Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2024

 KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN CÔNG LAO TO LỚN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Không ai có thể phủ nhận công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam vì chính Người đã làm thay đổi vận mệnh của cả dân tộc ta từ thân phận một dân tộc nô lệ thành một đất nước độc lập, tự do. Với thế giới, Người đã “góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(1).

Ngay từ khi mới 20 tuổi, do nhận thấy những bế tắc về đường lối và phương pháp cách mạng của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ, Nguyễn Ái Quốc đã rời Tổ quốc để ra đi tìm đường cứu nước. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam tự nó chưa nói lên sự trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin với cách mạng nước ta. Vấn đề cốt lõi nhất là ở khả năng dẫn đường, hấp dẫn, lôi cuốn của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cả một đất nước đang vươn lên để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Sức sống chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ thực sự được tỏa sáng ở Việt Nam khi Hồ Chí Minh đã vận dụng nó để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, làm nên những thắng lợi vẻ vang ở thế kỷ XX mà không chỉ bạn bè quốc tế ghi nhận mà ngay cả kẻ thù cũng phải nể phục. Do đó, chỉ những kẻ cố tình “nhắm mắt làm ngơ”, “có mặt như mù” mới có thể phủ nhận được công lao to lớn của Người với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, “không ai có quyền phỉ báng vào hiện thực lịch sử, quy cho Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là có tội với lịch sử dân tộc bởi chính Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên tiếp nhận và phất cao ngọn cờ giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản”(2).

Không chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, Người còn trực tiếp lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược, khai sinh và xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Điều quan trọng hơn cả là khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã không bê nguyên xi lý luận của các bậc tiền bối mà đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người đã biến hệ thống lý luận với những nguyên lý, quy luật, phạm trù mang tính phổ quát của chủ nghĩa Mác - Lênin thành những triết lý giản đơn, dễ hiểu để tuyên truyền, giải thích cho nhân dân, hướng dẫn nhân dân làm theo.

Tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là nguồn gốc lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Về logic, tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển, làm phong phú, sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin; vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Vì thế, trong tác phẩm “Đường kách mệnh” (viết năm 1927), ngay ở trang đầu tiên, Hồ Chí Minh đã trích lời của Lênin: Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động,… chỉ có theo lý luận cách mệnh tiên phong Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiên phong để nêu bật tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với Đảng: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(3). Điều này đã được Người nhấn mạnh lại trong bài trả lời phỏng vấn nhà báo Sác-lơ Phuốc-ni-ô, phóng viên Báo L'humanité (Pháp) ngày 15/7/1969: “…chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được những thắng lợi to lớn như đồng chí đã biết. Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng… chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là Chủ nghĩa Mác - Lênin”(4). (3) (4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 28, tr.374.

 

Có thể nhận thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin ở bản chất khoa học và cách mạng, ở lý tưởng và mục tiêu nhân văn vì con người, vì giải phóng giai cấp, dân tộc và nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học về những quy luật phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; về cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống mọi sự áp bức, bất công; về xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời trên mảnh đất hiện thực là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân - lực lượng xã hội đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất của lịch sử phát triển nền sản xuất vật chất của nhân loại. Đồng thời, là sự tổng hòa từ nhiều nguồn tri thức của loài người, thu nhận tinh túy từ các tư tưởng tiến bộ và không ngừng được bổ sung bằng những kinh nghiệm từ thực tiễn lịch sử được khái quát lên tầm lý luận. Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời vì mục tiêu cải tạo thế giới, hướng đến giá trị nhân văn cao cả là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Như vậy, về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không hề có sự khác biệt, đối trọng nhau như các thế lực thù địch vẫn rêu rao. Có được điều đó là do chính Hồ Chí Minh đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu, kế tục, phát triển nó lên tầm cao mới, vận dụng sát đúng với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin nằm trong sự thống nhất hữu cơ; cả hai đều là cấu phần quan trọng trong nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Chúng ta không thể lấy chủ nghĩa Mác - Lênin thay cho tư tưởng Hồ Chí Minh và ngược lại, cũng như không thể hiểu và quán triệt, vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh nếu không nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin.

(1) Chu Đức Tính (chủ biên), Hồ Chí Minh - con người thời đại, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H, 2010, tr.16.

(2) Nguyễn Đắc Độ: “Cần hiểu đúng công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam” trong sách Bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, Cục Tuyên huấn, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H,2019, tr.58.

(3) (4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 28, tr.374.

 TIẾP TỤC ĐẤU TRANH CHỐNG ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN TÁCH RỜI, ĐỐI LẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ-NIN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG VÀ PHẦN TỬ CƠ HỘI CHÍNH TRỊ

Lâu nay, để tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” - “cuộc chiến tranh không khói súng”, “khâu đột phá” mà các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị thường sử dụng là tấn công trên mặt trận tư tưởng. Việc đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một thủ đoạn nhằm phủ định đường lối và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, kích động bạo loạn lật đổ để thay đổi thể chế chính trị hiện hành ở nước ta. Chừng nào chưa đạt được mục đích của mình, các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị sẽ còn chống phá bằng các hình thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp hơn. Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta phải mài sắc vũ khí lý luận để đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị nói chung và âm mưu, thủ đoạn đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói riêng. Theo đó, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về động cơ đen tối của các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị khi phủ nhận mối quan hệ này. Cần làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ rằng, mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ giữa cội nguồn và phát triển, giữa cái chung và cái đặc thù nên “tuy hai mà là một, tuy một mà là hai”. Vì thế, không thể tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cũng không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để thay thế cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin và ngược lại. Cho dù tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều điểm sáng tạo, nhưng lại thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lê-nin ở chiều sâu bản chất, ở lý tưởng giải phóng con người... Việc các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị mưu toan tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cố tình lờ đi mối quan hệ biện chứng giữa hai hệ thống tư tưởng, lý luận này không phải là do chưa có đủ thông tin hay chưa có phương pháp nghiên cứu phù hợp, mà là sự chủ ý xuyên tạc, bịa đặt và lừa bịp nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” và thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Hai là, đẩy mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị để cán bộ, đảng viên hiểu rõ nội dung, bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong những năm tháng đất nước bị chia cắt, kẻ thù đế quốc từng dùng “trăm phương ngàn kế” để ly gián nhân dân miền Nam với Bác Hồ, với Đảng, với miền Bắc xã hội chủ nghĩa nhưng đều bị thất bại trước ý chí sắt đá của nhân dân ta: “Dù ai nói ngả, nói nghiêng/ Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân/ Dù ai rào giậu, ngăn sân/ Lòng ta vẫn vững là dân Bác Hồ”. Lúc này cũng vậy, nếu cán bộ và nhân dân đều thấu hiểu, thấu cảm giá trị đích thực, sức sống thời đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh thì mọi sự xuyên tạc sẽ trở nên vô nghĩa. Do đó, cần tập trung thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”. Làm tốt công tác giáo dục lý luận chính trị, đẩy lùi căn bệnh lười học lý luận chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, tích cực bồi đắp tri thức khoa học cho cán bộ, đảng viên và nhân dân chính là tạo “vắc-xin” phòng, chống sự xâm nhập của các luồng thông tin xấu, độc, các quan điểm sai trái, thù địch.

