Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

THAY ĐỔI CÁCH ĐÁNH, ĐIỀU KỲ DIỆU

 Kéo pháo vào: Ha…i ba nào! Ha…i ba nào! Sau mỗi lần hô, cả khối người nắm chặt dây tời, choãi chân, rạp mình xuống kéo.

Cuộc kéo pháo bằng tay bắt đầu từ tối 15-1-1954, gần 5.000 cán bộ, chiến sĩ công binh và bộ binh ta đã hoàn thành một con đường rộng 3m, dài gần 15km, bắt đầu từ cửa rừng bản Nà Nhạn bên đường 41, xuyên rừng rậm, vượt núi cao, qua đỉnh Pu Pha Sông cao ngất, rồi đổ xuống vực Nậm Kho Hu sâu thẳm, vươn tới Bắc Bản Tấu trên đường Điện Biên - Lai Châu.
Chủ trương kéo pháo bằng tay nằm trong kế hoạch tác chiến của Bộ Chỉ huy chiến dịch (bộ phận đi trước), theo phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh", với quyết tâm tiêu diệt cứ điểm Trần Đình - mật danh Điện Biên Phủ trong 3 đêm, 2 ngày.
Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng chiến dịch lên đường từ Việt Bắc ngày 5 đến 12-1-1954 mới tới Sở chỉ huy lâm thời ở hang Thẩm Púa. Sau khi nghe Tham mưu trưởng Chiến dịch Hoàng Văn Thái báo cáo kế hoạch, Đại tướng cảm thấy vô cùng phân vân, vì nó hoàn toàn khác với suy tính của Đại tướng trước đó. Trong bản báo cáo ngày 6-12-1953 gửi Bộ Chính trị, Đại tướng ước tính thời gian tác chiến ở Điện Biên Phủ phải mất khoảng 45 ngày, chưa kể thời gian tập trung bộ đội và thời gian làm công tác chuẩn bị.
Tất cả các đơn vị từ cán bộ đến chiến sĩ đều quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ để nhanh chóng đưa pháo vào trận địa. Nhưng 1 đêm rồi 2 đêm, cho đến đêm thứ 10, thay vì 3 đêm theo kế hoạch, chỉ có 2 đại đội lựu pháo 105mm và 2 đại đội cao pháo 37mm (một phần ba lực lượng) vào được đến nơi, nép mình trong những công sự dã chiến, 16 khẩu pháo còn lại, gồm 8 khẩu 37mm và 8 khẩu 105mm vẫn còn đang nằm rải rác trên đường kéo pháo.
Chiều hôm ấy, 25-1-1954, toàn mặt trận sẵn sàng chờ lệnh nổ súng. Bỗng như sét đánh ngang tai, một mệnh lệnh được ban xuống từ Sở Chỉ huy Mặt trận: "Hoãn tiến công! Kéo pháo ra, về vị trí cũ!".
Kéo pháo ra
Trưa ngày 26-1-1954, tại Sở chỉ huy Tiểu đoàn pháo cao xạ 383, thực chất là một cái bàn nhỏ, kê tạm bên một gốc cây ven rừng, trên đặt một máy điện thoại tay quay và một cuốn sổ ghi điện. Tôi đang làm nhiệm vụ trực ban (hồi ấy tôi là sĩ quan tham mưu tiểu đoàn) bỗng có tiếng chuông điện thoại reo. Nhấc máy, tôi nghe giọng nói quen thuộc của anh Bích, Trung đoàn phó Trung đoàn pháo cao xạ 367, phụ trách chỉ huy lực lượng tiền phương trung đoàn:
- A lô! Tôi Thành đây! Cho tôi gặp đồng chí Bích (Thành là bí danh của Tham mưu trưởng Mặt trận Hoàng Văn Thái).
- Báo cáo anh Thành, tôi Bích đây ạ!
- Anh Bích chú ý! Có lệnh hoãn cuộc tiến công. Cho kéo pháo về vị trí cũ. Lệnh này phải được chấp hành như một mệnh lệnh chiến đấu... Tin đột ngột ấy được truyền nhanh xuống tận chiến sĩ, gây nên một cú choáng trong đơn vị chúng tôi. Nhiều anh em yên lặng, thẫn thờ. Cũng có người bộc trực nói thẳng: "Biết bao gian khổ mới đưa pháo được đến đây. Thế mà bây giờ lại không đánh nữa, kéo pháo ra"... Tuy nhiên, điều kỳ diệu sau đó đã diễn ra trên đường kéo pháo. Các bí thư họp ngay chi bộ Đảng bàn cách lãnh đạo, sau đó phổ biến cấp tốc kế hoạch cho cán bộ, chiến sĩ. Lòng tin tuyệt đối vào cấp trên, kỷ luật tự giác của đội quân cách mạng đã thắng. Tất cả mọi vướng mắc tạm dẹp sang một bên. Đơn vị triển khai ngay công tác chuẩn bị... Tất cả 48 khẩu pháo nhất loạt quay đầu. Đơn vị nào vào sau thì ra trước. Đơn vị vào trước thì ra sau.
