Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024

KHÔNG THỎA HIỆP VỚI THAM NHŨNG, TIÊU CỰC

 Gần đây, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thống nhất cho một số cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước thôi tham gia Trung ương và thôi giữ các chức vụ lãnh đạo. Bên cạnh luồng ý kiến chủ đạo đánh giá cao và bày tỏ niềm tin vào cuộc đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực, trong xã hội cũng xuất hiện một số ý kiến cho rằng việc xử lý triệt để như vừa qua sẽ tạo ra “khoảng trống” về cán bộ chiến lược, nguy cơ bất ổn chính trị... Vậy phía sau những quan ngại này thực chất là gì?

CÓ PHẢI VIỆT NAM ĐANG BẤT ỔN VỀ CHÍNHTRỊ?

Ổn định chế độ chính trị là một hình thái đặc biệt của vận động xã hội - sự vận động trong trật tự, kỷ cương, bảo đảm các cấu trúc, chức năng cấu thành bản chất chế độ chính trị được giữ vững, không dẫn tới rối loạn, bất ổn. Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, sự ổn định chính trị được nhìn nhận trên các phương diện: ổn định về đường lối lãnh đạo của Đảng và sự ổn định về tổ chức bộ máy của các cơ quan trong hệ thống chính trị.

Sự thay đổi nhân sự cấp cao vừa qua ở một khía cạnh nào đó gây nên sự xáo trộn nhất định nhưng tuyệt nhiên, đây không phải là sự bất ổn chính trị. Trên tất cả các khía cạnh, cả về đường lối, cả về bộ máy của hệ thống chính trị thời gian qua đều không có bất kỳ sự thay đổi nào trước biến động nhân sự cấp cao vừa qua.

Về mặt chính trị, Đảng ta vẫn tiếp tục kiên định phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội. Các nguyên tắc cơ bản như chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn được duy trì và là nền tảng trong mọi quyết định chiến lược.

Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam vẫn tiếp tục hướng tới phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và đổi mới sáng tạo. Việc thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển các khu công nghiệp và cải thiện môi trường kinh doanh tiếp tục là các mục tiêu dài hạn.

Về đối ngoại, Việt Nam kiên trì theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Những điều này có thể thấy đầy đủ trong phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tại các sự kiện chính trị quan trọng. Tại Hội nghị Trung ương 9 cho ý kiến vào đề cương các văn kiện trình đại hội XIV của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu “dự thảo các văn kiện phải thực sự xứng tầm trình Đại hội, thể hiện được “quyết tâm xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.

Trước đó, tại cuộc họp lần thứ nhất Tiểu ban Văn kiện Đại hội lần thứ XIV của Đảng, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhấn mạnh phải kiên định các nguyên tắc: “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(2).

Như vậy, tuy nhân sự ở cấp cao có sự thay đổi, nhưng đường lối, các giá trị và chiến lược được xác định từ trong cương lĩnh chính trị, trong nghị quyết các kỳ đại hội của Đảng vẫn được giữ vững. Đảm bảo độc lập, giữ vững chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ đưa đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là định hướng quan trọng trong tiến trình phát triển của nước ta.

Về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hiện nay, Việt Nam vẫn tiếp tục nỗ lực hoàn thiện bộ máy của hệ thống chính trị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Quá trình này thể hiện ở các khía cạnh quan trọng sau:

Về cải cách hành chính: Việt Nam đã, đang tiến hành cải cách hành chính toàn diện, từ đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đến cải thiện chất lượng dịch vụ công. Mục tiêu là giảm bớt phiền hà, thời gian và chi phí cho người dân và doanh nghiệp.

Về tinh gọn bộ máy: Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, xã không đủ tiêu chí. Dự kiến trong năm 2024 sẽ có 49 đơn vị hành chính cấp huyện, 1.243 đơn vị hành chính cấp xã sẽ được sáp nhập để giảm 13 huyện, 624 xã. Việc sáp nhập các đơn vị trùng chức năng nhiệm vụ bên trong các cơ quan hành chính cũng đang được các bộ ngành địa phương tiến hành. Công tác tinh giản biên chế và cơ cấu lại các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cũng đang được đẩy mạnh.

Về nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức: Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chú trọng và được coi là yếu tố then chốt. Theo đó, không chỉ tập trung vào chuyên môn nghiệp vụ mà còn chú trọng đến đạo đức nghề nghiệp và tinh thần phục vụ nhân dân.

Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng, cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng: Công tác này cũng đang được các cấp, các ngành triển khai theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị thông qua đổi mới các khâu ban hành các chỉ thị, nghị quyết đến việc giám sát, kiểm tra việc thực hiện.

Trước những thay đổi nhân sự cấp cao vừa qua, về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn không có biến độngvà tiếp tục được hoàn thiện theo các chủ trương có từ trước.

Có thể khẳng định, cả về đường lối chính trị, cả về tổ chức bộ máy, Việt Nam đều không có gì thay đổi. Nền chính trị ở Việt Nam vẫn đang tiếp tục ổn định trước những thay đổi nhân sự cấp cao vừa qua. Vậy thực chất quan điểm cho rằng ở các cơ quan trong hệ thống chính trị của Việt Nam sẽ không còn ai làm nếu tiếp tục xử lý cán bộ sai phạm và Việt Nam đang bất ổn về chính trị là gì? Phải chăng đó là âm mưu nhằm gây hoang mang trong xã hội? Cần nhận diện, hiểu điều này thế nào?

NHẬN DIỆN RÕ ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Trước khi xem xét, bản chất của quan điểm cho rằng ở các cơ quan trong hệ thống chính trị của Việt Nam sẽ không còn ai làm nếu tiếp tục xử lý cán bộ sai phạm, xin đề cập tới những kết quả công tác phòng tham nhũng xử lý cán bộ vi phạm thời gian qua.

Theo Ban Nội chính chính Trung ương, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam tiếp tục được đẩy mạnh và đạt đựợc nhiều kết quả toàn diện, góp phần quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường, củng cố thêm niềm tin của nhân dân.

Riêng năm 2023, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, trong đó lần đầu tiên có 6 cán bộ bị xử lý kỷ luật do vi phạm trong kê khai tài sản, thu nhập. Cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 606 tổ chức đảng, 24.162 đảng viên; trong đó, thi hành kỷ luật 459 đảng viên do tham nhũng, 8.863 đảng viên do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm. Cũng năm 2023, Đảng, Nhà nước đã xem xét, cho thôi giữ chức vụ, nghỉ công tác, bố trí công tác khác đối với 9 cán bộ diện Trung ương quản lý; các địa phương đã cho từ chức, miễn nhiệm, bố trí công tác khác hơn 360 trường hợp sau khi bị kỷ luật, trong đó có hơn 90 cán bộ thuộc diện tỉnh ủy, thành ủy quản lý. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng. Đặc biệt, chỉ trong vòng chưa đầy 2 tháng từ ngày 20/3 đến 19/5/2024, lần đầu tiên có tới 3 cán bộ là chủ chốt của Đảng, Nhà nước, và Quốc hội đã phảithôi giữ các chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng do vi phạm những điều đảng viên không được làm. Trên cơ sở quyết định của Trung ương, Quốc hội cũng thực hiện các thủ tục cho các cán bộ này thôi giữa các chức vụ là Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hộivà cho thôi thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội. Đây là những điều chưa có trong lịch sử Đảng lãnh đạo cách mạng.

Những con số nêu trên là minh chứng Đảng nói là làm, không có chuyện chỉ “tắm từ vai” trong đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực. Nhưng từ lúc niềm tin được nâng lên cũng là lúc sự quyết liệt ngày một chạm gần hơn đến một số nhóm lợi ích tiêu cực. Từ đây, ngày càng xuất hiện tâm lý muốn trì hoãn, ngăn chặn cuộc đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực, dưới dạng khuyến nghị xã hội cho rằng xử lý cán bộ sai phạm như vậy sẽ không còn ai làm việc, bởi sai là do thể chế, cùng vận hành trong thể chế thì ai cũng sai phạm; rồi xử lý thay đổi cán bộ liên tục là biểu hiện của mất ổn định chính trị, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin, đến môi trường đầu tư, đến sự phát triển của đất nước(!). Lý do này kích động hình thành trong xã hội tâm lý thỏa hiệp với tham nhũng, tiêu cực, và tiến tới kêu gọi dừng hoặc bẻ lái cuộc đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực đi theo một hướng khác.

Không khó để có thể nhận diện ý định của các đề xuất trên. Cần phải nhận thức rằng, bất kỳ sự đồng ý thỏa hiệp nào với tham nhũng, tiêu cực lúc này đều là sai lầm. Đồng ý dù thể chế có thể cònmột số hạn chế cần khắc phục, nhưng nguyên nhân chính của sai phạm thường nằm ở ý thức và hành vi của từng cá nhân cán bộ. Việc vi phạm pháp luật, hoặc lạm dụng quyền lực là do đạo đức và tinh thần trách nhiệm của cán bộ không tốt, chứ không hoàn toàn do thể chế.

Việc thi hành kỷ luật Đảng là một mặt công tác đặc biệt hệ trọng của Đảng - một công việc thường xuyên như “đánh răng, rửa mặt” hằng ngày. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính".

Ở bình diện khác, cần nhận thức, việc xử lý cán bộ sai phạm quyết liệt là cần thiết. Việc làm này góp phần duy trì kỷ luật, kỷ cương và xây dựng một bộ máy trong sạch, vững mạnh; đồng thời cũng gửi đi thông điệp rằng mọi hành vi sai phạm sẽ bị trừng phạt, điều này góp phần ngăn ngừa các hành vi tiêu cực trong tương lai. Sự đồng ý thỏa hiệp với tham nhũng, tiêu cực sẽ là sự dung dưỡng cho mầm mống tham nhũng tiêu cực tồn tại, phát triển.

Có thể thấy, mặc dù việc xử lý cán bộ có thể dẫn đến sự thiếu hụt tạm thời về nhân lực, nhưng điều này mở ra cơ hội cho những cán bộ có năng lực, đạo đức tốt lên thay thế lãnh đạo, quản lý. Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Việt Nam vẫn đang tiếp tục phát triển, đảm bảo cung cấp đủ nhân lực chất lượng cao cho bộ máy nhà nước.

Việc xử lý nghiêm minh các cán bộ sai phạm là cần thiết, đem lại nhiều lợi ích lâu dài:

Thứ nhất, đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm sẽ góp phần duy trì kỷ cương, kỷ luật trong bộ máy nhà nước -vấn đề mang tính nền tảng để xây dựng một bộ máy hành chính trong sạch, hiệu quả và tin cậy.

Thứ hai, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm góp phần nâng cao uy tín và niềm tin của nhân dân. Uy tín của đảng và chính quyền phụ thuộc vào sự minh bạch, công bằng trong việc xử lý các hành vi sai phạm, bất kể người vi phạm là ai.

Thứ ba, việc loại bỏ những cán bộ sai phạm sẽ khuyến khích, tạo điều kiện cho những cán bộ trong sạch, có năng lực, đạo đức thực sự lên thay thế, từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Từ đó, xây dựng một môi trường làm việc lành mạnh, nơi mà năng lực và phẩm chất được coi trọng hơn là mối quan hệ hay sự thỏa hiệp.

Thứ tư, quá trình xử lý cán bộ sai phạm thường đi kèm với yêu cầu các tổ chức cơ quan có liên quan tiến hành rà soát, bổ sung và “bịt” lại các lỗ hổng trong quản lý điều hành để ngăn ngừa các hành vi tương tự trong tương lai. Việc hoàn thiện này cũng sẽ giúp tạo ra một cơ chế quản lý minh bạch, hiệu quả hơn, giảm thiểu khả năng xảy ra sai phạm.

Thứ năm, tham nhũng không chỉ làm suy yếu nền kinh tế mà còn gây ra bất ổn xã hội. Xử lý tham nhũng giúp bảo đảm sự công bằng, giảm thiểu bất bình đẳng và duy trì ổn định xã hội. Đây là nền tảng cho sự phát triển bền vững của quốc gia.

