới./.

“…CHỈ CÓ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA MỘT ĐẢNG BIẾT VẬN DỤNG MỘT CÁCH SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀO ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ CỦA NƯỚC MÌNH THÌ MỚI CÓ THỂ ĐƯA CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC ĐẾN THẮNG LỢI VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐẾN THÀNH CÔNG”

 

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc”, gửi cho báo Pravđa (Liên Xô); Báo Nhân dân, đăng số 4952, ngày 01 tháng 11 năm 1967.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa Mác - Lênin như kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và Người luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó vào thực tiễn cách mạng. Sự khẳng định trên của Bác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định và đánh giá cao bài học kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng, đó là một trong những bài học có tính nguyên tắc và phổ biến, đảm bảo cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Thực tiễn chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiếp tục giành những thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị, nhất là trong công tác xây dựng Đảng. Theo đó, Đảng ta phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; Đảng phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Đối với Quân đội ta, đó cũng là nguyên tắc, nền tảng tư tưởng để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao; xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn cao tinh thần tự giác, tích cực nghiên cứu, học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy đảng; đồng thời biết vận dụng sáng tạo vào hoạt động thực tiễn của đơn vị nhằm thực hiện có hiệu quả chức trách, nhiệm vụ được giao.

 

"LỜI KÊU GỌI ĐÔNG BÀO NAM BỘ"

 

Đang tải lên: Đã tải 1245184/1245184 byte lên.


 Vào ngày 29 tháng 10 năm 1945, trên Báo Cứu quốc, số 77, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào Nam Bộ giữ vững tinh thần chiến đấu, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc; trong đó Người tiếp tục khẳng định: "Trước nạn ngoại xâm, toàn thể quốc dân đã đoàn kết chặt chẽ thành một khối kiên cố, thành một lực lượng thống nhất mà không đội xâm lăng nào đánh tan được".

Ra đời vào thời điểm đầy gian khó của cách mạng Việt Nam, trong cuộc đấu tranh sống còn của dân tộc chống ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân - phong kiến, Quân đội ta đã được Đảng và Bác Hồ thành lập, tổ chức, giáo dục, rèn luyện; từ 34 cán bộ, chiến sĩ, trang bị vũ khí thô sơ của ngày đầu thành lập. Trải qua hơn 79 năm chiến đấu và trưởng thành, Quân đội ta đã không ngừng phát triển,và lập nên những chiến công chói lọi. Mọi cán bộ, chiến sỹ đã hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, sẵn sàng “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh” trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng chống, giảm nhẹ thiên tai...

Với truyền thống vẻ vang và những chiến công vang dội đó, Quân đội ta thật sự là Quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.

BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC MỐI QUAN HỆ HỮU NGHỊ VIỆT NAM - CUBA CỦA TỔ CHỨC PHẢN ĐỘNG VIỆT TÂN

 



 Mối quan hệ Việt Nam – Cuba là mối quan hệ hữu nghị thủy chung son sắt. Trải dài theo năm tháng, mối quan hệ đó không ngừng được bồi tụ, vun đắp, trở thành biểu tượng về tình đoàn kết quốc tế trong lịch sử thế giới đương đại.

Nhưng bằng những lời lẽ xuyên tạc, bóp méo, các thế lực thù địch, tổ chức phản động, trong đó có Việt Tân đã tìm mọi cách chia rẽ tình đoàn kết giữa hai dân tộc, phủ nhận vai trò và sự giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của nhân dân Cuba trong kháng chiến cứu nước và trong sự nghiệp xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam; cũng như sự giúp đỡ về vật chất, tinh thần của nhân dân Việt Nam đã dành cho Cuba. Đây là âm mưu, thủ đoạn hết sức nham hiểm, thâm độc của các thế lực thù địch. Bởi bất cứ khi nào Việt Nam tiến hành các hoạt động ngoại giao, chúng đều rắp tâm bôi nhọ, bóp méo.

