Thứ Hai, 11 tháng 11, 2024

VAI TRÒ CỦA HỌC TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI VIỆC NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI SỰ SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Lý luận chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng đối với Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng; là ngọn hải đăng soi đường, chỉ lối; là “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của Đảng và cán bộ đảng viên. Bởi vậy, nếu không chú tâm nghiên cứu lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không vững lý luận chính trị sẽ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, dẫn đến coi thường lý luận, không đủ sức bảo vệ chính mình và dễ tiếp thu tư tưởng tiêu cực, phản động của các thế lực thù địch.

Sinh thời, Bác Hồ từng căn dặn các thế hệ cán bộ cách mạng về vai trò của lý luận. Bác chỉ ra rằng: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”, “Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII năm 1996, Đảng ta đã chỉ rõ: “Lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận những thông tin mới, cũng là biểu hiện của sự thoái hóa”. Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng đánh giá: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Hệ thống, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn nhiều bất hợp lý”.

Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,  những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã tiếp tục khẳng định: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước” là một trong những biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị. Đây chính là mầm mống của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Điều đó đã khẳng địnhtrong mọi giai đoạn cách mạng, việc học tập lý luận chính trị có vai trò và ý nghĩa quan trọng, nhất là trong giai đoan hiện nay, việc nghiên cứu và học tập lý luận chính trị là một yêu cầu cần thiết và cấp bách, thường xuyên và lâu dài đối với mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. 

Lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng trong định hướng, dẫn dắt hoạt động thực tiễn trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, học tập lý luận chính trị không những giúp cho người học có sự hiểu biết sâu sắc, đầy đủ, toàn diện hơn về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước mà còn củng cố niềm tin và bản lĩnh chính trị, ý thức giai cấp và tinh thần yêu nước cho cán bộ, đảng viên; từ đó thúc đẩy cán bộ, đảng viên tự giác, tự nguyện, hăng hái hành động, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra. Mặt khác, việc học tập và nghiên cứu lý luận chính trị nhằm cung cấp cho người học thế giới quan và phương pháp luận cách mạng và khoa học, từ đó vận dụng vào thực tiễn cuộc sống và công việc, để hoàn thành và hoàn thành xuất sắc công việc được giao.

Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy, một bộ phận cán bộ, đảng viên nhận thức chưa đúng đắn vị trí, vai trò, tầm quan trọng của học tập lý luận chính trị, có những biểu hiện ít quan tâm, xem nhẹ, coi thường việc học tập lý luận chính trị; xác định động cơ, mục đích học tập lý luận chính trị không đúng đắn, học không vì mục đích tự thân bù đắp những tri thức, kỹ năng còn thiếu, mà học vì lý do thăng tiến, hoàn thiện bằng cấp, đáp ứng tiêu chuẩn được đề bạt, bổ nhiệm lên những vị trí cao hơn. Bằng cấp trong những trường hợp như vậy vô tình trở thành “vật trang trí”, làm “đẹp hồ sơ”, không còn vai trò đúng nghĩa là thước đo trình độ lý luận, “vũ khí” lý luận được trang bị để hoạt động thực tiễn được đúng đắn, thành công, thậm chí bị mất tác dụng, phản tác dụng.

Như vậy, việc lười học tập lý luận chính trị là một trong những biểu hiện suy thoái rất nguy hiểm, là một trong những nguyên nhân dẫn đến những trường hợp, cán bộ, đảng viên khi tiếp xúc với quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch thì tỏ ra lúng túng, thiếu lý lẽ để “giải thoát” cho chính mình và đấu tranh bác bỏ quan điểm sai trái, phản động, nhằm bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng.
Vì vậy, trong thời gian tới, để góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng lười học tập lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên hiện nay các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể cần tập trung vào các giải pháp sau:

Một là, thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và cán bộ, đảng viên về vai trò của việc học tập lý luận chính trị. Nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, của đội ngũ cán bộ đảng viên là cơ sở hàng đầu có ý nghĩa quyết định đến chất lượng học tập học tập lý luận chính trị, khắc phục tình trạng lười học tập lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục giáo dục, quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhất là Kết luận số 69-KL/TW ngày 14/4/2010 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện quy định 54-QĐ/TW ngày 12/5/1999 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về chế độ lý luận chính trị trong Đảng; Kết luận 57-KL/TW, ngày 8/3/2013 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp; Nghị quyết số 32-NQ/TW, ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý... đảm bảo chặt chẽ, nghiêm túc, tránh tình trạng quán triệt, triển khai qua loa, hình thức, chiếu lệ, xem nhẹ việc học lý luận chính trị.

Hai là, thực hiện nghiêm quy định, chế độ học tập lý luận chính trị gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng yêu cầu: “Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương”. Phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu, của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, phải coi việc học tập lý luận chính trị là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy định thành chế độ để mọi người tự giác thực hiện nghiêm túc. Đưa chế độ tự học tập, nghiên cứu lý luận chính trị thành tiêu chí bắt buộc trong hoạt động của cán bộ, đảng viên. Thường xuyên cung cấp thông tin về những quan điểm, chủ trương mới của Đảng, Nhà nước đến cán bộ, đảng viên một cách kịp thời bảo đảm tính trung thực, đầy đủ, chính xác, khách quan, khoa học. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ: “Chủ động định hướng, cung cấp thông tin thường xuyên hoặc đột xuất; chú trọng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt”. Kịp thời ngăn chặn, không để cán bộ, đảng viên hoang mang, dao động trước những thông tin thất thiệt, xuyên tạc, bịa đặt sai sự thật của các thế lực thù địch trên các trang mạng xã hội.

Ba là, không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy lý luận chính trị theo hướng lý luận phải gắn với thực tiễn, phục vụ nhu cầu của người học sao cho giờ học nghị quyết trở nên sinh động, hấp dẫn. Không chỉ truyền dạy nghị quyết một chiều mà cần phải biết vận dụng tri thức lý luận vào thực tiễn; biết khai thác những tư liệu từ kinh nghiệm thực tiễn của cả người dạy lẫn người học để làm giàu tri thức. Trong quá trình giảng dạy, phải lựa chọn nội dung cốt lõi nhất để giảng dạy, truyền thụ, nội dung ngắn gọn, súc tích, cô đọng, dễ nhớ, dễ hiểu và dễ tổ chức thực hiện; bám sát nghị quyết các cấp, xác định thật cụ thể, rõ ràng khâu đột phá để giải quyết nhiệm vụ then chốt, khâu yếu, mặt yếu, tạo bước phát triển. Kiên quyết khắc phục tình trạng giảng dạy nghị quyết chung chung, dàn trải, kinh viện, xa rời thực tiễn; cần coi trọng đổi mới, đa dạng hóa hình thức, phương pháp truyền đạt, quán triệt nghị quyết vừa bảo đảm tính hấp dẫn, tính khoa học, vừa bảo đảm tính thực tiễn; kết hợp tuyên truyền miệng với sử dụng hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng; đội ngũ báo cáo viên phải được lựa chọn kỹ, thực sự là những người có phẩm chất tốt, có kỹ năng và năng lực truyền đạt nghị quyết.

