Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2024

PHÁT TRIỂN HÀI HOÀ CÁC GIÁ TRỊ QUỐC GIA ĐƯA DÂN TỘC VIỆT NAM VƯƠN MÌNH TRONG KỶ NGUYÊN MỚI

Tiếp cận từ việc xác định hệ giá trị quốc gia, bài viết phân tích, làm rõ một số vấn đề đặt ra trong mối quan hệ biến đổi của thế giới hiện đại và hệ giá trị; những nguyên tắc cơ bản, đặc biệt là nguyên tắc về sự phát triển hài hòa giữa các giá trị đặc thù và phổ quát, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế vì mục tiêu phát triển bền vững ở nước ta. Từ đó, đề xuất các giải pháp xây dựng hệ thống các chuẩn mực, đưa các giá trị quốc gia vào cuộc sống thực tiễn, lối sống và nhân cách con người Việt Nam, làm cơ sở cho việc quản trị và phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

1. Mở đầu

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại một di sản lớn những tư tưởng về sự định hướng phát triển đất nước, trong đó có tư tưởng về phát huy chiến lược “văn trị” của Nguyễn Trãi (“văn trị chung tu chí thái bình” - lấy nền văn hiến của dân tộc làm nền tảng mà quản lý và phát triển, làm cho đất nước thịnh trị, thái bình). Nguyễn Trãi chủ trương lấy nền văn hóa ngàn đời của dân tộc làm “hồn cốt”, tiếp thu những tinh hoa tiến bộ của nhân loại, tạo nên một hệ giá trị mới để định hướng phát triển tương lai. Nguyễn Trãi cũng đã bước đầu phác họa những luận điểm và tư tưởng then chốt cho hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị gia đình. Trên cơ sở của hệ giá trị cốt lõi đó, Nguyễn Trãi cũng khẳng định về sự cần thiết phải tạo nên một hệ thống các chuẩn mực quan trọng nhất đối với con người, lối sống và nhân cách làm cơ sở cho việc quản trị đất nước, cũng là tư tưởng cơ bản trong “văn trị” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Từ những khái quát trên trong quá trình nghiên cứu về tư tưởng “văn trị” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, bài viết nêu một số ý kiến có tính phương pháp luận xung quanh vấn đề phát triển hài hòa giữa các giá trị đặc thù và phổ quát, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế vì mục tiêu phát triển bền vững ở nước ta hiện nay.

2. Những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của thế giới hiện đại và của hệ giá trị nhân loại hiện nay

Thế giới ngày nay đang diễn ra những sự thay đổi thật to lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ. Các nhà tương lai học đã ví dụ về một sự so sánh giữa việc sản xuất những chiếc ô tô với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin. Họ khẳng định rằng, trong vòng 30 năm qua, nếu công nghệ sản xuất ô tô mà theo kịp được với phát triển công nghệ thông tin thì giá mỗi chiếc ô tô sẽ chỉ còn bằng giá tương ứng một bao diêm. Tuy nhiên, cũng với so sánh tương tự, bản thân công nghệ thông tin nếu lại được đem so với ý tưởng sáng tạo mới của con người sinh ra trong nền kinh tế tri thức, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và trí tuệ nhân tạo… thì rồi cũng sẽ chỉ lại là những bao diêm không hơn không kém.

Ngày nay, chúng ta cũng đã và đang nhìn thấy sự xuất hiện ngày càng rõ hơn những chỉ báo về một thế giới mà ở đó, nền kinh tế sẽ không chỉ dựa hoàn toàn vào tài nguyên đất đai, tiền bạc hoặc nguyên vật liệu mà dựa vào vốn trí tuệ, vốn văn hóa, vốn xã hội và vốn con người. Đó cũng là một nơi mà cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra rất quyết liệt và thị trường sẽ trở nên ngày càng tàn nhẫn, một nơi mà một nước nhỏ, một công ty nhỏ nếu nắm bắt được thời cơ thì hoàn toàn có thể vượt qua các công ty lớn, quốc gia lớn trên phạm vi toàn cầu. Một nơi mà khách hàng sẽ tiếp cận một cách nhanh chóng và vô hạn với sản phẩm, dịch vụ và thông tin. Một nơi mà mạng lưới thông tin trong cạnh tranh lợi nhuận sẽ quan trọng chẳng thua kém gì các biên giới quốc gia…

Trong bối cảnh đó, chính cơn lốc mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng công nghệ cũng đã tràn vào mỗi ngóc ngách của cuộc sống bình thường làm thay đổi không chỉ tư duy kinh tế, đời sống vật chất, mà còn cả những quan niệm, tư tưởng, phương thức quản trị xã hội, các chuẩn mực văn hóa và hệ thống các giá trị trong xã hội.

Sự tan vỡ và sụp đổ của một số mô hình quản lý phát triển cũ, sự suy thoái kinh tế tại nhiều nước, sự khủng hoảng của các mối quan hệ xã hội, sự phục hưng của các tôn giáo và chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã tạo ra không ít những thất vọng của thế hệ trẻ đối với mô hình CNTB và văn hóa phương Tây trước những vấn đề mới về chính trị, xã hội, văn hóa và các giá trị sống của con người.

Trước đây, không ít người đã nghĩ CNTB như là một con đường thênh thang dẫn đến các giá trị gắn liền với tự do cá nhân, sự tiến bộ và phồn vinh, thì hiện nay đã có rất nhiều người lại đặt ra câu hỏi CNTB hiện đại liệu sẽ có thể dẫn chúng ta tới đâu?, nó có thực sự tốt đẹp để nhân loại lại cứ phải chạy đua để đi đến đó?. Và cuộc chạy đua về giá trị này đang làm gì cho cộng đồng, cho môi trường, cho công bằng xã hội và cho chính hạnh phúc của mỗi người?.

Tất cả những gì đang xảy ra đã đặt nhân loại trước những thử thách mới, những sự lựa chọn mới, trong đó đan xen lẫn nhau giữa nhiều quan niệm và đặc trưng về dân tộc, vùng miền, giá trị văn hóa, giá trị gia đình và giá trị sống khác nhau. Các nhà nghiên cứu chính trị học, phát triển học, xã hội học, văn hóa học… trên thế giới cũng đã có những cuộc tranh luận gay gắt về việc xác định các chuẩn mực giá trị chung cho nhân loại, cho một thế giới mới tiến bộ...

Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, người ta cũng bắt đầu nói nhiều đến nguy cơ của những sự “nhiễu loạn giá trị”, “xung đột giá trị” thậm chí là nhu cầu cấp thiết phải bàn bạc về nội dung và cách thức đấu tranh với những nhận thức và hành vi được xem là “phản giá trị”…

Rõ ràng là, chính cái tương lai đầy biến động và phát triển của thế giới sẽ không chỉ đặt mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa, mỗi con người trước những nhận thức mới của các thang bậc giá trị. Chính những biến đổi của thế giới hiện đại một mặt có thể kéo theo sự khủng hoảng của các mô hình giá trị, mô hình văn hóa nhưng lại là tiền đề cho việc khẳng định và phát triển các mô hình tiên tiến, nảy sinh những giá trị mới, tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc và mỗi người phát triển tiến bộ.

Hòa vào dòng chảy của những biến đổi mạnh mẽ trên thế giới, xu hướng đổi mới của Việt Nam đã có nhiều thành tựu đáng tự hào được phản ánh trong những tư tưởng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về mối quan hệ biện chứng giữa sự tăng trưởng về kinh tế, sự ổn định chính trị, xã hội với việc kế thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; sự định hình của những giá trị cốt lõi cho phát triển giá trị quốc gia, giá trị văn hóa, giá trị gia đình. Việc xác định những chuẩn mực xã hội mới mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu lên một cách hệ thống trong những năm gần đây đã nói lên phần nào tính xác thực và hợp lý của mô hình phát triển mà chúng ta đã nghiên cứu và lựa chọn.

Về phương diện này, theo tác giả bài viết, cần phải nghiên cứu để đề xuất xây dựng được một chiến lược phát triển hài hòa giữa các giá trị đặc thù và phổ quát, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế vì mục tiêu phát triển bền vững. Đó cũng là một trong những điều kiện và nhân tố quan trọng góp phần vào việc hoạch định các định hướng chiến lược để dân tộc Việt Nam cất cánh vào kỷ nguyên mới.