Ba là, xây dựng đội quân tinh nhuệ tác chiến mặt trận tư tưởng lý luận là các chuyên gia giỏi, am hiểu về lý luận chính trị để đấu tranh trực diện với những âm mưu, thủ đoạn, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Các chuyên gia khi tham gia vào trận chiến trên mặt trận đấu tranh tư tưởng phải có thái độ vừa mạnh mẽ, điềm tĩnh, vừa kiên quyết, kiên trì; mọi lập luận đưa ra phải đạt tới mức tinh thông, sắc bén về lý luận, phong phú, sinh động về thực tiễn. Theo đó, cần thường xuyên và kịp thời cung cấp thông tin cho lực lượng này và tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm với các cơ quan chức năng, lực lượng nòng cốt về đấu tranh trên không gian mạng để họ trở thành những chiến sĩ thực thụ trên mặt trận đấu tranh tư tưởng.   

 

 NĂM ĐẶC TRƯNG CỦA PHẨM CHẤT “BỘ ĐỘI CỤ HỒ” VÀ MƯỜI BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

Một nội dung quan trọng trong Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, là chỉ ra 5 đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ và 10 biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Đây là nội dung hết sức thiết thực, đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân phải có trách nhiệm học tập, quán triệt, vận dụng hiệu quả.

5 đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ

Một là, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Kiên định lập trường Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có ý chí quyết tâm chiến đấu cao, chấp nhận hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Hai là, có đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, chân thành, lạc quan; nói đi đôi với làm, luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân; không thỏa mãn với thành tích, không chùn bước trước khó khăn, hiểm nguy.

Ba là, tích cực huấn luyện, học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ mọi mặt và kiến thức chuyên môn; có phương pháp, tác phong công tác khoa học, nghiêm túc, trách nhiệm cao; gương mẫu trong công tác, sinh hoạt; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.

Bốn là, có tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; giữ vững nguyên tắc, phát huy dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến góp ý với tinh thần cầu thị. Kỷ luật tự giác, nghiêm minh; gương mẫu chấp hành pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội.

Năm là, chăm lo xây dựng, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng đội như anh em ruột thịt; lắng nghe, tôn trọng, học hỏi, giúp đỡ, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Có tinh thần đoàn kết quốc tế, mở rộng và tăng cường đối ngoại quốc phòng góp phần tích cực bảo vệ môi trường hòa bình khu vực và thế giới.

10 biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân

1. Không quan tâm đến lợi ích chung, làm việc gì cũng chỉ mưu cầu cho lợi ích cá nhân; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; ganh ghét, đố kị, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.

2. Háo danh, tự cao, tự đại, thích được ca ngợi, sùng bái bản thân, tham vọng quyền lực, địa vị; chạy chức, chạy quyền, chạy thành tích, chạy tội, mua và sử dụng bằng cấp giả, giấy tờ giả; tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho mình.

3. Thiếu ý thức và trách nhiệm với tập thể, không chấp hành sự phân công, điều động của tổ chức, kén chọn chức danh, vị trí công tác; đùn đẩy trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ, không tận tâm, tận lực với công việc, không sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.

4. Thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; sợ trách nhiệm, tranh công, đổ lỗi; giấu giếm, bao che và không trung thực về những khuyết điểm, sai phạm.

5. Ngại va chạm, dĩ hòa vi quý, “thấy đúng không bảo vệ”, “thấy sai không đấu tranh”; tinh thần tự phê bình và phê bình thấp, lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ và mục đích không trong sáng; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức.

6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác để tham ô, nhận hối lộ hoặc để người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác của mình trục lợi; cố ý làm trái các quy chế, quy định, dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.

7. Cục bộ, bè phái, lợi ích nhóm để chiếm đoạt tài sản của tập thể; tham gia, xúi giục, cưỡng ép, mua chuộc người khác làm những việc trái chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và đơn vị.

8. Độc đoán, gia trưởng, quân phiệt, coi thường tập thể; buông lỏng lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, quan liêu, thiếu sâu sát; xử lý các sai phạm của cấp dưới không cương quyết, thiếu khách quan; thờ ơ, vô cảm, bàng quan trước những khó khăn, nguyện vọng chính đáng của đồng chí, đồng đội và nhân dân.

9. Coi thường lý luận, xa rời thực tiễn, lười học tập, rèn luyện, thích tự do, vô kỷ luật; hoang mang, dao động, hoài nghi về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.

10. Phai nhạt, phản bội mục tiêu, lý tưởng cách mạng; nói, viết và làm không đúng nghị quyết, chỉ thị, quy định, nguyên tắc của Đảng, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của quân đội, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

BQĐND

 

 QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Theo cách hiểu thông thường, dân chủ là hình thức thiết chế của một chế độ chính trị - xã hội lấy dân làm gốc về mặt quyền lực và lợi ích, dựa trên nguyên tắc bình đẳng - bác ái. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và quyền làm chủ của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác - Lênin. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn - Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.

Theo Hồ Chí Minh, quyền làm chủ của nhân dân thể hiện trên ba phương diện: 

Thứ nhất: Nhân dân làm chủ những gì?

Thứ hai: Tại sao nhân dân có quyền làm chủ?

Thứ ba: Làm thế nào để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân?

Ở phương diện thứ nhất - quyền làm chủ của nhân dân lao động - Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

Hồ Chí Minh cho rằng, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: Từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập trong khuôn khổ luật pháp. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn cũng như làm chủ tập thể, làm chủ nơi mình sống và làm việc. Đúng như Hồ Chí Minh nói: “Mọi quyền hạn đều của dân”. Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các cấp, các ngành đều là “đầy tớ” của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn.

          Về phương diện thứ hai, Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước, một quyền hạn thật to lớn.

 

Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do nhân dân. Nhân dân là người xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Nguyễn Trãi đã có lời khuyên: Đến khi lật thuyền mới biết sức dân mạnh như nước. Đúng là dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Vì thế, nếu không có dân sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy.

Nói gọn lại, nhân dân là lực lượng xây dựng đất nước, là lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Làm thế nào để nhân dân thực hiện được quyền làm chủ của mình? Phương diện thứ ba này được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm. Theo Người, từ xưa đến nay, nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả các xã hội trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng trước Cách mạng Tháng Mười Nga, trước học thuyết Mác - Lênin chưa có cuộc cách mạng nào giải phóng triệt để cho nhân dân, chưa có học thuyết nào đánh giá đúng đắn về nhân dân.

          Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ. Hồ Chí Minh từng nói “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và nếu nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể thực hiện được vai trò làm chủ. 

