Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2024

LIÊN XÔ TAN RÃ VÀ LUẬN ĐIỆU DO CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI LÀ “SAI LẦM CỦA LỊCH SỬ”!

BÀI 2: NHỮNG ĐIỀU CĂN CỐT, THỜI SỰ!
Như đã luận giải ở bài viết trước, trong các nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô thì xét đến cùng là do nguyên nhân chủ quan quyết định. Sự sụp đổ đó là của mô hình cụ thể, chứ tuyệt nhiên không phải sự sụp đổ hay cáo chung của chủ nghĩa xã hội (CNXH) như thế lực thù địch, phản động thường xuyên tạc. Nhận diện đầy đủ và đúng bản chất vấn đề này là những điều có ý nghĩa căn cốt và thời sự với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng của Việt Nam hiện nay.

Trong bài viết với tiêu đề “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 1992, GS, TS Nguyễn Phú Trọng (từ năm 2011 đến tháng 7-2024 là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã chỉ ra nguyên nhân có ý nghĩa quyết định làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô là quá trình “vận động” của chính đảng này. Về sau, Đảng ta khái quát quá trình “vận động” này và gọi đó là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được thể hiện trên nhiều bình diện.

Theo GS, TS Nguyễn Phú Trọng, có 3 biểu hiện của sự “vận động” đó. Một là, không xác lập đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Hai là, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Ba là, coi nhẹ hoặc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng sản. Bốn là, xa rời quần chúng, mất uy tín nghiêm trọng trước nhân dân, không được nhân dân ủng hộ. Năm là, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thổi lên ngọn lửa kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi.

Từ thực tiễn và lý luận cơ bản được Đảng ta tổng kết trong nhiều văn kiện, chúng ta có thể rút ra những bài học lớn với Việt Nam từ quá trình “tự diễn biến” trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô dẫn tới hậu quả tan rã Liên bang Xô viết-cường quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu tiên trên thế giới, như sau:

Thứ nhất, Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”. Từ khẳng định này, Đảng ta kiên định và quyết tâm đưa Việt Nam tiếp tục phát triển đi lên CNXH trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Với quyết tâm chính trị đó, Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng ta đã thông qua đường lối đổi mới đất nước. Tiếp đến, Đại hội lần thứ VII (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, thể hiện lập trường kiên định của Đảng ta về mục tiêu và định hướng phát triển đi lên CNXH ở Việt Nam. Đường lối đổi mới của Đảng ta được thông qua tại Đại hội lần thứ VI trên cơ sở kế thừa sáng tạo Chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin với nội dung cốt lõi là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thành công của gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Việt Nam kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng chứng tỏ giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười, mở ra kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) phát triển đi lên CNXH.

Thứ hai, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Ở Liên Xô, trong giai đoạn “cải tổ” đã đồng nhất việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường với việc xóa bỏ chế độ XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Còn Đảng ta vận dụng chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin để phát triển kinh tế thị trường nhằm giải phóng nguồn lực và phát triển sức sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đảng ta cho rằng, việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học và phát triển, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Trên cơ sở đó, Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng ở Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Ba là, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, coi đó là yếu tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng ta về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã xác định rõ, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng ở nước ta. Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam đã được xác định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013.

Bốn là, kiên quyết và kiên trì đấu tranh nhằm ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kết hợp với việc cảnh giác và làm thất bại âm mưu“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Rút kinh nghiệm từ tác động phá hoại hết sức nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch kết hợp với quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Đảng ta đặc biệt chú ý đấu tranh ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã sớm cảnh báo hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời. Từ giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta tiếp tục cảnh báo tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển, là hiểm họa đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ XHCN. Với quyết tâm chính trị cao và các giải pháp đồng bộ, Đảng ta đã bước đầu ngăn chặn được hiểm họa này.

Tổng kết thành tựu và kinh nghiệm 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 30-10-2016, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Nghị quyết đã chỉ rõ nguyên nhân, biểu hiện và biện pháp phòng, chống hiểm họa này. 

Trong số các nguyên nhân, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ nguyên nhân khách quan do tác động từ khủng hoảng của CNXH trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị trường; tác động tiêu cực từ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường XHCN trong bối cảnh quốc tế hiện nay; các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình".

Trong số các nguyên nhân chủ quan, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả; một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát thực tiễn; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu; cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở; chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ; việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm; chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng; việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.

Nghị quyết số 04-NQ/TW đã chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết xác định phải thực hiện nghiêm các yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được đề ra tại Đại hội XII với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng.

Đến nay, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đã đạt nhiều kết quả rất quan trọng, góp phần đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới với khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng cùng những mục tiêu lớn lao vào thời điểm trọng đại kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (2030) và 100 năm thành lập nước (2045), xây dựng thành công nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Với thành tựu trong công cuộc đổi mới và từng bước đạt được các mục tiêu cao cả, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định giá trị bất biến của Cách mạng Tháng Mười là mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên toàn thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo./.
------------------
Ảnh 1: Lễ mít-tinh kỷ niệm 106 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại tại Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moskva (Ngày 7-11-2023).
Ảnh 2: Tượng đài tưởng niệm các chiến sĩ tình nguyện quốc tế Việt Nam tham gia chiến đấu bảo vệ thủ đô Moscow trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại (1941 - 1945).

Yêu nước ST.

Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2024

 

NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CỦA ĐẢNG


Mới đây, trên một số trang mạng phản động, Đào Tăng Dực tiếp tục tung tin vu cáo, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chia rẽ tình đoàn kết, phối hợp chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Y cho rằng tình trạng công tác cán bộ ở Công an nhân dân làm “lu mờ” và “kiểm soát” Quân đội nhân dân. Y đã lợi dụng, khoét sâu những bức xúc của nhân dân trước tình trạng một bộ phận cán bộ tham nhũng, tiêu cực; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… để tung ra những bài viết mang tính suy diễn, phiến diện một chiều, quy chụp mọi sai lầm, khuyết điểm, yếu kém trong các lĩnh vực của đời sống xã hội cho đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của Đảng, cần phải được nghiêm trị.