Tờ mờ sáng 6-2-1954 (mồng 4 Tết Giáp Ngọ), tại khu rừng thưa gần km 62 đường Tuần Giáo - Điện Biên, đông đảo cán bộ 2 Trung đoàn Tất Thắng và Hương Thủy vui mừng đón Đại tướng, Tổng tư lệnh đến thăm. Đại tướng nhiệt liệt khen ngợi đơn vị công binh, pháo binh, bộ binh đã bảo vệ an toàn, nguyên vẹn 24 khẩu lựu pháo và 24 khẩu cao pháo, tài sản quý giá của quân đội ta.
Về lý do tại sao phải kéo pháo ra, Đại tướng giải thích ngắn gọn, đó là để tiếp tục chuẩn bị lại cho đầy đủ hơn, bảo đảm đánh chắc thắng. Sau khi chuyển lời chúc Tết của Bác Hồ, của Trung ương Đảng, Chính phủ đến cán bộ, chiến sĩ, Đại tướng căn dặn: "Các đồng chí phải tiếp tục giữ bí mật binh chủng đến cùng, phải hết sức tiết kiệm đạn, phải đoàn kết hợp đồng với đơn vị bạn thật tốt, cán bộ phải thương yêu chiến sĩ, đồng cam cộng khổ với anh em"... Mọi người lắng nghe như nuốt từng lời của Tổng tư lệnh, mọi tư tưởng đã hoàn toàn thông suốt...
"Bộ óc bậc thầy"
Như trên đã nói, chấp nhận kế hoạch giải phóng Điện Biên Phủ trong 3 đêm 2 ngày của bộ phận đi trước là ngoài dự kiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông cảm thấy hoàn toàn không yên tâm và thấy rằng cách "đánh nhanh" là rất khó thắng...
Trên tinh thần quyết đoán của người chỉ huy và lãnh đạo cao nhất, Đại tướng quyết định hoãn cuộc tiến công để họp Đảng ủy. Đêm hôm đó, như sau này ông kể lại, Đại tướng gần như thức trắng. Đồng chí quân y sĩ phải đi tìm lá ngải cứu đắp lên trán cho Đại tướng đỡ nhức đầu...
Mệnh lệnh hoãn cuộc tiến công được chuyển ngay xuống các đại đoàn. Riêng Đại đoàn 308, được Đại tướng trực tiếp trao nhiệm vụ: "Tiến quân ngay sang hướng Luang Prabang. Dọc đường gặp địch thì tùy điều kiện cụ thể mà đánh, phối hợp chặt chẽ với quân, dân nước bạn. Giữ vững liên lạc. Có lệnh là trở về ngay!".
Một lá thư "hỏa tốc" được gửi lên Bộ Chính trị và Bác Hồ. Mấy ngày sau có điện "tối khẩn" trả lời: "Bộ Chính trị, Bác chấp thuận đề nghị của Đảng ủy Mặt trận. Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ huy động toàn lực chi viện cho Điện Biên Phủ đánh thắng".
"Quân lệnh như sơn", mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy được tất cả bộ đội trên toàn mặt trận chấp hành triệt để, trong đó có nhiệm vụ kéo pháo ra của các đơn vị pháo cao xạ chúng tôi.
Đã có lần, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Báo Quân đội nhân dân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tâm sự: "Quyết định thay đổi cách đánh hồi đó là ấn tượng sâu sắc nhất đời tôi, không chỉ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ mà còn trong suốt cuộc đời chỉ huy của tôi nữa".
John F.Kennedy, luật gia Mỹ, Tổng Biên tập Tạp chí Georges đã có bài đăng trên tạp chí này ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp là "bộ óc bậc thầy".
Georges Boudarel, nhà sử học nổi tiếng của nước Pháp cùng với tác giả Francois Caivgléoli trong bài "Tướng Giáp suýt thất bại ở Điện Biên Phủ như thế nào?" đã có câu nhận xét: "Bằng quyết định thay đổi cách đánh, tướng Giáp đã tự đặt mình trên đường thắng lợi"...

 TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM ĐIỆN ĐÀM VỚI TỔNG THỐNG ĐẮC CỬ HOA KỲ DONALD TRUMP

Tối 11/11/2024, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã điện đàm với Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Donald Trump.

Tổng Bí thư Tô Lâm chúc mừng ông Donald Trump đã được bầu là Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ và đánh giá cao những đóng góp của Tổng thống đắc cử trong quá trình phát triển của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.

Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi với Tổng thống đắc cử Donald Trump về những kết quả tích cực của quan hệ Đối tác chiến lược Toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ trong thời gian qua. Việt Nam sẵn sàng thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển ổn định, lâu dài vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững của khu vực và trên thế giới.

Tổng Bí thư Tô Lâm cũng trao đổi với Tổng thống đắc cử Donald Trump về một số phương hướng lớn nhằm tăng cường quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước trong các lĩnh vực hai bên có thế mạnh và nhu cầu.

Tổng thống đắc cử Donald Trump vui mừng một lần nữa có dịp trao đổi với Tổng Bí thư và chuyển lời chào đến nhân dân Việt Nam. Ông Donald Trump cũng bày tỏ vui mừng về sự phát triển tốt đẹp của quan hệ hai nước, khẳng định sự coi trọng quan hệ với Việt Nam và hợp tác kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ, đề cập một số lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại mà Hoa Kỳ quan tâm và mong muốn thúc đẩy. Tổng thống đắc cử Donald Trump tin tưởng rằng quan hệ hữu nghị giữa hai nước sẽ tiếp tục phát triển. Ông chia sẻ những ấn tượng tốt đẹp về nhân dân Việt Nam, nhắc lại kỷ niệm với đất nước, con người Việt Nam qua 2 chuyến thăm trước đây.

Ông Donald Trump cũng đánh giá cao những đóng góp của cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ.

Nhân dịp này, Tổng Bí thư Tô Lâm mời Tổng thống đắc cử Donald Trump thăm lại Việt Nam. Tổng thống đắc cử Donald Trump vui vẻ nhận lời và mời Tổng Bí thư Tô Lâm sang thăm lại Hoa Kỳ vào thời gian thích hợp.

 CHA ÔNG TA, HỌ ĐÃ TỪNG HY SINH NHIỀU ĐẾN THẾ...

Những chiếc bi đông chi chít lỗ đạn, những đôi dép cao su đã từng băng qua trăm ngàn cây số trên tuyến đường Trường Sơn hùng vĩ.

Tất thảy những thứ đó, chúng đã từng bị vùi sâu trong lòng đất cùng với những năm tháng chiến tranh khói lửa.

Chẳng ai trong chúng ta, những con người được sinh ra và lớn lên khi đất nước đã hòa bình, độc lập, lại có thể thấu hiểu hết những đau thương của cha ông ta ngày trước. 