Bốn là, làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng, lấy kết quả học tập lý luận chính trị làm thước đo phẩm chất, năng lực, phân loại của cán bộ, đảng viên. Sau mỗi đợt học tập nghị quyết, cần tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, gắn với nhận xét, đánh giá cán bộ, đảng viên; đề cao trách nhiệm chính trị và tính tự giác, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong học tập và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Cán bộ, đảng viên giữ cương vị càng cao, càng phải gương mẫu học tập, nói và làm theo đúng nghị quyết của Đảng. Liên quan đến vấn đề này, cần nghiêm túc làm tốt công tác đánh giá theo hướng thực chất.
Năm là, phát huy tính tích cực, chủ động của mỗi cán bộ, đảng viên trong tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ lý luận chính trị theo phương châm “học đi đôi với hành”. Với mỗi cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần sâu sắc lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục đích của việc học: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Phải thường xuyên học tập, trau dồi phẩm chất chính trị, gắn việc học lý luận với thực tiễn công việc hằng ngày: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.

Các Mác đã từng khẳng định “…lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”. Do đó, phòng, chống tình trạng lười học tập lý luận chính trị, xem thường vai trò của lý luận của cán bộ, đảng viên là vấn đề cấp thiết, quan trọng hàng đầu đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Đây là biện pháp tốt nhất, tích cực nhất để giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao trình độ lý luận chính trị, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, thấm nhuần lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối quan điểm, chính sách của Đảng, Pháp luật Nhà nước, tình hình thực tiễn của địa phương và đất nước; kịp thời nhận diện, phòng ngừa và ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, nhân dân hiện nay.

 


TỈNH TÁO, NHẬN DIỆN ĐÚNG CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Hơn 36 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước phát triển mạnh mẽ, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt.

Thế nhưng, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn vẫn cố tình phủ nhận những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, nhất là đổi mới trên lĩnh vực chính trị, xã hội. Họ ra sức xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta trên tất cả lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại...

Thủ đoạn tinh vi, khó lường  

Về chính trị: Trước hết, họ tập trung phê phán, xuyên tạc, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền lãnh đạo đất nước, họ cho rằng, đó là “chế độ đảng trị”, độc tài, mất dân chủ. Họ còn lợi dụng cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng” để xuyên tạc rằng, đó là bằng chứng của vấn đề “Đảng đứng trên luật pháp”, “quyền lực xã hội tập trung vào một số ít cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản”, “Đảng bao biện làm thay Nhà nước”... Vấn đề Nhà nước, họ xuyên tạc rằng: “Nói là Nhà nước pháp quyền, nhưng trên thực tế, luật pháp không được tôn trọng...”; “hệ thống tổ chức, bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả”... Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, họ cho rằng: “Hoạt động chỉ là hình thức, kém hiệu quả”... Vấn đề xã hội, họ cho rằng: "Mất dân chủ, vi phạm nhân quyền...". 

Nhận diện những vấn đề trên là một hoạt động khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, các đối tượng thường sử dụng internet, mạng xã hội Facebook, YouTube, Twitter, Zalo... và các phương tiện truyền thông khác như các đài phát thanh, truyền hình VOA, RFA, BBC, RFI... để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá bằng những thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó lường. Một trong những thủ đoạn nguy hiểm nhất mà họ thường sử dụng, đó là mượn các thông tin, sự kiện có thật đã xảy ra, được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng hay được phát tán thông qua mạng xã hội để lồng ghép, biên tập, sửa chữa và thêm thắt các tình tiết ngụy tạo, bóp méo rồi được tung ra như một dạng thông tin chính thống. Sau đó, thông qua các hình thức tán phát, như bình luận theo chuyên đề, kể chuyện lịch sử, hội luận, ý kiến chuyên gia, người trong cuộc, ngoài cuộc... để xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo lịch sử, bóp méo sự thật. Cuối cùng, thông qua sự tương tác, bình luận (comment), ý kiến người đọc, người xem để định hướng dư luận theo ý đồ của họ. Với những thủ đoạn tinh vi, dàn dựng khá bài bản, có thể họ đã lừa phỉnh được một số người còn thiếu thông tin, nhận thức hạn chế, phiến diện. Thậm chí, có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên còn mơ hồ, dao động, đã cố tình hoặc vô ý cổ xúy, tiếp sức cho các luận điệu sai trái, phản động, biểu hiện của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Từ việc nhận rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đối với công cuộc đổi mới đất nước nói chung, đổi mới trên lĩnh vực chính trị-xã hội nói riêng, chúng ta thấy rằng, vấn đề chính trị-xã hội ở Việt Nam luôn là mối quan tâm, chống phá hàng đầu của các đối tượng này. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự ổn định và phát triển đất nước. Mục tiêu sâu xa của chúng là gây mất ổn định chính trị, xã hội, mất lòng tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước, tất yếu dẫn tới rối loạn chính trị-xã hội, khủng hoảng và sụp đổ, dẫn tới xóa bỏ chế độ chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, thành quả cách mạng của đất nước, nhân dân ta.

Thực tế sinh động, minh chứng thuyết phục

Thành tựu sau hơn 36 năm đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định tính đúng đắn, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mô hình phát triển đất nước do Đảng, nhân dân ta lựa chọn. Đó là, minh chứng thuyết phục nhất để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Nhìn lại lịch sử, những thành tựu đất nước đã đạt được trong công cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới chính trị-xã hội với bước đi, hình thức phù hợp “toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(1). Cho đến nay, ở Việt Nam, không có tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về năng lực điều hành, quản lý đất nước có nhiều chuyển biến mang tính đột phá. Hoạt động của Nhà nước về thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng với quyết tâm cao, hiệu quả thiết thực. Phát huy được mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; tháo gỡ nhanh, hiệu quả các điểm nghẽn, vướng mắc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu gắn với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương; thực hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển. Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và đạt kết quả tích cực.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, với phương châm “Hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”(2) đã phát huy tốt chức năng, vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, là cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Củng cố được lòng tin, sự gắn bó của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Những kết quả tích cực đó tạo ra nhiều thay đổi lớn trong đời sống xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, mở rộng hơn, người dân được thông tin, giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách ngày càng thích ứng với thông lệ quốc tế, tính nghiêm minh trong thực hiện cao hơn.