Thực tế cho thấy: Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập. Kế thừa, phát huy và vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự của dân tộc, kết hợp với nghệ thuật quân sự hiện đại, Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập nên nhiều chiến công vang dội trở thành đội quân “quyết chiến, quyết thắng” chống kẻ thù xâm lược và gần một năm sau đó Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công ở Hà Nội cũng là ngày truyền thống của Công an nhân dân Việt Nam. Công an nhân dân được lập ra để thực hiện nhiệm vụ trấn áp phản cách mạng, giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân. Ngay từ khi thành lập, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã phối hợp thực hiện nhiệm vụ chống thù trong, giặc ngoài. Lực lượng Công an nhân dân và Quân đội nhân dân cùng với các đoàn thể quần chúng, các tầng lớp Nhân dân đã bảo vệ tuyệt đối an toàn cuộc mít tinh lớn vào ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai lực lượng phối hợp chặt chẽ trong đấu tranh chống phản cách mạng bên trong và sự can thiệp của các thế lực thù địch bên ngoài, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền non trẻ và Nhân dân. Hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Quân đội nhân dân cùng Công an nhân dân và Nhân dân cả nước nhất tề đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, gây “chấn động địa cầu”, là một nét son tô thắm truyền thống phối hợp, hiệp đồng giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là hai lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng, Nhà nước, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gần 80 năm qua, kể từ khi ra đời đến nay, trải qua các giai đoạn cách mạng, được Đảng và Bác Hồ giáo dục, rèn luyện, được nhân dân đùm bọc, giúp đỡ, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn, gian khổ đến đâu, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và Nhân dân.

Vừa qua, Ngày 05/02/2024, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Công an tổ chức Hội nghị giao ban thực hiện Nghị định số 03/2019/NĐ-CP của Chính phủ về “Phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng” năm 2023 do Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và Thượng tướng Trần Quốc Tỏ, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an đồng chủ trì hội nghị đã thành công và khẳng định: Năm 2023, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, trực tiếp là của Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, sự giúp đỡ tích cực, hiệu quả của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân, lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã phối hợp triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị định của Chính phủ; phối hợp tham mưu với Đảng, Nhà nước kịp thời xử lý các tình huống phức tạp về quốc phòng, an ninh; đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Hai lực lượng đã chủ động phối hợp nắm tình hình, phát hiện từ sớm, từ xa, đấu tranh, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và số cực đoan chống đối trong nội địa, đặc biệt là âm mưu, hoạt động tình báo, gián điệp nhằm tác động chuyển hóa nội bộ; hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng, kích động biểu tình, gây rối an ninh trật tự, bạo loạn, khủng bố; bảo vệ tuyệt đối an toàn 2.595 cuộc, lượt hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, 154 sự kiện chính trị quan trọng, 80 đoàn khách quốc tế, bảo đảm an ninh, an toàn các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài… Trong thời gian tới, hai Bộ tiếp tục phối hợp cụ thể hóa và tổ chức triển khai toàn diện, về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Hai lực lượng tăng cường phối hợp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đặc biệt là đối với âm mưu, hoạt động tình báo, gián điệp, tác động chuyển hóa nội bộ, tuyên truyền phá hoại tư tưởng; triển khai các giải pháp bảo đảm an ninh mạng, an ninh thông tin, kịp thời phát hiện, vô hiệu hóa hoạt động sử dụng không gian mạng để xâm phạm an ninh quốc gia. Các cơ quan, đơn vị Quân đội, Công an phối hợp triển khai quyết liệt các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh trấn áp các loại tội phạm, nhất là đấu tranh với tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm ma túy, buôn lậu, gian lận thương mại.

Từ khẳng định trên, toàn xã hội cần đề cao cảnh giác, nhận diện, vạch trần, nghiêm trị, đấu tranh đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kiên quyết bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động hòng phá hoại sự đoàn kết, hiệp đồng cùng chiến đấu của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta./.

 

 

LUẬN ĐIỆU TRƠ TRẼN “LIÊN MINH QUÂN SỰ MỸ – NHẬT – PHI VÀ SỰ CÔ ĐƠN NGUY HIỂM CỦA VIỆT NAM” CẦN ĐƯỢC LÊN ÁN

Một trong các sự kiện thu hút sự quan tâm của dư luận toàn thế giới trong tháng 4 năm 2024 vừa qua chính là sự kiện ngày 11/4/2024 diễn ra Hội nghị thượng đỉnh lần đầu tiên giữa lãnh đạo ba nước Mỹ – Nhật Bản – Philippines. Hội nghị đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng về hợp tác giữa các bên liên quan, trong đó có vấn đề về liên minh quân sự giữa Mỹ, Nhật Bản và Philippines.

Bình luận về sự kiện này, trên trang mạng “quyenduocbiet”, Nguyên Anh đã đăng bài viết tựa đề “Liên minh quân sự Mỹ – Nhật – Phi và sự cô đơn nguy hiểm của Việt Nam”. Bài viết, viện cớ sự liên minh quân sự giữa ba nước Mỹ, Nhật, Philippines để phê phán chủ trương không tham gia liên minh quân sự của Việt Nam là “sự cô đơn nguy hiểm”. Từ đó, “khuyên” Việt Nam cần thực hiện liên minh quân sự với Mỹ. Nguyên Anh còn cho rằng, điều kiện tiên quyết để trở thành “đồng minh của Mỹ” là: “Việt Nam bắt buộc phải là một quốc gia không cộng sản”. Thực chất đây là những luận điệu trơ trẽn, nhằm xuyên tạc, công kích chính sách quốc phòng “4 không” của Việt Nam, nhất là chủ trương “không tham gia liên minh quân sự”Đồng thời phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác đối ngoại quốc phòng. Cần khẳng định rằng, Việt Nam chủ trương “không tham gia liên minh quân sự” là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp và sáng suốt; là điều kiện quan trọng để giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước, bởi lẽ:

Thứ nhất, quan điểm nhất quán xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta là xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa; củng cố, tăng cường nền quốc phòng toàn dân, sức mạnh quân sự để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đồng thời, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc, kiên quyết không “trông chờ” sự “bảo hộ” của bất cứ một thế lực nào.