" Cứng như sắt đá, mềm như thịt da", đến những miếng kim loại bền chắc là thế còn không chịu được sức công phá của mưa bom bão đạn, huống chi là những con người bằng xương, bằng thịt. 

Ấy vậy mà, mặc cho những hiểm nguy phía trước, họ vẫn dũng cảm tiến lên để ngăn bước quân thù.

Đất nước giờ đây đã được độc lập, có những người con đã mãi không thể trở lại nơi quê hương xứ sở, có những người mẹ mòn mỏi chờ tin con suốt bao năm tháng, có những mối tình dở dang và cả trăm ngàn nỗi nhớ.

Để hôm nay, đứng dưới là cờ đỏ tung bay trong nắng, chúng ta có thể tự hào rằng dân tộc ta, cha ông ta đã từng vĩ đại đến thế nào...

KẾT QUẢ VIỆC NHẬN DIỆN CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRONG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 Những năm qua, sự phủ định, xuyên tạc của các thế lực thù địch về những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gây ảnh hưởng lớn đến vai trò nền tảng tư tưởng của Đảng và đe dọa sự tồn vong của chế độ XHCN ở nước ta. Trên cơ sở phân tích âm mưu, thủ đoạn, cách thức xuyên tạc của các thế lực thù địch, những thành tựu và hạn chế của việc nhận diện các thế lực thù địch chống phá xuyên tạc các giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bài viết đề xuất giải pháp đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng kịp thời, hiệu quả.

1. Mở đầu

Nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng, xóa bỏ chế độ XHCN, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, thủ đoạn của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt và khó nhận diện. Một trong những nội dung chúng tập trung xuyên tạc đó là những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự chống phá thâm độc của các thế lực thù địch gây ảnh hưởng tới vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Vì vậy, việc chỉ rõ, nhận diện đúng những thủ đoạn, cách thức mà các thế lực thù địch, phản động sử dụng để phủ nhận những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó nhận rõ những thành tựu, hạn chế trong công tác này để có những biện pháp phù hợp, hiệu quả bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù địch có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

2. Khái niệm nhận diện các thế lực thù địch trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng về những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Hiện nay ở nước ta có nhiều cách hiểu về “các thế lực thù địch”. “Các thế lực thù địch” được hiểu là cá nhân, tổ chức có âm mưu, hành vi gây tổn hại đến chủ quyền, lãnh thổ và các lĩnh vực khác của Việt Nam, trái với những quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế; có âm mưu, hành động chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN; gây ảnh hưởng đến lợi ích đất nước, nhân dân. Hay, “Các thế lực thù địch là tất cả những ai, cá nhân hay tổ chức, Nhà nước hay phi chính phủ, hợp pháp hay bất hợp pháp, ở trong nước hay ở ngoài nước, người Việt Nam hay người nước ngoài... với mục đích chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có hoạt động chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị đều là thành phần của “các thế lực thù địch”…

Như vậy, “các thế lực thù địch” là cá nhân, nhóm người, tổ chức có xu hướng đối nghịch, chống phá, kìm hãm, cản trở sự phát triển của Việt Nam, có âm mưu, hành vi gây tổn hại đến chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc và nhân dân nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.

Trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, “các thế lực thù địch” có thể là cá nhân, nhóm người, tổ chức chính phủ hay phi chính phủ, hợp pháp hay bất hợp pháp, ở trong nước hay ngoài nước… có âm mưu, thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng; xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng; có âm mưu và hành động đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân tộc nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN.

Nhận diện các thế lực thù địch trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng về những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay là việc nhận thức đúng, hiểu rõ về đặc điểm, bản chất, âm mưu, thủ đoạn, luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc, phản biện những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tìm ra những biện pháp đấu tranh phù hợp, để phản bác một cách thuyết phục những quan điểm sai trái, thù địch; để chiến thắng, hoặc khuất phục, cảm hóa họ trở thành lực lượng của ta, hoặc có những giải pháp buộc họ phải tôn trọng, thừa nhận giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên những điều kiện có tính nguyên tắc.