2. Phát triển hệ giá trị quốc gia trong điều kiện hiện nay

Công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Sự tăng trưởng về kinh tế, sự ổn định chính trị, xã hội đã nói lên phần nào tính xác thực và hợp lý của một mô hình phát triển mà chúng ta đã nghiên cứu và lựa chọn. Tuy nhiên, từ sự định hướng cơ bản đến những hành động và việc làm cụ thể là chặng đường dài với những thuận lợi và nhiều thách thức. Trong bối cảnh đó, vai trò của việc nghiên cứu nhằm điều chỉnh và sáng tạo các mô hình phát triển sẽ vô cùng cần thiết đối với sự định hướng cho tương lai.

Về phương diện này, cần phải nghiên cứu để tiếp thu được những xu hướng tư tưởng tiên tiến nhất của nhân loại, hòa nhập vào sự phát triển chung của thế giới, đồng thời phát huy những mặt tích cực của hệ tư tưởng và các giá trị văn hóa truyền thống trong cuộc sống của xã hội hiện đại. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện một hệ thống giá trị mang tính quốc gia là vô cùng cần thiết. Đó là một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào việc hoạch định các hướng chiến lược để dân tộc ta cất cánh vào kỷ nguyên mới. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu rất quan trọng về việc xây dựng hệ giá trị quốc gia, trong đó, Đồng chí đã nêu lên một số gợi ý liên quan đến nội hàm của những giá trị này. Theo Đồng chí, hệ giá trị quốc gia sẽ có thể bao gồm các thành tố: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Đây là những giá trị cốt lõi, tiêu biểu nhất cần được tiếp tục nghiên cứu, phân tích sâu sắc thêm. Cụ thể:

Nhóm giá trị Hòa bình, Thống nhất, Độc lập, cần bảo đảm các nội dung: đất nước không có chiến tranh, nội loạn; duy trì tốt chiến lược ngoại giao “cây tre Việt Nam”, bảo đảm các nước trên thế giới coi Việt Nam là bạn; đoàn kết dân tộc, tôn giáo, vùng miền; môi trường sống phi bạo lực, an toàn; toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ, bảo đảm Việt Nam là vùng phi quân sự quốc tế; bảo đảm quyền tự quyết dân tộc trong mọi vấn đề; bảo đảm con đường xây dựng và đi lên CNXH…

Nhóm giá trị Dân giàu, Nước mạnh, cần bảo đảm cơ chế tăng trưởng kinh tế ổn định; bảo đảm môi trường đầu tư trong nước quốc tế; bảo đảm phát triển bền vững các lĩnh vực; ngày càng khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần, nhu cầu tiêu dùng ngày càng nâng lên; vào nhóm quốc gia đi đầu trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nhiều cơ hội làm kinh tế, làm giàu chính đáng cho người dân…

 Nhóm giá trị Dân chủ, Công bằng, Văn minh, cần xác định bảo đảm quyền tự do bầu cử; thực hiện tốt quyền con người theo Hiến pháp, pháp luật; duy trì tốt cơ chế giám sát, phản biện của người dân; bảo đảm Nhà nước liêm chính, minh bạch, nền văn hóa công vụ cao; bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, Nhà nước pháp quyền XHCN…

Nhóm giá trị Hạnh phúc, cần hướng tới các nội dung tăng chỉ số quốc gia về hạnh phúc, tăng các chỉ số giáo dục, y tế; môi trường sống an toàn, nhân văn; thực hiện tốt chính sách phúc lợi, an sinh xã hội; mở rộng cơ hội học tập, làm việc cho mọi người; thúc đẩy môi trường văn hóa, thông tin, truyền thông lành mạnh, tích cực; ngày càng gia tăng các tiện tích, dịch vụ xã hội, bảo vệ môi trường…

Xét về tổng thể, những giá trị mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu ra về cơ bản đã bám sát vào điều kiện thực tiễn nước ta. Đây cũng chính là những biểu hiện rõ ràng nhất cho những khát vọng và mục tiêu cao nhất mà toàn dân tộc Việt Nam đang hướng đến, đồng thời cũng đặt ra những nguyên tắc cơ bản nhất cho việc bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hòa giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, đặc thù và phổ quát trong việc xây dựng hệ giá trị quốc gia.

Trong bối cảnh phức tạp và biến động không ngừng của hệ giá trị hiện nay trên phạm vi thế giới, phạm vi của các quốc gia và dân tộc khác nhau, những gợi ý của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng gợi mở cho chúng ta những ý tưởng nghiên cứu mới để tìm ra những giá trị cơ bản, phổ quát mang tính nguyên tắc đã tồn tại, phát triển và biến đổi trong lịch sử của các dân tộc, trong đó có Việt Nam.

Câu hỏi được đặt ra là, có hay không có những giá trị cơ bản, phổ quát nhất đã từng tồn tại vững chắc trong suốt lịch sử nhân loại dẫu cho dòng lịch sử có biến thiên như thế nào, lớp lớp các thế hệ con người chuyển tiếp nhau ra sao?.. Có hay không có những giá trị của dân tộc đã tồn tại vững chắc trong lịch sử dân tộc, tạo thành cái mà họ gọi là bộ “gen” của giá trị Việt nam. Những giá trị nói trên mang tính quyết định tới sự tồn vong của chính con người với tính cách là một bộ phận của nhân loại hay là con người như là một thành viên của cộng đồng người Việt.

Câu hỏi này cần được đặt ra trong quá trình xác định sự phát triển hài hòa của hệ thống các giá trị Việt Nam trong xã hội hiện đại. Chẳng hạn dưới góc độ những giá trị của nhân loại, chúng ta không thể không nói tới giá trị về sự lao động sáng tạo của người Việt hay nhiều dân tộc khác trên thế giới, bởi đây là giá trị cơ bản nhất. Hoặc giá trị tôn vinh sự nhân ái, gắn bó con người thành cộng đồng, thành những xã hội, những quốc gia, mà sự gắn bó này trong thời đại ngày nay đang mở rộng tới phạm vi mà chúng ta gọi là “toàn cầu hóa”. Thiếu những giá trị này, con người ở bất cứ nơi đâu, dân tộc và quốc gia nào cũng không thể tồn tại với tư cách là con người chân chính, xã hội văn minh. Những gì đi ngược với những giá trị này, trong thời đại nào cũng vậy đều có thể được xem là “phản giá trị”.

Về phương diện này, trong việc xây dựng sự hài hòa hệ thống các giá trị, cần phải tạo ra thêm những cách thức để tiến tới sự hòa hợp chung về văn hóa, điều đáng chú ý là cần phải có ý thức tôn trọng văn hóa, bổ sung và tiếp thu lẫn nhau, xây dựng một không gian văn hóa chung dựa trên sự đồng cảm, trên những mục đích chung, những sự tiến bộ chung trong sự phát triển tiến bộ trên cơ sở sự phù hợp với các giá trị truyền thống của dân tộc.

 Thực tế đã chứng minh rằng, trong sự phát triển của lịch sử, các chuẩn mực và giá trị văn hoá không tồn tại một cách vĩnh hằng mà được sàng lọc bởi những hoạt động thực tiễn. Trong quá trình phát triển, đây chính là thước đo tính đúng đắn của các mô hình văn hoá, là khuôn thước khách quan cho sự chọn lọc hài hòa các giá trị văn hoá, cho sự kế thừa và tiếp thu các giá trị chuẩn mực đặc thù truyền thống trong một thế giới ngày càng trở nên vừa thống nhất, vừa đa dạng.

Dưới góc độ phát triển hệ giá trị quốc gia, cần phân tích kỹ những gợi ý mang tính định hướng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trở lại với những nguyên tắc về giá trị dân tộc đã được đặt ra từ rất sớm, ngay từ thuở tổ tiên bắt đầu dựng nước. Đó là những giá trị mà chúng ta có thể xem như là cội nguồn, là giá trị cốt lõi của người Việt.

