Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024
NHẬN DIỆN VÀ PHẢN BÁC MỘT SỐ QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY!
Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử” – Bài 1: “Mặt trời chói lọi” và quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của Đảng Cộng sản Liên Xô
Trong những năm “cải tổ” ở Liên Xô (1985-1991) lan truyền luận điệu Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, do đó cần xóa bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) để “sửa chữa sai lầm lịch sử” đó!?
Luận điệu này là một trong những biểu hiện tập trung của quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế lịch sử chứng minh Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”.
Nhân kỷ niệm 107 năm Ngày Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1917 / 7-11-2024), chúng ta cùng nhìn lại vai trò, ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng vĩ đại và nguyên nhân nội tại, có ý nghĩa quyết định dẫn tới sự tan rã Liên Xô, những bài học vẫn nguyên tính thời sự đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam hiện nay.
Hơn 30 năm kể từ khi Liên Xô – cường quốc XHCN đầu tiên trên thế giới sụp đổ, đã có hàng nghìn công trình nghiên cứu, chuyên khảo, hồi ký, chuyên luận và điều tra đi tìm lời giải về thảm họa địa-chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20 này. Tựu trung trong nhiều nghiên cứu chỉ ra, một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn tới thảm họa này là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng Cộng sản Liên Xô.
Cuộc cách mạng mở đầu một thời đại mới
Nói về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Không thể phủ nhận sự thật lịch sử là nhà nước Xô viết ra đời từ cuộc Cách mạng Tháng Mười đã đạt được những thành tựu kỳ vĩ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Đảng Cộng sản Liên Xô có lịch sử vô cùng oanh liệt và vẻ vang.
Được V.I.Lênin sáng lập và rèn luyện, Đảng đã từng là một trong những đảng mác-xít, lê-nin-nít hùng mạnh nhất và kiên cường nhất. Đảng đã từng lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, đánh thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, xây dựng những cơ sở vật chất – kỹ thuật quan trọng của CNXH, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử nhân loại. Đó thật sự là những công việc kinh thiên động địa, những sự tích thần kỳ, được cả loài người tiến bộ cảm phục và kính trọng”.
Cách mạng Tháng Mười như một cơn địa chấn của thế kỷ 20, không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới đối với nước Nga mà còn cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân các nước, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ cũ, xây dựng chế độ mới tốt đẹp hơn. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và tiếp đó là thắng lợi của nhân dân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, CNXH từ một nước đã phát triển thành một hệ thống XHCN thế giới đầy sức sống và hùng mạnh, có vai trò to lớn và từng có tính chất quyết định đến vận mệnh, sự phát triển của thế giới.
Hệ thống XHCN, đứng đầu là Liên Xô đã có những giai đoạn phát triển rực rỡ, đã đoàn kết các dân tộc, mọi tầng lớp nhân dân chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp, bình đẳng, công bằng, mang lại hạnh phúc cho đông đảo nhân dân lao động. Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười và sự giúp đỡ, tác động của hệ thống XHCN thế giới, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 70 của thế kỷ 20, hàng loạt dân tộc thuộc địa và lệ thuộc đã đứng lên giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân.
Cho nên có thể nói, Cách mạng Tháng Mười Nga mang tầm ảnh hưởng quốc tế to lớn, tính thời đại sâu sắc, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.
“Cải tổ 1.0, 2.0” và hành trình dẫn đến tan rã Liên Xô
Liên Xô sụp đổ là thảm họa địa-chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20. Nhiều kẻ cơ hội, phản động được thể xuyên tạc những giá trị lịch sử của nhà nước xã hội đầu tiên trên thế giới được mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Từ việc coi Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, họ phủ nhận những giá trị nhân văn, tốt đẹp của CNXH, đánh đồng sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu với sự thất bại của Chủ nghĩa Mác-Lênin và rêu rao cuộc cách mạng đó là “đẻ non”, “đã chết” và CNXH đã đến “hồi kết thúc”… Tuy nhiên, từ thực tiễn, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để bác bỏ những luận điệu trên. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu là sụp đổ của mô hình cụ thể chứ không phải sụp đổ hay cáo chung của Chủ nghĩa Mác-Lênin, của CNXH như các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao, xuyên tạc. Ở khía cạnh cụ thể trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin luận giải một số nguyên nhân nội tại của quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có ý nghĩa quyết định đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô tới chỗ tan rã và cường quốc XHCN sụp đổ.
Sai lầm về đường lối chính trị
Ngay sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin từng cảnh báo: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền khó hơn”. Vì thế, V.I.Lênin luôn yêu cầu phải kiên quyết và kịp thời đấu tranh ngăn chặn mọi biểu hiện suy thoái về chính trị trong Đảng. Trong những năm dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin và J.Stalin, Đảng Cộng sản Liên Xô đã tiến hành hiệu quả cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên, sau khi J.Stalin qua đời (1953), quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đường lối chính trị trong Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu bộc lộ biểu hiện rất nguy hiểm.
Trong bản báo cáo mật bên lề Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô khóa XX (1956) đã có chủ trương “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận những thành tựu vĩ đại của Liên Xô trong những năm sau Cách mạng Tháng Mười và trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945). Nếu không được các đảng viên trung kiên trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngăn chặn, chủ trương này có thể đưa Liên Xô tới chỗ tan rã. Chính vì thế, giới nghiên cứu lịch sử ở Nga cho rằng chủ trương “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin là “cải tổ 1.0”, tuy chưa dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô nhưng đã để lại “di chứng” nặng nề và đã phát tác trong giai đoạn “cải tổ 2.0” thập niên 1980 được khởi xướng bởi M.Gorbachyov trên cương vị Tổng Bí thư và A.Yakovlev trên cương vị Trưởng ban Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Về sau, chính M.Gorbachyov và A.Yakovlev công khai thừa nhận mục tiêu hướng tới của “cải tổ” là xóa bỏ Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Liên Xô.
