Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024

 

 TẦM VÓC VĨ ĐẠI CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Bôi nhọ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiêu bài rất thâm hiểm của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị hòng làm mất đi tinh thần dân tộc, lòng tôn kính của nhân dân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Gần đây, trên trang Quyenduocbiet.com, Lê Bá Vận đăng bài “Bác Hồ khước từ Nguyễn Ái Quốc”. Theo đó, bằng cách ngụy tạo chứng cứ, bóp méo tài liệu lịch sử, y trắng trợn xuyên tạc “Nguyễn Ái Quốc là yếu tố bất lợi, làm hoan ố thanh danh và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đây là luận điệu hoàn toàn sai trái, cần nhận diện, đấu tranh phản bác và khẳng định như sau:

Thứ nhất, người Việt Nam yêu nước bằng ý chí, hành động, việc làm đóng góp cho dân tộc, không có ai tự nhận yêu nước chỉ thông qua cái tên hoặc lời nói. Lịch sử Việt Nam trong hàng nghìn năm đã bồi đắp nên tình cảm yêu nước, ý chí kiên cường, dũng cảm, dám hi sinh lợi ích cá nhân, đấu tranh giành giữ, bảo vệ độc lập dân tộc và ấm no, bình yên cho nhân dân. Yêu nước bằng ý chí, hành động, việc làm đóng góp cho dân tộc là đặc trưng tiêu biểu cho tính cách của con người Việt Nam và quy tụ sự đoàn kết dân tộc trở thành cội nguồn sức mạnh nhấn chìm tất cả bè lũ cướp nước và bán nước. Yêu nước không chỉ là tình cảm thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, mà còn gắn liền với niềm tin, khát vọng hành động xây dựng đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Trong những năm tháng hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiện thực lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tạo ra một chế độ mới, một thời đại mới trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, góp phần to lớn vào sự nghiệp vì hòa bình, tự do, hạnh phúc của nhân loại. Điều này, đã chứng tỏ luận điệu cho rằng “giành đặt tên” Ái quốc là “tự cao, tự đại”, “dù yêu nước” thực sự cũng không nên lấy tên là Ái Quốc của Lê Bá Vận cũng chỉ là sự thêu dệt, suy diễn áp đặt để xuyên tạc của Y.

Thứ hai, hành trình tìm đường cứu nước, hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa, tầm vóc lịch sử và không thể nghi ngờ. Cụm từ Việt Nam – Hồ Chí Minh không còn xa lạ đối với bạn bè quốc tế, kể từ ngày 2-9-1945 và sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một biểu tượng văn hóa, đạo đức thân thuộc trong tâm thức, trái tim của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Đúng như Lê Bá Vận đã trích dẫn khẳng định: “cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chuỗi dài sự kiện có tầm vóc lịch sử”! Sự thật này được chứng minh bằng ý chí, hành động dành cả cuộc đời cho đồng bào của Bác và được thể hiện ở nhiều công trình khoa học, ấn phẩm như: Cuốn sách “Tình cảm của nhân dân thế giới với Chủ tịch Hồ Chí Minh (The world people’s affection for President Ho Chi Minh)” do Bộ Ngoại giao phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật xuất bản; trên cơ sở cuốn sách “Hành trình theo chân Bác” của tác giả Trần Đức Tuấn, Nhà xuất bản Trẻ đã ra mắt “Bản đồ Hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ”, đã tập hợp khối tư liệu hình ảnh phong phú, khắc hoạ sâu sắc quá trình hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách một người đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc và tình cảm, niềm tin yêu, sự tôn vinh của Đảng, dân tộc Việt Nam, bạn bè quốc tế đối với Người. Đây là những bằng chứng thép, bác bỏ luận điệu xuyên tạc cho rằng Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc là “2 người khác nhau”; con đường Bác chọn là “tha phương lỡ vận”, những  “nghi vấn về lai lịch”, mơ hồ về “gốc gác” của Lê Bá Vận.

Mọi người dân Việt Nam cần chấp hành nghiêm khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013, Nghị định 144/2021/NĐ-CP; Nghị định 14/NĐ-CP ngày 27/1/2022; không khiêu khích, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác hoặc cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Nâng cao cảnh giác và tích cực đấu tranh bảo vệ truyền thống tôn vinh những người có công, những anh hùng của dân tộc, giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; đập tan những luận điệu, hành vi sai trái của những kẻ như Lê Bá Vận./.

 NHỮNG LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI CỦA “DÂN TRẦN” VỀ VIỆC TĂNG GIÁ ĐIỆN CỦA TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM

Như chúng ta đã biết, năm 2024 nguồn thủy điện có giá mua rẻ ở nước ta đã giảm từ 38% xuống còn 30,5%; nguồn nhiệt điện than và nhiệt điện dầu có giá mua đắt và rất đắt lại tăng từ 35,5% lên 43,8%. Cùng với đó, giá USD tăng 448,5 VNĐ so với năm 2022. Thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045: Áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng… Từ ngày 11/10/2024 Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã tăng giá bán lẻ điện từ 2.006,79 đồng/kWh lên 2.103,1159 đồng/kWh = 4,8%, nhằm bù đắp chi phí sản xuất điện và bảo đảm nguồn lực phát triển ngành điện đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và nhu cầu điện sinh hoạt ngày càng tăng của nhân dân.

Vậy mà, trên trang Vietnamthoibao kẻ tự xưng là “Dân Trần” phát tán bài viết với những luận điệu hết sức sai trái, “Dân Trần” cho rằng: “Tăng giá điện, đại bàng nào dám tới làm ổ?”“Y” còn ra sức công kích, kích động: “Tăng giá điện sẽ không mời gọi được đầu tư nước ngoài, sản xuất kinh doanh sẽ gặp khó khăn, người dân không có việc làm, giá cả hàng hóa tăng cao, người dân thiệt đơn, thiệt kép, không sớm thì muộn sẽ rơi vào khủng hoảng xã hội”. Thực chất đây là những luận điệu hết sức sai trái, nhảm nhí của các thế lực thù địch, phản động; bọn chúng cố tình xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, nói xấu Đảng và Nhà nước, ý đồ của bọn chúng là đánh lừa những người thiếu thông tin, kém hiểu biết, kích động những phần tử bất mãn tin và hùa theo những việc làm sai trái, gây hoài nghi, hoang mang trong dư luận xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chính vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần hết sức tỉnh táo và cảnh giác để không bị mắc mưu của kẻ xấu.