Thật vậy, người dân chỉ có thể thực hiện quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

 

 

 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ, BẢO VỆ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG BỐI CẢNH

 HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, hợp tác và hội nhập quốc tế vẫn luôn là xu thế lớn, lâu dài của các quốc gia, khu vực trên thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực, tình hình thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp và đa chiều, tác động sâu sắc đến môi trường hòa bình, an ninh và phát triển của đất nước ta. Một mặt, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục gia tăng các hoạt động chống phá cách mạng với mức độ ngày càng tinh vi hơn, nguy hiểm hơn; trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là mục tiêu quan trọng đầu tiên mà chúng nhắm tới; mặt khác, hiện nay vẫn còn tồn tại những vấn đề trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra nguy cơ đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của chế độ. Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ cán bộ, đảng viên trong bối cảnh tăng cường hội nhập quốc tế, công tác bảo vệ chính trị nội bộ cần tập trung thực hiện một số nội dung trọng tâm sau đây:

Thứ nhất, cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp, nhất là người đứng đầu cần nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác bảo vệ chính trị nội bộ gắn với công tác quản lý cán bộ trong tình hình mới. Xác định rõ trách nhiệm, nâng cao ý thức cảnh giác, đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý cán bộ để kịp thời phát hiện, khắc phục những vướng mắc, hạn chế nảy sinh trong thực tiễn; trong đó, cần tập trung vào việc nắm vững và giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với những trường hợp làm nhiệm vụ dịch thuật, cử đi học ở nước ngoài, đi công tác nước ngoài đột xuất hoặc thường xuyên, theo nhiệm kỳ hoặc có mối quan hệ tiếp xúc, làm việc lâu dài với các tổ chức, cá nhân nước ngoài, cho phù hợp với những yêu cầu, diễn biến của tình hình mới.

Thứ ba, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh trên cơ sở quán triệt sâu sắc, nghiêm túc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII), Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021 của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị; tăng cường giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, trong đó cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm bảo vệ chính trị nội bộ và ý thức cảnh giác, tinh thần kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn phá hoại tinh vi của các thế lực thù địch. Tăng cường kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.


Thứ tư, chủ động ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Tăng cường đấu tranh, sớm phát hiện, đập tan các hoạt động phá hoại tư tưởng chính trị; phản bác, bóc gỡ, vạch trần các thông tin xấu, độc, luận điệu xuyên tạc, thù địch, kích động; đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý, khắc phục những hạn chế trong quản lý báo chí, mạng xã hội và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Tăng cường các thông tin chính thống chính xác, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm, coi trọng nắm bắt và định hướng dư luận trong thời gian diễn ra các sự kiện lớn, trọng đại của đất nước.

Thứ năm, rà soát, thẩm tra, thẩm định chặt chẽ, kỹ lưỡng và kết luận rõ tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, đảng viên, không để lọt những người không đủ tiêu chuẩn chính trị vào cấp ủy các cấp. Chuyển trọng tâm từ nắm vững và giải quyết vấn đề lịch sử chính trị sang vấn đề chính trị hiện nay. Các mặt công tác quản lý cán bộ cần bám sát tình hình thực tế của đội ngũ cán bộ để có biện pháp phòng ngừa, răn đe kịp thời, hữu hiệu.

Thứ sáu, hoàn thiện cơ chế phối hợp và đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác phối hợp giữa cơ quan bảo vệ chính trị nội bộ với các cơ quan chức năng liên quan trong việc nắm vững tình hình và giải quyết các vấn đề chính trị nội bộ. Tùy tình hình cụ thể, chủ động tham mưu, đề xuất các chủ trương, biện pháp hiệu quả trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tập hợp, vận động nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, đặc biệt là trong giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên; cảnh giác và tham gia đấu tranh với các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động.

Thứ bảy, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng về công tác bảo vệ chính trị nội bộ tại các địa phương, cơ quan, đơn vị. Qua đó, nâng cao tinh thần trách nhiệm, chấn chỉnh những thiếu sót, hướng dẫn đồng bộ và nhất quán việc thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ cho các cơ quan, đơn vị, đội ngũ chuyên trách bảo vệ chính trị nội bộ đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới./.

 

 

 KHẮC PHỤC "BỆNH GIẤU KHUYẾT ĐIỂM" THEO QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947): “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”... Bài học về sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết do nguyên nhân sâu xa là mất dân chủ, “bệnh thành tích”, lãnh đạo chỉ thích khen nịnh dẫn đến xa rời thực tiễn, những yếu kém không được khắc phục, gây khủng hoảng, mất đoàn kết và cán bộ, đảng viên, quần chúng bức xúc; cùng bài học thành công của sự nghiệp đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, từ đó mới sáng rõ những việc cần làm ngay, được nhân dân đồng lòng ủng hộ... vẫn còn nguyên giá trị.

Vậy phải làm gì để chữa trị “bệnh giấu khuyết điểm”?

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Bác Hồ đã chỉ rõ: Phải thật thà phê bình và tự phê bình, kiên quyết thực hành kỷ luật; “Nơi nào sai lầm, ai sai lầm thì lập tức sửa chữa. Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu”; “Kiểm soát khéo bao nhiêu, khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa, kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”...

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định của Đảng cũng đã yêu cầu toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện nghiêm túc, đồng bộ các nhóm giải pháp. Tuy nhiên, có thể khẳng định, chính vì nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thực sự làm nghiêm, chưa vào cuộc một cách quyết liệt, chưa có biện pháp hữu hiệu nên “bệnh giấu khuyết điểm” vẫn kéo dài dai dẳng.

Cần nhìn thẳng vào sự thật: “Bệnh giấu khuyết điểm” và thích khen nịnh là bản tính của con người, là yếu tố tâm lý khách quan từ ngàn xưa, ở khắp nơi (thậm chí cổ nhân còn khuyên dạy: “Đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại”). Do đó, muốn chữa “bệnh giấu khuyết điểm” thì phải điều trị từ nguyên nhân gốc, trước hết, người mắc bệnh này phải muốn chữa và quyết tâm chữa (ở đây là người đứng đầu tổ chức Đảng và cơ quan, đơn vị các cấp trong hệ thống chính trị, từng cán bộ, đảng viên).

Nhưng thực tiễn đang tồn tại nghịch lý là rất nhiều cán bộ, đảng viên không muốn chữa “bệnh giấu khuyết điểm”. Lý do thật đơn giản: Tự nhận vi phạm, khuyết điểm thì sẽ thiệt nhiều thứ, như mất thành tích, bị trừ điểm thi đua, ảnh hưởng tới các quyền lợi của tập thể, cá nhân.

Thậm chí, việc tự nhận khuyết điểm còn bị nhiều người chê là dại dột, “chưa khảo đã xưng”, “tự bôi mỡ vào người cho kiến đốt”! Không ít trường hợp còn bị cán bộ cấp trên lấy làm ví dụ đi “bêu dương” khắp nơi, nhắc đi nhắc lại mãi. Vì thế, nhiều người, nhiều tập thể đã rút ra “bài học”: Chẳng dại gì “lạy ông tôi ở bụi này”!

Bởi vậy, thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá của cấp ủy, người đứng đầu: Thực sự quý trọng đức tính thẳng thắn, trung thực, tự giác nhận khuyết điểm là yếu tố tiên quyết để tuyên chiến với “bệnh giấu khuyết điểm”.