Thứ hai, thực tiễn cho thấy, các cuộc chiến tranh và xung đột trên thế giới gần đây, nhất là trường hợp xung đột giữa Nga và Ukraina,… chỉ ra, một trong những nguyên nhân và “ngòi nổ” của nó là chính sách đối nội và đối ngoại thiếu sự nhất quán của chính phủ các nước đó. Chính phủ và ngay cả một bộ phận nhân dân các nước này luôn trông chờ sự “cứu giúp” từ thế lực bên ngoài hoặc dựa hẳn vào một liên minh quân sự với các quốc gia khác. Hậu quả để lại cho nhân dân các nước đó là sự phá hỏng không gian kinh tế – xã hội, bị chiến tranh tàn phá và luôn phải đối mặt với nguy cơ bất ổn, kéo lùi sự phát triển của đất nước. Điều này cho thấy sự hiện hữu những vấn đề về “lợi bất cập hại”, “hại” sẽ nhiều hơn “lợi” trong tham gia liên minh quân sự, để rồi đánh mất độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế, tự chuốc thêm kẻ thù, tự đưa quốc gia, dân tộc mình vào tình thế “nguy hiểm”.

Thứ ba, thành công của Việt Nam trong giữ vững chủ quyền, độc lập, bảo vệ lợi ích của quốc gia – dân tộc những năm qua chính là thành công của xây dựng nền quốc phòng, an ninh độc lập, tự chủ, tự cường; và thực hiện thắng lợi đường lối “đa dạng hóa, đa phương hóa” quan hệ đối ngoại. Thành tựu đó đã khẳng định: Chủ trương không tham gia liên minh quân sự là đúng đắn và phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay khi hòa bình, hợp tác, phát triển đang là xu thế chủ đạo và chủ trương đối ngoại của Việt Nam là đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn tốt, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 100 quốc gia, bao gồm 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các cường quốc trên thế giới. Hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và các nước ngày càng đi vào chiều sâu với các nội dung, lĩnh vực hợp tác thiết thực, phù hợp với điều kiện, nhu cầu và lợi ích của ta và các nước đối tác, tập trung vào các lĩnh vực như trao đổi, tham vấn, đối thoại, đào tạo, hợp tác quân binh chủng, công nghiệp quốc phòng, quân y, cứu hộ – cứu nạn, tuần tra chung biên giới trên bộ, trên biển, giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới; chủ động tham gia và tổ chức đăng cai các hội thao quân sự quốc tế…Những kết quả quan trọng trên đây là cơ sở để chúng ta tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Thứ tư, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại quốc phòng là vấn đề có tính nguyên tắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Công tác đối ngoại quốc phòng là một bộ phận trong hoạt động đối ngoại của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Mọi hoạt động hợp tác quốc phòng đều phải bám sát quan điểm, chủ trương, phương châm, mục tiêu, nội dung, phương thức mà Đảng xác định. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động này được cụ thể hóa thông qua vai trò quản lý của Nhà nước, trực tiếp là Bộ Quốc phòng và chỉ huy các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Với ý nghĩa đó, hợp tác quốc phòng trong tình hình hiện nay chính là: “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại” trên tinh thần “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Đồng thời, mọi hoạt động hợp tác quốc phòng đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng giữ quyền độc tôn lãnh đạo hoạt động đối ngoại quốc phòng; quyền lãnh đạo đó không san sẻ, chia sẻ cho các lực lượng, tổ chức chính trị – xã hội khác.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn cho thấy, “luận điệu” của Nguyên Anh thực chất là một âm mưu thâm độc núp bóng vỏ bọc “bảo vệ chủ quyền lãnh thổ” nhưng lại nhằm chống phá đất nước, chúng ta cần phải đề cao cảnh giác, chủ động phát hiện vạch trần, đấu tranh kiên quyết, không để bị lừa gạt, gây tổn hại đến lợi ích quốc gia – dân tộc.

 

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH KHÔNG TÁCH RỜI VÀ ĐỐI LẬP VỚI CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

Mới đây, trên trang “Vietnam. org” đăng tải bài viết của Kiều Phong xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, âm mưu tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin. Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh có thể thấy rõ những quan điểm nói trên là hoàn toàn sai trái, bởi lẽ:

Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc lý luận chủ yếu từ chủ nghĩa Mác – Lênin.

Chủ nghĩa Mác  Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để hình thành hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện của Người về cách mạng Việt Nam. Trong tìm đường cứu nước, Người đến với chủ nghĩa Mác  Lênin và tìm thấy ở đây cái “cẩm nang thần kỳ” soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Từ đó, Người đứng hẳn về Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp vào cuối năm 1920, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt quyết định trong hình thành tư tưởng chính trị của mình.

Để chuẩn bị cho quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1927, Người viết tác phẩm “Đường kách mệnh”, trong đó khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[1]. Trong bài: “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến nguồn gốc lý luận tư tưởng của mình là chủ nghĩa Mác – Lênin. Người khẳng định: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[2]. Vì vậy, không thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh tách rời với chủ nghĩa Mác – Lênin.

Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Chính trên cơ sở nắm vững và quán triệt sâu sắc bản chất cốt lõi những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam; để hình thành nên hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Người không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin, mà tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp nhận thức mác xít; đồng thời, theo lối “đắc ý, vong ngôn”, tức là cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất của chủ nghĩa Mác – Lênin, chứ không tự trói buộc trong cái vỏ ngôn từ; trên cơ sở đó vận dụng vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, hình thành nên những quan điểm cơ bản về mục tiêu, lực lượng, động lực, phương pháp cách mạng,… của cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh luôn tự mình quán triệt, thực hiện và yêu cầu: “Học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta”[3]; là “học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác  Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”[4]. Chính trên tinh thần đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam dần được hoàn bị, phản ánh sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam. Do vậy, không thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh tách rời với chủ nghĩa Mác – Lênin như Kiều Phong đã xuyên tạc.