Theo Hiệp hội năng lượng Việt Nam: Giá điện của nhiều quốc gia trên thế giới cao hơn rất nhiều so với giá điện của Việt Nam, như: Đan Mạch 0,53 USD = 12.708 VNĐ/KWh; Đức 0,52 USD = 12.468 VNĐ/KWh; Vương Quốc Anh 0,47 USD = 11.270 VNĐ/KWh; Áo 0,46 USD = 11.030 VNĐ/KWh; Ý 0,46 USD = 11.030 VNĐ/KWh; Bỉ 0,44 USD = 10.550 VNĐ/KWh; BerMuDa 0,40 USD = 9.591 VNĐ/KWh; Tây Ban Nha 0,37 USD = 8.872 VNĐ/KWh; Quần đảo CayMan 0,37 USD = 8.872 VNĐ/KWh; CH Séc 0,37 USD = 8.872 VNĐ/KWh…

Tập đoàn Điện lực Việt Nam, cho biết: Tăng giá điện lần này sẽ làm tăng giá tiêu dùng khoẳng 0,04% và tác động không quá lớn đến chi phí điện sinh hoạt của người dân, cụ thể: Đối với 11,51%  hộ dân sử dụng điện dưới 50 kWh/tháng, tiền điện tăng khoảng 4.350 đồng; 15,53% hộ dân dụng từ 51 – 100 kWh/tháng, tiền điện tăng khoảng 8.850 đồng; 34,31% hộ dân sử dụng từ 101 – 200 kWh/tháng, tiền điện tăng khoảng 19.250 đồng; 18,5% hộ dân sử dụng từ 201 – 300 kWh/tháng, tiền điện tăng khoảng 32.350 đồng; 8,87% hộ dân sử dụng từ 301 – 400 kWh/tháng, tiền điện tăng khoảng 47.050 đồng; 11,28% hộ dân sử dụng trên 400 kWh/tháng, tiền điện tăng khoảng 62.150 đồng.

Trong 9 tháng đầu năm 2024, lượng điện sản xuất và nhập khẩu của Việt Nam là 223 tỷ KWh, tăng gần 11% so với cùng kỳ năm 2023, bảo đảm đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt; 9 tháng đầu năm 2024, Việt Nam thu hút được 24,78 tỷ USD vốn FDI tăng 11,6%; giải ngân hơn 17,3 tỷ USD vốn FDI tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2023; GDP 9 tháng đầu năm 2024 tăng 6,82%; quy mô nền kinh tế của Việt Nam năm 2025 dự kiến đạt 500 tỷ USD; CPI 9 tháng đầu năm 2024 tăng 3,88% so với cùng kỳ năm 2023. Lao động có việc làm quý III/2024 khoảng 51,6 triệu người, tăng 244,6 nghìn người so với cùng kỳ năm 2023. Thu nhập bình quân của người lao động quý III/2024 là 7,6 triệu đồng/tháng, tăng 519 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2023; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước được nâng lên; khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố; trật tự an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đang quyết liệt chỉ đạo hoàn thiện thể chế, điều chỉnh quy hoạch điện VIII, đa dạng hóa các nguồn điện, nghiên cứu phát triển điện hạt nhân, điện gió ngoài khơi…Bộ Công thương, Ủy Ban quản lý vốn nhà nước, các tập đoàn, xây dựng các kịch bản bảo đảm nguồn điện, tải điện, phân phối điện, sử dụng điện, giá điện, nhằm bảo đảm đủ điện đáp ứng nhu cầu sử dụng điện năm 2025 tăng khoảng 11 – 13%; năm 2026 đến năm 2030 nhu cầu sử dụng điện tăng khoảng 12 – 14%/năm. Thực tế sinh động nêu trên, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời, là bằng chứng đanh thép nhất bác bỏ hoàn toàn những luận điệu sai trái của “Dân Trần”. Tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam cần đề cao cảnh giác, nhận diện chính xác bộ mặt thật của các thế lực thù địch, phản động như “Dân Trần”; kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái của bọn chúng; bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống bình yên của nhân dân ta./.

 

 NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC LÊN ÁN


Với mưu đồ chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị ngày càng đẩy mạnh xuyên tạc, phủ nhận thành quả đổi mới của Việt Nam, trong đó, tập trung chống phá đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Gần đây, trên Doithoaionline, Vũ Đức Khanh viết bài: “Nền kinh tế nhân văn: Đáp án cho sự phát triển toàn diện của con người”, Y cho rằng: “Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về cơ bản là sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và sự điều khiển, quản lý của nhà nước… Việt Nam đã áp dụng mô hình này để giữ vững sự kiểm soát chính trị của Đảng cộng sản trong phát triển kinh tế”.

Thực chất đây là quan điểm sai trái, nhằm phủ nhận bản chất tốt đẹp, tính ưu việt trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; gây nên những hoài nghi, làm giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào đường lối lãnh đạo của Đảng, hướng lái Việt Nam đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản.

Thứ nhất, trước đổi mới (1986), Việt Nam áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp, đã đạt được những kết quả quan trọng, đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Tuy nhiên, khi đất nước bước vào đổi mới, với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, dẫn đến nền kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp không còn phù hợp. Theo đó, Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại; là sự đổi mới, vận dụng đúng quy luật của kinh tế thị trường vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam; bảo đảm phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thuộc tính cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm. Những nội dung đó thể hiện rõ tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đó là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa tính tự phát của thị trường, chăm lo đến lợi ích của nhân dân, đến tiến bộ và công bằng xã hội, song luôn giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tạo tiền đề cho xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thứ hai, từ Đại hội VI (tháng 12/1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước; chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp. Đại hội VII (năm 1991), xác định: Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta tiếp tục khẳng định: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong các văn kiện của Đảng từ Đại hội IX (năm 2001) đến nay, đều xác định rõ: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp năm 2013 hiến định: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường.

Thứ ba, thực tiễn qua gần 40 đổi mới, từ 1986 đến nay, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng phát triển, Việt Nam từ nền kinh tế kém phát triển, có thu nhập thấp, đến nay đã trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; đời sống của nhân dân được nâng lên. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) đánh giá rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển. Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Liên tiếp từ 2016 đến 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước có kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới; từ 1986 đến 2020, thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần. Quy mô GDP nước ta năm 2020 tăng 1,4 lần so với năm 2015, đạt khoảng 343,2 tỷ USD; năm 2022 đạt 9.513 tỷ đồng, tương đương 409 tỷ USD. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 đạt 8,02%, năm 2023 đạt 5,05%; theo dự báo của Ngân hàng Thế giới công bố ngày 26/8/2024, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024 dự kiến đạt 6,1%.