TIẾP TỤC KIÊN ĐỊNH, KIÊN TRÌ CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC

Từ thực tiễn nêu trên, có thể thấy, để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, để nhân dân tin tưởng và làm theo chủ trương, chính sách của Đảng, chung tay phát triển đất nước thì việc chống tham nhũng, tiêu cực cần phải tiếp tục kiên định và kiên trì.

Một số tham góp về vấn đề này như sau:

Không dung dưỡng tham nhũng, tiêu cực để phát triển bền vững.

Thực tế cho thấy, chưa có một chính đảng nào có thể tồn tại lâu dài nếu dung dưỡng cho tham nhũng, tiêu cực. Nó không chỉ làm suy yếu uy tín và niềm tin của nhân dân đối với đảng cầm quyền mà còn làm suy yếu hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, gây lãng phí nguồn lực và làm giảm hiệu suất công việc. Khi hệ thống hành chính bị tham nhũng, tiêu cực xâm nhập, các quyết định chính sách có thể bị méo mó, không phục vụ lợi ích chung mà chỉ phục vụ lợi ích của một nhóm nhỏ có quyền lực.

Tham nhũng, tiêu cực làm gia tăng chi phí kinh doanh, giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư và kìm hãm sự phát triển kinh tế. Các dự án phát triển có thể bị đình trệ hoặc chất lượng kém do nguồn lực bị thất thoát vào các hoạt động tham nhũng.

Tham nhũng, tiêu cực làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo và sự bất công trong xã hội, tạo ra sự bất bình đẳng và xung đột lợi ích, gây mất đoàn kết và ổn định xã hội.

Khi tham nhũng, tiêu cực trở thành phổ biến trong hàng ngũ lãnh đạo, khả năng lãnh đạo và quản lý của Đảng sẽ bị suy giảm nghiêm trọng.

Đảng Cộng sản Việt Nam muốn duy trì vai trò lãnh đạo phải tiếp tục kiên trì đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực.

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh với tham nhũng, tiêu cựclàmột trong những nhiệm vụ then chốt nhằm bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh của Đảng, từ đó củng cố niềm tin của nhân dân và duy trì sự phát triển bền vững của đất nước. Dưới đây là một số lý do và gợi mở biện pháp cụ thể để đạt được mục tiêu này:

Một là, luôn duy trì kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Kỷ luật nghiêm minh tạo ra môi trường làm việc công bằng, nơi mà mọi người đều biết rằng vi phạm sẽ bị trừng phạt, và hành động đúng đắn sẽ được tôn vinh.

Hai là, loại bỏ những phần tử tiêu cực ra khỏi bộ máy, tạo điều kiện cho những cán bộ có năng lực, phẩm chất, đạo đức tốt được thăng tiến. Xây dựng một đội ngũ cán bộ chất lượng cao là yếu tố quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược của Đảng và nhà nước.

Ba là, củng cố niềm tin của nhân dân. Nhân dân luôn đánh giá cao một chính quyền trong sạch, minh bạch và quyết liệt trong việc đấu tranh chống tham nhũng. Đây cũng là nền tảng cho sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội.

Bốn là, tạo ra môi trường phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh. Thực tế cho thấy, tham nhũng, tiêu cực làm méo mó các chính sách phát triển và làm gia tăng chi phí cho doanh nghiệp và người dân. Kiên quyết đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực giúp tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch và công bằng. Và một môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh sẽ thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Năm là, đảm bảo sự trong sạch và hiệu quả của bộ máy nhà nước. Từ đó tăng cường khả năng thực thi các chính sách và chương trình phát triển.

Sáu là, tăng cường sự lãnh đạo và giám sát của Đảng. Việc này giúp phát hiện và xử lý kịp thời các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng trong nội bộ bảo đảm rằng các nguyên tắc và chính sách của Đảng được thực thi nghiêm túc.

Bảy là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật. Đảng cần chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện các thể chế pháp luật về phòng chống tham nhũng, bảo đảm tính đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật.

Tóm lại, để phát huy vai trò lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục kiên quyết và kiên trì đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực. Điều này không chỉ bảo vệ uy tín và sự trong sạch của Đảng mà còn là điều kiện cần thiết để bảo đảm sự phát triển bền vững, công bằng và phồn vinh cho đất nước./.

Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững, Đảng cần phải tiếp tục kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng một bộ máy trong sạch, vững mạnh và duy trì niềm tin của nhân dân. Việc này không chỉ bảo vệ uy tín của Đảng mà còn góp phần quan trọng trong việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và phát triển.

 

PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI ĐỂ XUYÊN TẠC CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM - THỦ ĐOẠN NHAM HIỂM

 Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công có giá trị và ý nghĩa khai mở thời đại sâu sắc - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đó là giá trị to lớn, mãi tồn tại với thời gian, không thế lực nào có thể phủ nhận cũng như lợi dụng điều đó để xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

1. Phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Mười - điều không thể

Đã từ lâu, các thế lực thù địch, phản động không từ một thủ đoạn nào để chống phá cách mạng nước ta. Gần đây, họ có sự điều chỉnh, tập trung mũi dùi vào nền tảng tư tưởng, lý luận của cách mạng Việt Nam. Thực hiện thủ đoạn đó, họ đã viện đủ lý do đưa ra các luận điệu để xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận giá trị vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Mười, cho rằng: “Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội tại cái nôi của Cách mạng Tháng Mười là tất yếu, chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, ảo tưởng”. Từ đó, họ “khuyến cáo” các dân tộc không nên dẫm vào “vết xe đổ” đó, cần nói “không” với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và “Việt Nam không nên đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười”, bởi theo họ đó là “con đường không có tương lai”, “đi chệch quy luật phát triển của xã hội loài người”, v.v.

Tuy nhiên, dù các thế lực thù địch có ra sức phủ nhận, chống phá, nhưng các giá trị của Cách mạng Tháng Mười vẫn luôn trường tồn và mãi là kim chỉ nam đối với cách mạng thế giới.

Điều đó được thể hiện rõ khi Cách mạng Tháng Mười đã tạo bước đột phá thực tiễn quan trọng, đưa lý luận khoa học trở thành hiện thực sinh động. Đó cũng là thực tiễn mà chưa có cuộc cách mạng nào trên thế giới làm được, kể cả những thử nghiệm đầu tiên và bị thất bại của Công xã Pari (năm 1871). Nhờ có bước đột phá vĩ đại này mà tiến trình phát triển của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực. Bước đột phá này chứng tỏ tiềm năng, sức sống mãnh liệt, sự sáng tạo của lý luận khoa học và cách mạng. Từ đây, chủ nghĩa xã hội được biết đến không chỉ là một học thuyết khoa học, một phong trào, mà còn là một chế độ xã hội cụ thể, thành hiện thực sinh động, có sức mạnh vô cùng to lớn, mở đường cho các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do.

Giá trị của Cách mạng Tháng Mười còn được thể hiện khi đưa giai cấp công nhân từ thân phận nô lệ trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng, chủ nhân của xã hội mới. Đây cũng là điều mà tất các các cuộc cách mạng xã hội trước đó đều không thực hiện được. Lần đầu tiên một cuộc cách mạng không do giai cấp bóc lột, thống trị lãnh đạo, mà do giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã tiến hành thành công. Thành công của Cách mạng Tháng Mười còn có giá trị và ý nghĩa “khai mở, vạch thời đại” vô cùng sâu sắc - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, với chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản đã ở vào vị thế đảng cầm quyền. Cho dù lịch sử có biến đổi, thăng trầm như thế nào, thì dấu mốc mở đầu thời đại mới của Cách mạng Tháng Mười mãi mãi không thay đổi. Không ai có thể phủ nhận giá trị mở đầu, mở đường của Cách mạng Tháng Mười. Đó là điều chắc chắn.

Không dừng lại ở đó, Cách mạng Tháng Mười còn có sức hấp dẫn và lan tỏa rất lớn bởi giá trị nêu gương, có ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các cuộc cách mạng trong thời đại ngày nay, cũng như quá trình phát triển của thế giới hiện đại. Ở góc độ này, giá trị tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười đã đặt nền móng để hiện thực hóa lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Do những ảnh hưởng có giá trị mang tính “vạch thời đại”, mang tầm nhân loại, được các quốc gia, dân tộc không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo, đã khẳng định sức sống trường tồn, tinh thần bất diệt của Cách mạng Tháng Mười. Đó là giá trị to lớn, có tính bước ngoặt, trường tồn cả về lý luận và thực tiễn mà không thế lực nào có thể phủ nhận.

2. Không thể phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga để xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Thực ra, khi công kích, phủ nhận giá trị vĩ đại nhất, sâu sắc nhất, triệt để nhất của Cách mạng Tháng Mười mang lại, điều các thế lực thù địch, phản động nhắm tới là “gián tiếp” phủ nhận, xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Luận điệu này tuy không mới, nhưng thủ đoạn thì tinh vi, xảo quyệt hơn, khó nhận diện hơn. Bằng con đường vòng, họ tấn công vào nền tảng lý luận của cách mạng nước ta, gây tâm lý mơ hồ, hoài nghi và làm xói mòn niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; từ đó, hướng lái cách mạng Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, mưu đồ đó sẽ không bao giao trở thành hiện thực, và nhất định sẽ bị phá sản, bởi những lý do sau:

Trước hết, cần khẳng định rằng, Cách mạng Tháng Mười Nga và cách mạng Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với nhau; trong đó, Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng điển hình, mở đầu cho thời kỳ cách mạng mới trên thế giới và cách mạng Việt Nam là một bộ phận, có quan hệ chặt chẽ, khăng khít với cách mạng thế giới. Con đường mà cách mạng Việt Nam đang đi hôm nay là con đường mà Cách mạng Tháng Mười Nga đã khai mở. Tuy nhiên, hình thức, bước đi và phương pháp cụ thể là không hoàn toàn giống nhau, phụ thuộc vào khả năng xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan; giữa tình thế và thời cơ cách mạng. Bên cạnh đó, sự vận dụng, phát triển những giá trị của Cách mạng Tháng Mười vào thực tiễn vận động, phát triển của mỗi nước, mỗi khu vực và ở mỗi giai đoạn lịch sử cũng khác nhau, v.v. Cho nên, sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể ở Liên Xô và các nước Đông Âu không đồng nghĩa với “sự cáo chung của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội” như luận điệu xuyên tạc mà các thế lực thù địch, phản động rêu rao. Nguyên nhân căn bản, trực tiếp, có tính quyết định dẫn đến sự tan rã đó là do sai lầm trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của đảng cầm quyền, cùng sự phản bội của một số lãnh đạo cao nhất ở các nước đó đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì thế, không thể đồng nhất sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu để phủ nhận giá trị “vạch thời đại” của Cách mạng Tháng Mười và càng không thể lấy đó để xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cách lập luận theo kiểu “bắc cầu” này là không đúng về phương pháp luận và không phù hợp với thực tiễn cách mạng.

Hai là, khi xem xét giá trị của một học thuyết khoa học và cách mạng ở tầm toàn nhân loại, chúng ta không chỉ kiểm chứng thông qua thực tiễn của một cuộc cách mạng cụ thể, ở một nước cụ thể, mà phải là kết quả kiểm chứng của nhiều cuộc cách mạng, ở nhiều nước và trong nhiều giai đoạn lịch sử cách mạng khác nhau. Thông qua thực tiễn, mỗi cuộc cách mạng đó, chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ có thể minh chứng tính đúng đắn trên từng phương diện thực tiễn sinh động, cụ thể, gắn với hoàn cảnh của nó. Chân lý phải được kiểm tra bằng thực tiễn, nhưng không phải thực tiễn đơn lẻ, mà là thực tiễn phổ biến của đông đảo nhân dân và được lặp đi, lặp lại nhiều lần. Mặt khác, không phải chỉ có thành công, thậm chí qua hoạt động thực tiễn, nếu thất bại cũng chính là tiêu chí để kiểm tra lý luận. Cho nên, thất bại của một cuộc cách mạng cụ thể, không hẳn là thất bại của lý luận; trái lại, tính đúng đắn của lý luận càng được xác thực chính xác hơn. Vấn đề đặt ra là, phải “phân tích cụ thể một tình hình cụ thể” không thể quy chụp võ đoán, chủ quan, ngộ nhận.