Cùng nhìn lại một số những đóng góp của Cuba đối với cách mạng nước ta: Trong những năm 60 của thế kỷ XX, giữa lúc đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, nhiều bác sĩ, nhân viên y tế Cuba đã sang giúp chữa trị cho các thương binh và người dân bị nạn. Bất chấp sự phong tỏa bằng bom, mìn của đế quốc Mỹ, các tàu Cuba vẫn cập cảng Hải Phòng vận chuyển hàng cứu trợ của nhân dân Cuba giúp nhân dân Việt Nam. Đồng thời, Cuba cử chuyên gia về cầu đường sang tham gia cùng bộ đội Trường Sơn mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh, giúp đào tạo hơn 1.000 sinh viên Việt Nam ở trình độ đại học và cao học, vận động ủng hộ Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc.

Cuba là nước đầu tiên công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và mời đặt cơ quan đại diện thường trú của mặt trận tại La Habana. Sau đó, Cuba đã cử đại sứ bên cạnh Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam tại vùng giải phóng. Cuba cũng là nước đầu tiên thành lập Ủy ban Cuba đoàn kết với miền Nam Việt Nam (23-9-1963) do nữ Anh hùng Moncada Melba Hernandez sáng lập. Đây là sự ủng hộ về mặt quốc tế rất cần thiết cho sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ của nhân dân miền Nam khi ấy. Bên cạnh đó, hằng năm, Cuba giúp Việt Nam ba vạn tấn đường và nước bạn đã bán số đường đó lấy ngoại tệ để gửi cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Ngày 2-1-1966, khi nhân dân Việt Nam đang trải qua giai đoạn cam go nhất của cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ, trong cuộc mít tinh có hơn 1 triệu người Cuba tham dự và khách mời của các nước đến từ ba châu: Á, Phi, Mỹ Latinh, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Cuba, Thủ tướng Chính phủ Cách mạng nước Cộng hòa Cuba Fidel Castro tuyên bố: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”. Sau đó, hàng nghìn thanh niên Cuba đã viết đơn tình nguyện xin đến Việt Nam để cùng nhân dân Việt Nam đánh Mỹ.

Ngày 15-9-1973, bất chấp sự nguy hiểm, đồng chí Fidel Castro đã đến tận khu giải phóng Quảng Trị. Một lần nữa, đồng chí Fidel Castro đã nhấn mạnh rằng: “Cuba ở một bên Mỹ nhưng đã làm cách mạng thắng Mỹ và Việt Nam cũng thế, nhất định sẽ thắng. Máu của Cuba sẵn sàng đổ cho nhân dân Việt Nam giành thắng lợi”. Cũng trong chuyến thăm lần đầu tiên vào năm 1973 này, đồng chí Fidel Castro và nhân dân Cuba anh em đã tặng Việt Nam 5 công trình kinh tế-xã hội vào loại tầm cỡ lúc bấy giờ với tổng trị giá khoảng 80 triệu USD, gồm: Khách sạn Thắng Lợi (tại Hồ Tây, Hà Nội); Bệnh viện Việt Nam-Cuba (tại Đồng Hới, Quảng Bình); đường Xuân Mai; Trại bò giống Ba Vì; Xí nghiệp gà Lương Mỹ.

Những đóng góp, giúp đỡ của nhân dân Cuba đối với cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là không thể đong đếm được. Đáp lại tình cảm to lớn của nhân dân Cuba đã dành cho Việt Nam, khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu sụp đổ, Mỹ siết chặt cấm vận, Cuba đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, trong hoàn cảnh đó, Việt Nam đã dành cho đất nước anh em Cuba sự ủng hộ hết lòng, đã gửi gạo, quần áo, đồ dùng học tập và nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu sang giúp nhân dân Cuba. Từ đó đến nay, Việt Nam tiếp tục viện trợ lương thực, thực phẩm, máy móc và trang thiết bị giúp nước bạn, đồng thời tích cực vận động các quốc gia trên thế giới kêu gọi Mỹ bỏ bao vây cấm vận Cuba.