Cùng với đó, phải có điểm thưởng cho những tập thể, cá nhân trung thực, tự giác nhận khuyết điểm nhằm khắc phục nghịch lý “không muốn chữa bệnh giấu khuyết điểm” nêu trên, mà việc nên làm ngay là chỉnh sửa quy chế thi đua - khen thưởng theo hướng quy định rõ điểm thưởng, điểm phạt, bảo đảm không ai chịu thiệt khi thành thật, tự giác nhận khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa. Đây chính là liều thuốc đặc hiệu để chữa từ nguyên nhân gốc, trị dứt điểm “bệnh giấu khuyết điểm” nguy hại.

Đảng ta đang khuyến khích và đã có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Đặc biệt, Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28-7-2021 của Ban chấp hành Trung ương khóa XIII về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng đã xác định rõ nguyên tắc: Công tác kiểm tra, giám sát phải kịp thời phát hiện nhân tố mới, tích cực để phát huy, phải bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung; phải chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục khuyết điểm, vi phạm của tổ chức Đảng và đảng viên ngay từ khi còn mới manh nha, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng...

Thực hiện chủ trương trên, những bất cập, nghịch lý là căn nguyên dẫn đến “bệnh giấu khuyết điểm” cần sớm được các cơ quan có thẩm quyền xem xét, kiên quyết chỉ đạo khắc phục triệt để.

 

Thành viên tổ chức 'Tập hợp dân chủ đa nguyên' bị bắt

 Ngày 9/11, Đức bị Cơ quan an ninh điều tra Công an TP HCM bắt tạm giam về hành vi Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 117 Bộ luật Hình sự.

Trần Khắc Đức khi bị bắt.

Cơ quan điều tra cáo buộc Đức tham gia tổ chức chống phá nhà nước có tên "Tập hợp dân chủ đa nguyên", nhận chỉ đạo của những người cầm đầu; soạn thảo, đăng tải, chia sẻ nhiều bài viết có nội dung xúc phạm lãnh tụ, đưa thông tin sai sự thật, xuyên tạc lịch sử, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và bịa đặt, xâm phạm danh dự, uy tín của Đảng.

Ngoài ra, Đức móc nối, phát triển lực lượng trong nước cho tổ chức này. "Đây là hành vi rất nguy hiểm, xâm phạm trực tiếp đến an ninh quốc gia và tình hình an ninh chính trị trên địa bàn TP HCM", cơ quan an ninh điều tra xác định.

Trước đó, khi phát hiện hành vi của Đức, nhà chức trách đã nhiều lần triệu tập, khuyến cáo, răn đe.

Theo Công an TP HCM, tổ chức "Tập hợp dân chủ đa nguyên" do Nguyễn Gia Kiểng (ở Pháp) cầm đầu, đã thực hiện nhiều hoạt động chống phá như: lợi dụng các trang mạng xã hội, kênh truyền thông để móc nối, lôi kéo người tham gia, thành lạp các hội nhóm....Hoạt động của tổ chức này vi phạm nghiêm trọng đến pháp luật của Nhà nước Việt Nam.

9.9 TT (ST)


 VIỆT NAM LUÔN ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CỦA NHÂN DÂN

Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo với hơn 26,5 triệu tín đồ các tôn giáo (chiếm 27% dân số), hơn 58.000 chức sắc, 148.000 chức việc, 29.000 cơ sở thờ tự, 53 cơ sở đào tạo tôn giáo và 16 tôn giáo.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Các quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Cụ thể:

Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Như vậy, việc theo hay không theo tín ngưỡng hoặc tôn giáo nào là quyền tự do của mỗi cá nhân, mỗi công dân Việt Nam được Hiến pháp 2013 thừa nhận.

Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và cần thiết phải điều chỉnh pháp luật về tôn giáo trong bối cảnh hội nhập quốc tế và tình hình tôn giáo tiếp tục có những biến động, mở rộng không chỉ hoạt động tôn giáo mà cả các hoạt động xã hội, ngày 18/11/2016, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIV đã thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo thay thế Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Theo đó, ngày 30/12/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo, tiếp tục tạo hành lang pháp lý quan trọng cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Việc ban hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã đánh dấu son cho quá trình hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam. Cụ thể hóa chủ trương nhất quán của Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Có ý nghĩa quan trọng cả về đối nội và đối ngoại, phù hợp với chủ trương cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành chính hiện nay ở Việt Nam, đảm bảo lợi ích của quốc gia, dân tộc và các tổ chức tôn giáo. Đồng thời, thông qua đó cũng khẳng định với quốc tế, Việt Nam luôn là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong việc bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đây cũng chính là minh chứng rõ nét nhất để chống lại luận điệu xuyên tạc của các thế lực xấu, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền dân chủ nhân quyền tôn giáo.

 

ĐẠI TƯỚNG PHAN VĂN GIANG GỬI THƯ KHEN NGỢI, BIỂU DƯƠNG TRUNG ĐOÀN KHÔNG QUÂN 940, TRƯỜNG SĨ QUAN KHÔNG QUÂN, QUÂN CHỦNG PHÒNG KHÔNG - KHÔNG QUÂN

 


Ngày 7-11, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã gửi Thư khen ngợi, biểu dương lãnh đạo, chỉ huy cơ quan chức năng các cấp trong Quân chủng Phòng không - Không quân; biểu dương Trường Sĩ quan Không quân, Trung đoàn Không quân 940 và các đồng chí Đại tá Nguyễn Văn Sơn và Thượng tá Nguyễn Hồng Quân. Dưới đây là nội dung Thư của Đại tướng Phan Văn Giang:

ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU “PHI CHÍNH TRỊ HÓA QUÂN ĐỘI” CỦA KẺ THÙ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


Để nhằm chống phá và đi đến xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), từ giữa thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đã dùng chiến lược “diễn biến hoà bình”. Chiến lược “diễn biến hoà bình” được tiến hành trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính trị tư tưởng, văn hoá; tấn công vào nhiều lực lượng, tổ chức chính trị-xã hội, trong đó quân đội được xác định là đối tượng trọng điểm. Thực hiện “diễn biến hoà bình” đối với quân đội các nước XHCN, chúng thực hiện âm mưu phi chính trị hóa quân đội.

ĐẢNG TA KIÊN ĐỊNH VÀ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG ĐẢNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam là sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam; chứa đựng những giá trị sâu sắc, bền vững, làm tiền đề cho công tác xây dựng Đảng. Cho đến nay, những tư tưởng đó vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa định hướng quan trọng trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, kiên định và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một giải pháp, đồng thời là yêu cầu và đòi hỏi quan trọng trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.

TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUÂN SỰ, QUỐC PHÒNG

 


Pháp luật về quân sự, quốc phòng là một bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật quốc gia, là công cụ pháp lý để thực hiện quản lý Nhà nước về quân sự, quốc phòng. Hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng luôn được quan tâm, từng bước hoàn thiện, góp phần thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về quân sự, quốc phòng.

KỶ NIỆM 107 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA VĨ ĐẠI TẠI LIÊN BANG NGA!