Những thành tựu đó tiếp tục khẳng định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với quy luật khách quan, xu thế phát triển của thời đại và thực tiễn Việt Nam; bảo đảm phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt; phát triển kinh tế là một trụ cột trong phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần nhận diện rõ luận điệu của Vũ Đức Khanh xuyên tạc, phủ nhận nền hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời kiên quyết đấu tranh bác bỏ./.

 ĐƯỜNG LỐI PHÁT HUY NGUỒN LỰC NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công tác người Việt Nam ở nước ngoài; luôn coi kiều bào ta ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời, là một nguồn lực của dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta luôn đánh giá cao những đóng góp của kiều bào đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy, đề ra đường lối, chính sách đúng đắn đối với người Việt Nam ở nước ngoài, được đông đảo kiều bào và Nhân dân cả nước quan tâm, hưởng ứng, góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, hướng vào thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thế nhưng, với giọng điệu hằn học, nhằm khơi dậy hận thù, các thế lực thù địch, phản động ra sức lợi dụng những khó khăn, bức xúc của đồng bào ở nước ngoài; những hạn chế trong công tác người Việt Nam ở nước ngoài… để xuyên tạc, phủ nhận giá trị đường lối phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chúng rêu rao rằng: Hòa hợp, hòa giải dân tộc chỉ là “cái bẫy” của cộng sản; ở Việt Nam không thể có hòa hợp, hòa giải dân tộc nếu còn chế độ cộng sản; thực hiện nghị quyết số 08, 36 đều không thành công… Đây là những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của nước ta, cần phải vạch trần và đấu tranh bác bỏ.

Đường lối, chính sách của Đảng về phát huy nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài có giá trị về tư tưởng, lý luận không thể phủ nhận:

Đường lối phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài có giá trị to lớn đối với việc quy tụ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhận thức rõ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận máu thịt không tách rời của dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước đánh giá cao tình cảm sâu sắc của kiều bào đối với đất nước. Nên, ngay sau khi thành lập nước (năm 1945), Đảng, Chính phủ coi trọng việc xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đã vận động, kêu gọi nhiều trí thức kiều bào ở nước ngoài về nước tham gia kháng chiến, cùng với toàn thể dân tộc thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, cần phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần của người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, trong các kỳ đại hội, Đảng ta đều đề ra các chủ trương, chính sách vừa phát huy nguồn lực của kiều bào, vừa hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý, phát triển kinh tế, đời sống, hội nhập xã hội nước sở tại và tích cực đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, Đảng ta đã có nghị quyết riêng về người Việt Nam ở nước ngoài: Nghị quyết số 08-NQ/TW về công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài; Nghị quyết số 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 36, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 45-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 36 và ban hành Kết luận số 12-KL/TW về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới. Quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về Chương trình hành động của Chính phủ; đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới”. Hiện nay, có khoảng 6 triệu người Việt Nam đang sinh sống, lao động, học tập ở 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, đây là bộ phận có đóng góp quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Ở chiều ngược lại, bà con kiều bào cũng bày tỏ nguyện vọng được đóng góp công sức, trí tuệ vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, có những thời điểm bà con chưa nắm rõ đường lối, chính sách của Đảng đối với người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là những người trước kia có liên quan đến chính quyền Sài Gòn, họ còn e ngại, không dám về quê thăm thân, không dám đóng góp sức lực, trí tuệ vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Sau khi được tuyên truyền, nắm rõ đường lối, chính sách của Đảng đối với người Việt Nam ở nước ngoài, đa số kiều bào đã có cái nhìn khác về đất nước, vui mừng, phấn khởi trước những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được trong sự nghiệp đổi mới, không còn tâm lý e ngại, lo sợ khi về thăm quê hương và tham gia các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, gắn bó với quê hương, đất nước, góp phần hòa hợp, đoàn kết dân tộc.

Đường lối phát huy nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài góp phần tạo điều kiện cho đồng bào ở nước ngoài đóng góp công sức xây dựng quê hương, đất nước.

Trên cơ sở đường lối, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước đã thể chế hóa thành luật và chính sách: Xuất nhập cảnh, cư trú, hồi hương, quốc tịch, hộ tịch, về đầu tư kinh doanh, Quy chế miễn thị thực cho người Việt Nam ở nước ngoài…; tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn để kiều bào về thăm quê hương và đóng góp thiết thực vào công cuộc xây dựng đất nước. Đồng thời, có nhiều chương trình, cách làm thiết thực giúp nối vòng tay lớn với kiều bào như: Xuân quê hương; người Việt ở nước ngoài với chủ quyền biển, đảo; trại hè Việt Nam… Nhờ đó, người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng xóa bỏ mặc cảm, gắn bó với quê hương. Đại bộ phận đều hướng về Tổ quốc, nhiều người đã gạt bỏ tâm lý lo lắng, e ngại để về thăm, làm ăn, sinh sống và tham gia đầu tư xây dựng quê hương đất nước, đã tạo ra những doanh nghiệp bản địa mạnh, hàng đầu của đất nước: Vingroup, Sun Group, Techcombank…

Hiện nay, có khoảng 385 dự án của người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký hơn 1,7 tỷ USD và có vốn góp vào hàng nghìn doanh nghiệp Việt Nam, góp phần tạo việc làm, chuyển giao công nghệ, phát triển kinh tế – xã hội. Lượng kiều hối chuyển về nước ta trong những năm qua ngày càng tăng (năm 2023 là 16 tỷ USD tăng 32,5% so với năm 2022). Các cơ quan trong và ngoài nước đã phối hợp tổ chức thành công nhiều hội thảo, hội nghị chuyên đề, diễn đàn xúc tiến thương mại, đầu tư; góp phần giải đáp, hỗ trợ tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp, doanh nhân; thúc đẩy vai trò cầu nối giao thương của người Việt Nam ở nước ngoài trong tiêu thụ sản phẩm và phát triển các kênh phân phối hàng Việt Nam ở nước ngoài.

Hằng năm, có khoảng 300-500 lượt chuyên gia, trí thức, nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động khoa học – công nghệ trong nước, đóng góp nhiều ý kiến sâu rộng, thực tế trong các vấn đề xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, phát triển đất nước.

Đường lối, chính sách phát huy nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài giúp đồng bào ở nước ngoài có cơ sở pháp lý, hòa nhập với nước sở tại và phát huy truyền thống, văn hóa truyền thống Việt Nam.