Cần nghiên cứu, phác họa rõ hơn về những giá trị tư tưởng trong quản trị đất nước của tổ tiên, đặc biệt là ảnh hưởng của tư tưởng này tới các thế hệ sau ví dụ như tư tưởng về “nhân trị” coi nguyên tắc lấy nhân nghĩa mà trị nước của triều Lý, hoặc tư tưởng lấy tri thức văn hóa, văn hiến mà trị nước như “văn trị” của Nguyễn Trãi dựa trên cơ sở của chủ trương “lấy nhân nghĩa thắng bạo tàn”, đem “trí nhân thay cường bạo” xuyên suốt lịch sử, mà đỉnh cao là những quan điểm được kế thừa bởi Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.

Phát triển hệ giá trị quốc gia chính là hướng tới sự phát triển hài hòa giữa các giá trị đặc thù và phổ quát, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế vì mục tiêu phát triển bền vững ở nước ta, chúng ta cũng cần phải tăng cường hơn nữa các nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, xã hội học… để có thể lựa chọn những giá trị tổng quát cơ bản phù hợp với những điều kiện thực tế khách quan của lịch sử văn hóa Việt Nam. Thước đo tính đúng đắn của việc xác định và lựa chọn các giá trị quốc gia chính là hiệu quả của nó đối với sự phát triển ổn định, tiến bộ và sự phồn vinh của đất nước, của nền văn minh Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc chủ đạo để giữ vững sự hài hòa trong việc xây dựng các giá trị, tiền đề đưa Việt Nam vươn mình.

3. Vấn đề xây dựng hệ thống các chuẩn mực, đưa các giá trị quốc gia vào cuộc sống thực tiễn, lối sống và nhân cách con người, làm cơ sở cho việc quản trị đất nước

Thực tế cho thấy, hệ thống các giá trị quốc gia, giá trị văn hóa, giá trị gia đình dù được nghiên cứu, chọn lọc và xây dựng công phu đến đâu thì về cơ bản sẽ vẫn chỉ những ý tưởng đẹp đẽ mang tính lý thuyết, nếu hệ giá trị này không thể trở thành những chuẩn mực được định hướng và tuân thủ một các tự giác trong cuộc sống.

Điều này đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phân tích. Trong khi gợi ý về bộ khung giá trị cơ bản của quốc gia, Đồng chí nhấn mạnh đến khía cạnh đưa các giá trị vào thực tiễn xã hội thông qua việc xác lập các chuẩn mực con người, xem các chuẩn mực này như là sự phản ánh tính đúng đắn, khoa học, hợp lý và tiến bộ của các giá trị

Về phương diện này, chúng ta cần phải nghiên cứu để tiếp thu được những xu hướng tư tưởng tiên tiến nhất của nhân loại, hòa nhập vào sự phát triển chung của những giá trị tiến bộ của nhân loại và đồng thời cũng phát huy được những mặt tích cực của hệ giá trị truyền thống trong cuộc sống. Đó cũng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào việc hoạch định các chiến lược để dân tộc ta cất cánh vào xã hội mới. Đây cũng là một trong những luận điểm mấu chốt trong tư duy của đồng chí Nguyễn Phú Trọng về giá trị.

Việc đưa những giá trị tốt đẹp từ quan điểm lý thuyết vào hoạt động đa dạng của cuộc sống con người chính là việc tạo lập nên một sự hài hòa mới, hài hòa giữa giá trị với các chuẩn mực xã hội. Hệ thống các giá trị chỉ thực sự có giá trị với cuộc sống khi nó đáp ứng được nhu cầu mọi tầng lớp xã hội, sự công bằng xã hội và chính sự vận động của thực tiễn xã hội. Mặt khác nó cũng cần phải nhận được sự ủng hộ, hưởng ứng và đồng thuận của các cá nhân, nhóm và cộng đồng xã hội. Nói một cách cụ thể, đây là giá trị tương thích, hài hòa giữa lý thuyết và thực tiễn, được người dân chấp nhận.

Bởi vậy, trong quá trình các giá trị được đưa vào vận hành thông qua các chuẩn mực trong thực tiễn, cần rất nhiều đến sự bàn bạc, trao đổi, chỉnh sửa và hoàn thiện thông qua những đóng góp của mọi người dân, cũng cần đến sự tham gia của các hoạt động truyền thông, giáo dục trao đổi, nhằm tạo ra sự đồng thuận chung.

Tuy nhiên, trong việc xác định những chuẩn mực xã hội có thể chuyển tải các giá trị tốt đẹp vào thực tiễn cuộc sống, chúng ta cũng rất cần đến sự tham gia của công tác quản lý xã hội, phát huy được sức mạnh của các thể chế xã hội từ chính quyền, đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã hội, cộng đồng, gia đình, các nhóm xã hội và cá nhân. Phân định được rõ ràng những chuẩn mực liên quan đến luật pháp, phân biệt nó với những chuẩn mực đạo đức và nhân cách, những chuẩn mực văn hóa, phong tục tập quán nhằm có được các biện pháp xử lý hợp lý với việc thực thi đúng đắn các loại chuẩn mực nói trên.

Trong điều kiện này, con đường chuyển tải những hệ thống giá trị vào các quy chuẩn xã hội nhằm điều tiết nhận thức và hành vi của con người, hướng tới một sự phát triển xã hội hài hòa, luôn là một quá trình lâu dài, nhưng nếu được tổ chức hợp lý, khoa học sẽ đóng vai trò quan trọng và tích cực, tạo ra những cơ sở xã hội mới, nhân tố và động lực phát triển mới, bền vững cho đất nước trong tương lai./.

 


SUY NGHĨ VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC XÂY DỰNG ĐẢNG TRƯỚC KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC

Công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác tổ chức xây dựng Đảng nói riêng luôn có vai trò quan trọng trực tiếp ảnh hưởng đến sự vững mạnh của Đảng. Trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc không thể thiếu vai trò then chốt của công tác tổ chức xây dựng Đảng.

Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII thảo luận nhiều vấn đề quan trọng chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng.

Về vai trò quan trọng của tổ chức, V.I. Lê-nin từng khẳng định: Hãy cho tôi một tổ chức của những người cách mạng, chúng tôi sẽ đảo lộn nước Nga. Đảng ta luôn quan tâm, chỉ đạo và phấn đấu xây dựng, tinh gọn bộ máy tổ chức Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động đồng bộ, ăn khớp, hiệu lực, hiệu quả. Đảng đã ban hành nhiều văn bản về tổ chức, cấp uỷ các cấp tích cực thực hiện và đã đạt nhiều kết quả. Trong đó, tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan Đảng thực sự là hạt nhân chính trị, là bộ tổng tham mưu, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Xác định rõ vị trí việc làm, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng người, từng bộ phận trong tổ chức, đưa ra khỏi tổ chức những người không phù hợp, bổ sung thêm người mới hay còn thiếu, đề ra chương trình, kế hoạch và cách thức hành động của các thành viên, để tổ chức hoạt động được nhịp nhàng, ăn khớp với nhau đạt kết quả cao nhất.

Tổ chức bộ máy dù có tinh gọn đến đâu nhưng muốn hoạt động hiệu lực, hiệu quả không thể thiếu đội ngũ cán bộ chất lượng cao. Bởi cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, kết quả công việc tốt hay xấu đều do cán bộ. Chính vì thế Đảng ta luôn chăm lo công tác cán bộ, xác định công tác cán bộ là then chốt của then chốt. Chỉ tính từ khi BCH Trung ương khoá XII ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ đến nay, đã có nhiều văn bản của Đảng tập trung về công tác cán bộ. Với sự chỉ đạo của Đảng, cấp uỷ các cấp khẩn trương, quyết liệt thực hiện và đã có bước chuyển biến tích cực, tạo đà cho những năm tiếp theo. Công tác cán bộ cơ bản đáp ứng yêu cầu của Đảng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương. Đẩy mạnh phân công, phân cấp, phân quyền, nêu gương của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu và đội ngũ cán bộ trực tiếp tham mưu. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng có hiệu quả. Chủ động phát hiện, phối hợp xử lý những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, những vấn đề nổi lên liên quan đến nhân sự. 