         Ngày 7/11, nhân kỷ niệm 107 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (7/11/1917 - 7/11/2024), tại nhiều khu vực và địa phương ở Nga đã tổ chức các hoạt động kỷ niệm, mít-tinh nhằm ôn lại sự kiện có ý nghĩa vô cùng to lớn và sâu sắc đối với lịch sử toàn nhân loại!

Tại Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moskva, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang Nga, phái đảng Cộng sản tại Duma quốc gia (Hạ viện) Quốc hội Liên bang Nga, Ủy ban thành phố Moskva, Đoàn Thanh niên Cộng sản Lênin, cùng các phong trào quần chúng cánh tả tổ chức mít-tinh và đặt hoa tại Lăng V.I.Lenin.

Trong bài phát biểu chúc mừng nhân kỷ niệm 107 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, Chủ tịch Đảng Cộng sản Liên bang Nga Genady Zyuganov nhấn mạnh, lịch sử nhân loại đã từng có không ít các cuộc cách mạng có ảnh hưởng tới sự phát triển xã hội, song Cách mạng Tháng Mười Nga là một cuộc cách mạng mang ý nghĩa lịch sử toàn cầu.

Tháng Mười năm 1917 mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên “cất cánh” về kinh tế và văn hóa, kỷ nguyên của những thắng lợi về chính trị và lao động. Đây là thời đại gắn liền với những nhân vật kiệt xuất như Vladimir Lenin, Joseph Stalin…

Cách mạng Tháng Mười vĩ đại thành công, Liên Xô đã trở thành quốc gia hàng đầu trên thế giới trong các lĩnh vực không gian và khoa học, giáo dục và y tế, thể thao và văn hóa. Hệ thống giáo dục và chăm sóc sức khỏe của Liên Xô đạt những tiêu chuẩn đặc biệt cao, mà nhiều nước trên thế giới phải học hỏi.

Ông Genady Zyuganov tái khẳng định, Cách mạng Tháng Mười vĩ đại không phải là chuyện của quá khứ. Lý tưởng của cuộc cách mạng vẫn tồn tại ở những người đang xây dựng xã hội mới và công bằng tại Trung Quốc, Việt Nam, Cuba và Venezuela. Lịch sử thắng lợi của Đảng Lênin mang lại cho chúng ta sự lạc quan và tin tưởng rằng, những lực lượng tốt đẹp và tiến bộ sẽ thắng thế.

Tại lễ mít-tinh, đông đảo người dân mang biểu ngữ, cờ, hoa, hô vang các khẩu hiệu, ôn lại những giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười. Họ cùng hát vang những bài ca bất hủ thời Xô-viết đã in đậm không chỉ trong trái tim của người dân Nga, mà còn của nhiều người dân tiến bộ trên toàn thế giới.

Người dân Nga nhấn mạnh tính sáng tạo trong đường lối chính sách của chính quyền Xô Viết, trên cơ sở này đưa ra các giải pháp đối với các vấn đề hiện tại của nước Nga hiện nay.

Đông đảo người dân có mặt tại lễ mít-tinh khẳng định, Cách mạng Tháng Mười Nga mãi mãi trường tồn cùng lịch sử, là cuộc cách mạng điển hình nhất cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng lao động, giải phóng con người.

Đặt hoa trước Lăng V.I.Lênin, lãnh đạo, các đảng viên Đảng Cộng sản Liên bang Nga và người dân Nga kính cẩn nghiêng mình, biết ơn, tưởng nhớ công lao to lớn của nhà lý luận chính trị kiệt xuất, vị lãnh tụ lỗi lạc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.

Cùng ngày, tại nhiều địa phương khác trên khắp nước Nga diễn ra các hoạt động kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại./.
Ảnh: Chủ tịch Đảng Cộng sản Liên bang Nga Genady Zyuganov trả lời báo chí nhân 107 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.

Ảnh: Đoàn đại biểu Đảng Cộng Sản Liên bang Nga tiến vào Quảng Trường Đỏ đặt hoa tại Lăng V.I.Lenin.

Ảnh: Người dân mang biểu ngữ, cờ, hoa, hô vang các khẩu hiệu, ôn lại những giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.
Yêu nước ST.

LIÊN XÔ TAN RÃ VÀ LUẬN ĐIỆU DO CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI LÀ “SAI LẦM CỦA LỊCH SỬ”!

BÀI 2: NHỮNG ĐIỀU CĂN CỐT, THỜI SỰ!
         Như đã luận giải ở bài viết trước, trong các nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô thì xét đến cùng là do nguyên nhân chủ quan quyết định. Sự sụp đổ đó là của mô hình cụ thể, chứ tuyệt nhiên không phải sự sụp đổ hay cáo chung của chủ nghĩa xã hội (CNXH) như thế lực thù địch, phản động thường xuyên tạc. Nhận diện đầy đủ và đúng bản chất vấn đề này là những điều có ý nghĩa căn cốt và thời sự với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng của Việt Nam hiện nay!
Trong bài viết với tiêu đề “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 1992, GS, TS Nguyễn Phú Trọng (từ năm 2011 đến tháng 7-2024 là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã chỉ ra nguyên nhân có ý nghĩa quyết định làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô là quá trình “vận động” của chính đảng này. Về sau, Đảng ta khái quát quá trình “vận động” này và gọi đó là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được thể hiện trên nhiều bình diện.

Theo GS, TS Nguyễn Phú Trọng, có 5 biểu hiện của sự “vận động” đó. Một là, không xác lập đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Hai là, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Ba là, coi nhẹ hoặc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng sản. Bốn là, xa rời quần chúng, mất uy tín nghiêm trọng trước nhân dân, không được nhân dân ủng hộ. Năm là, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thổi lên ngọn lửa kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi.

Từ thực tiễn và lý luận cơ bản được Đảng ta tổng kết trong nhiều văn kiện, chúng ta có thể rút ra những bài học lớn với Việt Nam từ quá trình “tự diễn biến” trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô dẫn tới hậu quả tan rã Liên bang Xô viết-cường quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu tiên trên thế giới, như sau:

Thứ nhất, Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”. Từ khẳng định này, Đảng ta kiên định và quyết tâm đưa Việt Nam tiếp tục phát triển đi lên CNXH trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Với quyết tâm chính trị đó, Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng ta đã thông qua đường lối đổi mới đất nước. Tiếp đến, Đại hội lần thứ VII (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, thể hiện lập trường kiên định của Đảng ta về mục tiêu và định hướng phát triển đi lên CNXH ở Việt Nam. Đường lối đổi mới của Đảng ta được thông qua tại Đại hội lần thứ VI trên cơ sở kế thừa sáng tạo Chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin với nội dung cốt lõi là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thành công của gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Việt Nam kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng chứng tỏ giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười, mở ra kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) phát triển đi lên CNXH.