Bên cạnh việc động viên, khuyến khích đồng bảo ở nước ngoài tích cực đóng góp vật chất và tinh thần đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát huy nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài còn thể hiện sự quan tâm, chú trọng bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích của người Việt Nam đang sinh sống, học tập, làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ đồng bào có cơ sở pháp lý vững chắc, được pháp luật nước sở tại bảo vệ, ổn định cuộc sống, hội nhập sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực. Hỗ trợ bà con người Việt làm các thủ tục pháp lý theo quy định sở tại, giữ gìn và phát huy tiếng Việt, bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc; hỗ trợ người Việt tại các địa bàn chịu ảnh hưởng bởi chiến sự, thiên tai, hỏa hoạn, di dời tái định cư. Năm 2023 là năm đầu tiên triển khai Đề án Ngày Tôn vinh tiếng Việt trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (08/9).

Do vậy, phần lớn bà con đã có địa vị pháp lý vững chắc, ổn định cuộc sống, hội nhập sâu rộng vào xã hội sở tại, được chính quyền và người dân sở tại đánh giá cao, một số đã tham gia chính trường sở tại. Người Việt Nam ở nước ngoài được vinh danh với các giải thưởng quốc tế. Tại Slovakia, cộng đồng người Việt được Chính phủ nước này công nhân là cộng đồng dân tộc thiểu số thứ 14 của Slovakia; thể hiện sự lớn mạnh của cộng đồng, tạo điều kiện cho bà con đóng góp cho sự phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với các nước.

Thực tế sinh động đó, chứng tỏ giá trị to lớn của đường lối phát huy nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài đối với việc quy tụ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới; đồng thời, giúp đồng bào ở nước ngoài có cơ sở pháp lý, hòa nhập với nước sở tại và phát huy truyền thống, văn hóa truyền thống Việt Nam, góp phần tăng cường hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam với các nước. Đó là bằng chứng sinh động bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về người Việt Nam ở nước ngoài của các thế lực thù địch, phản động./.

 

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN CỦA VIỆT NAM

Gần đây, trang Daploisongnui.org đăng tải bài viết: “Sự khác nhau giữa đối tác kiếm ăn và đồng minh ý thức hệ cộng sản”, xuyên tạc rằng: “Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 8 quốc gia, thì có 6 quốc gia dân chủ tư bản phát triển; Việt Nam vẫn là một quốc gia tụt hậu, hay không muốn nói là nghèo khổ so với các lân bang, chứ chưa cần với quốc gia phát triển; Việt Nam ký kết hợp tác chiến lược toàn diện, nó không giúp ích gì cho sự phát triển của quốc gia; mô hình chính trị của Việt Nam hoàn toàn khác biệt so với các quốc gia dân chủ; chế độ của chúng ta thiếu tôn trọng nhân quyền, không dặt con người là trung tâm của sự phát triển”…

1.      Thực chất đây là những quan điểm sai trái, thù địch của một số người tự xưng là “người yêu nước”, “nhà dân chủ”, “học giả” thù địch; thường xuyên tung hỏa mù, “chọc gậy bánh xe”, vừa cố tình vu cáo, miệt thị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, vừa phá hoại đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam, hạ thấp uy tín, vai trò của Việt Nam với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc. Lợi dụng các bài viết dưới mác “phân tích cơ sở khoa học” nhằm phủ định nền tảng tư tưởng, vai trò lãnh đạo, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; cố tình suy diễn, xuyên tạc, chống phá đường lối đối ngoại, quốc phòng, an ninh, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tác động vào niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng còn cho rằng, Việt Nam đang có sự điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại nhằm tìm kiếm đối tác chiến lược toàn diện, thiết lập liên minh mới để đối phó với những quốc gia đang gây áp lực với mình… Lại có kẻ còn trắng trợn nói rằng, Việt Nam đang ngấm ngầm “theo chân” nước này để chống nước kia…bằng nhiều chiêu trò, chúng mưu toan đẩy mạnh tuyên truyền, phát tán những thông tin sai lệch, bịa đặt, nhằm mục đích tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia-dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước đối tác, nhất là các nước lớn, các nước láng giềng, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam. Dù có giở chiêu trò gì đi chăng nữa, các thế lực thù địch, phản động cũng không thể phủ nhận được những thành tựu trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong những năm qua, đó là: Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trong công tác đối ngoại. Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.

2.      Chuyến công tác, làm việc của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Hoa Kỳ càng có ý nghĩa quan trọng khi diễn ra vào thời điểm tròn một năm Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững, cũng như trước thềm kỷ niệm 30 năm quan hệ ngoại giao. Đây là dịp để hai bên cùng nhìn lại chặng đường đã qua, đúc rút, chia sẻ và lan toả những bài học, kinh nghiệm hay về quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời tôn vinh và tri ân những thế hệ bạn bè đã và đang tích cực đóng góp cho quan hệ hai nước. Bên cạnh mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế theo tinh thần Việt Nam là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Đảng, Nhà nước ta luôn phát huy cao độ tinh thần đại đoàn kết toàn dân, chủ động tự lực, tự cường nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Như vậy, thực tế sự phát triển mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ hay giữa Việt Nam với quốc gia nào trên thế giới đều là tất yếu khách quan, phù hợp xu thế chung của thời đại.

Điều đó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia – dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Nếu ai đó nói rằng Việt Nam dựa vào nước này để chống nước kia thì đó là hành động cố tình xuyên tạc, bịa đặt nhằm mưu đồ xấu, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, hòng làm cho tình hình thêm phức tạp, gây hoài nghi, mất ổn định, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt Nam cũng đã tích cực tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế lớn và nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế, đóng góp tích cực vào sự ổn định, phát triển của khu vực và thế giới; xây dựng mối quan hệ tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau.

3.      Quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng, Việt Nam luôn kiên trì phương châm là bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở độc lập tự chủ và nguyên tắc của luật pháp quốc tế.