Bên cạnh những kết quả đạt được rất quan trọng của công tác cán bộ vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ “Việc thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công tác cán bộ còn chậm, còn một số nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử có nơi chưa bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều; nhiều cán bộ thiếu tính chuyên nghiệp..."; “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật… Cơ chế kiểm soát quyền lực và chế tài xử lý vi phạm ở nhiều lĩnh vực chưa có hoặc có nhưng chưa cụ thể, hiệu quả thực thi thấp”. 

Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu cao, cấp thiết và lâu dài về tiếp tục đổi mới công tác cán bộ toàn diện, đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả hơn để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thúc đẩy phát triển đất nước bền vững. 

Đảng trong sạch, vững mạnh trên cơ sở từng chi bộ, từng đảng viên trong sạch, vững mạnh. Việc Bộ Chính trị ban hành Quy định 144-QĐ/TW về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới là việc rất cần thiết, rất cấp bách, thể hiện tinh thần đổi mới công tác cán bộ với 5 chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới: Yêu nước, tôn trọng nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc; bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm; gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng, rèn luyện, học tập suốt đời.

Chỉ thị số 35-CT/TW về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng đặt ra các yêu cầu đối với công tác chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 – 2030, trong đó bổ sung mới 1 yêu cầu nêu rõ chỉ đạo của Bộ Chính trị cần tiếp tục chấn chỉnh, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, công tác chuẩn bị nhân sự. Tiêu chuẩn cấp ủy viên nhiệm kỳ 2025-2030 phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, Nhà nước và của Nhân dân; có phẩm chất đạo đức, lối sống gương mẫu, trong sáng; thực hiện nghiêm quy định của Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, giữ gìn sự đoàn kết nội bộ; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; không cơ hội, tham vọng quyền lực, cục bộ, bè phái, tham nhũng, tiêu cực, "lợi ích nhóm”. Có năng lực cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có tư duy đổi mới, tầm nhìn, phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả; nói đi đôi với làm, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có thành tích, kết quả công tác và "sản phẩm" cụ thể trong địa bàn, lĩnh vực công tác được giao. Đó là những thông điệp gửi đến toàn thể cán bộ, đảng viên, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng. 

Để xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu mới trước kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đang đặt ra những yêu cầu mới, nhiệm vụ mới cho Ngành Tổ chức xây dựng Đảng. Đó là đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Tập trung đột phá đổi mới công tác cán bộ những khâu, những việc làm mới, khó khăn, phức tạp, trọng yếu, hoặc còn nhiều hạn chế, yếu kém như tiêu chí, tiêu chuẩn, chức danh, cơ chế, thể chế, đánh giá cán bộ, luân chuyển, kiểm soát quyền lực, chống tiêu cực, “chạy chức, chạy quyền”, suy thoái, tham nhũng, lãng phí, thu hút và quản lý, sử dụng hiệu quả nhân tài… Tiếp tục rà soát, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật; đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy đồng bộ, liên thông giữa bộ máy của Đảng với bộ máy nhà nước, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới công tác tổ chức, chính sách, khắc phục sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, sự bất hợp lý trong tổ chức bộ máy; đẩy mạnh tinh giản biên chế, tổ chức bộ máy gắn với quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, nhân sự; xây dựng đội ngũ cán bộ gắn với xây dựng đội ngũ đảng viên. 

Việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ cần gắn với kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, phòng, chống tiêu cực trong công tác cán bộ cần thực hiện đồng bộ, toàn diện nội dung, biện pháp, vừa xây dựng vừa phòng chống, xây dựng là cốt yếu, chiến lược; kết hợp giáo dục, thuyết phục với các biện pháp hành chính, chính trị, kinh tế, pháp chế, kỷ luật, kỷ cương, dư luận xã hội. Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống gắn với tăng cường việc nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu tổ chức, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên luôn tu dưỡng bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, đạo đức, lối sống, thích ứng trong mọi hoàn cảnh khó khăn, thách thức; phòng chống được tác động tiêu cực, sự cám dỗ của vật chất, danh vọng. 

Kỷ nguyên dân tộc vươn mình là khi cả dân tộc là một khối thống nhất vươn lên với Đảng tiên phong dẫn dắt bằng nhiều quyết sách quyết liệt, mạnh mẽ, phù hợp với xu thế thời đại biến đổi nhanh chóng, khó lường, biến nguy cơ thành cơ hội. Dễ vạn lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong! Đó là chân lý lãnh tụ Hồ Chí Minh đã khẳng định. Muốn được dân tin, cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, trong sạch đi trước để “làng nước đi theo”. Kết quả chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua đã góp phần quan trọng củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng. Quan điểm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, không vì đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mà ảnh hưởng, cản trở phát triển kinh tế, xã hội là định hướng chiến lược đúng đắn, vừa xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, vừa phải có giải pháp cụ thể bảo đảm an toàn pháp lý cho đội ngũ cán bộ công chức các cấp, khuyến khích cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.   

Mặc dù Đại hội XIII của Đảng đã hoạch định đường lối phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đặt ra các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, lòng nhân ái, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Nhưng khi Đảng ta chỉ rõ giai đoạn hiện nay là kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tiếp nối hai kỷ nguyên độc lập tự do và đổi mới cũng là lúc toàn Đảng đang khẩn trương chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Do đó, Đại hội XIV có ý nghĩa đặc biệt.

 Dòng chảy lịch sử không hề gián đoạn, chỉ là kế tiếp và các thế hệ cán bộ biết “đứng trên vai những người khổng lồ” viết tiếp những trang sử vẻ vang của dân tộc. Đặc biệt ở chỗ nội dung các văn kiện Đại hội XIV của Đảng phải khắc hoạ được những đặc điểm của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tầm nhìn chiến lược không chỉ cho 5 năm mà đến năm 2045 và lâu hơn nữa với những mục tiêu, nhiệm vụ cần có và quan trọng là những giải pháp thực hiện, trong đó giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định. 

Thời gian từ nay đến Đại hội XIV của Đảng không còn nhiều. Đây là thời gian toàn Đảng, toàn dân khẩn trương vừa phấn đấu hoàn thành những chỉ tiêu, nhiệm vụ Đại hội XIII đề ra vừa chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Cùng với chú trọng nội dung các văn kiện, công tác chuẩn bị nhân sự chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy nhiều cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp kể cả cán bộ cấp cao phải xử lý hình sự đã vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước trước khi được bầu vào cấp uỷ các cấp nhiệm kỳ Đại hội XI, XII. Sau đó vẫn không bị phát hiện và tiếp tục được bầu vào cấp uỷ nhiệm kỳ Đại hội XIII. Đó là bài học, kinh nghiệm cho chuẩn bị nhân sự Đại hội XIV - Đại hội trước kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Không chỉ Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV, mà cấp uỷ các cấp cũng phải là những tập thể trong sạch, vững mạnh, thật sự đoàn kết, thống nhất cao về ý chí và hành động. Các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, người đứng đầu các cấp phải giàu trí tuệ, vững phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, năng lực lãnh đạo và uy tín, có khát vọng cống hiến, đưa dân tộc sánh vai các cường quốc, đặt lợi ích của nhân dân, đất nước trên hết và trước hết. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đòi hỏi cán bộ không chỉ phấn đấu, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao mà cần phải xông xáo, năng động, có đam mê, khát vọng vươn lên, không bằng lòng với kết quả đã đạt được, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thách thức, hành động vì lợi ích chung, vì nước, vì dân, không chỉ đòi hỏi cán bộ, đảng viên nói đi đôi với làm mà còn phải làm đi đôi với nói, phải truyền cảm hứng, phải lan toả, phải thu hút được đông đảo người khác làm theo. Để đạt được yêu cầu đó cấp uỷ các cấp cần thực hiện thật tốt Chỉ thị 35 và Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương với tinh thần công tâm, khách quan, trung thực. 

Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng là dịp đánh giá chính xác, lựa chọn đúng người, bố trí đúng việc. Đánh giá cán bộ cần xét cả quá trình công tác, những kết quả cụ thể đã đạt được trong cương vị, nhiệm vụ được giao. Cùng với xác định đúng đắn đường lối chiến lược phát triển đất nước bền vững, xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, nhất là nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là trọng trách đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng. Thực hiện tốt nhiệm vụ này trước hết là trách nhiệm của cấp uỷ các cấp và người đứng đầu, có vai trò quan trọng “gác cổng” của cơ quan tham mưu - ban tổ chức cấp uỷ các cấp. Đây chính là đóng góp thiết thực của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống của Ngành. /.

 


TIẾP NỐI TRUYỀN THỐNG TỰ HÀO

Cùng với lịch sử của Đảng, trong suốt chặng đường 94 năm xây dựng và trưởng thành (14/10/1930 – 14/10/2024), Ngành Tổ chức xây dựng Đảng luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đội ngũ những người làm công tác tổ chức của Đảng qua các thời kỳ không ngừng nỗ lực phấn đấu, xây dựng nên truyền thống tốt đẹp của Ngành, góp phần vào những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong suốt 94 năm xây dựng và trưởng thành, Ngành Tổ chức xây dựng Đảng không ngừng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của mình, xứng đáng là cơ quan tham mưu đắc lực, tin cậy và trọng yếu của Đảng trong suốt các thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Những nỗ lực phấn đấu, cống hiến của Ngành đã góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc; góp phần xây dựng Đảng ta thực sự là một chính đảng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân, để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là trong những năm gần đây, Ngành Tổ chức xây dựng Đảng đã làm tốt vai trò tham mưu về công tác tổ chức xây dựng đảng, góp phần rất quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong xây dựng Đảng và phát triển đất nước.

Nổi bật là, công tác xây dựng Đảng về chính trị khẳng định Đảng luôn vững vàng, kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời vận dụng, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng. Năng lực dự báo, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng được nâng lên rõ rệt. Mục tiêu độc lập dân tộc gắn viền với chủ nghĩa xã hội từng bước được hiện thực hóa. Bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ngày càng được nâng lên.

Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng được chú trọng và tăng cường, góp phần nâng cao nhận thức, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển, hoàn thiện sáng rõ hơn. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đạt kết quả cao.

Xây dựng Đảng về đạo đức là điểm mới, điểm nhấn rất quan trọng được Đại hội XII của Đảng bổ sung và khẳng định, quyết định sức sống, sức chiến đấu của Đảng. Mục tiêu “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ” trở nên sáng rõ, hài hòa và bền vững, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay. Đảng đã bổ sung nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức với tư cách là một mặt của công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Công tác xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị từng bước được hoàn thiện. Công tác sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị đạt được kết quả quan trọng, rõ nét, có nhiều đổi mới, triển khai thực hiện đồng bộ, bài bản với quyết tâm chính trị cao, có trọng tâm, trọng điểm. Một số mô hình tổ chức mới được thực hiện thí điểm đã góp phần tinh gọn bộ máy, đổi mới cơ chế hoạt động, phương thức lãnh đạo theo hướng hiệu lực, hiệu quả.

Công tác cán bộ tiếp tục được đổi mới. Dấu ấn trong thời gian qua là công tác cán bộ được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, đồng bộ. Đã đẩy mạnh đổi mới đánh giá cán bộ; thí điểm đổi mới cách tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, chặt chẽ hơn trong sử dụng cán bộ. Từng bước hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ; xây dựng, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới nhiều quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền. Đội ngũ cán bộ đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đạt được những kết quả quan trọng. Hệ thống các văn bản quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện dần phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Từ đó góp phần quan trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Công tác rà soát, thẩm tra, xác minh, thẩm định, kết luận về tiêu chuẩn chính trị, nhất là vấn đề chính trị hiện nay đối với cán bộ, đảng viên được thực hiện chặt chẽ, chủ động, bài bản, khoa học và hiệu quả hơn; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng.

Để hoàn thành trọng trách trong giai đoạn mới, Ban Tổ chức Trung ương đang thực hiện nhiều giải pháp xây dựng Ngành Tổ chức xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong đó, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan tổ chức cấp ủy các cấp tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng quy định cụ thể chức trách, nhiệm vụ từng chức danh cán bộ, công chức nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo và nêu cao trách nhiệm cá nhân. Nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác cán bộ “trung thành, trung thực, gương mẫu, trong sáng, tinh thông” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, bám sát Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chương trình làm việc toàn khoá của Ban Chấp hành Trung ương, Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tập thể cán bộ, công chức, viên chức của Ban Tổ chức Trung ương đã có nhiều nỗ lực, chủ động, nêu cao trách nhiệm, phát huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, tham mưu hoàn thành một khối lượng lớn công việc với chất lượng ngày càng được nâng lên, trong đó có nhiều nhiệm vụ hoàn thành tốt và xuất sắc, không ngừng nâng cao chất lượng công tác tham mưu chiến lược.

Cùng với đó là tăng cường hơn nữa công tác nghiên cứu, tham mưu chiến lược về công tác tổ chức xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới; tham mưu hoàn thành các đề án, nhiệm vụ theo Chương trình công tác năm 2024; triển khai đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, nhất là chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin… Tiếp tục xây dựng Ngành Tổ chức xây dựng Đảng vững mạnh, bảo đảm “tinh gọn, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả” để đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Phát huy truyền thống vẻ vang, Ngành Tổ chức xây dựng Đảng tiếp tục tham mưu, đề xuất với Đảng xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức của hệ thống chính trị và tuyển chọn được những cán bộ, đảng viên, những chiến sĩ ưu tú, trung kiên cho Đảng, cho cách mạng; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.

Kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống Ngành Tổ chức xây dựng Ðảng, chúng ta tự hào ôn lại truyền thống, thấm nhuần sâu sắc hơn ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm trong công tác tổ chức xây dựng đảng. Các thế hệ cán bộ Ngành Tổ chức xây dựng Đảng luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tận tụy, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong thời kỳ mới./.

 

Việt Nam sẵn sàng cùng LHQ ủng hộ hòa bình, thúc đẩy phát triển bền vững.

 Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, và ủng hộ mạnh mẽ chủ nghĩa đa phương, vai trò trung tâm của Liên hợp quốc (LHQ). Thủ tướng khẳng định Việt Nam sẵn sàng hợp tác, chia sẻ, đóng góp, cùng LHQ triển khai các giải pháp toàn cầu, toàn diện, toàn dân cho các thách thức hiện nay, ủng hộ hòa bình, thúc đẩy phát triển bền vững, bảo đảm quyền con người.


Chiều ngày 10/11/2024, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tiếp bà Pauline Tamesis, Điều phối viên Thường trú và các Trưởng đại diện các tổ chức của Liên hợp quốc (LHQ) tại Việt Nam nhân dịp kỷ niệm Ngày Liên hợp quốc 24/10.  

Tại cuộc tiếp, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính bày tỏ vui mừng bước sự phát triển mạnh mẽ trong quan hệ hợp tác Việt Nam – LHQ, đặc biệt cảm ơn sự hỗ trợ và đồng hành quý báu của LHQ trong suốt chặng đường phát triển của Việt Nam, nhất là trong giai đoạn bị bao vây cấm vận, hội nhập quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế, ứng phó biến đổi khí hậu, khắc phục hậu quả thiên tai.

Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh Việt Nam, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, và ủng hộ mạnh mẽ chủ nghĩa đa phương, vai trò trung tâm của LHQ. Thủ tướng Chính phủ khẳng định Việt Nam sẵn sàng hợp tác, chia sẻ, đóng góp, cùng LHQ triển khai các giải pháp toàn cầu, toàn diện, toàn dân cho các thách thức hiện nay, ủng hộ hòa bình, thúc đẩy phát triển bền vững, bảo đảm quyền con người. 