“Các thế lực thù địch” trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng về những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cá nhân, tổ chức (ở trong nước hay nước ngoài), quốc gia - dân tộc có sự đối lập về hệ tư tưởng, thù địch về chính trị, có cái nhìn cực đoan, phiến diện, sai lệch về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với nghĩa này, các thế lực thù địch bao gồm cả những người có ý thức hệ đối lập với chủ nghĩa Mác ở các nước tư bản. Trong đó có một số đối tượng là người gốc Việt sống lưu vong ở nước ngoài; và một bộ phận sinh sống trong nước hoạt động một cách “bí mật”, hoặc núp bóng dưới danh nghĩa tri thức (luật sư, nghệ sĩ…). Một số khác từng là những cán bộ, trí thức nhưng do nhận thức sai lệch, hoặc bị mua chuộc, lôi kéo, bị xuống cấp về đạo đức, thoái hóa, biến chất dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bị “tha hóa” về ý thức chính trị, lập trường tư tưởng, đạo đức cách mạng và trở thành những kẻ “phản bội” Đảng, đất nước và nhân dân...

3. Thực trạng nhận diện các thế lực thù địch trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Về hiệu quả nhận diện

Thứ nhất, chúng ta đã nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn, luận điệu công kích, xuyên tạc, bài xích của các thế lực thù địch

Đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, trước hết, các thế lực thù địch ra xuyên tạc, cho rằng những lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là lý luận về CNXH: đã lỗi thời và là sai lầm. Bởi, theo chúng, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX với điều kiện kinh tế - xã hội ở Châu Âu nên không còn phù hợp với thời đại hiện nay, nhất là ở Việt Nam..;

Hai là, các thế lực thù địch phủ nhận thế giới quan triết học duy vật biện chứng, phép biện chứng duy vật, phủ nhận quan điểm duy vật về lịch sử, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, cho rằng lịch sử không hề có quy luật và con người không thể nắm bắt được quy luật xã hội, nên lý giải về sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là sai lầm và con đường đi lên CNXH không phải là tất yếu lịch sử; phủ nhận quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời đại hiện nay, cho rằng thời đại ngày nay không còn đấu tranh giai cấp và quan điểm về chuyên chính vô sản của Lênin là bạo lực, cực đoan và sai lầm; “quy chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan”…;

Ba là, chúng đưa ra những quan điểm xuyên tạc về CNXH khoa học, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, như: chúng cho rằng CNXH khoa học chỉ là ảo tưởng; giai cấp công nhân không có vai trò là giai cấp tiên phong, lãnh đạo, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chỉ là “mị dân”; rằng CNXH là sai lầm của lịch sử, CNXH đã cáo chung, và Việt Nam lựa chọn con đường đi lên CNXH là sai lầm, là đi theo vết xe đổ của Liên Xô…;

Bốn là, chúng phủ nhận các giá trị của kinh tế chính trị học Mác - Lênin, như phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư, cho rằng giai cấp tư sản không bóc lột giai cấp công nhân; học thuyết giá trị thặng dư không còn phù hợp trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; rằng bóc lột giá trị thặng dư làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng và CNTB chưa giãy chết; rằng lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác cũng đã lỗi thời vì máy móc, tự động hóa đã làm thay đổi tính chất quan hệ giữa lao động quá khứ và lao động sống…

Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch tập trung chĩa mũi nhọn xuyên tạc công lao, cuộc đời, sự nghiệp của Người nhằm bôi nhọ hình ảnh của một lãnh tụ vĩ đại trong đời sống tinh thần, tư tưởng của nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Chúng cho rằng Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam là khiên cưỡng, là không phù hợp, là một “sai lầm của lịch sử”. Hoặc, chúng đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; xuyên tạc rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản; thậm chí, chúng quy kết rằng Người “có tội với lịch sử dân tộc bởi chính Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên tiếp nhận và phất cao ngọn cờ giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản”; rằng “Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin với thuyết đấu tranh giai cấp đã gây ra cảnh “nồi da nấu thịt” suốt mấy chục năm” cho dân tộc Việt Nam; rằng Hồ Chí Minh không phải là nhà tư tưởng, nhà văn hóa kiệt xuất; phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH…