Những kết quả đó khẳng định rằng đổi mới chính trị ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trực tiếp là cơ sở để đất nước có được bước phát triển to lớn như hiện nay. Mặt khác, những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm được Đảng, Nhà nước thẳng thắn chỉ rõ, như: Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Một số hạn chế, vướng mắc chậm được giải quyết, thậm chí kéo dài trong một số nhiệm kỳ, làm cho vận hành của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong một số trường hợp thiếu thống nhất, thông suốt; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước; chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Từ đó, nhiều tiềm năng, thế mạnh của đất nước chưa được phát huy đầy đủ... những hạn chế đó không thể ngày một, ngày hai có thể khắc phục triệt để mà phải có một quá trình khắc phục kết hợp với đổi mới lâu dài, khó khăn, phức tạp. Vấn đề là Đảng, Nhà nước đã thẳng thắn nhìn nhận và khắc phục với quyết tâm cao nhất.

Từ thực tiễn thành tựu và những hạn chế về đổi mới chính trị-xã hội ở Việt Nam trong sự phát triển của đất nước cho thấy, những kết quả đạt được là cơ bản, to lớn và có ý nghĩa lịch sử, càng khẳng định con đường, mô hình phát triển đất nước là đúng hướng; những hạn chế, thiếu sót khuyết điểm không làm thay đổi bản chất, tính đúng đắn, ưu việt của chế độ chính trị, nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, là luận cứ đanh thép nhất phản bác những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị thời gian qua.


NGĂN CHẶN BỆNH SUY THOÁI TRONG THẾ HỆ TRẺ HIỆN NAY

Suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống là căn bệnh vô cùng nguy hiểm, đe dọa đến sự tồn vong của chế độ. Trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, với phương châm lấy xây để chống, phòng bệnh hơn chữa bệnh, ngăn chặn sự lây lan, phát triển của căn bệnh suy thoái trong giới trẻ đang đặt ra những yêu cầu, thách thức mới...

Thời gian gần đây, dư luận tích cực trên không gian mạng bày tỏ bức xúc trước việc nhiều đối tượng phản động lưu vong ở nước ngoài thường xuyên lên mạng xã hội tung tin xuyên tạc, nói xấu đất nước, xúc phạm danh dự lãnh đạo ĐảngNhà nước, gây rối an ninh chính trị. Điều đáng bàn ở đây là đại đa số những đối tượng phản động này đều còn trẻ. Trước khi quay lưng, phản bội Tổ quốc, họ từng là những trí thức trẻ, từng có thời gian là công chức, viên chức, công tác trong các cơ quan, đơn vị thuộc hệ thống chính trị ở một số địa phương. Do bất mãn với tổ chức, non kém về tư tưởng chính trị, bị chủ nghĩa cá nhân chi phối, họ đã bị căn bệnh suy thoái tấn công. Từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, họ đã “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, biến mình trở thành những con rối cho các thế lực thù địch ở hải ngoại giật dây. Sau khi ra nước ngoài sống lưu vong, chúng trở thành những kẻ phản bội, càng ngày càng điên cuồng thực hiện các hành vi phản quốc.

Dù chỉ là những thành phần cá biệt, nhưng thực trạng này cho thấy khi căn bệnh suy thoái trẻ hóa, mức độ nguy hiểm đối với môi trường chính trị và đời sống xã hội là vô cùng lớn. Hằng ngày, hằng giờ, chúng ra rả các luận điệu phản động trên không gian mạng làm cho một bộ phận giới trẻ trong nước bị tác động, ảnh hưởng bởi tư tưởng thù địch, dẫn đến dao động, bi quan, phai nhạt niềm tin.

Nhìn rộng ra, sâu hơn những vụ án tham nhũng lớn được đưa ra ánh sáng công lý thời gian qua, chúng ta thấy hành vi tham nhũng, suy thoái đều liên quan đến những cán bộ có chức quyền. Cán bộ có chức quyền càng to, ảnh hưởng của suy thoái càng lớn. Tuy nhiên, để đến lúc phải điều tra, xử lý thì đó là giải pháp “trị bệnh”. Làm sao để cán bộ, đảng viên không “nhúng chàm” thì phải coi trọng “phòng bệnh”, ngăn ngừa các mầm mống dẫn đến suy thoái ngay từ khi còn trẻ.

Biểu hiện phổ biến của tình trạng trẻ hóa bệnh suy thoái là sự thờ ơ, bàng quan với lợi ích dân tộc, chỉ tập trung lo kiếm tiền, không quan tâm đến các phong trào hành động cách mạng, phong trào thi đua yêu nước, không thiết tha vào Đảng. Đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trẻ thì đó là biểu hiện né tránh đấu tranh, dĩ hòa vi quý, mũ ni che tai, tư tưởng cầu an, lười học chính trị, lười nghiên cứu nghị quyết... Thực trạng này ở một bộ phận không nhỏ người trẻ đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, đó là “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”. Khi một người trẻ bị hổng kiến thức lý luận chính trị, không được bồi đắp tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đến nơi đến chốn thì đến lúc anh ta giàu lên, rất dễ trở thành những “trọc phú” thời đại mới. Khi những “trọc phú” ấy tìm cách “chui” vào hệ thống chính trị để thăng tiến thì nguy hại cho tổ chức đảng, cho vận mệnh chính trị của đất nước là rất khó lường. Thực tế đã chứng minh không ít người giàu có sau khi có chân trong hệ thống chính trị, hành vi kiểu “trọc phú” của họ đã gây ra những hệ lụy phức tạp cho tổ chức. Đối với những người trẻ “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”, từ suy thoái đạo đức, lối sống đến suy thoái tư tưởng chính trị là khoảng cách rất mong manh. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII đã nêu rõ: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc...


KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH, BÁC BỎ NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng. Tuy nhiên, thời gian qua, vẫn còn một số người có nhận thức chưa đúng, thậm chí những kẻ cơ hội, bất mãn chính trị đã phê phán, phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, chúng ta cần nhận diện, bác bỏ những luận điệu sai trái này.