Với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, Việt Nam đã nhiều lần bày tỏ tình đoàn kết, ủng hộ nhiệt tình đối với nhân dân Cuba anh em, thể hiện qua các phong trào đoàn kết, ủng hộ Cuba và các đợt quyên góp do các tổ chức chính trị - xã hội Việt Nam phát động. Hai nước luôn phối hợp chặt chẽ trên các diễn đàn quốc tế. Việt Nam luôn bày tỏ lập trường nhất quán ủng hộ Cuba, yêu cầu Mỹ chấm dứt lệnh cấm vận kinh tế và tài chính chống Cuba.

Trên nền tảng vững chắc của tình hữu nghị sâu sắc và lịch sử lâu đời, quan hệ Việt Nam - Cuba sẽ tiếp tục được củng cố và phát triển, những lời lẽ xuyên tạc, bóp méo, chống phá của Việt tân về mối quan hệ hữu nghị truyền thống, thủy chung gắn bó Việt Nam - Cuba trở nên lạc lõng. Vì mối quan hệ Việt Nam - Cuba được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Lãnh tụ Fidel Castro đặt nền móng, được các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước không ngừng bồi tụ, vun đắp ngày càng trở nên bền chặt, gắn bó, không thế lực chống phá nào có thể chia rẽ được.

Vì vậy cần tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Cuba không chỉ là bảo vệ mối quan hệ thủy chung, son sắt - một biểu tượng về tình đoàn kết quốc tế trong lịch sử thế giới đương đại, mà còn là bảo vệ đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế, góp phần vào hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.

XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 



 Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc chăm lo xây dựng Quân đội Nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để Quân đội luôn trưởng thành và lớn mạnh, xứng đáng là đội quân tinh nhuệ, đội quân bách chiến bách thắng, luôn trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải xây dựng Quân đội vững mạnh về mọi mặt, trong đó đặc biệt chú trọng đến xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Người đã quán triệt và vận dụng sâu sắc nguyên tắc xây dựng Quân đội kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng Quân đội cách mạng ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến.

Trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc, ông cha ta đã từng chiến thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của những kẻ thù có tiềm lực quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Bởi ông cha ta biết đoàn kết, thức tỉnh tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, phát động cuộc chiến tranh chính nghĩa chống lại cuộc chiến tranh phi nghĩa của kẻ thù.

Quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin về xây dựng Quân đội kiểu mới, kế tục tinh thần, truyền thống đánh giặc của cha ông ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về mọi mặt, trong đó trước hết cần tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, có như vậy Quân đội mới hoàn thành chức năng của một đội quân chiến đấu, đội quân công tác và lao động sản xuất. Để Quân đội trở thành đội quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, thì trước tiên cần chú trọng xây dựng Quân đội về chính trị. Không chăm lo xây dựng về chính trị thì Quân đội dù chính quy, tinh nhuệ, hiện đại bao nhiêu cũng sẽ mất phương hướng, rã đám trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc, bài học về xây dựng Quân đội của các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh. Từ đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng Quân đội về chính trị trong quá trình tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện Quân đội, nhằm xây dựng Quân đội có bản lĩnh chính trị, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân trong quá trình tiến lên chính quy, hiện đại. Tư tưởng của Người được bắt nguồn từ quan điểm đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản, nhằm mục tiêu giành độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều đó tất yếu đưa Người đến với học thuyết quân sự Mác - Lênin, để từ đó Người vạch ra phương hướng tổ chức, xây dựng Quân đội Nhân dân vững mạnh về chính trị, đáp ứng yêu cầu cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp ở nước ta. Người luôn xác định phải xây dựng Quân đội về chính trị, coi đó là cái gốc - cái nền tảng của Quân đội cách mạng, là vấn đề mang tính chất sống còn của một Quân đội cách mạng. Khẳng định “Chính trị là vận mệnh của quân đội cách mạng”, vì vậy ngay từ năm 1941, sau khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã chỉ ra vấn đề hàng đầu đối với xây dựng lực lượng vũ trang là “phải có con đường chính trị đúng”. Con đường chính trị đúng, chính là con đường cách mạng vô sản đã được Hồ Chí Minh cùng Đảng ta xác định ngay từ Hội nghị thành lập Đảng. Tư tưởng xây dựng Quân đội về chính trị của Người được thể hiện trong “ Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”. Trong đó, Người chỉ rõ: “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự”. Đây là luận điểm hết sức đặc sắc trong tư tưởng của Người về xây dựng Quân đội, bởi theo Người quy luật phát triển của cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta là “phải đi từ hình thức chính trị tiến đến hình thức quân sự”. Theo quy luật đó, “ Muốn có đội vũ trang mạnh, trước hết phải có đội quân tuyên truyền mạnh, đội quân chính trị vững”. Bởi theo Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của Nhân dân ta là cuộc kháng chiến toàn dân, cần phải huy động lực lượng vũ trang toàn dân, theo phương châm đó, Người chỉ rõ phải dựa vào lực lượng chính trị mạnh mẽ, phải lựa chọn những đội viên hăng hái nhất, kiên quyết nhất để lập ra đội quân đầu tiên cho Quân đội ta. Ngay sau khi thành lập, các đội vũ trang đã nhanh chóng tiến hành vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, lực lượng chính trị, để làm chỗ dựa xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng. Quân đội vừa là lực lượng chính trị, vừa là lực lượng vũ trang chiến đấu cho lý tưởng của Đảng.