Ba là, lịch sử các cuộc cách mạng trên thế giới cho thấy, chủ nghĩa tư bản khi mới ra đời cũng phải trải qua những thất bại đau đớn, trước sự phản công quyết liệt của chủ nghĩa phong kiến và các lực lượng đối lập, cùng những sai làm chủ quan của giai cấp tư sản. Chẳng hạn, cuộc cách mạng tư sản đầu tiên nổ ra tại Hà Lan bắt đầu từ tháng 8/1566, nhưng mãi đến năm 1648, tức là sau 82 năm đấu tranh bền bỉ, cuối cùng chính quyền Tây Ban Nha công nhận nền độc lập của Hà Lan. Hay như cuộc Cách mạng tư sản Pháp bắt đầu từ tháng 6/1791, cũng phải cần tới ba lần khởi nghĩa và một lần đảo chính, đến tháng 7/1794 mới lật đổ được chế độ phong kiến, đưa giai cấp tư sản lên cầm quyền, mở ra thời đại thắng lợi và củng cố quyền thống trị của giai cấp tư sản trên phạm vi thế giới. Điều đó cho thấy, thực hiện cách mạng chưa bao giờ là dễ dàng, có thể sẽ thành công hoặc bị thất bại, nếu như giai cấp lãnh đạo cách mạng không sáng suốt lựa chọn con đường cách mạng đúng đắn và mắc những sai lầm nghiêm trọng.

Bốn là, thực tiễn cho thấy, hiện nay, ở các nước đang phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, như: Việt Nam, Trung Quốc, Cuba,… những giá trị tư tưởng và sự nghiệp của Cách mạng Tháng Mười vẫn sống và phát triển, đạt được những thành tựu to lớn. Riêng đối với cách mạng Việt Nam, sự lựa chọn đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến. Tiếp đó, như một sự phát triển tất yếu, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; vượt qua khủng hoảng, đạt thành tựu “to lớn, có ý nghĩa lịch sử”, toàn diện trên các lĩnh vực trong gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, để “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Đó là sự thật lịch sử, khẳng định giá trị trường tồn không gì có thể thay thế của Cách mạng Tháng Mười, đặt nền móng cho việc hiện thực hóa lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Từ những phân tích trên cho thấy, “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Mọi luận điệu phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Mười để xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phi lý và không thể chấp nhận được.

 

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “CỐT TINH, KHÔNG CỐT ĐÔNG” TRONG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

 Từ thực tiễn xây dựng quân đội và kinh nghiệm tổ chức kháng chiến, các nhà nước quân chủ trong lịch sử Việt Nam đã đúc kết được nhiều bài học giữ nước, trong đó có quan điểm xây dựng quân đội thường trực của quốc gia “cốt tinh, không cốt đông”, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc nền độc lập và vẹn toàn cương vực quốc gia. Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng xây dựng quân đội của các triều đại quân chủ trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “tinh, gọn, mạnh” hiện nay là việc làm cần thiết, có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.

Xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại là chủ trương nhất quán, đúng đắn, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Ngoài việc kiên định nguyên tắc quản lý, lãnh đạo, coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tinh thần; gắn với đổi mới công tác huấn luyện-đào tạo; tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật; thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực dự bị chất lượng cao... thì một trong những vấn đề quan trọng là phải gắn xây dựng lực lượng tinh nhuệ với điều chỉnh và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, biên chế LLVT phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh lịch sử cụ thể.

Để tiến hành thắng lợi khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm có tư tưởng xây dựng LLVT có tổ chức chặt chẽ, cơ cấu nhiều thứ quân, trong đó quân triều đình quản lý giữ vai trò quyết định. LLVT triều Lý, Trần bao gồm quân chủ lực của triều đình, quân của quý tộc (vương hầu, tôn thất), quân của các lộ, phủ, châu (quân địa phương) và dân binh làng, xã, động, bản. Quân chủ lực của triều đình do nhà nước trực tiếp quản lý, chỉ huy, gồm các thành phần cấm quân và sương quân. Cấm quân là công cụ bạo lực chủ yếu, chỗ dựa quan trọng nhất của chính quyền quân chủ, là trụ cột của quốc phòng, an ninh và là lực lượng chủ lực trong các cuộc chiến tranh giữ nước.

Đến triều Vua Lê Thánh Tông, cùng với việc cải cách hành chính, chia cả nước thành 13 đạo, tổ chức quân đội cũng được cải tổ một cách toàn diện tạo sự thống nhất với hệ thống tổ chức chặt chẽ, quy củ. Lực lượng quân đội được chia thành hai bộ phận: Quân triều đình và quân các địa phương. Quân triều đình gồm cấm binh (còn gọi là cấm vệ quân) và quân ngũ phủ. Cấm binh được chia thành vệ, sở, vẫn làm nhiệm vụ bảo vệ vua, hoàng cung và kinh thành. Quân ngũ phủ được nhà nước xác định rõ là bộ phận quan trọng của quân đội do triều đình trực tiếp quản lý, thường trực đóng giữ trên các địa bàn trọng yếu của đất nước.

Để phù hợp với cách tác chiến (nhanh, mạnh, thần tốc), kể từ khi trở thành Bắc Bình vương, Nguyễn Huệ quyết định biên chế quân đội thành hệ thống gồm đội, cơ, đạo và doanh. Trong những trường hợp cần thiết, quân đội Tây Sơn còn được tổ chức thành các đơn vị quy mô lớn gọi là đại quân gồm 2-3 doanh do một đại đô đốc chỉ huy. Để tạo nên sức mạnh tổng hợp, tượng binh, kỵ binh, pháo binh và thủy binh được Vua Quang Trung quan tâm chú trọng phát triển và ngày càng hoàn thiện theo hướng gọn, tinh nhuệ, là lực lượng nòng cốt trong củng cố quốc phòng và bảo vệ nền độc lập...

Tiếp thu truyền thống quân sự dân tộc và tinh hoa quân sự thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết sáng tạo trên bình diện tư tưởng, lý luận cũng như trong thực tiễn xây dựng LLVT. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng LLVT ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Tháng 3/1947, lực lượng dân quân du kích được thống nhất về tổ chức, xây dựng thành một bộ phận đông đảo của LLVT nhân dân, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của cấp xã đội, huyện đội, tỉnh đội với quy mô phổ biến là tiểu đội, trung đội, đại đội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu ngay tại địa phương bằng các thứ vũ khí có trong tay với hình thức tác chiến linh hoạt, sáng tạo.

Tháng 4/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương có quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn, được cấp ủy đảng lãnh đạo, cơ quan quân sự địa phương chỉ huy; có khả năng tác chiến độc lập, làm nòng cốt phát triển chiến tranh nhân dân địa phương. Cùng với việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, Đảng ta rất chú trọng tới việc xây dựng các đơn vị chủ lực và chuẩn bị các điều kiện tiến tới xây dựng các đơn vị cơ động cấp đại đoàn. Trong giai đoạn 1949-1952, các đại đoàn bộ binh chủ lực (Đại đoàn 308, 304, 312, 316, 320, 325) và Đại đoàn Công pháo 351 lần lượt được thành lập.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện chủ trương của Đảng, Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không-Không quân, các binh chủng: Thông tin liên lạc, Đặc công... được thành lập và nhanh chóng trưởng thành. Đặc biệt, các đơn vị chủ lực của bộ binh có bước phát triển mạnh về tổ chức với quy mô từ cấp sư đoàn phát triển thành quân đoàn binh chủng hợp thành (Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232) vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến. Đây là lực lượng cơ động chiến lược hoạt động trên địa bàn cả nước, hoặc trên từng chiến trường theo yêu cầu, nhiệm vụ để tiến hành tác chiến tập trung, thực hành các trận quyết chiến chiến lược, giành thắng lợi quyết định trong chiến tranh cách mạng.

Phương thức tổ chức ba thứ quân thể hiện đậm nét tính nhân dân của LLVT do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng, lãnh đạo. Thành công trong việc xây dựng LLVT ba thứ quân, nòng cốt là Quân đội nhân dân, là cơ sở quan trọng để Đảng phát huy thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh. Thế trận đó cho phép chúng ta thực hiện chiến tranh chính quy bằng các binh đoàn chủ lực kết hợp chặt chẽ với các hoạt động tác chiến của lực lượng tại chỗ thuộc bộ đội địa phương và dân quân du kích, với chiến tranh nhân dân địa phương, phong trào toàn dân đánh giặc và phong trào đấu tranh chính trị của đông đảo quần chúng, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong thực tiễn, do yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu xây dựng Quân đội đặt ra trong từng thời kỳ, Đảng ta đã nhiều lần điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ. Đặc biệt, hiện nay, trong điều kiện nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ đặt ra ngày càng cao; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động tới tất cả lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh ngày càng sâu sắc thì việc kiện toàn tổ chức, biên chế của các cơ quan, đơn vị nói riêng, điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội nói chung là vấn đề khách quan, cấp thiết, góp phần xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại, là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng BVTQ.

Từng cấp cần chủ động làm tốt việc rà soát, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, biên chế, bảo đảm trang bị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới. Trước hết, triển khai thực hiện có hiệu quả đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo. Đối với khối cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược, tập trung rà soát, điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng giảm đầu mối trung gian và quân số phục vụ, bảo đảm; bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, khắc phục sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ để tăng cường quân số cho các đơn vị thành lập mới, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo.

Đối với khối đơn vị chiến đấu, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị để điều chỉnh tổ chức theo hướng tăng cường sức mạnh chiến đấu, khả năng cơ động. Sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sản xuất quốc phòng và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế các nhà trường Quân đội phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ. Quá trình rà soát, điều chỉnh phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, theo hướng có giảm, có tăng, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và lực lượng. Qua đó, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, biên chế, trang bị của Quân đội, với cơ cấu hợp lý, số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới.

 

CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ THỰC SỰ LÀ “LINH HỒN, MẠCH SỐNG” CỦA QUÂN ĐỘI

 Ban Công tác chính trị của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là cơ quan chính trị đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự ra đời Ban Công tác chính trị là một quyết định đúng đắn, kịp thời, xác lập và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội ngay từ những ngày đầu mới thành lập; tạo cơ sở cho việc xây dựng, phát triển và ngày càng hoàn thiện cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các cấp trong Quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ từng thời kỳ, giai đoạn, đặc biệt trong tình hình hiện nay.

Với vị trí, vai trò là cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng trong xây dựng Quân đội về chính trị, đảm nhiệm công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội; trong suốt 80 năm qua, cùng với quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội, Tổng cục Chính trị đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, góp phần cùng toàn quân, toàn dân tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám; đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; làm tròn nhiệm vụ quốc tế cao cả. Từ khi đất nước thống nhất đến nay, Quân đội đã phát huy tốt vai trò là lực lượng nòng cốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong suốt chặng đường vẻ vang của mình, Tổng cục Chính trị đã có những đóng góp to lớn làm cho công tác Đảng, công tác chính trị thực sự là “linh hồn, mạch sống” của Quân đội... Trong 80 năm qua, các thế hệ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ Tổng cục Chính trị luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; xây đắp nên truyền thống vẻ vang.

Hiện nay, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Trong thời gian tới, Tổng cục Chính trị cần thường xuyên quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện thắng lợi các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc… Xây dựng Đảng bộ Cơ quan Tổng cục Chính trị trong sạch, vững mạnh tiêu biểu, góp phần xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong Tổng cục và toàn quân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm “người trước, súng sau” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng Quân đội, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng kiên định, vững vàng; đoàn kết, thống nhất cao, sẵn sàng nhận và phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác dự báo, tham mưu chiến lược về công tác Đảng, công tác chính trị. Để phát huy sức mạnh tổng hợp trong hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, Tổng cục Chính trị, các cơ quan của Tổng cục cần thường xuyên phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với các ban, bộ, ngành của Trung ương, các cấp, các ngành, các đoàn thể của Trung ương và địa phương; bảo đảm triển khai các hoạt động đồng bộ, thống nhất, thông suốt và hiệu quả mục tiêu xây dựng Quân đội về chính trị.