Thứ hai, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Ở Liên Xô, trong giai đoạn “cải tổ” đã đồng nhất việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường với việc xóa bỏ chế độ XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Còn Đảng ta vận dụng chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin để phát triển kinh tế thị trường nhằm giải phóng nguồn lực và phát triển sức sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đảng ta cho rằng, việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học và phát triển, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Trên cơ sở đó, Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng ở Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Ba là, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, coi đó là yếu tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng ta về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã xác định rõ, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng ở nước ta. Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam đã được xác định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013.

Bốn là, kiên quyết và kiên trì đấu tranh nhằm ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kết hợp với việc cảnh giác và làm thất bại âm mưu“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Rút kinh nghiệm từ tác động phá hoại hết sức nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch kết hợp với quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Đảng ta đặc biệt chú ý đấu tranh ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã sớm cảnh báo hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời. Từ giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta tiếp tục cảnh báo tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển, là hiểm họa đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ XHCN. Với quyết tâm chính trị cao và các giải pháp đồng bộ, Đảng ta đã bước đầu ngăn chặn được hiểm họa này.

Tổng kết thành tựu và kinh nghiệm 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 30-10-2016, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Nghị quyết đã chỉ rõ nguyên nhân, biểu hiện và biện pháp phòng, chống hiểm họa này. 

Trong số các nguyên nhân, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ nguyên nhân khách quan do tác động từ khủng hoảng của CNXH trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị trường; tác động tiêu cực từ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường XHCN trong bối cảnh quốc tế hiện nay; các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình".

Trong số các nguyên nhân chủ quan, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả; một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát thực tiễn; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu; cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở; chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ; việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm; chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng; việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.

Nghị quyết số 04-NQ/TW đã chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết xác định phải thực hiện nghiêm các yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được đề ra tại Đại hội XII với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng.

Đến nay, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đã đạt nhiều kết quả rất quan trọng, góp phần đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới với khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng cùng những mục tiêu lớn lao vào thời điểm trọng đại kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (2030) và 100 năm thành lập nước (2045), xây dựng thành công nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Với thành tựu trong công cuộc đổi mới và từng bước đạt được các mục tiêu cao cả, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định giá trị bất biến của Cách mạng Tháng Mười là mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên toàn thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo./.
Yêu nước ST.

NGƯỜI ẨN DANH VÀ TRÒ LỐ CỦA NHỮNG KẺ “NÉM ĐÁ” HẠI NGƯỜI!

BÀI 3: ĐẤU TRANH VỚI “ĐỊCH BÊN TRONG TA” VÀ LÀNH MẠNH HÓA KHÔNG GIAN MẠNG!
(Tiếp theo và hết)
Công nghệ số đã tạo nên một môi trường mà ở đó hình thành và chứa đựng mọi mặt hoạt động của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Cuộc cách mạng số không chỉ là cuộc cách mạng về công nghệ, kỹ thuật mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống của con người, đến các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội và tự nhiên!

“Địch bên trong ta đáng sợ hơn”
Trong bối cảnh mới, khi phương thức sản xuất mới ra đời thì công tác chống “giặc nội xâm”, đấu tranh với “địch bên trong ta” trở thành yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết. Nó không chỉ xuất hiện trong thế giới thực mà còn len lỏi vào đời sống xã hội thông qua internet, mạng xã hội. Nhiều kẻ cơ hội chính trị, phản động và một bộ phận người dân (có cả một số cán bộ, công chức, đảng viên) trong cuộc sống hằng ngày thì thể hiện sự quyết tâm, đồng thuận cao đối với các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật nhưng trên không gian mạng lại sử dụng các kỹ thuật, công nghệ ẩn danh để thực hiện các hoạt động cung cấp thông tin sai lệch, có các hành vi lệch chuẩn. Có những cá nhân còn bôi nhọ, chống phá những thành quả của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Cần coi giặc nội xâm, coi kẻ địch bên trong ta là kẻ thù trực tiếp, toàn diện, đặc biệt trong bối cảnh các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động đang sử dụng các công nghệ, nhất là sử dụng không gian mạng và các hoạt động ẩn danh trên không gian mạng để cổ xúy cho các hành vi lệch chuẩn, cung cấp các thông tin sai trái, thù địch, lệch lạc, tiêu cực, thực hiện “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu” với mục tiêu làm thay đổi thể chế chính trị ở nước ta.

Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác và tinh thần yêu nước của nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, thì trong chống giặc nội xâm, “chống kẻ địch ngay trong ta” cũng phải dựa vào dân mới có thể giành được thắng lợi: Ví dụ như “phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”.

Công cuộc chống “giặc nội xâm” chống lại “kẻ địch ngay trong ta” sẽ lâu dài và khó khăn, phức tạp hơn cả sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Người khẳng định rằng: “Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người chỉ rõ: “Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”.

Ngày nay, người dân không chỉ ở trong thế giới thực mà còn sống, sinh hoạt, hoạt động tích cực trên không gian ảo. Do đó, không chỉ cần quan tâm đến người dân trong thế giới thực mà còn phải tranh đấu với kẻ địch ở ngay trong ta, ngay trong nội bộ, ngay trong tinh thần.

Không gian mạng cần được quản lý như thế giới thực

Thực tiễn chứng minh, lượng thông tin mà con người được cung cấp, tiếp nhận thông qua internet và không gian mạng là vô cùng lớn. Không gian mạng là mở, được cập nhật liên tục, không phân biệt không gian, thời gian nên con người trong bối cảnh này dù chủ động hay bị động thì thông tin cũng là nhân tố trực tiếp tác động đến nhận thức, và đôi lúc hành động của họ cũng phụ thuộc vào lượng thông tin mà họ tiếp nhận được.

Bộ não của mỗi người trong một khoảng thời gian nhất định chỉ có thể tiếp nhận và xử lý được một lượng thông tin nhất định, nếu vượt quá giới hạn sẽ tạo nên chứng “bội thực thông tin”. Từ đó làm con người mất phương hướng, rơi vào tình trạng mù mờ, không phân biệt được đúng sai, nhận thức không đến nơi đến chốn, tư tưởng và hành động dễ sa vào tiêu cực hoặc có các hành vi lệch lạc. Ví dụ như khi một đối tượng giả danh cán bộ của cơ quan nhà nước hay giả mạo một cơ quan nhà nước có uy tín liên tục gây sức ép, cung cấp thông tin giả mạo, sai trái thì sẽ dễ khiến nạn nhân bị khủng hoảng, ức chế tâm lý và vô thức làm theo yêu cầu của các đối tượng này.

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã coi không gian mạng là một nơi cần được quản lý như thế giới thực. Hay nói cách khác, các quy tắc, quy định, chế tài, định hướng được thực hiện cả trên môi trường thực và môi trường ảo. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, mặc dù hiến pháp không bảo đảm quyền ẩn danh một cách rõ ràng nhưng có những tham chiếu chặt chẽ về quyền ẩn danh với các ràng buộc pháp lý. Các luật về truyền thông ở một số tiểu bang cũng quy định về hành vi, theo đó các hành vi sử dụng mạng xã hội để tán phát thông tin sai lệch sẽ bị xử lý từ phạt tiền đến án hình sự. Tòa án có thể yêu cầu các cơ quan chính phủ xác định danh tính của các tài khoản ẩn danh để phục vụ cho quá trình xét xử.