Quá trình xây dựng Quân đội về chính trị, thực chất là quá trình tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, bảo đảm cho Quân đội luôn trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội là nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng Quân đội cách mạng, là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “ Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân, do Đảng xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”. Từ đó, Quân đội luôn trung thành tuyệt đối, là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng của Nhà nước và của Nhân dân.

Để xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, theo Hồ Chí Minh điều cơ bản, cốt yếu nhất là phải xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho Quân đội, nhằm tăng cường tính Nhân dân, tính dân tộc cho Quân đội. Đồng thời qua đó xây dựng bản chất cách mạng cho Quân đội, thống nhất cơ bản về mặt lợi ích giữa giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đối với Quân đội, chỗ dựa vững chắc nhất chính là lòng dân, vì vậy phải lấy dân làm gốc, dựa vào sức mạnh của dân chúng để đánh giặc. Phải làm cho Quân đội ta thành một Quân đội chân chính của Nhân dân, phải thực hiện “đi dân nhớ, ở dân thương”, mối quan hệ quân dân phải không ngừng củng cố và phát triển, hình ảnh Anh Bộ đội Cụ Hồ không ngừng được khắc sâu trong tâm chí mỗi người dân. Muốn vậy, Quân đội ta phải không ngừng xây dựng trở thành đội quân trung - hiếu, đây là nội dung nổi bật, xuyên suốt trong tư tưởng xây dựng quân đội về chính trị của Hồ Chí Minh. Ngày 26 tháng 5 năm 1946, đến thăm trường võ bị Trần Quốc Tuấn, Người dạy: “Trung với nước, hiếu với dân là bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta”. Quán triệt lời dạy của Bác, trong quá trình xây dựng và trưởng thành, Quân đội ta luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, với Nhân dân, luôn sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của Nhân dân./.

ĐẠI DIỆN VIỆN KIỂM SÁT ĐỀ NGHỊ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ TUYÊN PHẠT BỊ CÁO NGUYỄN NHÂN CHIẾN, CỰU BÍ THƯ TỈNH ỦY BẮC NINH 4-5 NĂM TÙ VỀ TỘI “NHẬN HỐI LỘ”.

 



 Theo báo Thanh Tra điện tử, Sáng 30/10, TAND tỉnh Bắc Ninh tiếp tục xét xử 13 bị cáo trong vụ án sai phạm về đấu thầu trang thiết bị y tế tại tỉnh Bắc Ninh.