 

NHÂN VĂN - GIÁ TRỊ ĐỊNH DANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ

 Cái đẹp mang tên Bộ đội Cụ Hồ có từ quá khứ, hiển hiện trong cuộc sống hôm nay với những giá trị tinh thần to lớn, bền vững và sức lan tỏa rộng rãi. Đó là những vầng sáng có thực trong cuộc sống hôm nay. Mỗi việc tốt được làm nên từ phẩm chất, trí tuệ, tâm hồn của Bộ đội Cụ Hồ rất xứng đáng được ghi nhận. Tôi nghĩ rằng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ sẽ có sức truyền cảm mạnh mẽ không chỉ trong Quân đội ta mà còn lan rộng ra trong cả nước và thế giới.

1. Những gì tốt đẹp thuộc về truyền thống Bộ đội Cụ Hồ không phải tự nhiên mà có, cũng chẳng phải là kết quả có được chỉ qua ngày một ngày hai, mà nó chính là hành trình được hình thành, kết tụ, bồi đắp lâu dài. Như phù sa có trong một dòng chảy vạm vỡ đi suốt thời gian, không gian kỳ vĩ, trải muôn vàn thăng trầm quanh co để tạo dựng thành văn hóa của một đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng quang vinh.

Đấy không phải là sự tô hồng mà chính là lịch sử, là chặng đường 80 năm Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, hiếu nghĩa với dân, vượt qua gian khó, hy sinh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao phó. Đó cũng là kết quả tất yếu để hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trở thành biểu tượng tốt đẹp của lòng yêu nước, thương dân, của đạo đức, phẩm chất cao cả và những cống hiến to lớn cho dân tộc và nhân loại. Nói đến văn hóa dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam không thể không khẳng định tính nhân văn của Quân đội ta-một đội quân cách mạng đã làm nên tính chính danh của Bộ đội Cụ Hồ.

Trước hết cần nói ngay rằng, chủ nghĩa nhân văn là một trong những giá trị cao quý của loài người. Đó chính là cái chung, cái phổ quát mang tầm nhân loại; là một trong những tiêu chuẩn cơ bản để con người hướng tới sự tốt đẹp, văn minh. Chủ nghĩa nhân văn được coi là tư tưởng, quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp.

Chủ nghĩa nhân văn bao hàm cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và nhân loại. Chủ nghĩa nhân văn đương nhiên phải lấy con người làm trung tâm, vị thế con người luôn được đặt vào số 1 trên hành tinh và được nhìn nhận, soi chiếu trước hết qua những đóng góp, cống hiến của con người cho đất nước, quê hương mình.

Chủ nghĩa nhân văn khi trở thành cách nghĩ, cách sống của một dân tộc mặc nhiên sẽ là cốt lõi của nền văn hóa cộng đồng, quốc gia, với bản sắc riêng mang dấu ấn lịch sử rành mạch, dẫu rằng không thể bỏ qua sự giao thoa, tiếp biến với cái chung toàn cầu. Lịch sử đã chứng minh rằng, dân tộc Việt Nam luôn đề cao nhân nghĩa mà hạt nhân của nó không gì khác là sự yêu thương.

Yêu thương, nhân nghĩa, bao dung đã trở thành căn tính của người Việt. Từ thế kỷ 15, Nguyễn Trãi từng viết trong “Bình Ngô đại cáo”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Sau này, xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh suy cho cùng cũng là lòng yêu nước, thương dân, đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta/ Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa/ Chỉ biết quên mình cho hết thảy/ Như dòng sông chảy nặng phù sa”.

2. Quân đội ta vừa được kế thừa truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam bồi đắp, tỏa sáng từ mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước bi tráng vừa được giáo dục, phát huy từ sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Truyền thống dân tộc được hòa quyện vào tư tưởng tiến bộ của thời đại tạo ra bản chất chế độ định hướng chủ nghĩa xã hội cũng là bản chất của Quân đội ta vốn từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ.

Lý tưởng của Đảng cũng là khát vọng của dân tộc; khát vọng đất nước độc lập, tự do, non sông hòa bình, thống nhất và đồng bào được ấm no, hạnh phúc cũng là lý tưởng của Quân đội ta. Lý tưởng cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ lựa chọn hướng tới dân tộc và nhân loại, không vì lợi ích của riêng ai hay của một nhóm người nào cả.

Chủ nghĩa nhân văn cao cả tập trung ở đó, là sự trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cũng như dân tộc Việt Nam, Quân đội ta tha thiết yêu hòa bình. Chiến tranh luôn là lựa chọn cuối cùng của chúng ta và các cuộc kháng chiến giải phóng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, của Quân đội ta thấm đẫm lòng yêu nước nồng nàn. Đấy là các cuộc kháng chiến chính nghĩa, có sức mạnh vô địch của lòng dân đoàn kết đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Biểu hiện nhân văn có trong hầu hết hoạt động của Quân đội, từ tinh thần chiến đấu dũng cảm trên mặt trận, chiến trường ác liệt đến tình quân dân cá nước, tình đồng chí, đồng đội gắn bó, cách đối xử với tù, hàng binh... Chúng ta chưa bao giờ lấy thù hận để kích hoạt chiến tranh xung đột, càng không lấy oán thù trả oán thù khi đối phương đã bị thất bại.

Kết thúc 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” với hàng nghìn tù binh Pháp được đối xử tử tế. Ngày 10/10/1954, Thủ đô Hà Nội tưng bừng đón đoàn quân chiến thắng trở về trong cuộc tiếp quản hòa bình. Sau hơn 20 năm "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", Việt Nam lại viết nên khúc khải hoàn ca mới với dấu mốc lịch sử rực rỡ ngày 30/4/1975. Kẻ thù của ta từng rêu rao, tưởng tượng ra một cuộc "tắm máu" tàn khốc bởi “bàn tay sắt của cộng sản” sau khi Sài Gòn bị thất thủ nhưng không có chuyện đó. Thực tế hoàn toàn không có một cuộc trả thù nào dành cho kẻ bại trận.

Những người lính giải phóng khi đã đi đến đích chiến thắng cuối cùng rưng rưng ngắm bầu trời hòa bình, rồi nghẹn ngào thốt lên: “Tự do xanh quá, mênh mông quá” (Hữu Thỉnh). Trước đó, biết bao người lính cách mạng cùng những người thân nhất của họ đã phải gánh gồng số phận nghiệt ngã của dân tộc trên vai: “Một đời người mà chiến chinh nhiều quá/ Em níu giường, níu chiếu đợi anh" (Hữu Thỉnh). Và thật xót xa khi nói rằng đã có hàng triệu người thương vong trong cuộc chiến kéo dài thăm thẳm đó. Hậu quả dai dẳng của nó vẫn chưa hao vơi nhiều trong cuộc sống hôm nay. Những người thắng trận có đủ lý do để “trả thù” đấy chứ. Nhưng những người lính Cụ Hồ có đủ nhân văn để khép lại quá khứ, quên đi thù hận, cùng sự bao dung dâng tràn trong lòng người chiến thắng.

Mấy ai ngờ rằng, chỉ một ngày sau khi lá cờ giải phóng được kéo lên trên nóc Dinh Độc Lập, giữa lòng thành phố Sài Gòn vừa im tiếng súng có một đêm giao hưởng cực kỳ hoành tráng vang ngân. “Cát bụi đường xa, khẩu súng ngọn cờ/ Ngửa bàn tay gặp bàn tay nhạc trưởng/ Mở tấm lòng gặp tấm lòng giao hưởng/ Bổng trầm cung bậc tìm nhau” (Anh Ngọc). Suối nguồn nhân nghĩa dào dạt tuôn trào, mỗi người lính trường chinh góp phần làm nên cung bậc hòa bình muôn vàn xúc động.

Chẳng cần nói gì nhiều, chỉ cần nhìn vào công việc của những người lính Cụ Hồ đã làm cho Tổ quốc, cho nhân dân, cho cả những kẻ từng nhằm bắn vào ta đã thấy ánh sáng nhân văn lan tỏa. Vì thế, cái đẹp nhân văn của Bộ đội Cụ Hồ tự lan tỏa như những giá trị văn hóa tuyệt vời và chắc chắn sẽ rất bền lâu nếu không muốn nói là mãi mãi.

3. Dù thời chiến hay thời bình, thời nào thì người lính vẫn có mặt nơi gian khổ nhất, vẫn phải chịu đựng nhiều thiệt thòi, hy sinh nhất. Trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống nào, dù nghiệt ngã đến mấy, người lính Cụ Hồ vẫn rất gần gũi với nhân dân, là điểm tựa tin cậy của đồng bào khi thiên tai, dịch bệnh, hoạn nạn xảy ra. Gần đây nhất, trong và sau cơn bão lịch sử Yagi mùa thu năm 2024, hình ảnh người lính Cụ Hồ đã làm xúc động bao trái tim.

Tôi thực sự nghẹn lòng khi được xem hình ảnh cán bộ, chiến sĩ ta dầm mình trong bùn đất lầy lội ở Làng Nủ (Phúc Khánh, Bảo Yên, Lào Cai) để tìm từng thân xác người dân bị nạn sau cơn lũ quét kinh hoàng. Họ lặng lẽ làm việc, trong mưa chan nắng giội, trong những hiểm nguy có thể ùa ập đến bất cứ lúc nào, không ồn ào, cũng chẳng hề “phông bạt” khoe mẽ.

Nơi nào có dấu chân người lính, nơi ấy có ấm áp tình thương và những niềm tin cứ thế được vun đắp thêm. Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ vẫn luôn được lưu giữ rất đỗi tự nhiên, sâu nặng trong lòng nhân dân. Từ thuở "đầu súng trăng treo" cho đến hôm nay, người lính Cụ Hồ vẫn khiến đi dân nhớ, ở dân thương. Đâu dễ để được dân nhớ, dân thương một cách đầy xúc động như thế.

Cái đẹp mang tên Bộ đội Cụ Hồ có từ quá khứ, hiển hiện trong cuộc sống hiện tại với những giá trị tinh thần to lớn, bền vững và sức lan tỏa rộng rãi. Đó là những vầng sáng có thực trong cuộc sống hôm nay. Mỗi việc tốt được làm nên từ phẩm chất, trí tuệ, tâm hồn của Bộ đội Cụ Hồ rất xứng đáng được ghi nhận. Tôi nghĩ rằng, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ sẽ có sức truyền cảm mạnh mẽ không chỉ trong Quân đội ta mà còn lan rộng ra trong cả nước và thế giới.

Bằng chứng sinh động là hình ảnh những quân nhân đến từ Việt Nam trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc đã tạo nhiều ấn tượng sâu sắc với bè bạn quốc tế. Coi trọng nhân văn từ nhận thức đến hành động là biểu hiện rất rõ nét của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là phần tốt đẹp định danh giá trị truyền thống vẻ vang của Bộ đội Cụ Hồ. Từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, cùng với hành trình xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, chủ nghĩa nhân văn sẽ mãi mãi được bồi đắp và lan tỏa.

Ý chí và tâm hồn, sức mạnh và vẻ đẹp của người lính Cụ Hồ sẽ luôn hướng tới sự cao cả bình dị. Ngay chính trong cuộc sống, từ cuộc sống của mỗi người chiến sĩ luôn gắn bó với Tổ quốc và nhân dân. Không có gì là dễ dàng, mỗi người lính hôm nay cũng phải tự vượt lên chính mình, tự gạn đục khơi trong, tỉnh táo nhận ra đúng-sai để nhận thức và hành động đúng đắn. "Mãi mãi lòng chúng ta, ca bài ca người lính". Khúc quân hành Bộ đội Cụ Hồ mãi ngân vang trên mỗi nẻo đường Tổ quốc, lòng yêu nước, thương dân vẫn vằng vặc sáng chưa hề tắt. Bởi trong mỗi trái tim Bộ đội Cụ Hồ luôn mang một vẻ đẹp nhân văn bình dị mà cao cả.