Thứ nhất, cho rằng Hồ Chí Minh không phải là nhà tư tưởng.

Một số người bị dao động về lập trường tư tưởng, hùa theo luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động khi cho rằng “không có tư tưởng Hồ Chí Minh”. 

Sinh thời, tuy Chủ tịch Hồ Chí Minh khiêm tốn tự nhận mình không phải là nhà tư tưởng, nhưng trên thực tế, trong quá trình hoạt động cách mạng, tư tưởng của Người đã dần được hình thành và được bạn bè thế giới công nhận. Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”. Trong đó tiêu biểu là tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trước khi khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện thì thế giới đã thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tổ chức UNESCO khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân khát vọng của các dân tộc trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau”. Nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo, các tổ chức tiến bộ trên thế giới đã thừa nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng. Thực tiễn những thành tựu to lớn mà cách mạng Việt Nam đạt được nhờ vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh qua từng giai đoạn cách mạng đã củng cố vững chắc điều này.

Thứ hai, cố tình đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Đảng.

Một số người có nhận thức lệch lạc khi một mặt họ cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh khác và đối lập với Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất; mặt khác, họ lại “tôn vinh” tư tưởng Hồ Chí Minh và hạ thấp giá trị, vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam.

Hai quan điểm này đều không đúng cả về lịch sử và logic. Về mặt lịch sử, Chủ nghĩa Mác-Lênin chính là nguồn gốc quan trọng dẫn tới hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Về mặt logic, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất chứ không hề có sự mâu thuẫn, đối lập như suy luận, xuyên tạc của một số người.

Về quan điểm thứ nhất, một số người đã hùa theo các luận điệu xuyên tạc, nhận thức lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh. Luận điệu này đã làm dư luận hoài nghi về bản chất khoa học, cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, gây ra tâm lý hoang mang, dao động, chia rẽ sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong Đảng, làm giảm sút niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Về quan điểm thứ hai, một số người cho rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin từng có giá trị nhưng đã bị lịch sử vượt qua. Những người này còn ngụy biện rằng, cho dù chưa bị lịch sử vượt qua thì Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chỉ phù hợp với các nước phương Tây, còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam. Do đó, họ ra sức kêu gọi “chỉ cần theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bỏ qua Chủ nghĩa Mác-Lênin”.

Từ đó họ cho rằng, nên đưa Chủ nghĩa Mác-Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ nên giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ. Đây là quan điểm nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, song thực chất nhằm phủ nhận cả Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có Chủ nghĩa Mác-Lênin. Nếu tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi cội nguồn lý luận quan trọng nhất là Chủ nghĩa Mác-Lênin thì bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không còn những đặc tính khoa học, cách mạng, nhân văn như vốn có.

Bên cạnh đó, một số người đã cố tình vin vào cớ hiện nay “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” như trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã chỉ ra để thổi phồng những khuyết điểm của một số cán bộ thoái hóa, biến chất mà bỏ qua những ưu điểm mang tính bản chất của đa số cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị.

Từ đó, họ cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay cũng đã thoái hóa, biến chất, khác xa với lý tưởng, khát vọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ yêu cầu phải bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013, tức là xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đấu tranh tự phê bình và phê bình là việc làm thường xuyên, mang bản chất cách mạng của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.

Vậy mà, khi Đảng kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, loại trừ các vấn nạn trong công tác cán bộ nhằm làm trong sạch Đảng, lấy lại niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ thì một số người lại có nhận thức lệch lạc, cố tình vu khống, quy kết là Đảng ta “đấu đá nội bộ”, “đấu tranh giữa các phe phái vì quyền lực”. Họ làm ra vẻ khách quan khi dùng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh làm “hệ quy chiếu” để đánh giá, phán xét Đảng.

Danh nghĩa là họ đề cao Hồ Chí Minh nhưng thực chất lại đang hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Điều này gây hoang mang, mất niềm tin, chia rẽ nội bộ, đặc biệt, nó có thể làm một bộ phận dân chúng, thậm chí ngay cả một số ít văn nghệ sĩ, trí thức từng tin tưởng và kính trọng Hồ Chí Minh cũng có thể trở nên lung lay tư tưởng, rệu rã niềm tin vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. 

Thứ ba, phủ nhận giá trị thực tiễn và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

Một số người đã có nhận thức rất lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là “nhà dân tộc chủ nghĩa chứ không phải là nhà mác-xít”, “không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” vì tư tưởng Hồ Chí Minh không phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Những người này ra sức phủ nhận sự cần thiết và hiệu quả của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Lý do họ đưa ra là Hồ Chí Minh là bậc thánh nhân trong khi chúng ta là người bình thường; Hồ Chí Minh là người đi theo chủ nghĩa khổ hạnh trong khi chúng ta đang có cuộc sống bình thường ở thế giới hiện đại.

Thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là người theo chủ nghĩa khổ hạnh và cũng chưa bao giờ tỏ ra mình là bậc thánh nhân, mà Người luôn yêu cầu cán bộ góp ý cho mình, rằng: “Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi”.

Những người này đã cố tình không hiểu rằng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là học tinh thần tinh túy trong tư tưởng, phương pháp, phong cách của Người để vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào trong thực tiễn như sinh thời Người đã học tập, vận dụng sáng tạo thành công Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, chứ không phải học rồi “làm theo” một cách máy móc để cho giống hoặc thành một “Hồ Chí Minh thứ hai”. Do đó, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là chủ trương đúng đắn của Đảng, hợp với lòng dân và có giá trị thiết thực trong việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số rất ít nhân vật trong lịch sử đã trở thành một phần của huyền thoại ngay từ khi còn sống. Cho đến nay, tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Giá trị đó không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại; không chỉ được khẳng định trong thế kỷ 20, mà còn được thể hiện trong hiện tại và tương lai. Đấu tranh chống các nhận thức lệch lạc, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nhằm bảo vệ nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay.

Để việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự thuyết phục, chúng ta phải có cái nhìn khách quan, tôn trọng sự thật lịch sử, không được chủ quan, áp đặt, thiên kiến hoặc máy móc trong việc nhận định, đánh giá, phản bác các luận điệu xuyên tạc tư tưởng của Người. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”.


MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH VỚI CÁC ÂM MƯU THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Những âm mưu, thủ đoạn trên có thể nhận diện được nhưng để tạo sức mạnh đấu tranh có hiệu quả thì luôn cần có sự thông suốt, thống nhất tư tưởng, hành động trong toàn Đảng, tinh thần chiến đấu của từng đảng viên, sự thấu hiểu và ủng hộ của quần chúng nhân dân. Trong thời gian tới, để tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tiếp tục đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, chúng ta cần chú trọng thực hiện tốt một số giải pháp như sau:

Một là, quán triệt sâu sắc tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, tiếp tục kiên quyết, kiên trì thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu mà Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra, nhận thức rõ đây là nhiệm vụ chính trị vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài, không chỉ là công việc của các cơ quan Đảng, Nhà nước mà là của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Khẳng định vững chắc quan điểm có tính nguyên tắc, mang ý nghĩa sống còn của Đảng ta, đó là: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.   

Hai là, đặc biệt coi trọng việc kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả. Đa dạng hóa nội dung, phương thức, hình thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nhiều cấp độ, phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực và mỗi tầng lớp nhân dân. Cùng với việc nhận diện rõ các thông tin xấu, độc, xuyên tạc, cần kết hợp đấu tranh trực diện và gián tiếp để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội theo kịch bản chặt chẽ, tổ chức chiến dịch truyền thông thống nhất, đa dạng, rộng rãi, có sự phối hợp đồng bộ của nhiều lực lượng để tăng tính hiệu quả và sức lan tỏa. Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về truyền thông, báo chí, nhất là quản lý thông tin trên internet và mạng xã hội. Khẩn trương hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý các hoạt động trên không gian mạng, tạo căn cứ để cảnh báo, răn đe và xử lý các trường hợp vi phạm.

Ba là, tăng cường các giải pháp công nghệ, kỹ thuật để phát hiện sớm, ngăn chặn tận “gốc” nguồn phát tán những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch, ngăn chặn các trang mạng độc hại. Đồng thời, xây dựng mới các trang mạng, báo chí có nội dung đấu tranh của ta bám sát thực tiễn, tuyên truyền sâu rộng với lập luận sắc bén, “chắc tay”, thuyết phục về các thành tựu phát triển của đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các định hướng, nhiệm vụ chính trị, kinh tế-xã hội của đất nước, của địa phương, với phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, từng bước giành thế chủ động, làm chủ thế trận tiến công về thông tin tư tưởng, lý luận trên internet. Cán bộ, đảng viên phải thật sự nêu gương sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, trước hết. Muốn đấu tranh, trước hết phải tránh xa cám dỗ, thói hư, tật xấu, xây dựng đạo đức thực thi công vụ trong sáng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; kiên trì, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Bốn là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu để định hình, thiết lập hệ thống luận cứ, luận điểm đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chú ý nhận diện những vấn đề mà các thế lực thù địch tập trung chống phá để xây dựng luận cứ khoa học thuyết phục, phục vụ và trực tiếp đấu tranh phản bác. Tập trung bảo vệ và làm lan tỏa những nội dung mới, tầm nhìn, định hướng, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tăng cường tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận; trong đó, chú trọng bổ sung, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những vấn đề lý luận mới về: Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, quốc phòng, an ninh trong tình hình mới... Nghiên cứu trên quan điểm khách quan, khoa học những tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, tiến bộ để chắt lọc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đồng thời, nghiên cứu sâu các vấn đề quốc tế, các sự kiện gây “sốc” trên thế giới, để “mở mắt” cho các thế lực thù địch, phản động - những kẻ thường xuyên viện dẫn một cách lệch lạc, khập khiễng các vấn đề bên ngoài để bôi xấu, chỉ trích, xuyên tạc tình hình trong nước.

Năm là, gắn kết chặt chẽ yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục cán bộ, đảng viên, học viên, sinh viên, với công tác tổ chức, cán bộ, bảo vệ nội bộ, xây dựng tổ chức đảng và xây dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh. Đặc biệt đẩy mạnh công tác tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, nhất là trong giới trẻ về lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng và lịch sử Đảng, từ đó hình thành nhân sinh quan cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực phân biệt đúng - sai, khả năng miễn nhiễm trước các thông tin xấu, độc. Tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận có bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, phương pháp và kỹ năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành, có nhiệt huyết và tầm cao về lý luận; xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận, cán bộ trẻ. Tạo môi trường thuận lợi, bảo đảm điều kiện làm việc để người tài chuyên tâm, nỗ lực đóng góp vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực tìm kiếm, nhân rộng những mô hình hay, những cách làm đổi mới, sáng tạo, hiệu quả, những tấm gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến; chia sẻ kinh nghiệm tuyên truyền, đấu tranh; khen thưởng những cá nhân có thành tích xuất sắc trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

 


MỘT SỐ ÂM MƯU THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Nhận diện rõ những âm mưu, thủ đoạn, các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động tấn công vào nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có thể nói, nắm bắt những âm mưu, thủ đoạn, phương thức, hình thức chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị là nhiệm vụ đầu tiên để nhận diện rõ các đối tượng này, nhất là khi chúng là những kẻ thù giấu mặt, cơ hội chính trị, lợi dụng dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí, để từ đó, chúng ta có đối sách, phương pháp đấu tranh phù hợp, đạt hiệu quả cao. Chúng ta cần nhận diện rõ những âm mưu, thủ đoạn của chúng đó là:

Một là, các thế lực thù địch, phản động tấn công trực diện vào nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm bác bỏ, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng. Thủ đoạn mới của chúng là chuyển từ bôi nhọ bằng luận điệu “du nhập ngoại lai”, “nhập khẩu lý luận” sang đánh tráo, thay thế các khái niệm, thổi phồng cái gọi là “chủ thuyết phát triển mới”, đối lập Chủ nghĩa Mác với Chủ nghĩa Lênin, kêu gọi dùng “Chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế Chủ nghĩa Mác-Lênin mà cố tình lờ đi một sự thật hiển nhiên, rõ ràng rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cụ thể của Việt Nam. Chúng trích dẫn một cách cắt xén, nửa vời những quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đan cài gài bẫy bằng những quan điểm giả danh mác-xít, làm cho người đọc mất phương hướng, lẫn lộn, không phân biệt được đúng, sai. Chúng rêu rao rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam, giới lý luận và các nhà khoa học của ta đã dịch sai, hiểu sai quan điểm của Mác, Ph.Ăng-ghen; đồng thời, chúng diễn giải lại theo cách hiểu xuyên tạc, méo mó, hòng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cùng với việc công kích trực tiếp vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng còn đẩy mạnh tuyên truyền, cổ xúy du nhập các trào lưu tư tưởng cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan từ bên ngoài, kết hợp với kích động chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa hưởng lạc từ bên trong, nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống chính trị và xã hội.