Mục đích của Việt Nam là tạo được lợi ích chung với các nước – đó là duy trì hòa bình, ổn định. Việt Nam đã nhiều lần khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ. Việt Nam không bao giờ liên minh, liên kết với một nước khác để chống lại nước thứ ba, không đi với nước này để chống nước kia. Trong giải quyết những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định là phải trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị, độc lập, tự chủ, bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế… Chủ trương và cách giải quyết đó của Đảng, Nhà nước ta đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân cũng như toàn xã hội, được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ. Trong đối ngoại của Việt Nam, Đảng ta luôn xác định, đối tác chiến lược toàn diện là một dạng thức quan hệ có tầm quan trọng lớn và có tính chiến lược, dài hạn giữa các quốc gia với nhau hoặc giữa quốc gia với tổ chức quốc tế và là một hình thức của quan hệ đối tác chiến lược bên cạnh các hình thức khác như đối tác chiến lược, đối tác chiến lược lựa chọn theo từng lĩnh vực, đối thoại chiến lược. Hiện nay đối tác chiến lược toàn diện là cấp cao nhất trong hệ thống thứ bậc đối tác ngoại giao ở Việt Nam. Với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, các bên xác định gắn bó lợi ích lâu dài, hỗ trợ lẫn nhau và thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng và toàn diện trên mọi lĩnh vực mà các bên cùng có lợi và hướng tới lòng tin chiến lược. Việt Nam hiện đã có 8 quốc gia là đối tác chiến lược toàn diện gồm Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Australia và Pháp; đồng thời ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)… Tính đến tháng 9/2024, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 194 quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài. Việt Nam cũng là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng.

Đó là những vấn đề thực tế không thể chối cãi được, nó chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia – dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố tình xuyên tạc, bịa đặt. Đó là minh chứng khách quan, sinh động, phản bác những luận điệu bôi nhọ, chống phá, những hành động trơ trẽn và lạc lõng của các thế lực thù địch./.

 

NGUYỄN ANH - NHỮNG LUẬN ĐIỆU PHẢN ĐỘNG CẦN LÊN ÁN 

Mới đây, trên trang mạng xã hội Quyenduocbiet.com, Nguyên Anh có giật tít: “Kiên định con đường XHCN đến bao giờ?”. Trong bài viết, y đưa ra nhiều thông tin sai sự thật, bóp méo tình hình đất nước, xuyên tạc, phủ nhận những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam cho rằng: “VN muốn thay đổi phải từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, chủ thuyết Mác – Lê vì nó đã quá lạc hậu so với thế giới ngày nay”. Đây là một luận điệu hết sức phản động, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Nguyên Anh. Song, luận điệu phản động của y bị lịch sử và thực tiễn sống động ở Việt Nam hiện nay bác bỏ. Bởi lẽ:

Thứ nhất, Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết cách mạng, khoa học, soi sáng con đường cách mạng Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác – Lênin là khoa học về những quy luật phát triển chung nhất của tự nhiên, của xã hội và của tư duy, về cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại mọi sự áp bức, bất công; Chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời trên mảnh đất hiện thực là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, lực lượng xã hội đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất của lịch sử phát triển nền sản xuất vật chất của nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lênin là sự tổng hòa từ nhiều nguồn tri thức của loài người, thu nhận tinh hoa từ các tư tưởng tiến bộ, đồng thời không ngừng được bổ sung, hoàn bị bằng những kinh nghiệm từ thực tiễn lịch sử được khái quát lên tầm lý luận. Về lôgic, chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời không nhằm mục đích tự thân mà nhằm đấu tranh để cải tạo thế giới, hướng đến giá trị nhân văn cao cả đó là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn cách mạng các nước, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Từ khi được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập đã khắc phục được sự khủng hoảng về đường lối và lực lượng lãnh đạo cách mạng, đưa đất nước phát triển phù hợp xu hướng thời đại; giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thành công của sự nghiệp đổi mới gần 40 năm qua trước hết là thành công của đổi mới tư duy với nguyên tắc xuất phát từ thực tiễn, trung thành và sáng tạo. Với thế giới quan, phương pháp luận khoa học, Chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo phương hướng nhận thức, hành động, giúp cho Đảng dám nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, lấy dân làm gốc, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa đã đem lại những chuyển biến tích cực, rõ rệt, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao ở Việt Nam.

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử, thay đổi đời sống mọi mặt của người dân: tăng trưởng kinh tế luôn đạt 6% đến 7%/năm; quy mô nền kinh tế đất nước năm 2023 đạt 430 tỉ đô la, vươn lên đứng thứ 4 ở khu vực Đông Nam Á và tốp 40 của thế giới; thu nhập bình quân đầu người đạt 4.284,5 đô la/người/năm[1]; lạm phát ở mức thấp; đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện; tình hình chính trị và xã hội ổn định; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Năm 2006, Việt Nam tuyên bố hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói, Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam thay đổi. Việt Nam cũng là nước nằm trong nhóm đầu trong số năm không sống khỏe theo tỷ lệ phần trăm tuổi thọ (11,7%) và số giường bệnh (32 giường/100 nghìn dân)[2]…. Những thành tựu mà Việt Nam đạt được thời gian qua chứng minh rằng: phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội – con đường mà Đảng, Bác Hồ, các thế hệ cha anh đã lựa chọn và đổ biết bao mồ hôi xương máu mới giành được.

Vì vậy, luận điệu của Nguyên Anh đưa ra đã thể hiện rõ bộ mặt của kẻ phản động, chống phá cách mạng nước ta. Do đó, mọi người cần nâng cao cảnh giác và đấu tranh bác bỏ. Đồng thời, chúng ta luôn vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay./.

 THỦ ĐOẠN ĐEN TỐI CỦA VŨ ĐỨC KHÁNH

Mới đây trên trang “Thongluan-rdp”, Vũ Đức Khánh đã đăng bài viết “Chính sách đối ngoại và lộ trình dân chủ hóa Việt Nam”. Mục đích của Y là xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng, cổ súy các giá trị Phương Tây, kích động, lôi kéo đòi đa nguyên, đa đảng, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thứ nhất, theo Vũ Đức Khánh, nếu Việt Nam không chuyển đổi thể chế sang một nền dân chủ đa nguyên thì Việt Nam không giữ vững được độc lập, tự chủ và không khẳng định vị thế trong cộng đồng quốc tế.

 Đây là nhận định có tính chất phản động, xuyên tạc, kích động đòi Việt Nam phải từ bỏ “chế độ xã hội chủ nghĩa”, đi theo con đường “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”.