Sai lầm trong công tác cán bộ của Đảng
Đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô do V.I.Lênin đề xướng dựa trên các nguyên tắc kết hợp việc tuyển chọn cán bộ có đức, có tài với công tác kiểm tra quá trình thực hiện công tác của cán bộ. V.I.Lênin chủ trương “tin tưởng là tốt, nhưng kiểm tra vẫn tốt hơn”. Kiểm tra nhằm kịp thời cảnh báo và ngăn chặn quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Các thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô sau này đã không tuân theo di huấn của Lênin, vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc trong công tác cán bộ của Đảng. Một là, nặng về hình thức trong đào tạo cán bộ theo kiểu “thầy đọc, trò chép và học thuộc lòng”. Vì thế, kiến thức lý luận về Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ nằm trên sách vở mà không được vận dụng vào thực tiễn. Nhiều cán bộ tuy được cấp bằng hoặc chứng chỉ nhưng năng lực lãnh đạo kém, không có khả năng dự phòng và bảo vệ, thậm chí vô cảm trước quá trình diệt vong của Đảng. Hai là, khi tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ thường xuất phát từ tình cảm cá nhân, yêu-ghét chủ quan, cố ý nâng đỡ những kẻ thân tín, bè phái. Ba là, công tác đánh giá cán bộ trở thành công cụ để thực hiện ý đồ của cá nhân người lãnh đạo chứ không nhằm mục đích chọn cán bộ tốt.
Vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
V.I.Lênin là người đề ra nguyên tắc tập trung dân chủ để xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Theo nguyên tắc này, thiểu số phục tùng đa số, bộ phận phục tùng tập thể và các cơ quan lãnh đạo cấp dưới phục tùng cơ quan lãnh đạo cấp trên. V.I.Lênin cho rằng, nếu không có tập trung, Đảng sẽ trở thành một “câu lạc bộ” lộn xộn, còn nếu xa rời dân chủ, Đảng sẽ trở thành một tổ chức quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. V.I.Lênin đã nhiều lần cảnh báo sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ là hiểm họa đe dọa sự sống còn của Đảng và chế độ XHCN.
Các thế hệ lãnh đạo sau này, nhất là M.Gorbachyov đã xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, lạm dụng quyền lực để loại bỏ những cán bộ trung thành và kiên định với lý tưởng XHCN, bổ nhiệm những kẻ ủng hộ chủ trương “cải tổ” sai lầm của ông. Về sau, chính A.Yakovlev thừa nhận, M.Gorbachyov sử dụng “cơ chế toàn trị” để phá hoại Đảng Cộng sản Liên Xô.
Sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống
Sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống trong Đảng Cộng sản Liên Xô trở nên đặc biệt nghiêm trọng trong thời kỳ L.Brezhnev và M.Gorbachyov cầm quyền với những biểu hiện rất đa dạng như tham quyền cố vị; bệnh thành tích, thích được khen thưởng và hưởng lạc; giả dối; tham ô… Biểu hiện điển hình nhất về bệnh thành tích là L.Brezhnev. Tính tổng cộng, L.Brezhnev đã nhận 114 huân chương, trong đó có 8 Huân chương Lênin; 2 Huân chương Sao Đỏ, Huân chương Chiến thắng; 2 Huân chương Cách mạng Tháng Mười… Do không đáp ứng các tiêu chuẩn được nhận, những huân chương dành cho L.Brezhnev đã gây phản ứng rất tiêu cực trong xã hội, làm mất uy tín không chỉ trong mà cả ngoài Đảng.
Trong Đảng hình thành tầng lớp đặc quyền, đặc lợi. Ở Liên Xô thời đó tồn tại hệ thống cửa hàng đặc biệt dành cho cá nhân và gia đình các thành viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng-nơi họ có thể mua bất cứ thứ hàng hóa xa xỉ nào được nhập khẩu từ phương Tây. Vì thế, nhân dân coi lãnh đạo cấp cao trong Đảng như là một “giai cấp mới” trong xã hội Xô viết, tạo hố ngăn cách ngày càng lớn giữa Đảng và nhân dân. Sự tha hóa, biến chất trong Đảng lên tới đỉnh điểm trong giai đoạn “cải tổ”, trong đó lợi dụng những khe hở của pháp luật trong quá trình tư nhân hóa, các tầng lớp đặc quyền, đặc lợi trong bộ máy lãnh đạo Đảng và quản lý nhà nước mặc sức tham nhũng, vơ vét của công, dẫn tới bước ngoặt căn bản là thúc đẩy quá trình tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xô viết.
Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử” – Bài 2: Những điều căn cốt, thời sự
Như đã luận giải ở bài viết trước, trong các nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô thì xét đến cùng là do nguyên nhân chủ quan quyết định. Sự sụp đổ đó là của mô hình cụ thể, chứ tuyệt nhiên không phải sự sụp đổ hay cáo chung của chủ nghĩa xã hội (CNXH) như thế lực thù địch, phản động thường xuyên tạc. Nhận diện đầy đủ và đúng bản chất vấn đề này là những điều có ý nghĩa căn cốt và thời sự với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng của Việt Nam hiện nay.
Trong bài viết với tiêu đề “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 1992, GS, TS Nguyễn Phú Trọng (từ năm 2011 đến tháng 7-2024 là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã chỉ ra nguyên nhân có ý nghĩa quyết định làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô là quá trình “vận động” của chính đảng này. Về sau, Đảng ta khái quát quá trình “vận động” này và gọi đó là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được thể hiện trên nhiều bình diện.