Hai là, các thế lực thù địch, phản động phủ nhận, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và thể chế chính trị XHCN bằng các luận điệu xuyên tạc như: Đảng tự cho mình đứng trên tất cả; Đảng cầm quyền phi chính danh, không còn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Chúng xuyên tạc các sự kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam; cổ xúy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, đòi từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang; phủ nhận kinh tế thị trường định hướng XHCN, đòi tách biệt, đối lập “kinh tế thị trường” với “định hướng XHCN”. Chúng còn cho rằng chế độ hiện nay mắc “lỗi hệ thống”, đòi cải cách thể chế chính trị theo hướng đa nguyên, đa đảng, thực hiện “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây, với âm mưu không gì khác ngoài việc chống phá sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta.

Ba là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc tình hình đất nước, rêu rao cái gọi là “khủng hoảng toàn diện”, “tình thế hiểm nghèo”, khoét sâu các vấn đề xã hội, tôn giáo, dân tộc, nhân quyền, đất đai, dịch Covid-19... nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các thủ đoạn thường được chúng sử dụng là: Kích động đòi đất, đòi nơi thờ tự vô lối, đòi thực hành tôn giáo trái pháp luật; kích động giáo dân, đồng bào dân tộc thiểu số tụ tập biểu tình. Chúng kích động, “hà hơi tiếp sức” cho những kẻ nhân danh “lòng yêu nước” để biểu tình gây rối trật tự, trị an. Đặc biệt, trong thời gian qua, các đối tượng chống đối triệt để lợi dụng các vụ án phức tạp, nhạy cảm để kích động, xuyên tạc, quy kết, vu cáo Đảng, Nhà nước yếu kém, đả kích các cơ quan tư pháp, kích động “bất tuân dân sự” trong xã hội.

Bốn là, lợi dụng thông tin về những mặt hạn chế, bất cập của đất nước, các thế lực thù địch, phản động khoét sâu vào những điểm yếu kém trong thực thi công vụ của một số cơ quan, cán bộ lãnh đạo, quản lý, hòng chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, âm mưu cô lập, tách các tổ chức đảng, đảng viên ra khỏi quần chúng, hướng lái tạo ra những tư tưởng, tâm lý nghi kỵ, hẹp hòi, hành động sai trái, chống đối, bạo lực và bạo động trong cộng đồng và xã hội. Chúng ngụy tạo, tô vẽ, thổi phồng, quy kết những biểu hiện cá biệt, những khuyết điểm của một số tổ chức đảng và cá nhân đảng viên thành bản chất của Đảng cầm quyền, từ đó kích động đối lập Đảng với nhân dân, tạo sự xa cách, oán thán, thù ghét, tẩy trừ cán bộ, đảng viên.

Năm là, các thế lực thù địch, phản động tiến hành móc nối, xâm nhập vào nội bộ của ta, tìm cách phân hóa tổ chức, hòng dựng lên “ngọn cờ” tập hợp lực lượng. Chúng không ngừng tìm kiếm những phần tử thoái hóa, biến chất trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những kẻ bất mãn, cơ hội chính trị, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để tán phát tư tưởng phản động, chống phá Đảng, Nhà nước. Để tăng thêm sức lan tỏa, độ tin cậy của thông tin, chúng chú ý tập hợp, dẫn dụ những ý kiến, phát biểu gây “sốc” trái với đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước từ những đối tượng “dân túy”, tạo dựng ra cái gọi là chân dung “nhân sĩ, trí thức yêu nước”, “những cán bộ của nhân dân”... nhằm trực tiếp tuyên truyền các quan điểm, tư tưởng thù địch, sai trái.

Sáu là, các thế lực thù địch, phản động phá hoại đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trong hội nhập quốc tế của Đảng ta với các chiêu bài, như “bài”, “thoát” nước này, liên minh với nước kia, cổ xúy chủ nghĩa ly khai. Đáng chú ý, các đối tượng này triệt để lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo để tung tin thất thiệt, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Đảng và Nhà nước ta. Chúng tổ chức tán phát các “thư ngỏ”, “tuyên bố”, “kiến nghị” để lôi kéo, kích động đồng bào ta ở trong nước và nước ngoài; kêu gọi chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ, gây sức ép đối với Việt Nam về các vấn đề dân chủ, nhân quyền.


NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nội dung cơ bản, hệ trọng, có ý nghĩa sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Những năm qua, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần giữ vững, bổ sung và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không ngừng củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đặc biệt, sau khi có Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, công tác này được triển khai ngày càng bài bản, thống nhất, đồng bộ, toàn diện, quyết liệt, đi vào chiều sâu. 

Với sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã khắc phục, vượt qua được những khó khăn rất lớn, những tác động tiêu cực do dịch bệnh, thiên tai, bão lụt, hạn hán liên tiếp xảy ra. Đó là minh chứng hết sức sinh động, khẳng định tính ưu việt của chế độ ta, truyền thống đoàn kết, yêu nước, lòng nhân ái và ý chí kiên cường của nhân dân ta; càng trong khó khăn, thử thách, truyền thống và ý chí đó càng được nhân lên gấp bội, là nguồn lực và động lực to lớn, không một thế lực nào có thể ngăn cản nổi, để xây dựng Đảng ta ngày càng vững mạnh, đất nước ta tiếp tục đi lên, dân tộc ta phát triển cường thịnh, trường tồn.

Tuy nhiên, đất nước ta càng đạt được những thành tựu phát triển to lớn, các thế lực thù địch, phản động lại càng hằn học tìm mọi cách để chống phá. Lợi dụng bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó dự báo, tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, thách thức, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đi vào chiều sâu đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn rất mới, trước đây chưa từng có, các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị tăng cường chống phá chúng ta.

Chúng thay đổi phương thức, thủ đoạn chống phá, tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng một cách tinh vi và xảo quyệt hơn. Hoạt động của chúng có lúc âm thầm, lẩn khuất, có lúc công khai, trắng trợn; thường tập trung vào thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị trong nước, sự kiện đối ngoại quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, hoặc thời điểm xảy ra các vụ, việc phức tạp, nhạy cảm.