Như vậy, luận điệu của Kiều Phong đưa ra thực chất là một quan điểm sai trái, xuyên tạc về mối quan hệ gắn bó mật thiết, hữu cơ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác – Lênin, âm mưu phủ định cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là bước đi nhằm tiến tới phủ định bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá của Kiều Phong cùng đồng bọn của y.

 

THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHỦ TỊCH SỐNG MÃI !

Trong lịch sử nhân loại, ít có những bậc vĩ nhân, những lãnh tụ cách mạng, ngoài công lao to lớn làm thay đổi trật tự một chế độ xã hội lỗi thời, lạc hậu bằng một chế độ xã hội mới tiến bộ hơn, dân chủ hơn, còn làm thay đổi phong cách của cả một thế hệ người, một chế độ, một đất nước và có ảnh hưởng to lớn đến phong trào giải phóng dân tộc nhân dân trên toàn thế giới. V.I.Lênin và Hồ Chí Minh là những con người như thế. Thân thế, sự nghiệp của Người tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam; ghi dấu ấn sâu đậm với lòng kính trọng, yêu mến của bạn bè khắp nơi trên thế giới. Vậy mà vẫn có những kẻ táng tận lương tâm, tìm mọi thủ đoạn xuyên tạc thân thế, sự nghiệp của Người vì những mưu cầu cá nhân thấp hèn. Bài viết “Hồ Chí Minh: Một anh hùng hay gian hùng của Việt Nam” của Phạm Đình Hưng đang được phát tán trên nhiều diễn đàn phản động những ngày gần đây là một ví dụ điển hình. Nội dung bài viết gây phẫn nộ trong dư luận nhân dân cả nước, bởi những lời lẽ xúc phạm, bịa đặt một cách trắng trợn cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, phong cách đạo đức của Người; trà đạp lên lòng tự hào, tự tôn của dân tộc Việt Nam.

Nối gót các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, Phạm Đình Hưng đã có những lời lẽ ngông cuồng, vô căn cứ, xuyên tạc một cách trắng trợn tiểu sử, cuộc đời hoạt động cách mạng, trí tuệ, phong cách, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mục đích của Y là hạ bệ thần tượng, làm suy giảm lòng tin vào cá nhân lãnh tụ, vào chế độ xã hội chủ nghĩa; phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam; kêu gọi “một sự thay đổi” về thể chế chính trị ở nước ta theo con đường tư bản chủ nghĩa. Những luận điệu này hoàn toàn không mới, nó chỉ được “đào xới” lại nhân dịp nhân dân cả nước đang hướng về ngày sinh nhật của Người (19/5), hòng thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội đến những âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động. Hành động của Phạm Đình Hưng đã vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam, là tội ác không thể dung thứ.

Thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh được khẳng định và ghi dấu cùng những thắng lợi vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta. Rất nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, triết học, các lãnh tụ, nhà văn, nhà báo, nhà điện ảnh trong và ngoài nước… đã nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng những cuốn sách hàng nghìn trang, bằng những bản nhạc, tác phẩm điện ảnh bất hủ … Có những người đã dành một phần cuộc đời, tiêu tốn nhiều tiền bạc của cá nhân đi đến các quốc gia đã in dấu chân của Hồ Chí Minh, để tìm hiểu và viết về Người. Chân lý khẳng định: “Một con người toàn diện đã sống trên thế gian này. Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh!”, Báo Chiến đấu của Conggo đã viết như vậy. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã có Nghị quyết ghi nhận, Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Báo Diễn đàn của Canada ngày 10/9/1969 viết: “Nhiều kẻ thù của Người tỏ lòng khâm phục và kính trọng đối với Người. Nhiều người tự do ở phương Tây đã ca ngợi những cống hiến của Người cho sự tiến bộ của nhân loại… Cuốn sách Những nhân vật xuất chúng của thế kỷ XX của Walter Isaacson và Dan Rather nhận định, tên tuổi của Hồ Chí Minh cùng những “vĩ nhân chói sáng” luôn hắt “những cái bóng dài trên dặm đường lịch sử hơn 100 năm qua” của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là niềm tự hào của đất nước, dân tộc Việt Nam; mà còn cả nhân loại tiến bộ trên thế giới. Mọi sự xuyên tạc, xúc phạm Người đều là hành động tội ác, đi ngược với chân lý thời đại và lương tâm của nhân loại tiến bộ!

Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình ảnh của một bậc vĩ nhân, một lãnh tụ vì nhân dân, vĩ đại mà không cao xa; thanh cao mà vô cùng giản dị; mẫu mực và gần gũi với quần chúng, nhân dân; hết mực thương yêu đồng chí, đồng bào; hết lòng, hết sức chăm lo cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Người đã về “thế giới người hiền” nhưng còn sống mãi trong lòng dân tộc, bởi Người “là Cha, là Bác, là Anh” gần gũi của mỗi người dân đất Việt. Ở các địa phương, trong nhiều gia đình, người dân lập bàn thờ Bác Hồ, treo ảnh Bác ở nơi trang trọng nhất trong nhà. Một hệ thống đền thờ Bác đã được xây dựng ở nhiều địa phương; tượng Bác được phối thờ trong nhiều nơi thờ tự của các tôn giáo. Mọi sinh hoạt của đền thờ, thắp hương tưởng niệm Bác đều xuất phát từ tín ngưỡng truyền thống thờ cúng tổ tiên và những người có công với dân, với nước của dân tộc Việt Nam. Hoạt động này đã trở thành nét đẹp văn hóa, góp phần to lớn trong giáo dục nhân dân, nhất là thế hệ trẻ học tập và làm theo Bác. Đồng thời minh chứng cho một sự thật: Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức ảnh hưởng vô cùng to lớn trong đời sống văn hóa cộng đồng dân tộc Việt Nam; đền thờ, phủ thờ Bác đã trở thành di sản văn hóa – tinh thần của mỗi người dân. Những sinh hoạt văn hóa này là nét đẹp riêng có của người Việt, trái ngược hoàn toàn với sự xuyên tạc trơ trẽn của Phạm Đình Hưng về cái gọi là sự “thần thánh hóa”, “Phật hóa” hình tượng Hồ Chí Minh!