Như chúng ta đã biết, độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là hai thành tố đặt trong mối quan hệ biện chứng, quan hệ nhân quả. Giữ vững độc lập, tự chủ là điều kiện tiên quyết để hội nhập quốc tế thành công, bảo đảm cho Việt Nam hòa nhập nhưng không bị hòa tan; đổi mới nhưng không đổi hướng. Ngược lại, hội nhập quốc tế đầy đủ, khai thác tối đa mọi nguồn lực của bên ngoài có tầm quan trọng, để cùng với nguồn lực có tính quyết định ở bên trong, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh, bền vững, góp phần bảo vệ lợi ích cốt lõi của quốc gia, dân tộc là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Nhận thức đúng, quán triệt sâu sắc và xử lý thành công mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong gần 40 năm đổi mới đất nước đã góp phần giúp Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã tiến vào chiều sâu mới trên quỹ đạo hội nhập quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, có quan hệ kinh tế với hơn 221 thị trường nước ngoài và là thành viên của nhiều tổ chức và diễn đàn quốc tế như: Cộng đồng Pháp ngữ (1970) Liên Hợp Quốc (1977). Quan hệ của Việt Nam với tất cả các nước ngày càng phát triển tốt đẹp, đi vào thực chất, hiệu quả. Thực tế khẳng định rằng, trong những năm qua, giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam luôn phù hợp với xu thế vận động, biến đổi của thế giới đương đại; thể hiện ý chí của nhân dân Việt Nam, trở thành giá trị cốt lõi thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định lập trường, quan điểm về giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; coi đó là vấn đề có tính nguyên tắc, nhất quán, có tầm quan trọng xuyên suốt, mang ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam.

Thứ hai, Vũ Đức Khánh nhận định, nếu Việt Nam chuyển đổi thể chế thì dân chủ hóa sẽ là chìa khóa đẻ Việt Nam phát triển và hội nhập với phương Tây.

Nhận định trên là vô căn cứ, phủ nhận đường lối đối ngoại của Đảng, kích động đòi Việt Nam phải chuyển đổi thể chế và trở thành một quốc gia dân chủ phù hợp với các giá trị phương Tây.

Như chúng ta đã biết, tư tưởng dân chủ của phương Tây có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ đại. Thuật ngữ dân chủ xuất hiện đầu tiên tại Athens, Hy Lạp trong thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Về nội dung, đó là “quyền lực thuộc về nhân dân” đồng thời theo nguyên tắc đa số. Nhưng khái niệm “nhân dân” ở đây không bao gồm phụ nữ và người nô lệ. Về mặt phương thức, dân chủ có nhiều hình thức: Dân chủ trực tiếp đó là những người tham gia bầu cử bầu ra người đại diện cao nhất của xã hội. Dân chủ gián tiếp, dân chủ đại diện là người bầu cử chỉ bầu ra người đại diện của mình… từ đó chỉ có những người đại diện mới bầu ra cơ quan và người lãnh đạo xã hội.

 Ở Việt Nam, dân chủ cũng có quá trình hình thành và phát triển tuân theo quy luật chung. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Dân chủ là phương thức và nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước và xã hội, trong đó mọi thành viên đều được tôn trọng và bình đẳng trong việc tham gia vào các quyết định liên quan đến đất nước, xã hội và cộng đồng. Công dân có mọi điều kiện để phát huy các quyền tự do, dân chủ của mình.

Thực tiễn gần 40 năm đổi mới cho thấy, bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ ở nước ta là chế độ bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tinh thần; phát huy cao độ vai trò của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không chỉ trong các văn bản Hiến pháp, pháp luật, mà quan trọng hơn hết, quyền làm chủ của nhân dân còn được thể hiện sinh động trong đời sống xã hội. Điều đó thể hiện bản chất tốt đẹp, mục tiêu, động lực của dân chủ xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển đất nước. Đảng ta đã chỉ rõ: “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy”. Từ năm 2016 đến nay, các cấp ủy đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội tổ chức hàng trăm nghìn hội nghị đối thoại giữa cấp ủy, chính quyền với nhân dân. Trên cơ sở đó, đã tạo được sự đồng thuận, thống nhất giữa cấp ủy, chính quyền với nhân dân góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Qua đây chúng ta có thể khẳng định, những nhận định trên của Vũ Đức Khánh về chính sách đối ngoại của Việt Nam là vô căn cứ, cần phải chủ động nhận diện, đấu tranh và loại bỏ./.

 

CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA CỦA VIỆT TÂN

Trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị vẫn luôn tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận giá trị, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, cho rằng Cách mạng Tháng Mười Nga là “sai lầm lịch sử” trái với quá trình “lịch sử – tự nhiên” nên cần phải xóa bỏ mọi sản phẩm ra đời từ “sai lầm” đó, bao gồm tư tưởng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Nhà nước Liên Xô, Đảng Cộng sản Liên Xô, hệ thống xã hội chủ nghĩa…  Gần đây, trên trang “Viettan.org” Nguyễn Thanh Văn đăng nội dung: “Bóng ma Cách Mạng Tháng 10 trên đất Việt”; “Tương lai nào cho Cách Mạng Tháng 10 ?”…

1.      Dưới ánh sáng của “Luận cương tháng Tư” và sự chỉ đạo của V.I.Lênin, những người Bonsevich xác định nhiệm vụ cấp bách và quan trọng nhất cho toàn Đảng lúc đó ở nước Nga là lôi cuốn đông đảo giai cấp công nhân và nhân dân lao động về phía cách mạng; thành lập đội quân chính trị đông đảo đủ sức mạnh đánh bại lực lượng phản cách mạng; thành lập lực lượng vũ trang cách mạng làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh chính trị. Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản, của lực lượng chuyên chế phong kiến Nga Hoàng, xóa bỏ tình cảnh nô lệ của quần chúng công – nông, đem lại cho họ quyền tự do, dân chủ và địa vị làm chủ xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga cùng với sự ra đời của nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới được xem là sự kiện lịch sử vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Từ chỗ chỉ là ước mơ cao đẹp của loài người, sau Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực và có sức mạnh vô cùng to lớn, mở đường cho các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do.

2.      Với sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Liên Xô, một đảng được tôi luyện trong ngọn lửa Tháng Mười, Liên Xô đã trở thành lực lượng quyết định nhất tiêu diệt chủ nghĩa phátxít, cứu loài người khỏi thảm họa hủy diệt. Chỉ trong vòng 20 năm sau chiến tranh, Liên Xô đã đạt những thành tựu vĩ đại làm cả thế giới khâm phục, chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng ở hàng loạt quốc gia, và trở thành một lực lượng kinh tế – vật chất hùng hậu trên thế giới. Phát triển xã hội với nhiều ưu việt về văn hóa, giáo dục, y tế, nhà ở, thể thao, bình đẳng giới, phúc lợi xã hội và quyền của nhân dân lao động nói chung. Khoa học, kỹ thuật, công nghệ với tốc độ và thành tựu bước ngoặt, dẫn đầu thế giới trên nhiều lĩnh vực, điển hình là khoa học vũ trụ, kỹ thuật quân sự. Thực hiện đối ngoại hòa bình, hợp tác và phát triển, gắn hòa bình với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, quyền tự quyết, bình đẳng trong sinh hoạt quốc tế. luôn khẳng định sức sống mãnh liệt, triển vọng phát triển. Đối với cách mạng Việt Nam, Cách mạng Tháng Mười Nga có ý nghĩa và ảnh hưởng vô cùng to lớn, sâu sắc trên nhiều phương diện, cả về lý luận và thực tiễn, trong thời kỳ trước và sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời; cả trong Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay. Sự phát triển của Việt Nam trong những năm qua, nhất là trong những năm gần đây là một ví dụ sinh động.