Tính chất nguy hiểm của những phương thức, thủ đoạn này ở chỗ, chúng tạo dựng nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi, hoang mang, dao động, gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm lung lay niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, tạo tâm lý bức xúc, chống đối trong xã hội. Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ ý đồ chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta, luôn toan tính tạo ra “khoảng trống” về tư tưởng, lý luận trong đời sống chính trị - xã hội của nước ta, với âm mưu cơ bản, lâu dài và rất thâm độc là xoay chuyển quỹ đạo phát triển của đất nước ta đi chệch hướng XHCN.

Các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng internet, mạng xã hội (Zalo, Facebook, TikTok…), các hình thức truyền thông mới để tuyên truyền chống phá; tán dương, cổ vũ lẫn nhau trong một “thế trận” có “kịch bản”, đánh vào nhận thức, tâm lý “đám đông” theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, “góp gió thành bão”. Chúng tận dụng tối đa hệ thống phát thanh, báo chí, xuất bản ở nước ngoài, các kênh facebook, youtube... để tung thông tin xấu, độc dưới dạng “thật như giả”, “giả như thật”…

Đặc biệt các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị càng tăng cường, ra sức nhào nặn, bóp méo thông tin, xuyên tạc, chống phá các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cùng với đó, chúng tấn công vào đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của Đảng, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược; liên tục tung tin giả về thân thế, sự nghiệp, tài sản, “sai phạm” của lãnh đạo cấp cao; xuyên tạc công tác nhân sự của Trung ương, công tác phòng, chống tham nhũng,... hòng gây bất ổn chính trị - xã hội, gây ra những khó khăn, thách thức không nhỏ cho công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.


NHỮNG TIẾNG GÀO THÉT LẠC LÕNG

Những ngày gần đây, trên mạng xã hội xuất hiện cái gọi là phim tài liệu mang tên “Việt Nam: Tiếng gào thét từ bên trong”. Với cách dàn dựng ngụy tạo, xảo trá, phim có cái nhìn hết sức sai trái, lệch lạc về tình hình thực tế ở Việt Nam. Đó quả là những tiếng gào thét lạc lõng.

Cắt ghép hình ảnh, ghán ghép những ý kiến bất đồng nhằm bóp méo sự thật

Không phải làm phim chuyên nghiệp, nhưng người được tung hô là “nhà sản xuất phim” là một người nước ngoài từng có những năm tháng ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống lại đế quốc Mỹ xâm lược và được mang quốc tịch Việt Nam. Có thể một phần do bị “nhồi nhét tư tưởng” bởi những phần tử phản động, bất đồng chính kiến, cơ hội chính trị, phần khác vì thiếu niềm tin thủy chung trọn vẹn với đất nước từng trân quý mình, nên “nhà sản xuất phim” này ngày càng có những động thái, hành vi đi ngược lại lợi ích của đại đa số người dân Việt Nam và những giá trị tốt đẹp của chế độ mà Đảng, Nhà nước, dân tộc Việt Nam đã và đang thực hiện, hướng tới.

Thật đáng tiếc cho một con người từng có suy nghĩ tiến bộ về đất nước, nhân dân Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến, thì nay lại muốn thông qua một phim tự mình sản xuất nhằm xuyên tạc tình hình thực tế ở Việt Nam. Từ đó, "nhà sản xuất phim" này hướng lái dư luận, công chúng có cái nhìn phiến diện, lệch lạc về xã hội Việt Nam hiện nay. Bởi chính người sản xuất phim đã đưa ra cái gọi là thông điệp “Cuốn phim này muốn trao lời cho những con người đang khó sống”, và “Việt Nam: Tiếng gào thét từ bên trong” là tiếng nói của những người bất đồng chính kiến và cả những dân thường cùng cực vô danh”. Trong phim được giới thiệu là “phỏng vấn nhiều nhà trí thức, văn sĩ, nghệ sĩ, luật sư, cũng như những dân oan sống vất vưởng vô gia cư, vì bị nhà nước cướp đất, những nhà lãnh đạo tôn giáo bị bịt miệng, bị khống chế” thực chất là tiếng nói của những thành phần mang nặng tư tưởng chống phá cách mạng Việt Nam từ nhiều năm nay.

Ngay sau khi phim được tung lên mạng xã hội, những đối tượng vốn thâm thù với chế độ tỏ vẻ hỉ hả, hồ hởi ra mặt và không tiếc lời nhận xét “hay, sắc sảo, phản ánh đúng tình hình thực tế ở xã hội Việt Nam hiện nay, nên rất cần cổ vũ cho mọi người cùng xem”. Trên trang gọi là “Đài phát thanh đáp lời sông núi” thì ra sức cổ súy với lời lẽ sặc mùi phản động: “Đây là bộ phim tài liệu vạch trần những thủ đoạn, âm mưu của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam nhằm hãm hại những nhà đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền và cho công bằng xã hội ở Việt Nam”. Một người mang danh luật sư sống lâu năm ở hải ngoại, có thể do thiếu thông tin hoặc có cái nhìn thiển cận nên mới “bình loạn” thế này: “Thực ra, tập phim này không mang lại tin tức gì mới về hoàn cảnh đất nước hiện nay. Nhưng cái mới là tập thể những nhân chứng là thành phần khác với những thành phần thông thường. Đó là cái hay của tập phim này. Đất nước Việt Nam vẫn đen tối, nhưng có cơ hội tiến đến tươi sáng hơn nếu chính quyền biết nhận thức ra và sớm nắm lấy cơ hội này”. Còn một đối tượng tự xưng là “nhà báo tự do” ở trong nước lại tỏ ra hoan hỉ khi cho rằng: “Tôi rất thích tựa đề của phim. Nó thể hiện sự dồn nén của những người từng một lòng tin đảng, nhưng sự thật đã làm họ phải nén chặt trong lòng cho đến khi phải thét lên trong phẫn nộ, đau đớn vì đổ vỡ niềm tin và đau đớn cho đất nước”.

Cần phải nói ngay rằng, mang tiếng là phim tài liệu, nhưng cách thức thể hiện thì nghèo nàn, hầu hết hình ảnh được cắt cúp lộ liễu, thô thiển, tua đi tua lại nhiều lần với mưu đồ xảo trá, thâm độc. Trong số hơn 30 đối tượng bày tỏ sự phẫn uất rồi “gào thét từ bên trong” thì nhiều đối tượng xuất hiện với tần suất dày, những lời “gào thét” quanh đi quẩn lại vẫn là bôi nhọ chế độ, phủ nhận tính chính nghĩa cuộc kháng chiến của quân dân ta trong thế kỷ 20, xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, thổi phồng một số vấn đề tồn tại của xã hội... và cuối cùng không quên kêu gào đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, ra lời “hiệu triệu” người dân kiên quyết đấu tranh nhằm thay đổi bản chất chế độ XHCN ở Việt Nam.