Các điều khoản của hành lang pháp lý ở Liên minh châu Âu và các quốc gia thành viên cũng có những quy định về quyền và nguyên tắc pháp lý về ẩn danh trên không gian mạng để phòng ngừa, xử lý những tác động xấu, tiêu cực do các hoạt động ẩn danh đối với xã hội hay lợi dụng ẩn danh để thực hiện các hoạt động khủng bố. Có thể thấy rằng, dù cổ vũ cho hoạt động tự do báo chí, tự do ngôn luận nhưng bản thân các quốc gia này cũng đã lường trước và có những quy định chặt chẽ để ứng phó với những tác động tiêu cực mà hoạt động ẩn danh gây ra.

Tuyên bố các nguyên tắc về quyền tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin ở châu Phi năm 2019 của Tòa án Nhân quyền châu Phi (ACHR) đưa ra 16 nguyên tắc mà luật pháp quốc gia phải tuân thủ, bao gồm bảo đảm sự đa dạng của các phương tiện truyền thông, các quy định về xử lý vi phạm bằng các hình phạt, kể cả bằng hình sự đối với những hoạt động cung cấp thông tin gây tổn hại tới xã hội. Tuyên bố về nguyên tắc tự do ngôn luận Tòa án Nhân quyền liên Mỹ (IACHR) bao gồm 13 nguyên tắc, trong đó có cấm kiểm duyệt trước, bảo vệ nguồn, luật riêng tư, tài trợ và quảng cáo công cộng cũng như luật đa dạng và chống độc quyền... hay các quy định Điều 13(3) của Công ước Liên Mỹ, bảo vệ quyền tự do tư tưởng và quan điểm trên không gian mạng cũng như các phương tiện truyền thông. Tất cả đều có những quy định cụ thể với các ràng buộc về pháp lý đối với hoạt động chính danh hay ẩn danh trên môi trường số.

Bước vào thời kỳ mới, chúng ta lựa chọn xây dựng xã hội mới với những con người xã hội chủ nghĩa trên cơ sở phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại-phương thức sản xuất số. Để chiến thắng “địch bên trong ta”, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cần có nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp của cuộc đấu tranh này, cần có quyết tâm chính trị cao, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đặc biệt là các hoạt động quản lý, định hướng và triển khai phát triển xã hội số, văn hóa số, con người số.

Không gian số là nội hàm mới, là thực tiễn, việc trang bị kiến thức, kỹ năng cho từng tổ chức, cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, người dân và toàn xã hội không thể thực hiện trong một sớm một chiều mà phải trải qua một thời gian dài tích góp và có quá trình để đấu tranh, sàng lọc, loại bỏ và cập nhật liên tục những kiến thức, kỹ năng mới, đổi mới và cập nhật liên tục để phù hợp với xu hướng chung của thế giới, của xã hội và nhận thức. Mỗi cá nhân, tổ chức cần rèn luyện thói quen tiếp cận thông tin một cách chủ động, có hệ thống, có mục đích.

Cần chủ động sàng lọc, tìm hiểu, tham vấn ý kiến chuyên gia, sử dụng các kênh thông tin chính thống, thực hiện kiểm tra, kiểm chứng thông tin trước khi chia sẻ, bình luận để loại bỏ những thông tin sai trái, thù địch, lệch chuẩn, thiếu các giá trị chuẩn mực xã hội... Mỗi người dân, tổ chức cần nâng cao trình độ nhận thức, tinh tường nhận diện, tiếp cận thông tin một cách đúng đắn, có quan điểm rõ ràng, chuẩn mực, có cái nhìn khách quan, toàn diện, có tư duy phản biện, bản lĩnh vững vàng để sẵn sàng đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Môi trường ST.

NGƯỜI ẨN DANH VÀ TRÒ LỐ CỦA NHỮNG KẺ “NÉM ĐÁ” HẠI NGƯỜI!

BÀI 2: LỢI DỤNG ẨN DANH “NÉM ĐÁ” HẠI NGƯỜI!
         Internet giúp con người có thể tiếp nhận một lượng thông tin rất lớn. Về mặt tích cực, những thông tin này là nguồn tri thức vô hạn, để con người khai thác, học tập, vận dụng trong các hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, đây cũng là mảnh đất màu mỡ để các thông tin xấu, độc, lệch chuẩn, sai trái, thù địch, các thông tin gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân phát triển - tuy trên môi trường ảo, nhưng những thông tin này lại có mối quan hệ mật thiết với thế giới thực!

Từ những hành vi đơn lẻ hòng trục lợi...
Những mặt tiêu cực này đã và đang dần len lỏi vào đời sống xã hội Việt Nam, xuất hiện những yếu tố làm cho con người trở nên lệch lạc, mất phương hướng dẫn đến dễ tin hoặc làm theo những quan điểm sai trái, thù địch, có những hành động lệch chuẩn gây ảnh hưởng tới uy tín, quyền lợi của tổ chức, cá nhân và toàn xã hội.

Không gian mạng (KGM) góp phần hình thành nên xã hội số, ngoài các thông tin tích cực, các tri thức có ích còn tồn tại một lượng thông tin xấu, độc nhất định. Nguồn “nguyên liệu” chính để hình thành thông tin trên KGM xuất phát từ những mối quan hệ, các hoạt động hằng ngày của các cá nhân, xã hội nên bao giờ cũng lẫn trong đó những “tạp chất”. Khi con người tiếp nhận thông tin, bản thân mỗi người đều tự hình thành một “bộ lọc” để tiếp nhận những thông tin được coi là có ích, có lợi tùy thuộc vào quan điểm, mục đích, thị hiếu của chính mình.

Có những vấn đề cùng là một thông tin nhưng đối với người này là có lợi, đối với người khác thì không và ngược lại. Các tiêu chí để đánh giá “có lợi”, “có hại”, “có ích”, “vô ích”, “tích cực”, “tiêu cực” chỉ mang tính tương đối. Các hoạt động của con người trên KGM, trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật cho phép con người thực hiện các hoạt động ẩn danh để đạt được những “phần lợi ích” nhiều nhất, “có lợi” nhiều nhất.

Mạng xã hội (MXH) Facebook, một dịch vụ trên KGM có nhiều người sử dụng cho phép các hoạt động ẩn danh để cung cấp thông tin. Ở Việt Nam, tính đến năm 2024, trên MXH Facebook có khoảng 78 triệu tài khoản đang hoạt động. Cũng năm 2024, MXH Zalo có khoảng 75 triệu tài khoản hoạt động thường xuyên; MXH TikTok có 67,72 triệu người dùng từ 18 tuổi trở lên.

Ngoài các tài khoản chính danh, cung cấp thông tin hữu ích, có giá trị còn rất nhiều tài khoản ảo, tài khoản ẩn danh cung cấp các thông tin về mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội dưới danh nghĩa là các hoạt động dân sự, lợi dụng quyền cung cấp thông tin, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để trục lợi, lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản, xúc phạm, bôi nhọ, cung cấp các thông tin sai lệch gây hoang mang dư luận, gây bức xúc trong xã hội.