Nhân dịp này, Thủ tướng Chính phủ cũng trao đổi về một số trọng tâm cụ thể trong hợp tác giữa Việt Nam và hệ thống phát triển LHQ trong giai đoạn tới, nhất là trong thực hiện 03 đột phá chiến lược của Việt Nam về thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực, cũng như việc triển khai các văn kiện của Hội nghị Thượng đỉnh tương lai, đẩy nhanh thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG), ứng phó biến đổi khí hậu và triển khai Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP), chuyển đổi số, chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm… 

Thủ tướng Chính phủ thông tin về một số thành tựu Việt Nam đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững, các cam kết về biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh lương thực và dinh dưỡng không chỉ của người dân Việt Nam mà cả của thế giới, trong đó có việc xuất khẩu 8 triệu tấn gạo năm 2024. Việt Nam đang tập trung triển khai 03 trụ cột chính bao gồm xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó tập trung vào 06 nhiệm vụ trọng tâm, cụ thể là: đường lối đối ngoại độc lập tự chủ; phát triển kinh tế; phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thực hiện chính sách quốc phòng bốn “không”; bảo đảm an sinh xã hội; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Thủ tướng Chính phủ đề nghị các tổ chức LHQ tại Việt Nam tiếp tục hợp tác chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương, hỗ trợ tư vấn chính sách, huy động nguồn lực quốc tế, nhất là về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực quản trị quốc gia, đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu và phù hợp với các định hướng phát triển và ưu tiên của Việt Nam trong giai đoạn tới, nhất là trong việc thực hiện hai mục tiêu 100 năm là trở thành nước phát triển công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển thu nhập cao vào năm 2045.

Tại cuộc gặp, Điều phối viên Thường trú và các Trưởng đại diện các tổ chức LHQ tại Việt Nam đánh giá cao vai trò, cam kết mạnh mẽ và những đóng góp tích cực của Việt Nam tại các cơ chế LHQ. Phía LHQ đặc biệt hoan nghênh những nỗ lực của Việt Nam trong thúc đẩy thực hiện các ưu tiên chung của LHQ và cộng đồng quốc tế trong gìn giữ hòa bình và thúc đẩy phát triển bền vững. Các Trưởng đại diện các tổ chức LHQ đánh giá cao những nỗ lực và thành tựu phát triển của Việt Nam thời gian qua, đặc biệt trong thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, bảo đảm bình đẳng giới… 

Lãnh đạo các cơ quan LHQ khẳng định cam kết tiếp tục hợp tác mạnh mẽ với Việt Nam, đặc biệt để triển khai các văn kiện của Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai, thúc đẩy chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, thực hiện thành công JETP, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực chống chịu và ứng phó với thiên tai, nâng cao sức khỏe người dân… 

Liên hợp quốc chính thức thành lập vào ngày 24/10/1945 khi Hiến chương LHQ được phê chuẩn. Liên hợp quốc bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ năm 1977, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Liên hợp quốc. Từ đó, các tổ chức và chương trình của LHQ đã tích cực hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực như phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế, và bảo vệ môi trường.

Các Cơ quan của LHQ tại Việt Nam gồm: Văn phòng Điều phối viên Thường trú (RCO), Tổ chức Nông lương LHQ (FAO), Quỹ quốc tế về Phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Di cư quốc tế (IOM), Chương trình phối hợp của LHQ về HIV/AIDS (UNAIDS), Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục LHQ (UNESCO), Quỹ Dân số LHQ (UNFPA), Chương trình Phát triển LHQ (UNDP), Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Tổ chức Phát triển Công nghiệp LHQ (UNIDO), Cơ quan LHQ về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Cơ quan của LHQ về phát triển khu dân cư và đô thị bền vững (UN-HABITAT).

 

Việt Nam luôn là hình mẫu cho cả thế giới, trong đó có Chile.

 Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Chile, chiều 10/11 theo giờ địa phương, tại thủ đô Santiago de Chile, Chủ tịch nước Lương Cường tiếp Chủ tịch Đảng Cộng sản Chile Lautaro Carmona Soto. Cùng dự có Tổng Bí thư, người thứ hai của Đảng Cộng sản Chile Bárbara Figueroa.


Tại buổi tiếp, Chủ tịch nước bày tỏ vui mừng lần đầu thăm chính thức đất nước Chile tươi đẹp, mến khách; thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam cảm ơn nhân dân, Đảng Cộng sản Chile và các lực lượng cánh tả, tiến bộ, yêu chuộng hòa bình đã nhiệt thành ủng hộ, đoàn kết với nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, cũng như công cuộc xây dựng phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay. Chủ tịch nước cũng cảm ơn đồng chí Lautaro Carmona Soto trong những năm 70 thế kỷ trước tích cực tham gia các hoạt động phản đối chiến tranh, ủng hộ nhân dân Việt Nam và có nhiều đóng góp tích cực cho quan hệ hai Đảng, nhân dân hai nước.

Nhân dịp này, Chủ tịch nước chuyển lời thăm hỏi, lời mời thăm Việt Nam vào thời điểm thích hợp của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm đến đồng chí Chủ tịch Đảng Cộng sản Chile Lautaro Carmona Soto. Chủ tịch nước đánh giá cao và tin tưởng Đảng Cộng sản Chile với tư cách là đảng tham chính sẽ có nhiều đóng góp tích cực vào những kết quả điều hành của Chính phủ cánh tả tại Chile, thúc đẩy chính sách ngoại giao tích cực, mở rộng quan hệ đối ngoại và liên kết với các nước, khu vực khác trên thế giới, góp phần vào giải quyết các thách thức chung và vấn đề quốc tế.

Chia sẻ một số nét lớn về tình hình đất nước và Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước cho biết, xuất phát điểm là đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề; bối cảnh thế giới hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp nhưng sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hiện nay, Việt Nam có quy mô nền kinh tế đứng thứ 35 trong tốp 40 nền kinh tế và nằm trong nhóm 20 nước có tộc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới. Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa; chủ động và tích cực hội nhập, là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Chủ tịch nước nhấn mạnh Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để đạt được kết quả nêu trên, ngoài sự nỗ lực của chính mình, Việt Nam cần có sự hỗ trợ, đồng hành của bạn bè quốc tế, trong đó có Chile.

Hiện Chile là một trong những thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam khu vực Mỹ Latinh còn Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Chile trong ASEAN. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương coi trọng và mong muốn phát triển hơn nữa quan hệ hợp tác với các chính đảng cầm quyền, tham chính và chính đảng có quan hệ truyền thống, trong đó có Đảng Cộng sản Chile vì lợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và thế giới.

Chủ tịch nước nhấn mạnh, trong bối cảnh thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, Việt Nam vẫn kiên định con đường độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội và để đạt được mục tiêu đó có nhiều giải pháp. Vì vậy, giữa hai Đảng Cộng sản hai nước cần tích cực trao đổi kinh nghiệm phát triển phù hợp với mỗi nước.

Về phần mình, Chủ tịch Đảng Cộng sản Chile Lautaro Carmona Soto bày tỏ vinh dự được Chủ tịch nước tiếp và cho biết, các đại biểu tham dự buổi tiếp dù ở nhiều thế hệ khác nhau nhưng đều có một điểm chung xuất phát từ tình yêu đất nước, con người Việt Nam; nhiều người từng tham gia cuộc diễu hành vì hòa bình phản đối chính tranh ở Việt Nam trước đây.

Chủ tịch Lautaro Carmona Soto khẳng định Việt Nam luôn là hình mẫu cho cả thế giới, trong đó có Chile. Đảng Cộng sản Chile đã học tập kinh nghiệm của Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc, xác định sự nghiệp cách mạng là của toàn dân; để phát triển đất nước cần có sự tham gia của tất cả mọi người trong xã hội. Hiện nay dù có nhiều khó khăn, thách thức đối với các đảng trong liên minh cầm quyền, trong đó có Đảng Cộng sản Chile. Vì vậy, Đảng Cộng sản Chile cũng thúc đẩy nâng cao sức chiến đấu của mình; quan tâm học hỏi mô hình Việt Nam, nhất là những giải pháp phù hợp với thực tiễn Chile.

Chủ tịch Lautaro Carmona Soto cho biết đối với Chile dù là đảng  phái nào cũng đều ủng hộ mối quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực giữa hai nước vì Việt Nam là đất nước tuyệt vời, được lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản, luôn thể hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác, vì lợi ích của nhân dân hai nước./.

Đồng chí Nguyễn Hòa Bình dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại Gia Lai.