Theo GS, TS Nguyễn Phú Trọng, có 3 biểu hiện của sự “vận động” đó. Một là, không xác lập đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Hai là, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Ba là, coi nhẹ hoặc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng sản. Bốn là, xa rời quần chúng, mất uy tín nghiêm trọng trước nhân dân, không được nhân dân ủng hộ. Năm là, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thổi lên ngọn lửa kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi.
Từ thực tiễn và lý luận cơ bản được Đảng ta tổng kết trong nhiều văn kiện, chúng ta có thể rút ra những bài học lớn với Việt Nam từ quá trình “tự diễn biến” trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô dẫn tới hậu quả tan rã Liên bang Xô viết-cường quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu tiên trên thế giới, như sau:
Thứ nhất, Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”. Từ khẳng định này, Đảng ta kiên định và quyết tâm đưa Việt Nam tiếp tục phát triển đi lên CNXH trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với quyết tâm chính trị đó, Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng ta đã thông qua đường lối đổi mới đất nước. Tiếp đến, Đại hội lần thứ VII (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, thể hiện lập trường kiên định của Đảng ta về mục tiêu và định hướng phát triển đi lên CNXH ở Việt Nam. Đường lối đổi mới của Đảng ta được thông qua tại Đại hội lần thứ VI trên cơ sở kế thừa sáng tạo Chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin với nội dung cốt lõi là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thành công của gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Việt Nam kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng chứng tỏ giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười, mở ra kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) phát triển đi lên CNXH.
Thứ hai, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Ở Liên Xô, trong giai đoạn “cải tổ” đã đồng nhất việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường với việc xóa bỏ chế độ XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Còn Đảng ta vận dụng chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin để phát triển kinh tế thị trường nhằm giải phóng nguồn lực và phát triển sức sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đảng ta cho rằng, việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học và phát triển, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Trên cơ sở đó, Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng ở Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ba là, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, coi đó là yếu tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng ta về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã xác định rõ, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng ở nước ta. Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam đã được xác định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013.
Bốn là, kiên quyết và kiên trì đấu tranh nhằm ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kết hợp với việc cảnh giác và làm thất bại âm mưu“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Rút kinh nghiệm từ tác động phá hoại hết sức nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch kết hợp với quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Đảng ta đặc biệt chú ý đấu tranh ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã sớm cảnh báo hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời. Từ giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta tiếp tục cảnh báo tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển, là hiểm họa đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ XHCN. Với quyết tâm chính trị cao và các giải pháp đồng bộ, Đảng ta đã bước đầu ngăn chặn được hiểm họa này.
Tổng kết thành tựu và kinh nghiệm 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 30-10-2016, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nghị quyết đã chỉ rõ nguyên nhân, biểu hiện và biện pháp phòng, chống hiểm họa này.
Trong số các nguyên nhân, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ nguyên nhân khách quan do tác động từ khủng hoảng của CNXH trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị trường; tác động tiêu cực từ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường XHCN trong bối cảnh quốc tế hiện nay; các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”.
Trong số các nguyên nhân chủ quan, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả; một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát thực tiễn; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu; cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở; chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ; việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm; chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng; việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.
Nghị quyết số 04-NQ/TW đã chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết xác định phải thực hiện nghiêm các yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được đề ra tại Đại hội XII với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.
Đến nay, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã đạt nhiều kết quả rất quan trọng, góp phần đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới với khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng cùng những mục tiêu lớn lao vào thời điểm trọng đại kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (2030) và 100 năm thành lập nước (2045), xây dựng thành công nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Với thành tựu trong công cuộc đổi mới và từng bước đạt được các mục tiêu cao cả, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định giá trị bất biến của Cách mạng Tháng Mười là mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên toàn thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo.
TỪ THIẾU ÚY ĐẾN ĐẠI TÁ CHƯA CHẮC ĐÃ MUA ĐƯỢC NHÀ"
Quốc hội hôm nay thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Một trong những nội dung thu hút sự tranh luận của nhiều đại biểu là quy định về phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
Tại khoản 12 Điều 1, dự thảo luật quy định: Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về sĩ quan, chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh lập kế hoạch phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng, trình Thủ tướng phê duyệt và tổ chức thực hiện.
Đại biểu Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp) đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu lại quy định trên vì không phù hợp với Luật Nhà ở.
Điều 102 Luật Nhà ở về phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân quy định: Bộ trưởng Quốc phòng, Công an có trách nhiệm xác định nhu cầu nhà ở đối với các đối tượng trong ngành và gửi UBND cấp tỉnh để tổng hợp trong kế hoạch phát triển của tỉnh.
Ngoài ra, ông Hòa cũng đề nghị dự thảo luật nên thống nhất với Luật Đất đai về “đất để phát triển nhà ở xã hội”; “đất để phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang” không nên quy định khác.
“Về việc tách nhà ở xã hội riêng cho lực lượng vũ trang, tôi thấy không cần thiết, không phù hợp, không đúng theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật”, ông Hòa lưu ý.
Đại biểu Nguyễn Minh Hoàng (TPHCM) cho biết đã nghiên cứu rất kỹ Luật Nhà ở và dự luật này. Nếu điều chỉnh, bổ sung theo hướng thống nhất với Bộ Quốc phòng về quỹ đất và bàn giao quỹ đất cho Bộ hoặc thống nhất xây dựng nhà ở cho quân đội trên đất quốc phòng sẽ phù hợp.
Ông nêu thực tế hiện chưa có tỉnh thành nào làm nhà ở cho sĩ quan quân đội, chỉ cài xen vào trong nhà ở xã hội của địa phương nhưng cũng rất hạn chế.