DÂN CHỦ PHẢI TRONG KHUÔN KHỔ CỦA PHÁP LUẬT

Từ khi thành lập Đảng (năm 1930) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn gắn bó với dân tộc, lãnh đạo đất nước qua những thời kỳ đấu tranh cách mạng giành độc lập, hòa bình, thống nhất, đổi mới, hội nhập. Nước ta có cơ đồ, uy tín và vị thế quốc tế như ngày nay không thể không kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của Đảng. Trong lịch sử hơn 90 năm qua, hình ảnh của Đảng Cộng sản Việt Nam và những tấm gương của đảng viên, đặc biệt là tấm gương đạo đức, tác phong và tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành hình ảnh được toàn dân yêu quý và tin tưởng. Những luận điệu xuyên tạc Đảng đứng trên Quốc hội, đứng trên Hiến pháp là hoàn toàn xằng bậy. Trong Điều 4 của Hiến pháp đã hiến định: Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo pháp luật. Các đảng viên là ĐBQH có quyền tự do dân chủ trong khuôn khổ pháp luật, có quyền biểu quyết tán thành hoặc không tán thành những dự án luật, chủ trương, chính sách, những vấn đề mà Quốc hội xin ý kiến.

Đảng và Nhà nước ta tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện quyền dân chủ, đây là quyền bình đẳng của mọi người. Tuy nhiên, không phải ai cũng tận dụng được dân chủ vì phải có trình độ nhận thức, năng lực để thực hành dân chủ. Để thực hiện đúng, đủ quyền dân chủ là một quá trình chứ không phải nói đến dân chủ thì muốn làm gì cũng được. Dân chủ phải tuân theo pháp luật, kỷ cương và sự tôn trọng lợi ích quốc gia, đặt lợi ích của mình trong tổng thể. Vì vậy, mỗi người dân phải học tập, rèn luyện, hiểu và thực hiện dân chủ theo khuôn khổ của pháp luật chứ không phải dân chủ quá trớn hay dân chủ vô chính phủ.

 


KHÔNG ĐỂ MẮC MƯU NHỮNG KẺ DÂN CHỦ RỞM

Những ngày gần đây, trước tình hình rối loạn ở Myanmar, một số phần tử tự xưng là “nhà dân chủ” trên mạng xã hội đã tung ra nhiều thông tin lôi kéo, kích động, nhắm vào giới trẻ Việt Nam. Họ ca tụng những người trẻ tuổi xuống đường biểu tình ở Myanmar với danh xưng mỹ miều như những “anh hùng trẻ tuổi”... Tuy nhiên luận điệu tung hứng đó không lôi kéo được những người Việt Nam có nhận thức đúng đắn.

Cảm thấy việc lôi kéo đó không mấy hiệu quả, họ thay đổi “chiến thuật”, quay sang cà khịa bằng những lời lẽ châm chọc, kích động, chen ngang vào các dòng trạng thái tích cực của người dùng mạng xã hội Việt Nam với nhiều bình luận, như: Người trẻ Việt Nam thiếu trách nhiệm, thờ ơ với thế sự, đang tự bằng lòng với chính mình mà bỏ mặc những biến động của tình hình thế giới...

Trước sự "cà khịa" đó, một số người đã "sập bẫy khiêu khích" của các thế lực thù địch, sa vào tranh luận gay gắt, thậm chí sử dụng những lời lẽ có phần khiếm nhã. Chỉ chờ có thế, họ lu loa rằng, chúng ta không đủ lý lẽ biện luận, phản ứng tiêu cực, tranh luận thiếu văn hóa. Thậm chí họ còn giở trò "rạch mặt ăn vạ" quy kết người dùng mạng xã hội ở Việt Nam công kích, tấn công, trù dập tập thể...

Do đó, mỗi người Việt Nam yêu nước, yêu chuộng hòa bình bên cạnh một "trái tim nóng" cần phải giữ "cái đầu lạnh", tỉnh táo trước thủ đoạn của các phần tử cơ hội, chuyên đi tìm cớ nhằm xuyên tạc, kích động người khác. Khi đấu tranh với những kẻ đội lốt dân chủ phải luôn tỉnh táo, kiên quyết, sắc bén, đúng mực. Tuyệt đối không để mắc mưu những kẻ dân chủ rởm.


NHỮNG KẺ TỰ XƯNG LÀ NGƯỜI YÊU NƯỚC

Lâu nay, khi nhắc đến cái tên gọi “Hội anh em dân chủ” thoạt đầu người ta cứ nghĩ đó là những người dân chủ một cách tiến bộ và thực sự phấn đấu vì xã hội thật sự dân chủ, công bằng, văn minh và bảo vệ dân chủ, bảo vệ con người. Nhưng sự thật đâu phải như vậy, ngược lại “Hội anh em dân chủ” thực chất không phải là những người yêu nước, không phải là người bảo vệ dân chủ, mà chỉ là những kẻ chống Đảng, chống chế độ, hoặc là những người vì một lý do nào đó có thể đã từng là cán bộ nhưng đã bị suy thoái, biến chất, bị các thế lực thù địch mua chuộc, lôi kéo, nuôi dưỡng mà cấu kết với các thế lực thù địch, phản động, rắp tâm chống Đảng, chống Nhà nước và nhân dân ta. Hành vi của những người thuộc “Hội anh em dân chủ” tiến hành các hoạt động chống Đảng, chống chế độ Việt Nam: Đã lâu nay, “Hội anh em dân chủ” thường xuyên tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo, lừa dối về sự thật việc bảo đảm dân chủ, nhân quyền, thực hiện quyền dân chủ, tự do của công dân của Đảng, Nhà nước ta, nhằm gây mất lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, đồng thời, luôn kích động những người nhẹ dạ, cả tin, bất mãn chống lại Đảng, Nhà nước ta, gây mất ổn định an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, để đi đến chống đối và lật đổ chế độ ở Việt Nam.. Đặc biệt trong mấy ngày gần đây sau khi Quốc Hội khóa phê chẩn và công bố các thành viên của Chính phủ thì “Hội anh em dân chủ” lại lớn tiếng xuyên tạc cho rằng bầu cử ở Việt Nam là thiếu dân chủ, là hình thức… Hành vi vi phạm của “Hội anh em dân chủ” là quá rõ ràng không có gì có thể che đậy./.