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng Người để lại cho chúng ta di sản tư tưởng vĩ đại, tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời và phong cách Hồ Chí Minh được cả thế giới ngợi ca. Thực tiễn cách mạng hơn 90 năm qua, từ những thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta kể từ khi có Đảng đã cho thấy rằng, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh luôn là chỉ dẫn quý báu giúp toàn Đảng, toàn quân và toàn dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức. Thân thế, sự nghiệp của Người sống mãi với non sông Việt Nam. Những kẻ nguông cuồng, lộng ngôn xuyên tạc, xúc phạm Người – như Phạm Đình Hưng đáng bị lên án và xử lý nghiêm minh./.

 

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh

“Nước lấy dân làm gốc”1 là một nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận sâu sắc và định hướng thực tiễn đặc biệt quan trọng trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Hiện nay, trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tư tưởng này cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Kế thừa, phát huy truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng, đề cao vai trò, sức mạnh của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng. Người chỉ rõ: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”2. Trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, nội hàm tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rất rõ, rất cụ thể trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân: “cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân,…”3. Theo Người, mọi người dân đều có thể tham gia kháng chiến, không phân biệt giới tính, độ tuổi; tất cả các tầng lớp nhân dân đều tham gia đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí, từ thô sơ đến hiện đại, bằng nhiều cách đánh khác nhau: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc”4. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng”5. Đây là lời hiệu triệu, khích lệ tinh thần của nhân dân, của toàn dân tộc đồng lòng đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm, thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Có thể khẳng định tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là cơ sở, nền tảng để Đảng ta vận dụng hình thành đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để đánh bại mọi kẻ thù xâm lược.

Thấm nhuần tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đề ra đường lối lãnh đạo cách mạng đúng đắn, lấy lợi ích của quốc gia – dân tộc, lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cao nhất để tập hợp lực lượng, tiến hành công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: “Trong điều kiện lịch sử mới, khi đã có chính quyền thống nhất quản lý cả nước tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bài học “lấy dân làm gốc” được nêu lên trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI chẳng những vẫn giữ nguyên giá trị mà còn có ý nghĩa đặc biệt”6. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 35 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 và 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta rút ra 05 bài học kinh nghiệm; trong đó, bài học thứ hai đã chỉ rõ: “…phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”7. Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quán triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về “nước lấy dân làm gốc”, nhờ đó thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Hiện nay, cùng với xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có biến chuyển nhanh, diễn biến phức tạp,… tác động nhiều chiều đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta, với cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Ở trong nước, tình hình trên các vùng biển, đảo tiếp tục tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định; các thế lực thù địch, phản động tiếp tục đẩy mạnh hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước với thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc hơn, đe dọa đến sự tồn vong của Đảng, chế độ, cuộc sống bình yên của nhân dân, v.v. Vì vậy, hơn bao giờ hết đòi hỏi chúng ta phải luôn quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan tâm chăm lo, bồi dưỡng sức dân, khơi dậy, động viên và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc trong tăng cường sức mạnh quốc phòng, trọng tâm là xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tập trung vào thực hiện tốt một số nội dung giải pháp chủ yếu sau.

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong vận dụng tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Người vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, tạo sự thống nhất cao về nhận thức, trách nhiệm và hành động của các cấp, ngành, địa phương, lực lượng, đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn dân trong nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về “nước lấy dân làm gốc” vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Vì vậy, trước hết, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục những vấn đề cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về “nước lấy dân làm gốc” trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Trong đó, tập trung vào những vấn đề về vai trò, sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; về đường lối, chủ trương, chính sách quốc phòng của Đảng, Nhà nước, nhất là đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân; những tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong Nghị quyết Đại hội XIII, Nghị quyết số 44-NQ/TW, ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, v.v. Trên cơ sở đó, tiếp tục khẳng định sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của toàn dân; lực lượng bảo vệ Tổ quốc là lực lượng toàn dân; trong đó, lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Bên cạnh đó, chú trọng giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp, các ngành, đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân và cán bộ, chiến sĩ toàn quân trong vận dụng tư tưởng trên của Người vào sự nghiệp cách mạng; củng cố, tăng cường niềm tin với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Để đạt hiệu quả cao, cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan, đơn vị chú trọng phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng, phương tiện thông tin đại chúng; thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục thường xuyên với giáo dục theo chuyên đề. Đồng thời, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng và toàn dân, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành.

Hai là, chăm lo bồi dưỡng sức dân, tạo nền tảng, động lực mạnh mẽ xây dựng các tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Quán triệt tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn chú trọng phát huy vai trò của nhân dân, của nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và luôn coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Thực hiện mục tiêu đó, cùng với đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, Đảng, Nhà nước tiếp tục chăm lo bồi dưỡng sức dân, nâng cao dân trí, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài cho đất nước. Trước hết, trên cơ sở tăng cường đổi mới, nâng cao hiệu quả mô hình tăng trưởng của nền kinh tế, Đảng và Nhà nước ta tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước; giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Trong đó, hết sức chú trọng phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, mức sống của nhân dân. Đặc biệt, cần có chủ trương, cơ chế, chính sách phù hợp, ưu tiên vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,… thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế – xã hội là một bước tăng cường quốc phòng, an ninh. Đồng thời, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, an ninh con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Trong quá trình thực hiện, cần khéo vận dụng những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,… để tích cực đổi mới cách tiếp cận xã hội, nhất là đối với những người yếu thế, người nghèo; tăng cường phối hợp, lồng ghép, ưu tiên các nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa trong trợ giúp xã hội, v.v. Đây là vấn đề rất quan trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; từ đó, tạo đồng thuận cao, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trong đó có xây dựng các tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.