“Lương cơ bản của sĩ quan cao hơn mức quy định về thu nhập của đối tượng được mua nhà ở xã hội, nhưng đời sống sĩ quan vẫn còn rất khổ, rất khó. Từ thiếu úy cho đến đại tá chưa chắc đã mua được nhà. Nếu không có chính sách đặc biệt ưu đãi về nhà ở thì không thu hút được những người có điều kiện phát triển vào quân đội”, ông Hoàng phân tích./.
Việt Tân lại ‘ếch ngồi đáy giếng’ xuyên tạc về nhập khẩu điện
Mới đây, tổ chức khủng bố Việt Tân đã “ếch ngồi đáy giếng”, đưa ra thông tin xuyên tạc về nhập khẩu điện nhằm mục đích xấu, cố tình gây hiểu lầm trong dư luận.
Việt Tân cố tình xuyên tạc các chính sách của Nhà nước về phát triển năng lượng tái tạo và hợp tác quốc tế trong việc cung cấp điện.
Hai luận điệu chính của tổ chức khủng bố này là việc Việt Nam nhập khẩu điện từ Lào và Trung Quốc trong khi điện trong nước dư thừa. Đồng thời tổ chức này còn chỉ trích Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) khi nhập khẩu điện từ hai nước láng giềng nhưng lại mua điện mặt trời của người dân với “giá 0 đồng”.

Đầu tiên, về vấn đề nhập khẩu điện, Việt Tân cho rằng Việt Nam mua điện từ Lào và Trung Quốc trong khi có tiềm năng điện mặt trời, điện gió và điện gió ngoài khơi dồi dào. Tuy nhiên, sự thật là Việt Nam nhập khẩu một lượng điện rất nhỏ từ các nước láng giềng, chủ yếu là do sự hợp tác giữa các Chính phủ trong khu vực. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường (Việt Nam là một nền kinh tế thị trường) thì việc xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ, trong đó có điện năng là chuyện hết sức bình thường. Việc nhập khẩu điện rẻ hơn chi phí đầu tư tại chỗ sẽ góp phần giảm áp lực cho nguồn tài chính của quốc gia; góp phần giữ vững giá năng lượng trong nước và đương nhiên người dân sẽ không phải chịu chi phí mua điện quá cao, cùng nhiều lợi ích khác…
Về sản lượng điện nhập khẩu, tính trung bình hàng năm khoảng 2% là một con số quá nhỏ. Vào tháng 5/2023, ông Đặng Hoàng An (Thứ trưởng Bộ Công Thương thời điểm đó) đã có những phân tích rất chi tiết cụ thể về vấn đề này. Theo ông, sản lượng điện nhập khẩu từ Lào chỉ khoảng 7 triệu kWh/ngày, từ Trung Quốc khoảng 4 triệu kWh/ngày, con số này hoàn toàn không đáng kể so với mức tiêu thụ hàng ngày của miền Bắc, khoảng 450 triệu kWh.
Trên thực tế, trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, nguồn điện nhập khẩu hiện nay là phần để mở rộng hợp tác quốc tế và cơ bản dựa trên mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia láng giềng, đây cũng là một phần trong cam kết kết nối mạng lưới điện các nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng. Thậm chí, trong tương lai, xuất nhập khẩu điện của Việt Nam sẽ còn được mở rộng vì tại Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN, các nước đã đặt vấn đề kết nối mạng lưới điện liên thông ASEAN.
Hơn nữa, việc mua điện từ các quốc gia láng giềng là một phần trong chiến lược mở rộng hợp tác khu vực và xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng xuyên biên giới. Việt Nam đã thực hiện các thỏa thuận với Lào và Trung Quốc từ nhiều năm nay, và nguồn điện này giúp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đặc biệt trong các mùa cao điểm hoặc khi có sự cố trong hệ thống điện nội địa. Thậm chí, Việt Nam còn xuất khẩu điện sang Campuchia, cho thấy nguồn cung điện không chỉ phụ thuộc vào nhập khẩu mà còn có khả năng cung cấp cho các nước trong khu vực.
Về cáo buộc mua điện mặt trời từ người dân với giá 0 đồng, đây là một sự xuyên tạc trắng trợn. Thực tế, Chính phủ đã quy định rất rõ về cơ chế phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ, và việc mua điện dư từ người dân được thực hiện theo các chính sách hợp pháp. Theo Nghị định số 135/2024/NĐ-CP, được chính phủ ban hành và đã có hiệu lực từ ngày 22/10/2024, việc mua bán điện mặt trời giữa EVN và người dân được quy định chặt chẽ với mức giá hợp lý, không phải “0 đồng” như tổ chức Việt Tân cáo buộc. Các chính sách này không chỉ khuyến khích người dân phát triển năng lượng tái tạo mà còn giúp giảm thiểu lãng phí nguồn năng lượng dư thừa.
Điều quan trọng là Nghị định này khuyến khích người dân lắp đặt hệ thống điện mặt trời mái nhà và cho phép bán lượng điện dư lên lưới quốc gia, với mức giới hạn 20% công suất lắp đặt thực tế. Mức giá mua bán điện được căn cứ theo giá điện thị trường, phù hợp với tình hình phát triển của hệ thống điện quốc gia. EVN là đơn vị mua điện dư này, không phải vì lợi nhuận, mà vì đây là một nhiệm vụ được quy định trong chính sách của Nhà nước, nhằm bảo vệ quyền lợi của người dân và thúc đẩy sự phát triển bền vững của năng lượng tái tạo.
Chính sách này thực tế cũng không chỉ đơn thuần khuyến khích lắp đặt điện mặt trời mái nhà mà còn bao gồm các ưu đãi về thuế và giảm thiểu thủ tục hành chính, giúp người dân dễ dàng tham gia vào thị trường năng lượng tái tạo.