 

CẢNH GIÁC VỚI CHIÊU TRÒ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VỤ ÁN ĐƯỜNG VĂN THÁI NHẰM CHỐNG PHÁ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 Ngày 30/10/2024 Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội đã tiến hành xét xử sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Đường Văn Thái bản án 12 năm tù giam, 3 năm quản chế về tội “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước” theo Điều 117, Bộ luật Hình sự. Lợi dụng sự kiện này, các thế lực thù địch trong và ngoài nước thi nhau đăng bài xuyên tạc, kêu oan cho Đường Văn Thái mà mục đích cuối cùng là chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Điển hình trên các trang mạng phản động “Rfavietnam”, Đài RFA, Fabook Việt Tân… đều đăng nhiều bài cho rằng: “Nhà nước độc đảng ở Việt Nam đã vi phạm các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, và quyền con người…bắt cóc…”. Nội dung của bài viết là những luận điệu sai trái, thiếu thiện chí, cố tình đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan về vụ án Đường Văn Thái nói riêng và tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền hòng hạ thấp uy tín nước ta trên trường quốc tế.

Vậy Đường Văn Thái là ai? Vì sao giới “dân chủ” lại quan tâm đến Đường Văn Thái đến như vậy? Đường Văn Thái sinh ra và lớn lên tại huyện Đông Anh, TP. Hà Nội. Vốn là một cán bộ Đoàn và có thời gian làm hợp đồng tại Phòng Quản lý đất đai và giải phóng mặt bằng huyện Đông Anh, đáng lý ra Thái phải nỗ lực, cố gắng để xây dựng đất nước. Vậy nhưng bắt đầu từ năm 2013, sau khi không thi đỗ công chức, y đã nảy sinh tư tưởng bất mãn và xin nghỉ việc. Từ đây, Thái bắt đầu những “vết trượt dài” trên con dốc “dân chủ”. Thái lần lượt tham gia các tổ chức hội nhóm bất hợp pháp như Hội Nhà báo độc lập, Hội Anh em dân chủ và tiến hành nhiều hoạt động chống Nhà nước. Thái Văn Đường còn khởi tạo và tham gia điều hành nhóm “Lều Của Đầy Tớ” trên mạng xã hội Facebook, thường xuyên đăng tải và phát tán những hình ảnh, thông tin sai sự thật về nhà riêng, đời tư của các cán bộ lãnh đạo. Thậm chí, nhiều lần Thái Văn Đường còn lợi dụng các vấn đề như sự cố do Formosa gây ra để kích động biểu tình, bạo loạn. Y còn là nhân vật "cốt cán" của nhóm “Bạn hữu đường xa”. Nhóm này được các tổ chức phản động như: Đảng Việt Tân, Đảng Dân chủ Việt, Chính phủ Việt Nam tự do tài trợ hàng trăm triệu để ngày ngày tổ chức gây rối ở BOT Cai Lậy.

Theo “nghề dân chủ”, Thái lập ra nhiều tài khoản mạng xã hội để tán phát các bài viết, thông tin sai trái về đất nước, kích động người dân chống đối chính quyền. Năm 2019, Thái tìm cách trốn sang Thái Lan với mục đích xin “tỵ nạn chính trị”. Thời gian gần đây, thông qua tài khoản Facebook “Thái Văn Đường”, đối tượng này đã “nổi đình nổi đám” khi đăng tải hàng loạt thông tin liên quan đến chính quyền. Từ việc đồn đoán nhân sự cho đến vấn đề phòng, chống tham nhũng và xử lý cán bộ, tất cả đều được Đường Văn Thái “hâm nóng” bằng nhiều thủ đoạn với vô số “gia vị dân chủ” nhằm thu hút sự theo dõi của cộng đồng. Dù luôn tô vẽ lên mình tấm vỏ bọc “nhà dân chủ” nhưng bản chất của Đường Văn Thái chỉ là một kẻ “bán nước cầu vinh”, bám gót các thế lực thù địch. Thái không phải là “nạn nhân” của chính quyền. Ngược lại, y là đối tượng chống phá đất nước hết sức nguy hiểm.

Như chúng ta đã biết, tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Với quan điểm đề cao vai trò của báo chí là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, để nhân dân trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình. Thông qua đó báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến tâm huyết đối với Đảng, Nhà nước, định hướng dư luận trong quá trình xây dựng, thực thi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội.

Thực hiện quan điểm đó, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin đã được Hiến pháp (năm 2013), Luật Báo chí (năm 2016), Luật Tiếp cận thông tin (năm 2016), Luật An ninh mạng năm 2018 quy định trách nhiệm của Nhà nước: tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân.

Thực tế cho thấy, ở Việt Nam quyền tự do ngôn luận, bảo đảm nguyên tắc báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được pháp luật bảo hộ; nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo trình tự, thủ tục luật định, bảo đảm công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, cũng không bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, Nhà nước Việt Nam đã tập trung xử lý các đối tượng lợi dụng phương tiện này để phục vụ cho mưu đồ chống phá, vi phạm quyền và lợi ích của Nhà nước và công dân theo pháp luật Việt Nam, điều này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế.

Từ những dữ liệu trên, chúng ta thấy được rằng, bản án 12 năm tù giam và 3 năm quản chế đối với Đường Văn Thái là đúng người, đúng tội, bản án trên là bài học cảnh tỉnh cho những kẻ lần đường lạc lối hay những người đang có những biểu hiện suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống . Mọi người cần tỉnh táo, đề cao cảnh giác, đấu tranh phản bác mọi luận điệu xuyên tạc chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

 

BÀI HỌC "DÂN VẬN KHÉO" THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÁC PHẨM "DÂN VẬN"

 “Dân vận” là một trong những tác phẩm tiêu biểu kết tinh những luận điểm cơ bản, những bài học quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận, đặt nền tảng cho công tác dân vận của Đảng. Bài viết tập trung làm rõ nội dung bài học “Dân vận khéo” theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Dân vận” và đề ra các giải pháp tiếp tục vận dụng bài học “Dân vận khéo” trong điều kiện mới.

Tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đăng trên báo Sự thật ngày 15/10/1949, chỉ vẻn vẹn hơn 600 chữ; được trình bày rõ ràng, dễ hiểu trong bốn mục lớn: Nước ta là nước dân chủ, Dân vận là gì, Ai phụ trách dân vận, Dân vận phải thế nào. Nội dung cơ bản của tác phẩm “Dân vận” đề cập đến vai trò của công tác dân vận, lực lượng tiến hành công tác dân vận, phương pháp, cách thức thực hiện hiệu quả công tác dân vận. Một trong những bài học quý báu đó là bài học về “Dân vận khéo”: “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.

Nội dung bài học “Dân vận khéo” theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tác phẩm Dân vận

Một là, “khéo” phát huy vai trò của Nhân dân, phục vụ cho lợi ích của Nhân dân.

Trên cơ sở kế thừa và thấm nhuần sâu sắc tư tưởng trọng dân, thân dân trong nền văn hóa chính trị truyền thống của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, nhất là trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò làm nên lịch sử của Nhân dân, Nhân dân là chủ. Người yêu cầu phải “khéo” phát huy vai trò của Nhân dân, phục vụ cho lợi ích của Nhân dân, bởi vì:

“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

Trong tác phẩm “Dân vận”, bản chất của Nhà nước Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định là “nước dân chủ” - Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Nhà nước dân chủ hoạt động vì lợi ích của Nhân dân, quyền hạn nhà nước là của Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của Nhân dân không những là lực lượng có sức mạnh vô địch, lực lượng chủ yếu, quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng, mà còn mang lại sức mạnh cho Đảng, Nhà nước, cũng như các tổ chức chính trị - xã hội và các lực lượng vũ trang. Do đó, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” nên cách mạng muốn thành công thì phải “khéo” động viên, phát huy vai trò của Nhân dân.

Trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định và phát huy vai trò, sức mạnh của Nhân dân. Cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn, vẻ vang là do phát huy được vai trò của Nhân dân, do Nhân dân tích cực tham gia đóng góp công sức, trí tuệ, của cải…

Hai là, các lực lượng thực hiện “dân vận khéo”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ lực lượng thực hiện dân vận khéo: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v.) đều phải phụ trách dân vận”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện “dân vận khéo” cần có sự phân công rõ nhiệm vụ và phối hợp nhịp nhàng giữa cán bộ chính quyền và cán bộ đoàn thể, cán bộ canh nông và cán bộ địa phương: “Cán bộ chính quyền và cán bộ Đoàn thể địa phương phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn; Cán bộ canh nông thì hợp tác mật thiết với cán bộ địa phương, đi sát với dân, thiết thực bày vẽ cho dân cách trồng trọt, chăn nuôi, cách chọn giống, ủ phân, làm cỏ…”.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến sự tiên phong, gương mẫu của cán bộ làm công tác dân vận: “Những hội viên các đoàn thể thì phải xung phong thi đua làm, để làm kiểu mẫu cho dân, giúp dân làm”.

Ba là, các phương pháp, cách thức thực hiện “dân vận khéo”.

Về phương pháp, cách thức thực hiện “dân vận khéo”, Chủ tịch Hồ Chí Minh có những chỉ dẫn rất cụ thể: ra nghị quyết - tuyên truyền quán triệt nghị quyết - triển khai thực hiện - kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết - khen thưởng người tốt việc tốt, điều chỉnh, uốn nắn những lệch lạc, khuyết điểm - tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm.

“Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.

Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được.

Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.

Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân.

Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”.

Bốn là, yêu cầu về phong cách, tác phong của cán bộ “dân vận khéo”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu yêu cầu về phong cách, tác phong của cán bộ “dân vận khéo”: “Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”.

"Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm" là cẩm nang về phương pháp dân vận cho tất cả cán bộ, đảng viên trong công tác dân vận. Cán bộ dân vận phải sâu sát cơ sở, sát thực tế, đến với Nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân mà giúp dân giải quyết các công việc cụ thể, đề xuất chính sách hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp, vận động Nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách.

Các giải pháp tiếp tục vận dụng bài học “Dân vận khéo” trong điều kiện mới

Một là, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên về nội dung, yêu cầu thực hiện “dân vận khéo”.

Trước hết, cấp ủy cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể, lực lượng thực hiện công tác dân vận theo định hướng “dân vận khéo”. Thực hiện lồng ghép việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về “dân vận khéo” gắn với chương trình học tập, bồi dưỡng của cán bộ, đảng viên; tập huấn nghiệp vụ; sinh hoạt, nói chuyện chuyên đề; sơ, tổng kết về công tác dân vận, nêu gương điển hình “dân vận khéo”... Tuyên truyền, quán triệt, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân vận, đặc biệt là thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”.

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có tinh thần tôn trọng và phục vụ Nhân dân; xây dựng và thực hành phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”.

Để thực hiện bài học “Dân vận khéo” cần chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận của Đảng, có cơ chế, chính sách thu hút người có năng lực, có uy tín, có kinh nghiệm làm công tác dân vận; chú trọng luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, nhất là cán bộ trẻ tuổi, có năng lực; khắc phục tình trạng đưa cán bộ phẩm chất, năng lực yếu kém và không có uy tín về làm công tác dân vận. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận phải có phong cách: “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”.

Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận phải được đào tạo cơ bản về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác dân vận”. Từ đó, cán bộ làm dân vận nắm vững và hiểu rõ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tạo được bản lĩnh vững vàng và linh hoạt trong mọi hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện nhiệm vụ bao trùm của công tác dân vận là tập hợp, động viên mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân.

Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ phải tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, có lối sống đúng đắn, hòa nhập với cộng đồng, giữ mối liên hệ chặt chẽ với nơi cư trú; không ngừng cố gắng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tích lũy kinh nghiệm trong công việc; có trách nhiệm, tâm huyết với công tác dân vận; tận tụy phục vụ Nhân dân; là những cán bộ, đảng viên gương mẫu trong công việc và cuộc sống để Nhân dân học tập theo.

Ba là, đa dạng hoá các hình thức tổ chức và phương thức tập hợp, vận động, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân.

Lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, làm tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; đa dạng hóa các hình thức tập hợp Nhân dân, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở, phù hợp với trình độ dân trí và đặc điểm, tình hình cụ thể. Trong xây dựng chương trình hành động cần quan tâm, thuận với lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Chú trọng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, nhất là điều kiện sống, lao động, học tập, sáng tạo, nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe. Quan tâm điều chỉnh hài hòa lợi ích giữa các giai tầng xã hội; gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng, xã hội. Xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng; giải quyết dứt điểm những vụ việc khiếu kiện đông người phức tạp, kéo dài.

Bốn là, chú trọng xây dựng và nhân rộng các điển hình “Dân vận khéo”.

Xây dựng các tiêu chí đánh giá điển hình “dân vận khéo”, trên cơ sở đó lựa chọn; dự kiến nhân sự; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, phương pháp dân vận; xây dựng cơ sở vật chất và điều kiện cần thiết cho công tác dân vận đến thử nghiệm mô hình và tổ chức rút kinh nghiệm, học tập, vận dụng để nhân rộng mô hình. Trong quá trình thực hiện phong trào “dân vận khéo” phải luôn luôn theo dõi, đôn đốc, đồng thời nắm bắt các vấn đề phát sinh để có cách khắc phục kịp thời; khi công việc hoàn thành phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm, tổng kết kinh nghiệm những việc làm được và chưa làm được để đề ra giải pháp khắc phục; phải chú trọng và có sự động viên, khuyến khích kịp thời bằng các hình thức biểu dương, khen thưởng, đồng thời phê bình các biểu hiện, các cách chưa tốt, để nâng cao hiệu quả công tác dân vận.

Năm là, hướng dẫn, triển khai, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp: “Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận”. Các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở phải đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc tổ chức thực hiện để nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận sớm đi vào cuộc sống, có hiệu quả thiết thực. Các cấp ủy đảng lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân phối hợp chặt chẽ trong giải quyết các công việc liên quan đến nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân và vận động Nhân dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân.

Các cơ quan đảng ở Trung ương thường xuyên phối hợp, kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện; đồng thời theo dõi, kiểm tra việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác dân vận. Quan tâm nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, giải đáp kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là về xây dựng và củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, từ đó tham mưu với cấp có thẩm quyền ban hành các chủ trương, chính sách phù hợp.

Thường xuyên kiện toàn, củng cố, phát huy vai trò tham mưu, hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra của Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của các cấp, các ngành, các địa bàn. Chú trọng công tác kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở. Tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của tổ chức công đoàn trong đấu tranh, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động ở các đơn vị hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp./.



TOẢ SÁNG NHỮNG TINH HOA CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA VĨ ĐẠI

 Hơn một thế kỷ đã trôi qua nhưng những tinh hoa, giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn luôn tỏa sáng, là nguồn động lực khơi dậy tinh thần cách mạng của nhân dân tiến bộ toàn thế giới.

Ngày 7/11, tại Nga cũng như nhiều nước trên thế giới diễn ra các hoạt động trọng thể kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, là một trong những sự kiện có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20. Cách đây 107 năm (7/11/1917 - 7/11/2024), thành công của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười đã thay đổi hoàn toàn số phận của nước Nga, đánh dấu việc ra đời của nước Nga XôViết - nhà nước công nông, chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới, xây dựng nên một xã hội kiểu mới, đưa quần chúng công - nông từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.

Cách mạng Tháng Mười Nga thành công cổ vũ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa, khi vào thời điểm đó, hầu hết các nước châu Á, châu Phi đều bị các nước thực dân phương Tây xâm chiếm và biến thành thuộc địa. Chiến thắng của Cách mạng Tháng Mười đã tạo xung lực cho công cuộc đấu tranh nhân dân nô lệ trên toàn thế giới, góp phần định hình quan hệ quốc tế kiểu mới, theo đó tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc, mang lại sự công bằng và bình đẳng trong xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa đến như thế". Hơn một thế kỷ đã trôi qua nhưng những tinh hoa, giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn luôn tỏa sáng, là nguồn động lực lớn thôi thúc và khơi dậy tinh thần cách mạng của nhân dân tiến bộ toàn thế giới, trong đó có nhân dân Việt Nam, trên con đường đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Mùa Thu năm 1917, nước Nga và đảng Bolshevik đứng trước thời điểm lịch sử. Sự tham gia của đế quốc Nga vào Chiến tranh Thế giới thứ nhất gây tổn hại biết bao sinh mạng, của cải. Thái độ của chính phủ lâm thời lúc đó không muốn đáp ứng nguyện vọng của quần chúng là ký hiệp ước hòa bình và giải quyết vấn đề chia ruộng đất của địa chủ cho nông dân, thảm họa kinh tế và sự hỗn loạn xã hội đã tăng lên đến mức thấy rõ dấu hiệu sụp đổ. Ngày 25/10/1917 (theo lịch cũ của Nga), dưới sự lãnh đạo của Đảng Bolshevik Nga, đứng đầu là lãnh tụ Vladimir Ilyich Lenin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã tiến hành thành công cuộc khởi nghĩa vũ trang, lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản, lập nên nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.

Sau Cách mạng Tháng Mười, V.I Lenin và đảng Bolshevik Nga đã tập trung củng cố chính quyền Xô viết, xây dựng chế độ xã hội mới, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho quần chúng nhân dân. Một nhà nước kiểu mới được xây dựng trên nền tảng loại bỏ áp bức dân tộc, áp bức giai cấp, không có người bóc lột người. Cách mạng Tháng Mười đánh dấu sự mở đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội và một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Như khẳng định của Chủ tịch Đảng Cộng sản Liên bang Nga (KPRF) Gennady Zyuganov, Cách mạng Tháng Mười năm 1917 là bước đột phá, là cột mốc vĩ đại trên con đường nhân loại tiến tới chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Mười Nga còn tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị - xã hội của nhiều quốc gia, dân tộc khác; tiếp sức cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tạo ra một cao trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, làm rung chuyển nền thống trị của giai cấp tư sản độc quyền ở nhiều nước. Một hệ thống xã hội chủ nghĩa đã ra đời, đóng vai trò to lớn trong tiến trình phát triển của thế giới hiện đại.

Thành công của Cách mạng Tháng Mười có ý nghĩa to lớn đối với con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam; trở thành một sự kiện bước ngoặt của sự phát triển xã hội loài người, mở ra một con đường đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột, xây dựng một thế giới mới công bằng, dân chủ, văn minh và tiến bộ. Đó là việc biến ý tưởng tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành hiện thực.

Dưới ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười, vận dụng sáng tạo tư tưởng Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Qua nhiều thập niên, chủ nghĩa xã hội đã chứng minh sức sống và tính ưu việt của mình thông qua quá trình cải cách, đổi mới và phát triển ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trước đòi hỏi của thực tiễn những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1986, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Gần 40 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; hội nhập sâu rộng và toàn diện, nâng cao vị thế và uy tín trên trường quốc tế. Việt Nam còn là thành viên chủ động, tích cực, có trách nhiệm trong nhiều tổ chức khu vực và quốc tế, có vai trò, tiếng nói ngày càng quan trọng trong Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Liên hợp quốc… Bên cạnh đó, ổn định chính trị - xã hội được giữ vững. Kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng tốt, đời sống người dân không ngừng được cải thiện, an sinh xã hội, quyền con người bảo đảm.

Với đường lối tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đóng góp giải quyết những vấn đề chung của khu vực và thế giới như các vấn đề hòa bình, phát triển, xóa đói nghèo, thích ứng với biến đổi khí hậu…, Việt Nam đang trở thành một thành viên ngày càng có vai trò, ảnh hưởng và tiếng nói quan trọng trong cộng đồng quốc tế, được quốc tế tin tưởng. Những thành quả sau gần 40 năm đổi mới đất nước đã góp phần chứng minh tính đúng đắn và phù hợp của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam.

107 năm đã qua theo dòng chảy của lịch sử, các bài học của Cách mạng Tháng Mười vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa thời đại. Những bài học đó đã và đang thôi thúc giai cấp công nhân và những người tiến bộ tiếp tục cống hiến, hy sinh không mệt mỏi trong cuộc đấu tranh để xây dựng một thế giới hòa bình, dân chủ, công bằng, văn minh, bình đẳng, bác ái, không còn áp bức, bóc lột, không còn những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến xung đột, chiến tranh - đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.

ST

KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ ĐẢNG CẦM QUYỀN

Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay”. Trước những thành quả to lớn có ý nghĩa lịch sử đó, các thế lực thù địch, phản động luôn điên cuồng chống phá nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng bằng luận điệu quen thuộc là đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1. Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến nay đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Ở Việt Nam, “Đảng ta” đã trở thành cụm từ thân thuộc, trân trọng đối với mọi người dân Việt Nam. Hòng phủ nhận sự thật đó, trong quá trình thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách hạ thấp uy tín hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với phong trào cách mạng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những luận điệu thâm độc chúng thường xuyên sử dụng là: “Cần loại bỏ sự toàn trị của Đảng, cần thực hiện chế độ đa đảng, đa nguyên”, “một đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo là không hề có dân chủ”...

Về thực chất, với những luận điệu này, chúng mưu toan xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Gần đây nhất, ngày 25-10-2024, trên trang Facebook của tổ chức khủng bố Việt Tân tiếp tục điệp khúc chống phá rằng: “Chỉ cần quất một phát cho Điều 4 Hiến pháp đi chỗ khác chơi là giải quyết mọi vấn đề của đất nước”…, hay “Mấu chốt của điểm nghẽn là Điều 4 Hiến pháp”. Thực tế đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân phải nhận diện một cách chính xác, toàn diện để đấu tranh, vô hiệu hóa thủ đoạn chống phá thâm độc này của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội như Hiến pháp quy định.

2. Xem xét từ góc độ lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa đảng chính trị và dân chủ trong lịch sử, cũng như hiện nay cho thấy, không phải cứ đa đảng là dân chủ và một đảng là mất dân chủ. Dân chủ không đồng nghĩa với đa đảng và thực hiện đa đảng không đồng nghĩa với có dân chủ. Trên thực tế, theo thống kê, số lượng đảng phái chính trị ở các quốc gia rất khác nhau; một số nước có rất nhiều đảng chính trị, như Anh có 97 đảng, Tây Ban Nha có 87 đảng, Pháp có 76 đảng…, nhưng cũng có nhiều nước chỉ có một đảng chính trị, như Cuba, Lào, Việt Nam... Singapore có nhiều đảng, nhưng chỉ có Đảng Hành động Nhân dân (PAP) lãnh đạo cầm quyền. Ở Trung Quốc, ngoài Đảng Cộng sản Trung Quốc còn có 8 đảng phái khác và các đảng phái này đều thừa nhận Đảng Cộng sản Trung Quốc là đảng duy nhất lãnh đạo đất nước. Thực tiễn cũng cho thấy, dù nhiều quốc gia thực hiện đa đảng nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc quyền làm chủ của đa số nhân dân được bảo đảm.