Những hoạt động lừa đảo, giả mạo, giả danh cơ quan, tổ chức, cá nhân ngày càng được các đối tượng thông qua hoạt động ẩn danh để lợi dụng niềm tin hòng trục lợi cá nhân, chiếm đoạt tài sản của người khác. Thời gian qua, nhiều người dân trên cả nước liên tục bị các số điện thoại giả mạo cơ quan công an, cơ quan quản lý nhà nước gọi đến với nội dung như: “Cập nhật số liệu thẻ căn cước công dân”; giả danh cán bộ Bộ Thông tin và Truyền thông, nhà mạng thông báo “số điện thoại sẽ bị chặn, hủy và khóa sau vài giờ”; thông báo triệu tập của “công an xã”, “công an huyện” đến xử lý và thực hiện hoàn thành thủ tục của tòa án, pháp luật hay xử lý nợ; giả danh cán bộ ngân hàng “thông báo trúng thưởng”, thực hiện tra soát tài khoản, yêu cầu người dân cung cấp số tài khoản, mật khẩu giao dịch, mã OTP...

Hay việc người sử dụng MXH Facebook, Zalo, Viber, Telegram... liên tục được đưa vào các hội, nhóm, bị gửi các đường liên kết trên mạng có tiêu đề hấp dẫn, gây sốc có chứa đựng mã độc, chứa đựng các cách thức truy cập trái phép vào tài khoản hoặc giả danh người thân vay tiền... Nhiều tài khoản ẩn danh, giả mạo các kênh truyền thông chính thống như Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân, Báo Quân đội nhân dân... các cơ quan, tổ chức có uy tín như các bệnh viện nổi tiếng để quảng cáo thực phẩm chức năng, thuốc giả, tư vấn cách thức chữa bệnh, bán “thuốc dạo” để chữa bệnh ung thư, bệnh đặc trị... Điều đáng buồn là nhiều người dân đã sập bẫy lừa đảo của các đối tượng này, bị ảnh hưởng tâm lý, thiệt hại về kinh tế với số tiền rất lớn.

Ngoài ra, còn có các hoạt động ẩn danh nhằm thực hiện các hành vi ác ý, bôi nhọ danh dự người khác. Nhiều người dân bị các tài khoản MXH ẩn danh ghép các nội dung xấu, giả mạo và tạo các đoạn video clip nhằm mục đích bắt nạt, quấy rối, lăng mạ, sỉ nhục, tra tấn tinh thần thông qua các phương tiện điện tử và KGM. Trên MXH Facebook, có nhiều hội, nhóm mang những cái tên gây sốc như: “Bóc phốt”, “diễn đàn”, “trang thú tội (confession)”..., các tài khoản này gửi tin nhắn, đánh cắp thông tin và phá hoại tài khoản, đăng tin nhắn, comment, gửi các tin nhắn, đăng các hình ảnh, video clip có nội dung khiêu dâm gây rối loạn tâm lý, tổn thương, tổn hại đến uy tín, danh dự của người khác.

Các tài khoản ẩn danh còn dùng công nghệ để định vị, theo dõi vị trí và hoạt động của nạn nhân để quấy rối, theo dõi người khác trên MXH; đăng tải thông tin riêng tư hoặc giả mạo danh tính nhằm làm tổn hại danh dự, uy tín của người khác gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới tâm trạng và tinh thần của họ. Các hoạt động này còn hướng đến xâm hại trẻ em, nhiều trẻ em bị dụ dỗ gửi ảnh, video về bộ phận nhạy cảm khi sử dụng internet. Nhiều trẻ vị thành niên thông qua môi trường mạng bị dụ dỗ tham gia đường dây mua bán người, đường dây thực hiện các dịch vụ nhạy cảm như vũ trường, quán bar, quán karaoke trá hình...

...đến phá hoại sự ổn định của đất nước
Nói về hoạt động ẩn danh trên KGM, thời gian qua đã có nhiều tiền lệ và hậu quả xấu đối với đời sống xã hội, làm ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân. Các hoạt động lợi dụng MXH, lợi dụng các yếu tố kỹ thuật và kẽ hở của pháp luật, lợi dụng lòng tin và “mơ màng” với cảm giác đứng trong bóng tối, thực hiện các hoạt động ẩn danh để sử dụng các thông tin giả mạo, thất thiệt, đưa thêm thông tin nửa vời, cắt ghép; lợi dụng ẩn danh để lừa đảo, đưa các thông tin sai trái, xuyên tạc để “ném đá” hại người; qua đó gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết; làm nảy sinh tư tưởng nghi ngờ, đố kỵ, thậm chí gây hoang mang, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Nguy hiểm hơn nữa, các hoạt động ẩn danh còn được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sử dụng để chống phá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, gây mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ, kích động bạo lực, cổ vũ cho các hoạt động tập trung đông người hòng thúc đẩy bạo loạn, bạo động; thực hiện các hoạt động cổ xúy, thúc đẩy “cách mạng màu”.

Các kênh truyền thông cả chính danh lẫn ẩn danh của một số cá nhân, tổ chức móc nối với một số đối tượng chống đối, bất mãn trong nước nhằm đưa các tin, bài có nội dung tiêu cực, xuyên tạc; lợi dụng tình hình và các sự kiện quan trọng của đất nước, các vấn đề dư luận xã hội quan tâm, các vấn đề liên quan đến tôn giáo, nhân quyền, dân chủ, dân tộc... để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, bôi xấu các thành quả của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Vừa qua, trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tích cực phòng, chống và khắc phục hậu quả cơn bão số 3 (bão Yagi), các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng xấu, hoang mang dư luận liên tục được tung ra trên MXH Facebook, YouTube với những dòng trạng thái, hình ảnh, video clip “vỡ đê” ở một địa phương nào đó... Trên các tài khoản này, ngoài các thông tin xấu, thất thiệt còn cung cấp nhiều thông tin sai trái, sai lệch, cổ vũ các hành vi lệch chuẩn, thực hiện các hành vi chống phá những thành quả mà Đảng, Nhà nước, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được.

Trên thế giới, nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ như Mỹ, Liên minh châu Âu... đã có những hành lang pháp lý nhằm xử lý các hành vi trên KGM, trong đó có những quy định để thực hiện giám sát, trừng phạt hoặc thực hiện các biện pháp hình sự. Đã đến lúc chúng ta quan tâm, hoàn thiện và xây dựng các hành lang pháp lý liên quan đến các hoạt động ẩn danh và lợi dụng ẩn danh để thực hiện các hành vi xấu trên KGM.

Ngoài ra, cần có các hành lang pháp lý về “chính danh” trong các hoạt động liên quan đến KGM, đồng thời cần nâng cao nhận thức, văn hóa ứng xử, trách nhiệm của người dân khi sử dụng MXH. Cần xây dựng “thế trận lòng dân” trên KGM để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới hiện nay./.
(còn nữa)
Môi trường ST.