 Trong khuôn khổ chuyến công tác tại tỉnh Gia Lai, ngày 10/11, nhân Kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt (18/11/1930 - 18/11/2024), Ngày hội "Đại đoàn kết toàn dân tộc", Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình đã đến cùng chung vui, dự Ngày hội Đại đoàn kết với nhân dân làng Ia Nueng, xã Biển Hồ, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Cùng tham dự Ngày hội có Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh; lãnh đạo, đại diện một số bộ, ngành Trung ương; lãnh đạo tỉnh Gia Lai và đông đảo người dân làng Ia Nueng.

Về dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại làng Ia Nueng, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình ghi nhận, đánh giá cao những kết quả của tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội mà cán bộ, nhân dân làng Ia Nueng đạt được thời gian qua. Đồng chí Nguyễn Hòa Bình mong muốn cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể các cấp tỉnh Gia Lại nói chung và cán bộ, nhân dân làng Ia Nueng nói riêng tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp và những kết quả đã đạt được; không ngừng tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc, tập trung thực hiện hoàn thành tốt các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương; đưa Ia Nueng trở thành một điểm sáng du lịch cộng đồng, thu hút du khách, qua đó nâng cao thu nhập, đời sống cho người dân.

Đồng chí Nguyễn Hòa Bình đề nghị hệ thống chính trị và nhân dân làng Ia Nueng, xã Biển Hồ, thành phố  Pleiku tiếp tục phát huy truyền thống, đoàn kết, thực hiện hiệu quả các Nghị quyết của Đảng và các nhiệm vụ kinh tế - xã hội giai đoạn 2020-2025, tổ chức phong trào thi đua chào mừng Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ X và hỗ trợ người có hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời, tăng cường bảo tồn văn hóa dân tộc; thực hiện tốt dân chủ cơ sở, củng cố niềm tin và sự đồng thuận, hướng tới các cuộc bầu cử nhiệm kỳ 2025-2027 và Đại hội Đảng các cấp. 

Đồng chí Nguyễn Hòa Bình mong muốn các cấp chính quyền và bà con nhân dân làng Ia Nueng tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết, thực hiện rộng rãi dân chủ cơ sở, quyền làm chủ và vai trò tự quản của Nhân dân; cũng cố và nâng cao niềm tin của Nhân dân, tương ái, chia sẻ, giúp đỡ, cùng nhau vượt qua khó khăn, nâng cao thu nhập, nâng cao chất lượng nông thôn mới và đời sống của người dân; tiếp tục xây dựng thôn làng đoàn kết hơn, phát triển hơn.

Nhân dịp này, Phó Thủ tướng Thường trực và Đoàn công tác đã tặng quà cho các già làng, thôn trưởng và một số gia đình tiêu biểu của làng Ia Nueng.

Làng Ia Nueng thuộc xã vùng ven thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, có 225 hộ, gần 1.100 nhân khẩu, đa số là người dân tộc Jrai, sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Làng Ia Nueng được thành phố Pleiku chọn làm điểm xây dựng làng "nông thôn mới trong đồng bào dân tộc thiểu số". Làng đã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu năm 2019; được công nhận làng Du lịch cộng đồng năm 2023. Làng hiện không còn hộ nghèo, chỉ có 2 hộ cận nghèo; 100% trẻ em trong độ tuổi đến trường. Các tuyến đường trong làng, nhà văn hóa, khu thể thao thường xuyên được vệ sinh sạch sẽ, cảnh quan môi trường sáng - xanh - sạch - đẹp; tại tuyến đường trục chính của làng; các hộ gia đình đều có hố thu gom xử lý rác thải sinh hoạt tại gia đình, hạn chế tình trạng vứt rác thải ra ngoài môi trường. Làng luôn giữ vững được an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhân dân trong làng luôn chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước./.

Vững bước theo con đường của Cách mạng tháng Mười Nga

1. Các thế lực thù địch viện đủ mọi lý do để đưa các các luận điệu phủ nhận giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga 1917. Họ cho rằng: “Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội tại cái nôi của Cách mạng tháng Mười là tất yếu, chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, ảo tưởng”; do đó, “các dân tộc cần nói “không” với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Và “Việt Nam không nên đi theo con đường của Cách mạng tháng Mười Nga, bởi đó là con đường không có tương lai”, “đi chệch khỏi quy luật phát triển chung của xã hội loài người”, v.v..

Thực ra, họ công kích, phủ nhận giá trị của cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâu sắc nhất, triệt để nhất nhằm qua đó gián tiếp phủ nhận, xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Luận điệu này tuy không mới, nhưng thủ đoạn thì tinh vi, xảo quyệt hơn, khó nhận diện hơn. Sở dĩ như vậy là vì, trước những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và những thành công ấn tượng trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, các thế lực khó có thể phủ nhận trực tiếp những thành quả cách mạng mà đất nước và nhân dân ta đã đạt được. Do đó, buộc chúng không tấn công trực diện mà phải đánh đường vòng, gián tiếp rất nguy hiểm nếu chúng ta thiếu tỉnh táo, dao động, lơ là, mất cảnh giác trước thủ đoạn này.

2. Những giá trị trường tồn và nổi bật của Cách mạng tháng Mười Nga không thể phủ nhận:

Một là, Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo ra bước đột phá thực tiễn quan trọng, tạo bước nhảy vọt về chất của chủ nghĩa xã hội khoa học: từ lý luận khoa học đã trở thành hiện thực sinh động trên thế giới. Trước khi Cách mạng tháng Mười Nga 1917 nổ ra, trên thế giới chưa có cuộc cách mạng nào làm được điều này, kể cả những thử nghiệm đầu tiên và bị thất bại của Công xã Pari (1871). Với Cách mạng tháng Mười Nga, lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học đã đi một bước đột phá mới trong sự phát triển của nó: đột phá vào thực tiễn, dấn thân vào hiện thực của cách mạng, bén rễ vào thực tiễn xã hội. Nhờ có bước đột phá vĩ đại này mà chu trình đi từ chủ nghĩa xã hội không tưởng đến chủ nghĩa xã hội khoa học và cuối cùng đến chủ nghĩa xã hội hiện thực được hoàn thành. Bước đột phá này chứng tỏ tiềm năng, sức sống mãnh liệt và sự sáng tạo của lý luận khoa học và cách mạng. Từ đây, chủ nghĩa xã hội được biết đến không chỉ là một học thuyết khoa học, một phong trào, mà còn là một chế độ xã hội cụ thể, thành hiện thực sinh động, có sức mạnh vô cùng to lớn, mở đường cho các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do.

Hai là, giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga còn chỗ biến giai cấp công nhân, từ thân phận nô lệ làm thuê cho giai cấp tư sản trong chủ nghĩa tư bản trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng, chủ nhân của xã hội mới. Đúng như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Nước Nga có chuyện lạ đời/Biến người nô lệ thành người tự do”. Đây là điều mà tất các các cuộc cách mạng xã hội trước kia, đã đều không thể thực hiện được. Với Cách mạng tháng Mười Nga, lần đầu tiên một cuộc cách mạng không do giai cấp bóc lột, thống trị lãnh đạo, mà do giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã tiến hành thành công. Đây là giá trị thực tiễn to lớn và không thể phủ nhận của Cách mạng tháng Mười Nga.

Ba là, thành công của Cách mạng tháng Mười Nga 1917, có giá trị và ý nghĩa khai mở vạch thời đại vô cùng sâu sắc. Từ đây thời đại mới trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại đã mở ra, đó là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười đã khai sinh ra chủ nghĩa xã hội hiện thực, với chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản đã ở vào vị thế đảng cầm quyền. Cho dù lịch sử có biến đổi, thăng trầm, thì dấu mốc mở đầu thời đại mới của Cách mạng tháng Mười Nga mãi mãi không thay đổi. Không ai và không bao giờ có thể phủ nhận giá trị mở đầu, mở đường của Cách mạng tháng Mười Nga. Đó là điều chắc chắn.