 Những năm qua, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị luôn tung ra rất nhiều chiêu trò xuyên tạc, nhưng tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn giữ nguyên giá trị. Mọi người cần cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc của “Viettan.org” Nguyễn Thanh Văn về Cách mạng Tháng Mười Nga./.

Khắc phục tình trạng cán bộ né việc

 

Thời gian qua, tình trạng cán bộ né việc, né trách nhiệm diễn ra khá phổ biến ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng nghiêm trọng tới kinh tế-xã hội đất nước, gây bức xúc trong xã hội. Để giải quyết tình trạng chây ì, né việc, né trách nhiệm trong cán bộ, công chức hiện nay, nên nghiên cứu thực hiện một số giải pháp sau:

Trước hết, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực chất của công tác cán bộ. Cần phải chọn bằng được những cán bộ đủ đức, đủ tài, đủ kiến thức, kinh nghiệm và bản lĩnh, dám làm, dám chịu trách nhiệm để giao trọng trách. Muốn vậy thì phải thực hiện tốt quy định của Đảng về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền. Công tác cán bộ có sạch thì Đảng mới mạnh, tổ chức mới mạnh, công việc mới thông, quốc gia mới phát triển.

Thứ hai, cần thường xuyên xem xét, sửa đổi các luật, các quy định không phù hợp với thực tiễn, để luật mang tính khả thi cao, tránh rủi ro cho đội ngũ cán bộ, công chức khi thực thi nhiệm vụ.

Thứ ba là phải quy trách nhiệm cho người đứng đầu. Chọn cán bộ tốt đồng thời cũng phải có phương pháp và quy định để đánh giá đúng chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ. Một cán bộ tốt nhưng được giao vào một vị trí công việc chưa phù hợp cũng có thể ảnh hưởng tới chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ đó. Nếu cán bộ giữ vị trí chủ trì thì sẽ ảnh hưởng tới chất lượng công việc của cơ quan, đơn vị.

Do vậy, cần giao nhiệm vụ, giao chỉ tiêu cho cơ quan, đơn vị và cho cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị ấy một cách rõ ràng. Nếu không hoàn thành chỉ tiêu thì cần xem xét điều chuyển cán bộ ấy sang một vị trí khác, chọn người khác phù hợp hơn. Việc giao chỉ tiêu và quy trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ cho người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị có tác dụng rất lớn đến việc đốc thúc để công việc chạy.

Thứ tư là đối với cán bộ trong diện quy hoạch, được luân chuyển công tác, cần xem xét kỹ chất lượng hoàn thành nhiệm vụ ở vị trí luân chuyển. Không nên để tồn tại tâm lý “án binh bất động” trong một bộ phận cán bộ thuộc diện quy hoạch được luân chuyển để thử thách. Chính thời gian luân chuyển này là cơ hội để cán bộ thể hiện rõ năng lực, nhiệt huyết cống hiến của mình, từ đó tổ chức mới sắp xếp cán bộ theo quy hoạch.

Thứ năm là cần xây dựng và áp dụng các công cụ để định lượng, đánh giá một cách chính xác, khoa học chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức. Hiện nay, công tác đánh giá cán bộ còn cảm tính, chưa có các công cụ để đo lường hiệu quả chất lượng hoàn thành nhiệm vụ. Ở những nơi công việc bị tắc nghẽn, chậm trễ thì cán bộ vẫn có thể được đánh giá là hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Cùng với đó, người cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Người cán bộ có trình độ, năng lực, kinh nghiệm thực tiễn sẽ tạo ra niềm tin và chỗ dựa vững chắc cho cán bộ, nhân viên thuộc quyền, làm cho cán bộ, nhân viên thuộc quyền không hoài nghi, dao động trước những quyết định của mình. Từ đó, tổ chức, cơ quan, đơn vị luôn có bầu không khí sôi nổi, tự tin trong mọi hoạt động.

Nhận diện hoạt động lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước

 

Tôn giáo là lĩnh vực nhạy cảm, luôn thu hút sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế. Do đó, cùng với vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng vấn đề tôn giáo để kích động chống phá Đảng và chế độ ta.

Chiêu bài tôn giáo là một phần của chiến lược “diễn biến hoà bình” mà các tổ chức, cá nhân thù địch, thiếu thiện chí với Việt Nam thường sử dụng nhằm kích động xu hướng chia rẽ, ly khai, từ đó phát triển thành các cuộc tuần hành, biểu tình, gây rối an ninh, trật tự, tạo sự bất ổn định về chính trị - xã hội, ảnh hưởng không nhỏ sự phát triển toàn diện của xã hội. Đây cũng là cái cớ để họ công khai can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Đáng chú ý, trong giai đoạn hiện nay, ngoài những hoạt động chống phá mang tính quy luật thì một trong những thủ đoạn mà số đối tượng chống đối cực đoan ở trong và ngoài nước thường tiến hành là tìm mọi cách lợi dụng vấn đề tôn giáo ở vùng dân tộc thiểu số nhằm kích động tư tưởng ly khai, tự trị tại các địa bàn chiến lược về an ninh, quốc phòng. 

Nổi lên thời gian qua là các vụ việc trọng điểm xảy ra trên địa bàn Tây Bắc, trong đó tập trung ở các tỉnh như Điện Biên, Lai Châu… Dưới sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch, các đối tượng chống đối trong nước ráo riết thực hiện mưu đồ lập ra tôn giáo riêng ở đồng bào dân tộc như lập ra “đạo Vàng Chứ” để qua đó lôi kéo, tập hợp lực lượng thành lập cái gọi là “Vương quốc Mông tự trị”. Ở một số địa phương, tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc, các phần tử xấu còn lợi dụng các hiện tượng tôn giáo mới, tà đạo như Giê Sùa, Bà Cô Dợ, Hội thánh Đức Chúa trời, Sề Chu Hà Ly Cha và một số hiện tượng tôn giáo liên quan đến tục lễ thờ cúng các anh hùng liệt sĩ, người có công với cách mạng để tiến hành các hoạt động gây rối an ninh, trật tự. Thực tế, Giê Sùa, Bà Cô Dợ đều là tà đạo lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tập hợp phát triển lực lượng lập “Nhà nước Mông”. Thời gian qua, các đối tượng triệt để sử dụng phương thức, thủ đoạn thông qua điện thoại, mạng xã hội, các phần mềm trực tuyến để chỉ đạo số đối tượng cốt cán ở trong nước tích cực tuyên truyền, lôi kéo người Mông tại Việt Nam tham gia tà đạo nhằm kích động lập “Nhà nước Mông” với các luận điệu như: Đức Chúa trời Giê Hô Va đã chia đất cho người Mông nhưng người Mông không đoàn kết, nên đất đai đã bị các nước khác xâm chiếm; người Mông không có lãnh thổ, nhà nước riêng, suốt đời đi làm thuê cho các dân tộc khác…

Những vấn đề nêu trên đã và đang tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong khu vực, tạo thành những điểm nóng tôn giáo.