Ở Việt Nam, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh giành và giữ chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử và thể hiện ý nguyện của nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, vừa tuân theo quy luật lịch sử chung, vừa tuân theo quy luật lịch sử đặc thù của Việt Nam, đã giải quyết triệt để cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, mở ra một thời đại mới trong lịch sử xây dựng, phát triển đất nước. Do đó, mọi luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, phản động xét cho cùng đều không thể phủ nhận được lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng đến nay. Bởi, thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), thắng lợi vang dội của hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân, đế quốc, giải phóng và thống nhất đất nước, nhất là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đều thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những thành tựu đó là bằng chứng thuyết phục để khẳng định năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - một đảng duy nhất cầm quyền và lãnh đạo cả dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước; đồng thời cũng làm cho nhân dân ngày càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thuận để Đảng trở thành lực lượng xã hội duy nhất lãnh đạo toàn xã hội. Do đó, cố tình phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của Việt Nam qua gần 40 năm đổi mới để xuyên tạc rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lãnh đạo, chỉ khiến đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển. Những kẻ lấy danh nghĩa là “con dân đất Việt”, lấy hình thức viết “tâm thư”, “thư ngỏ” để kêu gọi phải từ bỏ Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cố tình chống phá Đảng, chống phá chế độ ta, cản trở sự phát triển của đất nước.

3. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Phân tích kỹ, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 về vai trò lãnh đạo của Đảng so với Hiến pháp năm 1992 có điểm mới, là khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động, mà còn là đội tiên phong “của dân tộc Việt Nam”. Về trách nhiệm của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung vào Điều 4 nội dung sau: “Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Do đó, luận điệu của các thế lực thù địch cho rằng Hiến pháp năm 2013 “đặt Đảng lên trên Nhà nước” là sự xuyên tạc thô thiển. Chính một số ít những kẻ đang tự cho mình quyền bình luận, xuyên tạc Hiến pháp năm 2013 nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ sự đồng thuận xã hội, xóa bỏ chế độ xã hội ta mới là những kẻ đang đứng trên Hiến pháp, đứng trên xã hội.

Với thực tiễn đó, Điều 4 của Hiến pháp năm 2013 và việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là một nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị - xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn. Các thế lực thù địch, đặc biệt là tổ chức phản động Việt Tân, dù cố tình “nhắm mắt giả mù”, “bịt tai giả điếc”, rắp tâm thực hiện âm mưu đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp sẽ không bao giờ thực hiện được. Vì bất luận trong hoàn cảnh nào, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là không thể thiếu được, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong gần 95 năm qua và đã được xác nhận trang trọng trong Điều 4, Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong những năm tới, dự báo tình hình quốc tế, khu vực sẽ có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế bên cạnh thuận lợi là cơ bản sẽ còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng nếu mỗi chúng ta luôn hiểu và vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng thì sẽ góp phần củng cố, gia tăng sức mạnh cho Đảng, để Đảng ta tiếp tục là người lãnh đạo, dẫn dắt cả dân tộc thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; đồng thời qua đó bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA NGÀY PHÁP LUẬT

 Theo quy định của Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, Ngày Pháp luật được tổ chức để tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, đồng thời tăng cường nhận thức cho mọi người về vai trò của luật pháp trong đời sống, tăng cường sự hiểu biết pháp luật và khả năng thực thi pháp luật trong hoạt động quản lý Nhà nước, hoạt động kinh tế - xã hội và sinh hoạt hàng ngày của người dân.

Thông qua Ngày Pháp luật giúp cho mọi tổ chức, cá nhân công dân có ý thức tuân thủ pháp luật tốt hơn, là dịp để đánh giá lại những kết quả đã đạt được và những hạn chế trong hoạt động xây dựng, thực thi pháp luật; là cơ hội để tổ chức nhiều hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho cộng đồng thông qua những cách thức khác nhau. Qua đó, những người thi hành pháp luật cũng sẽ nhận được những thông tin phản hồi, những quan điểm đánh giá về tất cả các quy định pháp luật cũng như cách thức thực hiện, hiệu quả của hệ thống pháp luật đối với đời sống xã hội; từ đó hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật, cũng như cải thiện, nâng cao hoạt động của hệ thống tư pháp.

Trên thế giới, hiện có nhiều nước tổ chức Ngày Pháp luật hay “Ngày Hiến pháp” như một ngày hội để “thượng tôn pháp luật”, tôn vinh Hiến pháp – đạo luật gốc của mỗi quốc gia. Hiện có khoảng 40 quốc gia lấy ngày ký, ban hành hoặc thông qua Hiến pháp để hàng năm tổ chức kỷ niệm “Ngày Hiến pháp” của mình. Trong ngày này, các luật gia, luật sư và các hiệp hội nghề nghiệp về luật tổ chức nhiều hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong cộng đồng nhằm tăng cường hơn nhận thức của nhân dân, học sinh, sinh viên về vị trí, vai trò tối thượng, không thể thay thế của Hiến pháp, pháp luật trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là về các giá trị tự do, dân chủ, công lý, công bằng.

Ở Việt Nam, Luật phổ biến, giáo dục pháp luật quy định ngày 09/11 hàng năm là Ngày Pháp luật với dấu mốc đây là ngày ban hành bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta năm 1946, khởi đầu cho tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Là bản Hiến pháp của nền dân chủ đầu tiên của Nhà nước ta, Hiến pháp năm 1946 đã thấm nhuần, thể hiện triệt để tinh thần, tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, là sự khẳng định mạnh mẽ các giá trị dân chủ, dân quyền, thượng tôn pháp luật và còn tồn tại bền vững cho đến ngày hôm nay. Các giá trị đó thể hiện tập trung nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, được kế thừa trong các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992.

Ngày Pháp luật khơi dậy trong mọi cá nhân công dân ý thức về trách nhiệm, bổn phận và quyền lợi của mình mà tham gia một cách tích cực vào các sinh hoạt của đời sống chính trị và đời sống xã hội. Do vậy, Ngày Pháp luật có ý nghĩa giáo dục sâu sắc trong việc đề cao giá trị của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, hướng mọi tổ chức, cá nhân tính tích cực tham gia với hành vi, thái độ xử sự pháp luật đúng đắn, đề cao quyền cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân công dân trong học tập, tìm hiểu pháp luật và tự giác chấp hành pháp luật. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức và niềm tin pháp luật, từng bước xây dựng và củng cố các giá trị văn hóa pháp lý trong cuộc sống xã hội. Đồng thời, đây còn là mô hình để vận động, khuyến khích, kêu gọi toàn thể nhân dân chung sức, đồng lòng vì sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, phát huy triệt để tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc cùng tích cực hành động vì một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Do vậy, đây còn là sự kiện chính trị, pháp lý có ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa xã hội sâu sắc.

Ngày Pháp luật với nội hàm ghi nhận ngày ban hành bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nhà nước Việt Nam thì không chỉ giới hạn chỉ là ngày 09/11, mà được coi là điểm mốc, là sợi chỉ đỏ kết nối, xuyên suốt, có sức lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng dân cư, nhắc nhở, giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, để không chỉ là một ngày, mà phấn đấu sẽ là 365 ngày trong một năm mọi tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật theo hiện khẩu hiệu “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.

Đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Ngày Pháp luật cũng là một trong những chế định quan trọng đặt tiền đề cho việc đổi mới tổ chức thực hiện công tác này. Ngày pháp luật được tổ chức nhằm tạo bước phát triển mới trong việc nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật - một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng và là nhiệm vụ thường xuyên của toàn bộ hệ thống chính trị, các cấp, các ngành với mục tiêu cuối cùng là hỗ trợ và tạo điều kiện để mọi cá nhân, tổ chức biết sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và xã hội./.


GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA - SỰ THẬT KHÔNG PHẢI BÀN CÃI

Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại là mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt lịch sử của cách mạng thế giới. Từ đây, một thời đại mới đã mở ra cho nhân loại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng mọi ách áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp, tất cả vì con người và cho con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, làm thức tỉnh hàng chục triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái Đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa thế.” . Tuy nhiên, trong suy nghĩ của những người chống phá cách mạng như Bùi Đức Lại, chúng luôn cho rằng “Cách mạng Tháng 10 Nga đã chết, và không còn giá trị, ý nghĩa gì trong giai đoạn hiện nay”. Sự thật như thế nào.

Cách mạng Tháng Mười Nga đem lại quyền làm chủ cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động

Hơn 100 năm đã trôi qua, Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn là một trong những sự kiện lớn nhất trong lịch sử cận đại, một cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ người bóc lột người, đem lại quyền làm chủ cho nhân dân lao động và hòa bình cho các dân tộc trên thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đã minh chứng vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong việc liên minh, tự giải phóng mình khỏi áp bức, bóc lột. Thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga trước hết là thắng lợi của nhân dân Nga và của các dân tộc trong Liên bang Xô viết, nhưng không chỉ là thắng lợi của riêng nhân dân Nga và của các dân tộc trong Liên bang Xô viết. Đó còn là thắng lợi chung của cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga đã giáng một đòn lịch sử vào hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới, tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa, đến phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân dân các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ latinh. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã cho thấy vai trò của một chính đảng được trang bị bởi một học thuyết khoa học và cách mạng. Đảng Cộng sản có khả năng lãnh đạo liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Nga, như giữa giai cấp công nhân Nga với bần nông; tập hợp thành một làn sóng cách mạng duy nhất tất cả các phong trào cách mạng có những bản sắc khác nhau như phong trào dân chủ để đấu tranh cho hòa bình, phong trào dân chủ của nông dân để giành lại ruộng đất từ tay bọn chúa đất, phong trào giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức và phong trào xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản để thiết lập chuyên chính vô sản.

Giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga mãi mãi đi cùng năm tháng

Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, chủ nghĩa xã hội được biết đến không chỉ là một học thuyết mà còn là một chế độ xã hội mới tốt đẹp. Nó trở thành tấm gương để các dân tộc bị áp bức noi theo. Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra một thời đại mới, một kỷ nguyên mới trên quy mô toàn thế giới chính vì nó có ý nghĩa quốc tế cực kỳ to lớn, tạo ra một bước ngoặt thay đổi phương hướng cũng như nhịp điệu tiến lên của cả lịch sử loài người; đã tạo ra bước ngoặt không chỉ trong quan hệ kinh tế, chính trị - xã hội của các dân tộc Nga, mà cả trong thế giới quan của giai cấp công nhân quốc tế, chứng minh sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thực tiễn. 

Không chỉ bây giờ, mà ngay từ khi cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, đã có không ít kẻ bôi nhọ, xuyên tạc, phủ nhận giá trị và ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng vĩ đại này. Ngày nay, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, những kẻ cơ hội và những lý luận tư sản lại lớn tiếng thóa mạ, bôi nhọ, phủ nhận giá trị và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga. Chúng mô tả những gì diễn ra trong Tháng Mười năm 1917 ở nước Nga như là “một sự kiện ngẫu nhiên”; Cách mạng Tháng Mười chỉ là một thứ “đẻ non”! Và, nó “đã chết” v.v. Cho dù bọn bồi bút cho giai cấp tư sản với những phương tiện thông tin khổng lồ có cố tình phủ nhận, xuyên tạc lịch sử, song chúng cũng không thể làm lu mờ được giá trị và ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại; là bước ngoặt lịch sử của loài người, từ đó mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ đầu, cách mạng Việt Nam đã đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga. Con đường cứu nước và phát triển của dân tộc ta gắn liền với sự nghiệp Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười. Những bài học rút ra từ Cách mạng Tháng Mười đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trung thành với con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách để giành những thắng lợi to lớn cả trong đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. 

Đặc biệt, sau gần 40 năm đổi mới, những thành tựu to lớn, toàn diện mà Việt Nam đạt được đã khẳng định rõ tính đúng đắn của việc kiên trì đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được củng cố; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao… Những kết quả đó đã góp phần khẳng định giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga; đồng thời qua đó cũng là đòn trí mạng, đập tan những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga của Bùi Đức Lại và bè lũ của chúng./.

Vững bước theo con đường của Cách mạng tháng Mười Nga

1. Các thế lực thù địch viện đủ mọi lý do để đưa các các luận điệu phủ nhận giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga 1917. Họ cho rằng: “Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội tại cái nôi của Cách mạng tháng Mười là tất yếu, chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, ảo tưởng”; do đó, “các dân tộc cần nói “không” với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Và “Việt Nam không nên đi theo con đường của Cách mạng tháng Mười Nga, bởi đó là con đường không có tương lai”, “đi chệch khỏi quy luật phát triển chung của xã hội loài người”, v.v..