Bốn là, ngoài giá trị khai mở thời đại mới, giá trị nêu gương của Cách mạng tháng Mười Nga có sức hấp dẫn và lan toả rất lớn. Cách mạng tháng Mười Nga có ảnh hưởng sâu sắc vạch thời đại đến tất cả các cuộc cách mạng trong thời đại ngày nay, đến quá trình phát triển của thế giới hiện đại. Ở góc độ này, những tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga có giá trị đặt nền móng cho việc hiện thực hoá lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Do những ảnh hưởng có tính vạch thời đại, mang tầm nhân loại, được các quốc gia, dân tộc không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo, đã khẳng định sức sống trường tồn, tinh thần bất diệt của Cách mạng tháng Mười Nga.

Chính vì giá trị, sức hấp dẫn và sự lan toả ảnh hưởng có tính chất toàn cầu ấy mà giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản và các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội với Cách mạng tháng Mười Nga đã không thể ngồi yên. Chúng luôn tìm mọi cách chống phá, phủ nhận giá trị to lớn và vĩnh hằng của Cách mạng tháng Mười Nga, của chủ nghĩa xã hội.

3. Phê phán thủ đoạn xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thông qua phủ nhận giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga.

Một là, mối liên hệ mật thiết giữa Cách mạng tháng Mười Nga và cách mạng Việt Nam là tất yếu và không thể phủ nhận. Bởi vì, Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng điển hình, mở đầu cho thời kỳ cách mạng mới trên thế giới, và cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, có quan hệ chặt chẽ, khăng khít với cách mạng thế giới. Con đường mà cách mạng Việt Nam đang đi hôm nay là con đường mà Cách mạng tháng Mười Nga đã khai mở, vạch ra.

Thực tiễn chứng minh: “nếu không có Cách mạng tháng Mười vĩ đại thì nhân dân Việt Nam không thể hoàn thành được cuộc Cách mạng tháng Tám của mình...”. Đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã làm nên Cách mạng tháng Tám 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước - kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. Hiện nay, tiếp tục kế thừa và lan toả những giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga, Việt Nam luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững và đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Sự thành công của cách mạng Việt Nam nói chung và sự nghiệp đổi mới nói riêng là sự tiếp nối và lan truyền sâu rộng sức ảnh hưởng, niềm cảm hứng, tinh thần bất diệt và những giá trị trường tồn của Cách mạng tháng Mười Nga. Những thành tựu to lớn, toàn diện mà Việt Nam đạt được sau gần 40 năm đổi mới đã khẳng định rõ tính đúng đắn của việc kiên trì đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, bác bỏ mọi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Hai là, mặc dù cách mạng Việt Nam và Cách mạng tháng Mười Nga có mối liên hệ chặt chẽ, song không thể đồng nhất Cách mạng tháng Mười Nga với cách mạng Việt Nam. Hai cuộc cách mạng này, về bản chất, đều là cách mạnh vô sản, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản tiến hành. Đều nhằm những mục tiêu cụ thể trước mắt và lâu dài của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa như lật đổ chính quyền và ách thống trị của giai cấp tư sản, phong kiến lỗi thời, phản động, thiết lập chính quyền cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước,… Tuy nhiên, hình thức, bước đi và phương pháp cụ thể của mỗi cuộc cách mạng là không hoàn toàn giống nhau. Điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước cũng khác nhau. Cho nên, không thể đồng nhất thất bại của cuộc cách mạng này cũng là thất bại của cuộc cách mạng kia, và ngược lại. Những lập luận theo kiểu chứng minh “bắc cầu” trong trường hợp này là không đúng về phương pháp luận và không phù hợp với thực tế cách mạng mỗi nước.

Ba là, để chứng minh tính đúng đắn của chủ nghĩa xã hội khoa - một học thuyết khoa học và cách mạng ở tầm toàn nhân loại thì không thể chỉ bằng thực tiễn của một cuộc cách mạng cụ thể, ở một nước cụ thể, mà phải là kết quả kiểm chứng của nhiều cuộc cách mạng ở nhiều nước trên thế giới và trong nhiều giai đoạn lịch sử cách mạng khác nhau. Mỗi cuộc cách mạng đó, từ góc độ thực tiễn của mình chỉ có thể minh chứng tính đúng đắn của chủ nghĩa xã hội khoa học trên từng phương diện thực tiễn cụ thể, sinh động, gắn với hoàn cảnh của nó. Chân lý phải được kiểm tra bằng thực tiễn, nhưng không phải thực tiễn đơn lẻ, mà là thực tiễn phổ biến, của đông đảo nhân dân và được lặp đi, lặp lại nhiều lần. Mặt khác, không phải chỉ có thành công, mà ngay cả thất bại của hoạt động thực tiễn cũng đều là tiêu chí kiểm tra lý luận. Cho nên, thất bại của một cuộc cách mạng cụ thể, không hẳn là thất bại của lý luận, trái lại, nó càng xác thực chính xác hơn tính đúng đắn của lý luận. Vấn đề là phải “phân tích cụ thể một tình hình cụ thể” không thể quy chụp võ đoán, chủ quan, ngộ nhận.

Bốn là, lịch sử các cách mạng thế giới cho thấy, chủ nghĩa tư bản khi mới ra đời cũng phải trải qua những thất bại đau đớn, trước sự phản công quyết liệt của chủ nghĩa phong kiến và các thế lực thù địch cùng với những sai làm chủ quan của giai cấp tư sản. Chẳng hạn, cuộc cách mạng tư sản đầu tiên nổ ra tại Hà Lan bắt đầu từ tháng 8/1566, nhưng mãi đến 1581 các tỉnh miền Bắc Nê-đéc-lan mới thành lập “các tỉnh liên hiệp” (sau là Cộng hoà Hà Lan), nhưng không được thực dân Tây Ban Nha công nhận và cuộc đấu tranh vẫn tiếp diễn. Mãi tới năm 1648, tức là sau 82 năm đấu tranh bền bỉ, cuối cùng chính quyền Tây Ban Nha công nhận nền độc lập của Hà Lan. Cuộc cách mạng kết thúc, Hà Lan được giải phóng. Hay như cuộc cách mạng dân chủ tư sản điển hình là cách mạng tư sản Pháp cũng phải cần tới ba khởi nghĩa (lần một: 6-1791; lần hai: 10-8-1792; lần ba: 31-5-1793) và một lần đảo chính (7- 1794) mới lật đổ được chế độ phong kiến, đưa giai cấp tư sản lên cầm quyền. Mở ra thời đại thắng lợi và củng cố quyền thống trị của giai cấp tư sản trên phạm vi thế giới. Điều đó cho thấy, thực hiện cách mạng là không dễ dàng, có thể thành, bại bất cứ lúc nào nếu giai cấp cách mạng không sáng suốt và mắc những sai lầm nghiêm trọng.

Cuộc cách mạng vô sản đầu tiên là Công xã Pari (Pháp) nổ ra năm 1871, tuy giành thắng lợi song chỉ tồn tại được 72 ngày; Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi và duy trì sự tồn tại được 74 năm (1917 – 1991). Đó là sự thật lịch sử. Nhưng dù có thất bại thì các cuộc các mạng vẫn không làm mất đi giá trị mà nó mang đến cho nhân loại, cho tiến trình phát triển của lịch sử loài người. Đi theo mục tiêu lý tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, hiện nay, các nước: Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Lào… vẫn vững bước trên con đường chủ nghĩa xã hội, đã và đang gặt hái được những thành công không thể phủ nhận.

Từ những phân tích trên, có thể thấy, mục tiêu cuối cùng mà các thế lực thù địch nhằm tới là làm cho Việt Nam thay đổi chế độ chính trị, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Những chiêu thức mà các đối tượng sử dụng ngày càng tinh vi, khó nhận diện hơn. Hiện nay, chúng ít phủ nhận một cách trực diện, mà thường đan cài, lồng ghép những luận điệu cũ và mới, những thông tin đúng và tin xấu độc,… nhằm gây tâm lý hoài nghi, hoang mang và làm xói mòn niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó, hướng lái cách mạng Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, cán bộ, đảng viên và nhân dân cần hết sức tỉnh táo, có nhận thức chính trị đúng đắn, lập trường tư tưởng vững vàng trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Ðảng, vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vững bước theo con đường của Cách mạng tháng Mười sẽ bảo đảm chắc chắn cho cách mạng Việt Nam tiếp tục giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa./.

Sưu tầm