Ba là, tiếp tục khơi dậy, động viên toàn dân xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, trọng tâm là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Đây vừa là một trong những nội dung trọng tâm, bao trùm, yêu cầu khách quan, vừa là mục tiêu xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong tình hình mới. Vì thế, việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là xây dựng “thế trận lòng dân” phải huy động sự vào cuộc của các cấp, ngành, lực lượng, địa phương, của cả hệ thống chính trị và toàn dân; trong đó, dựa vào dân, dân là gốc, phát huy sức mạnh của toàn dân là vấn đề rất quan trọng, mang tính nền tảng. Để làm được điều đó, trước hết cần phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đóng góp của toàn dân trong xây dựng thế trận quan trong này. Trước mắt, cần tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về quốc phòng ở tất cả các cấp từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường huy động các tiềm lực, sức mạnh của toàn dân xây dựng phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố ngày càng vững chắc, có chiều sâu, tạo thế phòng thủ chung thống nhất trên từng khu vực, địa bàn và cả nước. Chú trọng huy động, tận dụng các nguồn lực, các tiềm năng, lợi thế trên từng khu vực, địa bàn để quy hoạch, xây dựng thế trận quân sự trong khu vực phòng thủ, các công trình trong căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, các công trình phòng thủ; phòng thủ dân sự; phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn,… gắn với phương châm “4 tại chỗ”8, v.v. Đồng thời, động viên, khuyến khích, phát huy vai trò của nhân dân tham gia thực hiện công tác quốc phòng, quân sự ở địa phương, cơ sở và các phong trào, cuộc vận động do Quân đội phát động cũng như phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc”; làm tốt công tác phối hợp giữa lực lượng Quân đội với Công an trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, đề xuất và triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, mang tính đột phá trong thực hiện công tác dân vận, tuyên truyền đặc biệt,… để huy động “tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở, tạo nền tảng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng,…”9.

Bốn là, phát huy sức mạnh của toàn dân trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng vũ trang nhân dân được ra đời từ phong trào cách mạng của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là lực lượng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, luôn mang trong mình bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Vì thế, muốn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, các cấp, ngành, địa phương và cả hệ thống chính trị; trong đó, sức mạnh của lòng dân, sức dân,… là vấn đề có tính nền tảng. Để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, chúng ta phải tuyên truyền, giáo dục cho các cấp, ngành, lực lượng và toàn dân nắm vững quan điểm, đường lối quốc phòng toàn dân, đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng cùng sự cần thiết và vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân đối với sự trường tồn, phát triển của đất nước, dân tộc, v.v. Trên cơ sở đó, động viên, huy động mọi nguồn lực trong dân; kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong xây dựng lực lượng quan trọng này. Trước mắt, tập trung xây dựng lực lượng Quân đội, Công an thường trực, chính quy theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu; lực lượng dân quân, tự vệ vững mạnh, rộng khắp, có cơ cấu thành phần hợp lý, chất lượng cao. Cùng với đó, không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật; phát huy dân chủ quân sự, tăng cường đoàn kết cán binh,… góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tích cực huy động mọi nguồn lực (cả về vật chất và trí tuệ) của Nhà nước, các tổ chức và cá nhân để nghiên cứu, sửa chữa, sản xuất và mua sắm các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại cho lực lượng vũ trang. Đồng thời, sớm hoàn thiện, ban hành cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào phục vụ trong Quân đội, Công an, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.

Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về “nước lấy dân làm gốc” vào xây dựng, củng cố quốc phòng, phát huy hơn nữa sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

 

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH MÃI MÃI SOI ĐƯỜNG CHO CÁCH MẠNG VIỆT NAM 

Xuyên tạc, bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những thủ đoạn chống phá nguy hiểm của các thế lực thù địch. Gần đây, trên “Rfatiengviet” chúng rêu rao rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là “mị dân”, “bánh vẽ”, “không có giá trị”… Đây là những luận điệu hết sức xảo trá, phản động, vô căn cứ, cần phải đấu tranh, phản bác kịp thời, bởi thực tế đã chứng minh, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng trong thực hiện thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như trong công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường đấu tranh giành độc lập, dân tộc

Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam vào giữa thế kỷ XIX, các sĩ phu yêu nước đã liên tiếp đứng lên tổ chức các phong trào cứu nước, từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản và qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại. Trong sự bế tắc, khủng hoảng về đường lối cách mạng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời bến cảng Nhà Rồng bắt đầu một cuộc hành trình đầy gian khổ, lâu dài để tìm con đường giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu dân. Mang trong mình khát vọng vĩ đại ấy, qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin. Nghiên cứu luận cương này, Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ được vấn đề dân tộc và con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa. Từ đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, chấm dứt cuộc khủng hoảng lâu dài về đường lối của cách mạng Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam và chuẩn bị mọi điều kiện về chính trị, tư tưởng, lý luận, tổ chức, cán bộ để thành lập một Đảng cách mạng chân chính . Thông qua các tác phẩm nổi tiếng như: “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), “Đường kách mệnh” (1927) và nhiều tác phẩm khác, cùng với các tờ báo do Người sáng lập như báo Người cùng khổ (1922), báo Thanh niên (1925)… Người đã từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, xây dựng hệ tư tưởng cách mạng vô sản, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác, đưa phong trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản, tiến tới thành lập một chính đảng cách mạng dẫn dắt phong trào cách mạng.

Ngày 03/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đáp ứng yêu cầu tất yếu của lịch sử. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng, làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt lịch sử dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công khẳng định tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược và sách lược cách mạng; về lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp; về tình thế và thời cơ cách mạng; về ý chí tự lực, tự cường dân tộc và tranh thủ điều kiện quốc tế; về khoa học, nghệ thuật khởi nghĩa toàn dân, vũ trang toàn dân.

Tiếp nối thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, lập nên kỳ tích Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; tiếp đến là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi vĩ đại này thể hiện tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh, mà trực tiếp là tư tưởng quân sự của Người tạo sức mạnh trong chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc; kiên quyết bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Như vậy, từ những cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chúng ta càng tin tưởng rằng tư tưởng của Người mãi mãi là niềm tự hào, tài sản vô giá, ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam đạt được những kỳ tích vẻ vang hơn nữa trong công cuộc đổi mới./.