Thực ra, họ công kích, phủ nhận giá trị của cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâu sắc nhất, triệt để nhất nhằm qua đó gián tiếp phủ nhận, xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Luận điệu này tuy không mới, nhưng thủ đoạn thì tinh vi, xảo quyệt hơn, khó nhận diện hơn. Sở dĩ như vậy là vì, trước những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và những thành công ấn tượng trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, các thế lực khó có thể phủ nhận trực tiếp những thành quả cách mạng mà đất nước và nhân dân ta đã đạt được. Do đó, buộc chúng không tấn công trực diện mà phải đánh đường vòng, gián tiếp rất nguy hiểm nếu chúng ta thiếu tỉnh táo, dao động, lơ là, mất cảnh giác trước thủ đoạn này.

2. Những giá trị trường tồn và nổi bật của Cách mạng tháng Mười Nga không thể phủ nhận:

Một là, Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo ra bước đột phá thực tiễn quan trọng, tạo bước nhảy vọt về chất của chủ nghĩa xã hội khoa học: từ lý luận khoa học đã trở thành hiện thực sinh động trên thế giới. Trước khi Cách mạng tháng Mười Nga 1917 nổ ra, trên thế giới chưa có cuộc cách mạng nào làm được điều này, kể cả những thử nghiệm đầu tiên và bị thất bại của Công xã Pari (1871). Với Cách mạng tháng Mười Nga, lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học đã đi một bước đột phá mới trong sự phát triển của nó: đột phá vào thực tiễn, dấn thân vào hiện thực của cách mạng, bén rễ vào thực tiễn xã hội. Nhờ có bước đột phá vĩ đại này mà chu trình đi từ chủ nghĩa xã hội không tưởng đến chủ nghĩa xã hội khoa học và cuối cùng đến chủ nghĩa xã hội hiện thực được hoàn thành. Bước đột phá này chứng tỏ tiềm năng, sức sống mãnh liệt và sự sáng tạo của lý luận khoa học và cách mạng. Từ đây, chủ nghĩa xã hội được biết đến không chỉ là một học thuyết khoa học, một phong trào, mà còn là một chế độ xã hội cụ thể, thành hiện thực sinh động, có sức mạnh vô cùng to lớn, mở đường cho các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do.

Hai là, giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga còn chỗ biến giai cấp công nhân, từ thân phận nô lệ làm thuê cho giai cấp tư sản trong chủ nghĩa tư bản trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng, chủ nhân của xã hội mới. Đúng như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Nước Nga có chuyện lạ đời/Biến người nô lệ thành người tự do”. Đây là điều mà tất các các cuộc cách mạng xã hội trước kia, đã đều không thể thực hiện được. Với Cách mạng tháng Mười Nga, lần đầu tiên một cuộc cách mạng không do giai cấp bóc lột, thống trị lãnh đạo, mà do giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã tiến hành thành công. Đây là giá trị thực tiễn to lớn và không thể phủ nhận của Cách mạng tháng Mười Nga.

Ba là, thành công của Cách mạng tháng Mười Nga 1917, có giá trị và ý nghĩa khai mở vạch thời đại vô cùng sâu sắc. Từ đây thời đại mới trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại đã mở ra, đó là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười đã khai sinh ra chủ nghĩa xã hội hiện thực, với chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản đã ở vào vị thế đảng cầm quyền. Cho dù lịch sử có biến đổi, thăng trầm, thì dấu mốc mở đầu thời đại mới của Cách mạng tháng Mười Nga mãi mãi không thay đổi. Không ai và không bao giờ có thể phủ nhận giá trị mở đầu, mở đường của Cách mạng tháng Mười Nga. Đó là điều chắc chắn.

Bốn là, ngoài giá trị khai mở thời đại mới, giá trị nêu gương của Cách mạng tháng Mười Nga có sức hấp dẫn và lan toả rất lớn. Cách mạng tháng Mười Nga có ảnh hưởng sâu sắc vạch thời đại đến tất cả các cuộc cách mạng trong thời đại ngày nay, đến quá trình phát triển của thế giới hiện đại. Ở góc độ này, những tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga có giá trị đặt nền móng cho việc hiện thực hoá lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Do những ảnh hưởng có tính vạch thời đại, mang tầm nhân loại, được các quốc gia, dân tộc không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo, đã khẳng định sức sống trường tồn, tinh thần bất diệt của Cách mạng tháng Mười Nga.

Chính vì giá trị, sức hấp dẫn và sự lan toả ảnh hưởng có tính chất toàn cầu ấy mà giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản và các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội với Cách mạng tháng Mười Nga đã không thể ngồi yên. Chúng luôn tìm mọi cách chống phá, phủ nhận giá trị to lớn và vĩnh hằng của Cách mạng tháng Mười Nga, của chủ nghĩa xã hội.

3. Phê phán thủ đoạn xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thông qua phủ nhận giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga.

Một là, mối liên hệ mật thiết giữa Cách mạng tháng Mười Nga và cách mạng Việt Nam là tất yếu và không thể phủ nhận. Bởi vì, Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng điển hình, mở đầu cho thời kỳ cách mạng mới trên thế giới, và cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, có quan hệ chặt chẽ, khăng khít với cách mạng thế giới. Con đường mà cách mạng Việt Nam đang đi hôm nay là con đường mà Cách mạng tháng Mười Nga đã khai mở, vạch ra.

Thực tiễn chứng minh: “nếu không có Cách mạng tháng Mười vĩ đại thì nhân dân Việt Nam không thể hoàn thành được cuộc Cách mạng tháng Tám của mình...”[1]. Đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã làm nên Cách mạng tháng Tám 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước - kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. Hiện nay, tiếp tục kế thừa và lan toả những giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga, Việt Nam luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững và đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Sự thành công của cách mạng Việt Nam nói chung và sự nghiệp đổi mới nói riêng là sự tiếp nối và lan truyền sâu rộng sức ảnh hưởng, niềm cảm hứng, tinh thần bất diệt và những giá trị trường tồn của Cách mạng tháng Mười Nga. Những thành tựu to lớn, toàn diện mà Việt Nam đạt được sau gần 40 năm đổi mới đã khẳng định rõ tính đúng đắn của việc kiên trì đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, bác bỏ mọi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Hai là, mặc dù cách mạng Việt Nam và Cách mạng tháng Mười Nga có mối liên hệ chặt chẽ, song không thể đồng nhất Cách mạng tháng Mười Nga với cách mạng Việt Nam. Hai cuộc cách mạng này, về bản chất, đều là cách mạnh vô sản, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản tiến hành. Đều nhằm những mục tiêu cụ thể trước mắt và lâu dài của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa như lật đổ chính quyền và ách thống trị của giai cấp tư sản, phong kiến lỗi thời, phản động, thiết lập chính quyền cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước,… Tuy nhiên, hình thức, bước đi và phương pháp cụ thể của mỗi cuộc cách mạng là không hoàn toàn giống nhau. Điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước cũng khác nhau. Cho nên, không thể đồng nhất thất bại của cuộc cách mạng này cũng là thất bại của cuộc cách mạng kia, và ngược lại. Những lập luận theo kiểu chứng minh “bắc cầu” trong trường hợp này là không đúng về phương pháp luận và không phù hợp với thực tế cách mạng mỗi nước.

Ba là, để chứng minh tính đúng đắn của chủ nghĩa xã hội khoa - một học thuyết khoa học và cách mạng ở tầm toàn nhân loại thì không thể chỉ bằng thực tiễn của một cuộc cách mạng cụ thể, ở một nước cụ thể, mà phải là kết quả kiểm chứng của nhiều cuộc cách mạng ở nhiều nước trên thế giới và trong nhiều giai đoạn lịch sử cách mạng khác nhau. Mỗi cuộc cách mạng đó, từ góc độ thực tiễn của mình chỉ có thể minh chứng tính đúng đắn của chủ nghĩa xã hội khoa học trên từng phương diện thực tiễn cụ thể, sinh động, gắn với hoàn cảnh của nó. Chân lý phải được kiểm tra bằng thực tiễn, nhưng không phải thực tiễn đơn lẻ, mà là thực tiễn phổ biến, của đông đảo nhân dân và được lặp đi, lặp lại nhiều lần. Mặt khác, không phải chỉ có thành công, mà ngay cả thất bại của hoạt động thực tiễn cũng đều là tiêu chí kiểm tra lý luận. Cho nên, thất bại của một cuộc cách mạng cụ thể, không hẳn là thất bại của lý luận, trái lại, nó càng xác thực chính xác hơn tính đúng đắn của lý luận. Vấn đề là phải “phân tích cụ thể một tình hình cụ thể” không thể quy chụp võ đoán, chủ quan, ngộ nhận.

Bốn là, lịch sử các cách mạng thế giới cho thấy, chủ nghĩa tư bản khi mới ra đời cũng phải trải qua những thất bại đau đớn, trước sự phản công quyết liệt của chủ nghĩa phong kiến và các thế lực thù địch cùng với những sai làm chủ quan của giai cấp tư sản. Chẳng hạn, cuộc cách mạng tư sản đầu tiên nổ ra tại Hà Lan bắt đầu từ tháng 8/1566, nhưng mãi đến 1581 các tỉnh miền Bắc Nê-đéc-lan mới thành lập “các tỉnh liên hiệp” (sau là Cộng hoà Hà Lan), nhưng không được thực dân Tây Ban Nha công nhận và cuộc đấu tranh vẫn tiếp diễn. Mãi tới năm 1648, tức là sau 82 năm đấu tranh bền bỉ, cuối cùng chính quyền Tây Ban Nha công nhận nền độc lập của Hà Lan. Cuộc cách mạng kết thúc, Hà Lan được giải phóng. Hay như cuộc cách mạng dân chủ tư sản điển hình là cách mạng tư sản Pháp cũng phải cần tới ba khởi nghĩa (lần một: 6-1791; lần hai: 10-8-1792; lần ba: 31-5-1793) và một lần đảo chính (7- 1794) mới lật đổ được chế độ phong kiến, đưa giai cấp tư sản lên cầm quyền. Mở ra thời đại thắng lợi và củng cố quyền thống trị của giai cấp tư sản trên phạm vi thế giới. Điều đó cho thấy, thực hiện cách mạng là không dễ dàng, có thể thành, bại bất cứ lúc nào nếu giai cấp cách mạng không sáng suốt và mắc những sai lầm nghiêm trọng.

Cuộc cách mạng vô sản đầu tiên là Công xã Pari (Pháp) nổ ra năm 1871, tuy giành thắng lợi song chỉ tồn tại được 72 ngày; Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi và duy trì sự tồn tại được 74 năm (1917 – 1991). Đó là sự thật lịch sử. Nhưng dù có thất bại thì các cuộc các mạng vẫn không làm mất đi giá trị mà nó mang đến cho nhân loại, cho tiến trình phát triển của lịch sử loài người. Đi theo mục tiêu lý tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, hiện nay, các nước: Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Lào… vẫn vững bước trên con đường chủ nghĩa xã hội, đã và đang gặt hái được những thành công không thể phủ nhận.

Từ những phân tích trên, có thể thấy, mục tiêu cuối cùng mà các thế lực thù địch nhằm tới là làm cho Việt Nam thay đổi chế độ chính trị, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Những chiêu thức mà các đối tượng sử dụng ngày càng tinh vi, khó nhận diện hơn. Hiện nay, chúng ít phủ nhận một cách trực diện, mà thường đan cài, lồng ghép những luận điệu cũ và mới, những thông tin đúng và tin xấu độc,… nhằm gây tâm lý hoài nghi, hoang mang và làm xói mòn niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó, hướng lái cách mạng Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, cán bộ, đảng viên và nhân dân cần hết sức tỉnh táo, có nhận thức chính trị đúng đắn, lập trường tư tưởng vững vàng trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Ðảng, vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vững bước theo con đường của Cách mạng tháng Mười sẽ bảo đảm chắc chắn cho cách mạng Việt Nam tiếp tục giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa./.