Hay như ở vùng Tây Nguyên trước đây, các đối tượng chống đối, cực đoan trong dân tộc cũng từng đòi thành lập đạo Tin lành Đề ga của đồng bào dân tộc bản địa để mưu đồ lập ra cái gọi là Nhà nước Đề ga độc lập. Tương tự ở Tây Nam Bộ, nơi có đông đồng bào Khmer sinh sống, chúng cũng dựng nên cái gọi là “Nhà nước Khmer Krôm” với luận điệu vu khống Nhà nước ta đàn áp sư sãi Phật giáo Nam tông Khmer Nam Bộ. Đây là thủ đoạn rất nham hiểm, trắng trợn của các thế lực thù địch hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại an ninh quốc gia, đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Bên cạnh đó, thời gian qua, tại một số địa phương xuất hiện những mặt hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành xã hội như vấn đề đầu tư, ô nhiễm môi trường, giải phóng mặt bằng, đền bù giải tỏa… Triệt để lợi dụng vấn đề này, các đối tượng chống đối cực đoan trong tôn giáo tìm mọi cách để ngụy tạo chứng cứ, thường xuyên tuyên truyền, xuyên tạc nhằm hạ thấp uy tín và vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và các ban, ngành chức năng có liên quan. Từ đó tạo tâm lý tiêu cực, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với các cấp uỷ đảng, chính quyền, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cao hơn nữa có thể kích động quần chúng tín đồ tụ tập đông người, gây rối an ninh, trật tự hoặc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, chống phá chế độ.

Do đó, mọi chức sắc, tín đồ tôn giáo nói riêng và mỗi người dân Việt Nam nói chung hãy luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động lên án những mưu đồ xấu của kẻ địch. Đồng thời, tích cực tham gia đấu tranh, đẩy lùi việc lợi dụng vấn đề chính trị để chống phá ra khỏi đời sống tôn giáo, góp phần làm cho các hoạt động tôn giáo trở nên thuần khiết, tốt đẹp như bản chất vốn có. Nâng cao nhận thức, tinh thần cảnh giác của người dân, phân biệt rõ hoạt động tôn giáo đúng nghĩa và hành vi lợi dụng tôn giáo để kích động chống phá của kẻ xấu. Mọi hoạt động tôn giáo phải tuân thủ giáo lý, giáo luật, tuân thủ luật pháp, đem lại đời sống đạo pháp đúng nghĩa, đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tôn giáo cho đồng bào trên cơ sở tuân thủ pháp luật của Nhà nước.

Nguy hiểm từ nhận thức “không làm thì không sai”

 


Hiện tượng cán bộ sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám thực thi công vụ không phải là hiện tượng đơn lẻ mà diễn ra ở nhiều địa phương, kể cả một số bộ, ngành Trung ương. Tâm lý sợ sai thể hiện rõ trong giải ngân vốn đầu tư công, quản lý đất đai, bất động sản, mua sắm trang thiết bị khu vực công, cung cấp dịch vụ liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp, đã được báo chí phản ánh.

Tâm lý sợ sai từ những lĩnh vực nhạy cảm có dấu hiệu lan rộng sang nhiều lĩnh vực, thậm chí xuất hiện hiện tượng né việc, cán bộ không muốn ký bất cứ văn bản nào.

 Đặc biệt, cán bộ trong quá trình luân chuyển công tác càng có biểu hiện ngại việc, có tâm lý thủ thế, tránh sai sót, để chờ hết thời gian luân chuyển. Có đơn vị phản ánh họ rất nản lòng với một vị cán bộ thuộc diện này, bởi bất cứ văn bản nào trình lên cũng bị vị cán bộ này hỏi ngược lại rằng: “Tôi có đủ thẩm quyền ký không?”, rồi lưu văn bản đó lại để nghiên cứu, gây ách tắc công việc, mặc dù những văn bản trên hoàn toàn đúng thẩm quyền và theo thông lệ thường kỳ.  

Điều này làm trì trệ và chậm trễ nền công vụ, bào mòn và giảm niềm tin của người dân, ảnh hưởng đến mọi mặt kinh tế-xã hội; cản trở nguồn lực và động lực phát triển, nhất là trong tình hình khó khăn hiện nay.

Đáng lo ngại là đang có lối nghĩ khá phổ biến trong đội ngũ cán bộ, công chức là "không làm thì không sai". Đây là dấu hiệu "tự diễn biến" trong tư tưởng chính trị của cán bộ, công chức, gây cản trở nghiêm trọng tới kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và sự phát triển chung của đất nước.

Thực tế diễn biến tư tưởng này cho thấy đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đang phân tách việc vi phạm kỷ luật với vi phạm pháp luật. Họ cho rằng vi phạm kỷ luật công vụ thì bị kỷ luật đảng (với các hình thức: Khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ), kỷ luật hành chính với các hình thức: Khiển trách, cảnh cáo, cách chức, bãi nhiệm (đối với cán bộ) hay khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, buộc thôi việc (đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý), hoặc là khiển trách, cảnh cáo, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc (với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý). Nhưng nếu vi phạm pháp luật thì cán bộ, công chức có thể sẽ phải chịu án hình sự, có thể phải ngồi tù.    

Đổ lỗi cho việc sợ sai phạm pháp luật để né việc, đùn đẩy trách nhiệm chỉ là một cách ngụy biện, bởi thực tế, cùng quy định pháp luật, cùng cơ chế nhưng một số địa phương vẫn thực hiện tốt đầu tư công, tăng trưởng kinh tế, phát triển doanh nghiệp, cán bộ vẫn năng động, sáng tạo, dám làm và làm tốt. Do đó, không thể đổ lỗi hoàn toàn do vướng mắc về quy định, cơ chế để không thực thi công vụ.