 

LỢI DỤNG PHÁT NGÔN KHÔNG PHÙ HỢP ĐỂ CHỐNG PHÁ

Gần đây, trên trang blog Rfavietnam, Đài Á châu Tự Do (RFA) phát tán bài viết “Vụ nam sinh Đường lên đỉnh Olympia: Công an vào cuộc là quá mức”. Bài viết có nội dung xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ nền giáo dục Việt Nam, kích động, cho rằng: Nam sinh đã nói lên sự thật chứ không phải “nói xấu Đảng”, đó là thời khắc lịch sử của “Đổi Mới”; Công an tỉnh Yên Bái gọi lên làm việc là “quá mức” và “xâm phạm đến quyền tự do suy nghĩ” của người khác; đồng thời vu cáo, xuyên tạc cách xử lý của chính quyền và cơ quan chức năng là yếu kém, có hại nhiều hơn có lợi. Thực chất, các thế lực thù địch lợi dụng mọi sự việc, mọi con người để biến thành công cụ phục vụ cho mưu đồ đen tối của chúng nhằm lật đổ chế độ chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, chúng ta cần tỉnh táo nhận diện, nâng cao tinh thần cảnh giác, sức đề kháng để tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

1.Sự việc phát ngôn của nam sinh đường lên đỉnh Olympia. Vào khoảng 22h ngày 1/9, tài khoản cá nhân Facebook “Chu Vinh” đăng tải story có nội dung thông tin: Bản thân không tin vào các nội dung được giảng dạy trong nhà trường; chỉ quan tâm đến bản thân, đến lợi ích viển vông ở xứ “thiên đường” là các nước phương Tây xa xôi. Đáng chú ý, Chu Vinh còn khẳng định mong muốn lớn nhất của mình là được sống và làm việc ở nước ngoài, thay vì cống hiến cho quê hương. Lời phát biểu này ngay lập tức tạo ra một làn sóng phản đối dữ dội trên mạng xã hội, với hàng triệu lượt người bày tỏ sự bức xúc và chỉ trích mạnh mẽ. Xác định đây là bài viết có tính chất nhạy cảm diễn ra vào dịp Quốc khánh 2/9, Công an tỉnh Yên Bái đã chỉ đạo đơn vị nghiệp vụ tiến hành mời Chu Ngọc Quang Vinh đến trụ sở Công an phường Yên Thịnh, thành phố Yên Bái để làm việc với sự chứng kiến của mẹ và cô giáo chủ nhiệm.

Tại buổi làm việc, Công an tỉnh Yên Bái cùng giáo viên chủ nhiệm, gia đình đã giải thích rõ để em nhận thức về Đảng, Nhà nước, lịch sử dân tộc, phân tích cho Chu Ngọc Quang Vinh hiểu rõ vấn đề và nhận thức lại về các nội dung trên. Sau khi làm việc với lực lượng Công an, nam sinh nhận thức được hành vi của mình là trái với quy định Pháp luật, tuy nhiên do hiểu biết còn hạn chế dẫn đến thực hiện hành vi trên.

Trên trang cá nhân của mình, Chu Ngọc Quang Vinh đăng tải một bài viết xin lỗi: “Là một người trẻ lớn lên ở Việt Nam, mình là người rất thích đọc lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc và mong muốn tìm hiểu về nguồn cội của bản thân. Tuy vậy, trong quá trình tìm hiểu, mình đã bị ảnh hưởng bởi những tư liệu không đúng sự thật và mang tính ác ý với Tổ Quốc”. Cũng theo Chu Ngọc Quang Vinh, những phát ngôn nông cạn vừa qua chỉ xuất phát từ những quan sát và trải nghiệm ít ỏi của bản thân. Quang Vinh nhận lỗi hoàn toàn thuộc về bản thân và mong muốn được mọi người tha thứ.

2. Thủ đoạn tác động làm cho lớp trẻ tự diễn biến, tự chuyển hóa, quên sạch, phủ nhận thành quả cách mạng

Qua sự việc phát ngôn sai trái của học sinh Chu Ngọc Quang Vinh và kẻ xấu triệt để lợi dụng sự việc này để kích động, chống phá cho thấy, âm mưu thâm độc của kẻ thù đang truyền bá, đầu độc giới trẻ đó là tách Đảng ra khỏi đất nước, dân tộc để hạ bệ uy tín của Đảng làm mất niềm tin trong nhân dân từ đó gieo rắc mầm mống biểu tình, bạo loạn để lật đổ chế độ. Đây cũng là lý do để các “nhà dân chủ giả hiệu” ở trong và ngoài nước, các đối tượng cơ hội chính trị, chống phá tung ra những luận điệu xuyên tạc, bẻ lái để công kích Đảng, Nhà nước Việt Nam. Âm mưu của những kẻ này thường đội lốt “dân chủ”, “nhân quyền”, “xã hội dân sự” để kêu gọi, cấu kết lực lượng thực hiện ý đồ chống phá. Nguy hiểm hơn khi tìm cách móc nối, tuyển chọn một số thanh niên trong nước đưa ra nước ngoài đào tạo nhưng thực chất là để tập hợp lực lượng, kích động bạo loạn, biểu tình trong nước, gây dựng các tổ chức chính trị đối lập. Chúng cài cắm người vào các hội, nhóm sinh viên, thanh niên để đăng tải các bài viết, hình ảnh xuyên tạc về tình hình Việt Nam. Từ đó, nhen nhóm, nuôi dưỡng tư tưởng “làm cách mạng”.