Đưa ra những quan điểm sai trái, thiếu hiểu biết kiểu “ếch ngồi đáy giếng”, Việt Tân đã cố tình dựng lên những câu chuyện sai sự thật, cố tình gây chia rẽ, với mục đích xấu. Thực tế, Bộ Công Thương và EVN đã có những giải pháp phù hợp, kịp thời, góp phần quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng. Những luận điệu sai trái của Việt Tân không chỉ thiếu cơ sở mà còn đi ngược lại lợi ích của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Chiêu trò tuyệt thực không thể đánh lừa dư luận
Thời gian qua, trên một số trang mạng xã hội, blog, fanpage và đài báo nước ngoài như BBC Tiếng Việt, RFA, VOA, RFI… đưa ra nhiều bài viết về cái gọi là “tuyệt thực” của các đối tượng Bùi Văn Thuận, Đặng Đình Bách, Trịnh Bá Tư – những phạm nhân đang thụ án tù giam tại Trại giam Số 6, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Đi liền với đó là những thông tin mang tính bịa đặt, vu khống về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam với mưu đồ lôi kéo sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế nhằm đưa ra các đòi hỏi, yêu sách phi lý.
Tuyệt thực, chiêu trò đã cũ
“Tuyệt thực” là một trong những chiêu trò cũ mèm của các đối tượng chống phá nhắm vào một số phạm nhân đang chấp hành án tại trại giam nhằm xuyên tạc, bịa đặt tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là chiêu trò giúp cho các đối tượng trên đánh bóng tên tuổi, thổi phồng sự việc đi kèm với những đòi hỏi, yêu sách phi lý đến từ các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài và số chống đối ở trong nước.
Sẽ chẳng phải là những cái tên xa lạ bởi những trường hợp ấy đã được báo chí, dư luận nhắc đến nhiều lần, mỗi lần “tuyệt thực” gắn với thời điểm, mục đích cụ thể.
Dù đây là thủ đoạn cũ rích nhưng khi sử dụng, việc thông tin về các đối tượng “tuyệt thực” của các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng chống đối thời gian qua cho thấy, đây không phải là chiêu trò bột phát và diễn ra một cách ngẫu nhiên mà nó được tính toán hết sức cẩn thận, có sự suy tính, ý đồ rất rõ ràng.
Thật không khó để nhận ra một quy trình, đó là các lần “tuyệt thực” đều diễn ra theo một tiến trình chung.
Ban đầu, thông qua việc thăm gặp người nhà, các đối tượng đang chấp hành án sẽ rêu rao thông tin bản thân mình đang tiến hành tuyệt thực trong trại giam. Sau đó, người nhà của các đối tượng này trở thành cầu nối lan truyền thông tin đến những báo, đài, cũng như những cá nhân, tổ chức phản động, chống đối. Thậm chí, để tăng thêm phần tin cậy, các trang tin còn thêm thắt các thông tin bịa đặt rằng “nguồn tin giấu tên từ trại giam”, “nguồn tin tin cậy từ gia đình”, qua đó tô vẽ những đối tượng phạm tội như những “người hùng” đấu tranh vì dân chủ, sẵn sàng tuyệt thực để phản đối bản án, phản đối “bị tra tấn, đàn áp nhân quyền”!
Về việc các đối tượng tuyệt thực được nhắc đến thời gian qua gồm Bùi Văn Thuận, Đặng Đình Bách và Trịnh Bá Tư, đây đều là những đối tượng phạm tội, bị toà tuyên án tù và đang thi hành án tại Trại giam số 6, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Để chính trị hoá vụ việc, đi liền với thông tin về việc các đối tượng trên tuyệt thực là hoạt động gắn mác quen thuộc với những cái tên mỹ miều như “tù nhân lương tâm”, “đàn áp tiếng nói bất đồng”, “đấu tranh đòi tự do dân chủ”…
Mục đích chính của việc gắn mác trên nhằm biến các đối tượng phạm tội thành những “ngọn cờ” đấu tranh cho cái gọi là dân chủ, nhân quyền, từ đó hậu thuẫn, kích động các đối tượng chống phá trong nước, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời tạo cớ cho các tổ chức nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Đây là một âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động nhằm đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế; cổ xúy, hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối, phá hoại công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Dù chiêu trò “tuyệt thực” trước đây đã từng được các đối tượng như Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh và nhiều đối tượng khác áp dụng và đã bị vạch trần là những chiêu trò giả tạo cũng như bị chính số các đối tượng chống đối ở nước ngoài quay lưng nhưng sau một thời gian, dường như đã cạn “vốn liếng”, chiêu trò này lại tái diễn. Mục đích nhằm chính trị hoá các hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội để từ đó tạo điều kiện cho việc nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, bôi nhọ tình hình tự do, dân chủ, nhân quyền trong nước. Đồng thời, việc rêu rao tuyệt thực nhằm cổ xúy các đối tượng chống đối, cơ hội chính trị trong nước, kích động số này tiến hành các hoạt động chống phá từ bên trong.

Sự thật phía sau chiêu trò tuyệt thực
Quyền con người là những quyền tự nhiên và xã hội mà không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, chăm lo và thực hiện về quyền con người theo quy định pháp luật. Ngay cả trong lĩnh vực thi hành án phạt tù, phạm nhân cũng luôn được Nhà nước bảo đảm thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp; được công nhận và thụ hưởng các chế độ của Nhà nước dành cho phạm nhân chấp hành án phạt tù, phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Điều này đã được quy định rõ trong Hiến pháp năm 2013, hệ thống các văn bản pháp lý như Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Luật Thi hành án hình sự năm 2019…
Các quyền cơ bản của phạm nhân được bảo đảm như quyền được ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế, nhận quà hay bưu phẩm, gặp thân nhân, tiếp xúc lãnh sự, người đại diện hợp pháp để thực hiện giao dịch dân sự…, giúp họ yên tâm cải tạo, tu dưỡng và đặc xá chính là sự động viên cao nhất nếu họ cải tạo tốt, thực sự hướng thiện, hoàn lương.