Thứ hai, chúng ta đã nhận diện được những cách thức hoạt động của các thế lực thù địch

Các lực lượng chuyên trách của Việt Nam đã nhận diện ngăn chặn, gỡ bỏ kịp thời nhiều nội dung phủ nhận, xuyên tạc giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những tin bài trên vlog, blog, chương trình trên các website đặt ở nước ngoài, trên các trang mạng xã hội của các tổ chức phản động, các đài phát thanh BBC, VOA tiếng Việt, Đài Á Châu tự do RFA…

Lực lượng chức năng của Việt Nam nhận diện, cấm lưu hành và thu hồi không ít các ấn phẩm như sách, truyện, hồi ký… mà các thế lực thù địch xuất bản với nội dung phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin; phủ nhận lý luận về CNXH của chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH hiện thực; ca ngợi, thổi phồng các giá trị của CNTB, coi đó là kiểu mẫu, tuyệt đối hóa những ưu điểm, cố tình bỏ qua, hoặc “làm ngơ” với những hạn chế, khuyết điểm mang tính bản chất, cố hữu của CNTB… Thí dụ, cuốn sách dịch "Đường về nô lệ" có nội dung đánh đồng CNXH ở Liên Xô với chủ nghĩa phátxít; và hai tác phẩm thể hiện rõ tư tưởng, thái độ “chống cộng” quyết liệt, đó là tiểu thuyết “Những năm tháng cuồng nộ” của Khuất Đẩu và 1984 của George Orwell (tác giả của tiểu thuyết “Trại súc vật” ám chỉ, vu cáo chủ nghĩa xã hội)…

Ngoài ra, trong nhiều cuốn sách, chúng ta đã nhận diện được nhiều luận điểm thể hiện rõ sự xuyên tạc, phủ nhận những giá trị nền tảng của tư tưởng Hồ Chí Minh, với những nội dung xuyên tạc, xúc phạm lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những từ ngữ ác ý, cay độc; các ấn phẩm, tài liệu chứa đựng những thông tin sai lệch về Hồ Chí Minh, phủ nhận tư tưởng, đạo đức, công lao, xuyên tạc đời tư của Người.

Thứ ba, chúng ta đã có những phương thức, biện pháp tích cực, chủ động xuất bản nhiều sách, báo, tạp chí, hội thảo, tọa đàm vạch trần các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch

Những năm qua, các cấp ủy Đảng, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu lý luận đã tích cực viết bài, thực hiện các đề tài, xuất bản sách nghiên cứu lý luận và tổ chức các hội thảo, tọa đàm vạch trần các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đồng thời, phát huy vai trò cán bộ, giảng viên, nhà khoa học của cơ quan, đơn vị, nhà trường, viện nghiên cứu… trong nhận diện các thế lực thù địch, đấu tranh bảo vệ những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.

Báo chí cũng là phương tiện chủ lực góp phần nhận diện các thế lực thù địch, những âm mưu, thủ đoạn chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hiện nay, hầu hết các tạp chí khoa học xã hội, lý luận chính trị, các báo đều có các chuyên trang, chuyên mục về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ các giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh… như Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Lý luận chính trị, Tạp chí Tuyên giáo, Lịch sử Đảng, Quốc phòng toàn dân; báo Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Nhân Dân, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, v.v.. thường xuyên đăng tải những bài viết có nội dung phân tích, luận giải, làm rõ những giá trị bền vững, tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với số lượng tin, bài ngày càng tăng, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị. Đây là kênh thông tin chủ lực trong việc nhận diện, chỉ rõ âm mưu, thủ đoạn, luận điệu của các thế lực thù địch phủ định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Một số khó khăn, hạn chế của việc nhận diện các thế lực thù địch