Đó chính là bản chất của cách mạng màu đã và đang diễn ra tại nhiều quốc gia, đẩy dân tộc đến nội chiến và tan hoang khi đó là điều kiện chín muồi để các nước lớn đưa quân sự đến xâu xé, tranh dành quyền lợi và dựng chính phủ bù nhìn thực hiện âm mưu xâm lược của ngoại bang. Nếu chúng ta không tỉnh táo thì nó sẽ ngấm ngầm và trở thành luồng tư tưởng thấm sâu vào từng cá nhân, nhất là trong giới trẻ tự diễn biến, tự chuyển hoá, từng bước thay thế dần một thế hệ quên sạch và phủ nhận những thành quả cách mạng trong quá trình lãnh đạo của Đảng; khi đó các thủ lĩnh sinh viên sẽ thực hiện cách mạng màu như đang diễn ra ở một số nước.

3.Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, truyền thống cách mạng cho học sinh

Việc giáo dục lòng yêu nước, lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và tương lai tươi sáng của Đất nước, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, phải được tiến hành triệt để hơn nữa, để các thế lực thù địch trong và ngoài nước, cũng như các thành phần thiếu thiện chí với Việt Nam không có cơ hội. Ngày 2/9, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Yên Bái đã có Công văn số 317/BC-GDĐT trong đó yêu cầu nhà trường tăng cường thực hiện công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, truyền thống cách mạng cho giáo viên và học sinh; đẩy mạnh chia sẻ các thông tin, bài viết tích cực về tình yêu quê hương đất nước, về lãnh tụ, về ngày Quốc khánh 2/9Sở cũng đã tổ chức buổi làm việc với Trường Trung học phổ thông Chuyên Nguyễn Tất Thành, yêu cầu nhà trường kịp thời định hướng phát ngôn cho giáo viên, học sinh của nhà trường đảm bảo đúng quy định; phân công lãnh đạo nhà trường, giáo viên chủ nhiệm, phối hợp chặt chẽ với gia đình, địa phương tiếp tục theo dõi, nắm tình hình và diễn biến tư tưởng, tâm lý của học sinh Vinh; chủ động phối hợp với lực lượng Công an và các đơn vị liên quan kịp thời tham mưu xử lý sự việc đảm bảo đúng quy định, sớm ổn định tình hình. Đây là việc làm cần thiết của các cấp, các ngành, và toàn xã hội, vì Việt Nam đang hoà bình, ổn định và từng bước phát triển, đó là xu thế chung của đất nước, của dân tộc. Không có một lực lượng nào, một tổ chức nào, một nhóm lợi ích nào có thể lợi dụng để đưa những học thuyết phản động như “cách mạng màu”, cách mạng đường phố, phản kháng phi bạo lực, xúi giục đấu tranh đòi lật đổ chế độ. Những chiêu trò công kích, lèo lái dư luận của Đài Á châu Tự Do (RFA) và những kẻ bất mãn, chống phá là vô giá trị, không bao giờ đánh lừa được ai./.

 

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Hiện nay, trên trang mạng “Doithoaionline”, đang phát tán luận điệu của Trần Văn Chánh với tiêu đề: “Việt Nam đang có tiền đề tốt để thực hiện cuộc lột xác”, đã “đổi trắng thay đen” quy kết cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta là “thanh trừng nội bộ”; phủ nhận thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho rằng con đường đi lên CNXH “là một loại lý tưởng phi hiện thực, nếu không muốn nói là ảo tưởng”. Độc hại và tráo trơ hơn, y đã phủ nhận công lao to lớn của Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với dân tộc khi cho rằng những chỉ dẫn và lý luận của Cố Tổng Bí thư là “lý thuyết suông”. Y còn xuyên tạc, phủ nhận những chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm là “võ biền”. Thế nhưng, thực tiễn đất nước đã bác bỏ mọi âm mưu xuyên tạc của Chánh.

Tâm địa đen tối của Trần Văn Chánh

Hàng ngàn đời nay, nhân dân ta đã căm ghét mọi hành động tham nhũng, vơ vét của chung làm của riêng, coi đó là giặc nội xâm. Thế nhưng, dưới cái nhìn thiếu lương tri và nhân đạo như Chánh, y lại cho rằng: “một số đại gia mắc tội hối lộ, thông thầu… đang bị xét xử hiện nay cũng có phần đóng góp tích cực vào công cuộc cải cách đất nước trong tương lai”. Những kẻ vì lợi ích cá nhân ích kỷ mà chà đạp lên lợi ích tập thể, lợi ích của nhân dân, tham nhũng, tiêu cực, hối lộ, lại là những hành vi “tích cực”. Như vậy đã rõ, với cái nhìn của những kẻ luôn đi ngược lại lợi ích của dân tộc, lợi ích của nhân dân thì những hành vi bị nhân dân lên án, khinh bỉ lại là cái được họ suy tôn.

Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội

Nhắc cho Chánh nhớ, cách đây gần 80 năm, ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt quốc dân đồng bào tuyên bố trước thế giới về một nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa độc lập, một dân tộc Việt Nam tự do. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhờ đó dân tộc ta đã đập tan âm mưu, hành động thôn tính, chia cắt đất nước ta của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới. Những thành quả to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là minh chứng khẳng định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn. Đồng thời khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được nhân dân đồng tình, ủng hộ

Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tham nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng đến các nguồn lực công, xâm hại đến hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, làm sai lệch công lý, công bằng xã hội, làm suy giảm niềm tin, là lực cản đối mới phát triển đất nước, xã hội. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được Đảng, Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được cả hệ thống chính trị vào cuộc với nhận thức ngày càng rõ hơn, thực hiện với quyết tâm ngày càng cao hơn, thể hiện qua số lượng vụ án được xử lý ngày càng nhiều, trên hầu hết lĩnh vực, ở tất cả địa phương. Những kết quả nêu trên cho thấy, cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực đã lan tỏa rất mạnh mẽ, ngày càng đi vào chiều sâu, với phương châm “không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, bất kể người đó là ai, luôn nhận được sự đồng tình, ủng hộ cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước, được bạn bè quốc tế đánh giá cao.

Hiện nay, tình hình thế giới có những cơ hội, song cũng xuất hiện nhiều khó khăn, thách thức, nhưng chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát huy tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, phát huy mạnh mẽ sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Nhất định Việt Nam sẽ tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, không ngừng phấn đấu, đóng góp nhiều hơn nữa duy trì hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới./.