Hiện nay, ở Việt Nam hoàn toàn không có cái gọi là “tù nhân lương tâm” mà chỉ có những đối tượng phạm tội bị cơ quan chức năng truy tố, xử lý theo đúng quy định. “Tù nhân lương tâm” về bản chất là sự đánh tráo khái niệm nhằm cổ súy cho những kẻ đột lốt dân chủ, lợi dụng dân chủ để chống phá đất nước, phải chấp hành hình phạt tù. Đây là một âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động nhằm đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế; cổ súy, hậu thuẫn, hỗ trợ cho số đối tượng chống đối, phá hoại công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Liên quan vấn đề này, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần nêu rõ: Ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”, không có việc những người vì tự do bày tỏ chính kiến mà bị bắt giữ. Như tại các quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo đúng các quy định của pháp luật. Bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam, được thực hiện phù hợp với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam cũng như các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người được cộng đồng quốc tế ghi nhận rộng rãi.
Chính vì vậy, khi bị kết án và chấp hành hình phạt tù, nếu không “tuyệt thực”, không có các hành động chống phá thì tên tuổi của những đối tượng mang trên mình chiếc áo “tù nhân lương tâm” cũng sẽ nhanh chóng bị lãng quên. Do không thể từ bỏ những lợi ích nên dù bị kết án phạt tù, các đối tượng vẫn tìm mọi cách để tiến hành các hành động chống đối nhằm thu hút sự chú ý từ các cá nhân, tổ chức cũng như các thế lực phản động ở bên ngoài.
Ngoài ra, có thể thấy rằng, do bộ mặt thật của các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài và số đối tượng chống đối đã bị vạch trần nên rất nhiều người từng bị các đối tượng trên lừa gạt tham gia các hoạt động vi phạm pháp luật đã tỉnh ngộ. Sau khi được cơ quan chức năng tuyên truyền, họ đã hiểu việc làm sai trái của mình để hối cải cũng như góp phần vạch trần bộ mặt thật của các tổ chức trên.
Bên cạnh đó, trong thời gian chấp hành án phạt tù, họ cũng nghiêm chỉnh chấp hành các nội quy, quy định để sớm quay trở về với gia đình, hoà nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, với chiêu trò xuyên tạc của các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài và số đối tượng chống đối ở trong nước về các đối tượng trên cũng nhằm mục đích chặn con đường hoàn lương sau khi chấp hành xong án phạt tù và thúc ép các đối tượng đó thực hiện các hoạt động chống đối đến cùng, cho dù họ có muốn hay không.
Thực tế, chiêu bài “tuyệt thực” từ lâu đã bị bóc trần bởi các đối tượng như Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu cày)… Thậm chí ngoài chiêu bài tuyệt thực, các đối tượng còn đưa ra những thông tin giật gân như “Nguyễn Văn Hải bị chặt tay trong thời gian chấp hành án phạt tù”… Sự thật được phơi bày như việc đối tượng Cù Huy Hà Vũ dù kêu tuyệt thực song vẫn khoẻ mạnh, ăn uống bình thường và còn được tiếp nhận thực phẩm tiếp tế từ gia đình khá đầy đủ hay đối tượng Nguyễn Văn Hải từng kêu bị chặt đứt tay nhưng khi được sang Mỹ, mọi người tiếp xúc thì thấy tay chân vẫn vẹn nguyên.
Rõ ràng, trò hề “tuyệt thực” cho thấy sự tuyệt vọng của các đối tượng chống phá khi mà bộ mặt giả dối đã bị vạch trần và bị chính người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài quay lưng.
Thực tế là, dù điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn nỗ lực để bảo đảm quyền con người, bao gồm cả việc bảo đảm các quyền con người của phạm nhân trong thi hành án hình sự. Những quy định này được đề cập cụ thể trong các luật, nghị định, được áp dụng trực tiếp, linh hoạt vào đời sống theo hướng có lợi cho phạm nhân. Từ năm 2009 đến nay, Chủ tịch nước đã quyết định thực hiện 9 đợt đặc xá tha tù trước thời hạn cho trên 92.000 phạm nhân.
Để người được đặc xá trở về sớm hoà nhập với cộng đồng, các địa phương tiếp nhận người được đặc xá đã chủ động có nhiều chính sách hỗ trợ, đặc biệt là các hoạt động hỗ trợ sinh kế (vay vốn, tạo việc làm). Năm 2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 22/2023/QĐ-TTD ngày 17/8/2023 về tín dụng đối với người chấp hành xong án phạt tù nhằm tạo điều kiện giúp những người lầm lỗi có nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống. Đây là cơ chế tín dụng đầu tiên dành riêng cho 2 nhóm đối tượng được vay vốn gồm người chấp hành xong án phạt tù và người được đặc xá, cơ sở sản xuất kinh doanh có sử dụng lao động là người chấp hành xong án phạt tù.
Tính đến thời điểm hiện tại đã có hơn 6.000 người chấp hành xong án phạt tù, người được đặc xá nhận được vốn vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội với số tiền trên 500 tỉ đồng để đầu tư phát triển sản xuất, phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống. Trong những năm qua, đa số người được đặc xá trở về nơi cư trú, ổn định cuộc sống. Nhiều người trong số họ đã trở thành doanh nhân khá giả, tích cực tham gia các hoạt động xã hội ở địa phương.