Thứ nhất, vẫn còn bị động, lúng túng, chưa kịp thời nhận diện trước một số nội dung, luận điệu xuyên tạc về những giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch

Những âm mưu, luận điệu phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuyên tạc, bác bỏ lý luận về CNXH của các thế lực thù địch rất đa dạng, phức tạp, thường ít thể hiện một cách công khai, trực tiếp mà có sự che đậy rất tinh vi, xảo quyệt, gây khó khăn trong nhận diện. Trong đó, việc “đan cài” những quan điểm đúng - sai, thật - giả, hay thổi phồng tính hợp lý của các luận điệu lên khiến nhiều người không nhận thức được hoặc nhận thức chưa đầy đủ về nội dung này.

Các thế lực thù địch thường lồng ghép, “ẩn giấu” phía sau ngôn ngữ văn học, thơ ca bằng những câu chuyện phản ánh cuộc sống bình thường, những sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội… là cách nhìn tiêu cực, phiến diện, cực đoan, định kiến và tư tưởng phản động, chống đối chế độ, phủ nhận những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH hiện thực, thổi phồng những giá trị của CNTB. Nếu không có một “nhãn quan” chính trị nhạy bén, trình độ nhận thức cao thì khó có thể nhận diện ngay được những âm mưu, thủ đoạn phản động, thù địch này. Chính vì vậy, có những tư tưởng sai trái, thù địch không được nhận diện, ngăn chặn kịp thời. Thí dụ như, cuốn sách “Đường về nô lệ” của F.A.Hayek đã “thổi phồng các mặt hạn chế của chủ nghĩa xã hội, đánh đồng CNXH ở Liên Xô với chủ nghĩa phát xít; đề cao các giá trị dân chủ của CNTB, phủ nhận hoàn toàn hệ thống triết học, chính trị, kinh tế, văn hóa của CNXH, phủ định chủ nghĩa Mác, gắn mô hình kinh tế của Liên Xô trước đây với mô hình của chủ nghĩa phát xít, cho rằng tất yếu mô hình đó sẽ dẫn đến nô lệ”.

Lại có quan điểm dựa vào những nghiên cứu về một vài hiện tượng có thực trong đời sống xã hội khiến không ít người ngộ nhận vào tính khoa học của chúng. Thí dụ, cuốn sách “Sự kết thúc của lịch sử” của F.Fukuyama cho rằng, chế độ XHCN ở Liên xô bị tan rã chứng tỏ lịch sử loài người không vận động theo các quy luật mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin tiên đoán và luận giải. Ông ta kết luận, lịch sử nhân loại đã dừng lại, CNTB là giai đoạn phát triển tột cùng của lịch sử và sẽ tồn tại vĩnh viễn. Sau khi cuốn sách của F.Fukuyama được xuất bản, hàng loạt công trình thể hiện quan điểm của nhiều trường phái tư tưởng, triết học, xã hội học tư sản hiện đại đã được công bố nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, phê phán CNXH hiện thực... Tương tự, cuốn sách “Sự đụng độ giữa các nền văn minh” của S.Huntington đã biện giải cho rằng nền văn minh phương Tây là “độc nhất vô nhị”, “vô giá”…

Ở một số nội dung, luận điệu xuyên tạc về Hồ Chí Minh, chúng ta còn không nhận diện, đấu tranh kịp thời. Chẳng hạn tháng 02-1983, các thế lực thù địch tung ra 2 bức thư được cho là của Nguyễn Tất Thành gửi đến Tổng thống nước Cộng hòa Pháp xin vào học trường Thuộc Địa năm 1911 và 1912. Trong đó xuyên tạc mục đích sang Pháp năm 1911 của Hồ Chí Minh không phải cứu nước, cứu dân mà chỉ là mưu cầu hạnh phúc cá nhân. Bức thư này xuất hiện vào năm 1983 nhưng phải đến năm 1987, mới có bài viết phản bác lại đăng trên Tạp chí Cộng sản của tác giả Đinh Xuân Lâm với nhan đề “Cần làm sáng tỏ một số điểm xung quanh lá đơn xin thôi học của Nguyễn Tất Thành”. Chúng ta chủ yếu mới nhận diện, đấu tranh với một số luận điệu trong nghiên cứu và xã hội. Còn nhiều luận điệu cần nhận diện để đấu tranh trực diện chưa được quan tâm đúng mức.