Kết thúc phần xét hỏi, hội đồng xét xử chuyển sang phần tranh luận. Đại diện Viện KSND tỉnh Bắc Ninh đã công bố quan điểm luận tội, đề nghị các mức án đối với từng bị cáo.

Đại diện viện kiểm sát cho rằng, bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế AIC (gọi tắt là Công ty AIC), được xác định là chủ mưu cầm đầu. Với hành vi phạm tội đưa hối lộ nhiều lần. Bị cáo còn đang bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Tương tự, bị cáo Nguyễn Hồng Sơn - Phó Tổng Giám đốc Công ty AIC được xác định có vai trò giúp sức tích cực cho bị cáo Nhàn, hiện cũng đang bỏ trốn. Do các bị cáo bỏ trốn nên hậu quả vụ án do bị cáo gây ra cũng chưa được khắc phục. Hai bị cáo này không được hưởng tình tiết giảm nhẹ.

Viện kiểm sát đề nghị mức án 12-13 năm tù về tội “đưa hối lộ” với bị cáo Nhàn, tổng hợp với bản án được tuyên trước đó, bị cáo Nhàn phải chịu tổng mức án chung là 30 năm tù.

Bên cạnh đó, viện kiểm sát đề nghị mức án 10-11 năm tù về tội “vi phạm quy định đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” đối với bị cáo Sơn.

Về tội “mhận hối lộ”, viện kiểm sát cho rằng, bị cáo Nguyễn Nhân Chiến được xác định là người đứng đầu, có tác động đến các bị cáo cấp dưới nên phải chịu trách nhiệm cao nhất.

Mặc dù các bị cáo phạm tội với mục đích trục lợi, tuy nhiên, xét đến hoàn cảnh điều kiện khi phạm tội là từ mong muốn được sớm được triển khai hoàn thành 6 dự án bệnh viện, là nơi khám chữa bệnh cho người dân.

Ngoài ra, trong quá trình điều tra, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, các bị cáo đã tác động gia đình khắc phục toàn bộ số tiền đã nhận, đồng thời còn nộp khắc phục thêm hậu quả vụ án.

Bên cạnh đó, các bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác, được nhận nhiều huân, huy chương, bằng khen. Quá trình diễn ra xét xử cũng nhận được đơn xin giám án từ các cá nhân, cơ quan các bị cáo từng công tác.

Do đó, đại diện viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử tuyên phạt: Bị cáo Nguyễn Nhân Chiến (cựu Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh) đề nghị phạt 48-60 tháng tù.

Cùng về tội "nhận hối lộ", bị cáo Nguyễn Tử Quỳnh (cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh) bị đề nghị phạt 36-42 tháng tù; bị cáo Trần Văn Tuynh (cựu Giám đốc Ban Quản lý các dự án y tế thuộc Sở Y tế tỉnh Bắc Ninh) bị đề nghị phạt 42-48 tháng tù; Nguyễn Hạnh Chung (cựu Giám đốc Sở Y tế tỉnh Bắc Ninh) bị đề nghị 24-30 tháng.

Ngoài ra, đại diện viện kiểm sát cũng đề nghị tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Nhường, cựu Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh mức án 24-30 tháng tù về tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

Các bị cáo khác tại các đơn vị thẩm định giá, Ban Quản lý dự án các công trình y tế bị đề nghị phạt 18-24 tháng đến 24-30 tháng tù.

Trước đó, trong suốt ngày xét xử đầu tiên, các bị cáo tại công ty thẩm định giá, các chủ đầu tư và các cá nhân tại UBND tỉnh Bắc Ninh đã khai trong phần xét hỏi, thể hiện hành vi sai phạm trong quá trình tổ chức đấu thầu 6 gói thầu thiết bị y tế tại 6 bệnh viện đa khoa tuyến huyện ở tỉnh Bắc Ninh.

Các bị cáo đã thừa nhận hành vi và thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội. Đặc biệt, các cựu lãnh đạo UBND tỉnh, Tỉnh ủy Bắc Ninh đã thừa nhận các nội dung truy tố, kết quả điều tra là đúng và xin giảm nhẹ hình phạt.