Vì vậy, những thông tin minh bạch, những hành động thiết thực đã trực tiếp bác bỏ các thông tin sai sự thật của một số cá nhân, tổ chức vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, phân biệt, đối xử đối với đối tượng bị giam giữ. Đây cũng là lời cảnh tỉnh cho những ai đã, đang nghĩ đến chiêu trò “tuyệt thực” hay được gán nhãn hiệu “tù nhân lương tâm” cần dừng lại, thay vì tiếp tục lừa mị dư luận, hãy tỉnh ngộ, hối cải, tập trung cải tạo tốt để sớm hoàn lương, xây dựng lại cuộc sống.
CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN “CHUYỂN HÓA” thế HỆ TRẺ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH!
Đổi mới tư duy xây dựng thể chế, kiến tạo không gian mới phát triển
Ngày 12-11, tiếp tục Kỳ họp thứ tám, dưới sự chủ trì và điều hành của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội tiếp tục tiến hành phiên chất vấn và trả lời chất vấn.
Nâng cao vai trò của báo chí chính thống; bảo đảm nguồn thu cho các cơ quan báo chí; giải pháp tạo đột phá cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế… là những vấn đề được nhiều đại biểu quan tâm. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các thành viên Chính phủ đã trả lời làm rõ nhiều vấn đề được đại biểu nêu. Phần trả lời của Thủ tướng đã khép lại hai ngày chất vấn và trả lời chất vấn của kỳ họp lần này.
Tập trung đầu tư cho 6 cơ quan báo chí chủ lực
Chất vấn Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, nhiều đại biểu đặt vấn đề báo chí cần làm gì để cạnh tranh được với mạng xã hội? Giải quyết bài toán cạnh tranh giữa quảng cáo trên nền tảng mạng xã hội, quảng cáo trực tuyến làm giảm nguồn thu báo chí truyền thống; trách nhiệm về những tồn tại của hoạt động quảng cáo trên môi trường mạng… Đại biểu Tạ Thị Yên (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Điện Biên) đặt câu hỏi: Làm thế nào để báo chí truyền thống có thể cạnh tranh và tồn tại, làm tốt vai trò người lính xung kích trên mặt trận văn hóa, tư tưởng?
Trả lời vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết: Trong nhiều năm nay, báo chí tập trung vào đưa tin nhưng giờ đây mạng xã hội đưa tin nhanh hơn. Vì thế, báo chí muốn giữ vững trận địa của mình phải làm khác mạng xã hội, quay về với những giá trị cốt lõi của báo chí với tin xác thực, chính xác, khách quan, có trách nhiệm giải trình, đạo đức nghề nghiệp. Thay vì đưa tin thì cần phân tích, đánh giá, thay vì bình luận thì đưa ra giải pháp, thay vì đưa tin thì kể câu chuyện… để dẫn dắt, định hướng xã hội.
Cho rằng, các cơ quan báo chí cũng mong muốn được tự chủ tài chính, nhưng sau đó mạng xã hội xuất hiện, 80% quảng cáo trực tuyến, như vậy nguồn thu của báo chí, nhất là các cơ quan báo chí tự chủ tài chính đã giảm đáng kể. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, câu hỏi đặt ra lúc này là ứng xử thế nào khi số lượng cơ quan báo chí tăng, song nguồn thu lại giảm? Về giải pháp, Bộ trưởng cho biết, trong chỉ thị Thủ tướng Chính phủ ban hành về truyền thông chính sách có yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp phải coi truyền thông là việc của mình. Bên cạnh kế hoạch đưa thông tin, các bộ, ngành, địa phương cũng cần bố trí ngân sách hằng năm để chi cho truyền thông chính sách và đặt hàng báo chí.
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng thông tin thêm, trong dự án sửa đổi Luật Báo chí sắp tới, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ xây dựng chính sách về kinh tế báo chí. Quy định này cho phép một số cơ quan báo chí lớn được kinh doanh về nội dung, lĩnh vực truyền thông. Bộ trưởng cũng rất mong Quốc hội ủng hộ giao cho Chính phủ xây dựng một cơ chế đặc thù về kinh tế báo chí cho cơ quan báo chí chủ lực.
Đặc biệt, trong quy hoạch báo chí, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng thông tin, có nội dung rất quan trọng là Nhà nước tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho 6 cơ quan báo chí chủ lực (Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân-PV) để trở thành sức mạnh truyền thông với những điều kiện, cơ chế đặc thù.
Nên coi mạng xã hội là đối tượng hợp tác nhiều hơn là đối tượng cạnh tranh
Đề cập tới mối quan hệ của báo chí và mạng xã hội, đại biểu Hoàng Đức Thắng (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị) đề nghị Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết có cần sự hợp tác giữa báo chí và các nhà mạng xã hội trong quan hệ kinh tế, quảng cáo theo hướng cùng chia sẻ lợi ích hay không? Nếu có thì cần hành lang pháp lý như nào để thực hiện hiệu quả mối quan hệ này?
Trả lời câu hỏi này, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng ghi nhận đây là câu hỏi rất hay; đồng thời đặt vấn đề: Thay vì cạnh tranh thì mình có hợp tác được không? “Tôi nghĩ trong thế giới bây giờ đây là cách tốt nhất, không chỉ riêng trong lĩnh vực này mà trong nhiều lĩnh vực”, Bộ trưởng bày tỏ.
Nêu rõ hơn, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng thông tin, hiện nay, việc hợp tác giữa báo chí với mạng xã hội có hai nội dung đang được tiến hành. Một là hầu hết cơ quan báo chí đều có tài khoản hoặc có trang trên mạng xã hội. Sắp tới khi sửa Luật Báo chí, có thể xem xét trình Quốc hội theo hướng này: Trước đây cứ phải đăng tin trên báo trước rồi mới được phép đưa thông tin đó ra các tài khoản của cơ quan báo chí trên mạng xã hội. Giờ thì có thể xem xét cho xuất hiện trước trên mạng xã hội. Trong Nghị định số 147/2024/NĐ-CP về Quản lý, cung cấp, sử dụng internet và thông tin trên mạng vừa được ký ban hành đã bổ sung quy định các nền tảng mạng xã hội khi sử dụng sản phẩm báo chí phải thỏa thuận với cơ quan báo chí. Có những quốc gia yêu cầu các nền tảng xã hội chia sẻ doanh thu với cơ quan báo chí, nếu không thỏa thuận được con số, cơ quan nhà nước sẽ vào cuộc. “Tới đây, khi sửa Luật Báo chí thì quy định việc này, có nghĩa rằng nên coi mạng xã hội là một đối tượng hợp tác nhiều hơn là một đối tượng cạnh tranh”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh.
Làm rõ một số vấn đề liên quan được nêu tại phiên chất vấn, Phó thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc nhấn mạnh, báo chí cách mạng đã chủ động đẩy mạnh tuyên truyền về xây dựng Đảng, phát triển kinh tế-xã hội, văn hóa, lịch sử, tạo sự đồng thuận và niềm tin cho xã hội, định hướng dư luận và nêu gương người tốt, việc tốt, tôn vinh những tấm gương để xã hội học tập. Để báo chí phát triển trong thời gian tới, cần phải hoàn thiện pháp luật báo chí và pháp luật có liên quan; tăng cường đào tạo và tập huấn để theo kịp với công nghệ, yếu tố của thời đại; siết lại tiêu chí, tôn chỉ, mục đích của báo và tạp chí hiện nay; đổi mới, tăng cường cơ chế tài chính cho cơ quan báo chí, trong đó có chính sách thuế…
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát
Chiều 12-11, sau phần trả lời chất vấn của các thành viên Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đăng đàn làm rõ một số vấn đề đại biểu nêu; trả lời chất vấn trực tiếp của đại biểu Quốc hội.
Đại biểu Mai Thị Phương Hoa (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Nam Định) đề nghị Thủ tướng thông tin về giải pháp đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương? Đại biểu Nguyễn Thị Yến (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) đặt vấn đề: Thời gian tới, Thủ tướng chọn vấn đề gì là điểm nhấn quan trọng? Trả lời đại biểu, Thủ tướng cho biết, phân cấp, phân quyền là vấn đề lớn, đã được thảo luận nhiều lần, được triển khai trong thực tiễn. Trong nhiệm kỳ này, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành 14 luật, 9 nghị quyết liên quan, bổ sung, thay thế 27 nghị định. Tuy nhiên, vẫn còn một số vướng mắc, tập trung chủ yếu ở Trung ương.
Đưa ra giải pháp về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, Thủ tướng cho rằng, cần rà soát lại các quy định của pháp luật; thể chế các quy định của Đảng; rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan. Cụ thể là Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương… “Chúng ta sẽ rà soát, tính toán lại phân cấp, phân quyền, đi kèm tăng cường giám sát, kiểm tra, phân bổ nguồn lực”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Giải đáp câu hỏi của đại biểu Nguyễn Thị Yến, Thủ tướng cho biết, trong cải cách thể chế thì trọng tâm cải cách là phân cấp, phân quyền. “Ưu tiên hiện nay của nước ta chính là tăng trưởng. Ưu tiên cho tăng trưởng thì phải tháo gỡ thể chế để huy động mọi nguồn lực của Nhà nước, của nhân dân, xã hội, nguồn lực hợp tác công tư, nguồn lực đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp”, Thủ tướng thông tin.
Liên quan đến xây dựng thể chế cho quản lý các hoạt động trên không gian mạng, Thủ tướng bày tỏ sự đồng tình với phần trả lời của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, trong đó nhấn mạnh quan điểm: Bây giờ không gian thực như thế nào thì không gian ảo như thế; chúng ta quản lý ở đời thực thế nào thì quản lý trên không gian mạng như thế. Cần bỏ tư duy không quản lý được thì cấm. “Tức là tinh thần xây dựng thể chế phải vừa phục vụ cho việc quản lý nhưng vừa mở ra không gian đổi mới, sáng tạo, khuyến khích mọi người dân, mọi doanh nghiệp, mọi chủ thể luôn luôn phải đổi mới, sáng tạo. Đổi mới để bay cao và sáng tạo để vươn xa, hội nhập để chúng ta tiến lên”, Thủ tướng khẳng định.
Nói đi đôi với làm và làm ngay
Phát biểu bế mạc phiên chất vấn và trả lời chất vấn, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh, sau hai ngày làm việc nghiêm túc và trách nhiệm cao, Quốc hội đã hoàn thành toàn bộ chương trình phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XV đối với 3 nhóm vấn đề thuộc trách nhiệm chính của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đánh giá, các bộ trưởng, trưởng ngành đã thể hiện trách nhiệm cao, nắm chắc chức năng, nhiệm vụ và thực trạng của ngành, lĩnh vực phụ trách, trả lời rõ nhiều vấn đề khó, phức tạp, thẳng thắn, không né tránh, giải trình làm rõ nhiều vấn đề đại biểu Quốc hội nêu; đồng thời đề ra nhiều giải pháp khắc phục hạn chế trong thời gian tới.
Nhấn mạnh phiên chất vấn đã thành công tốt đẹp với những cam kết mạnh mẽ trong chỉ đạo, quản lý, điều hành, Chủ tịch Quốc hội đề nghị các bộ trưởng, trưởng ngành với tinh thần “nói đi đôi với làm và làm ngay”, phát huy những kết quả đạt được, khẩn trương khắc phục những hạn chế, vướng mắc, có giải pháp mới để thực hiện hiệu quả hơn các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.