Thứ hai, phương thức tuyên truyền, cảnh báo, ngăn chặn các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đã được nhận diện còn chưa đa đạng, sâu sắc

Tuyên truyền, cảnh báo những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch để mỗi người cảnh giác, phòng ngừa và bảo vệ giá trị của các nguyên lý, học thuyết khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mới sử dụng chủ yếu phương thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến trong công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị; trên các sách lý luận; báo của Đảng; các tạp chí lý luận chính trị, khoa học xã hội và trên các website, các trang thông tin điện tử của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể… Đây chủ yếu là những kiến thức khoa học mang tính lý luận, nghiên cứu chuyên sâu, hàn lâm, đòi hỏi người đọc phải là những người có trình độ lý luận nhất định, do đó số lượng độc giả không nhiều.

Còn thiếu những sản phẩm phổ biến cảnh báo với hình thức đa dạng, đại chúng, sinh động, thu hút, bắt mắt, dễ đọc, dễ nhớ, dễ tiếp cận cho mọi tầng lớp nhân dân. Còn ít những sản phẩm dưới dạng sách thường thức; chưa có ấn phẩm dưới dạng thơ ca, clip, vlog, hình ảnh, bài viết, các “slogan” trích dẫn câu nói, tư tưởng kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh trên các trang mạng xã hội… để thu hút sự quan tâm của công chúng và dễ dàng thâm nhập rộng rãi trong đời sống của đông đảo quần chúng nhân dân.

Cách thức tuyên truyền, giáo dục, cảnh báo, phòng ngừa các thế lực thù địch; những âm mưu, thủ đoạn đã được nhận diện còn đơn điệu, thuần lý luận, kén độc giả, khó thu hút bạn đọc, hiệu quả tuyên truyền chưa cao. Do đó, lượng người đọc, tiếp cận còn rất hạn chế, dẫn tới những nội dung tri thức mà các chủ thể cần truyền tải để có thể nhận diện rõ “bạn” - “thù” cũng không đến được rộng rãi các đối tượng công chúng…

Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn bất cập, “chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung, phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới…”. Trong nhiều năm gần đây, nội dung, chương trình giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh liên tục bị rút ngắn, thậm chí có tư tưởng xem nhẹ các môn khoa học này ở các cấp học. Đảng ta chỉ rõ: “Hệ thống, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn nhiều bất hợp lý. Phương pháp giảng dạy, học tập lý luận chính trị còn lạc hậu”, chưa thoát khỏi tình trạng “tầm chương trích cú”. Nhiều nội dung còn chồng chéo, thiếu liên hệ, minh họa thực tiễn, thiếu tính thời sự, chậm cập nhật, bổ sung tri thức, những sự kiện mới, dẫn đến thiếu hấp dẫn với người học. Do đó, lập trường tư tưởng, hiểu biết chính trị, nhận thức về giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và kỹ năng nhận diện âm mưu, thủ đoạn, luận điệu và “đối tượng thù” ở nội dung này còn yếu.

4. Giải pháp nâng cao khả năng lực nhận diện các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng

Một là, nâng cao hơn nữa nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân về sự cần thiết của việc nhận diện các thế lực thù địch trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tăng cường quán triệt sâu rộng để mọi cán bộ, đảng viên và người dân nâng cao nhận thức, nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch hòng phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; từ đó, cảnh giác đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại những âm mưu và hành động xuyên tạc, phủ nhận những giá trị trong nền tảng tư tưởng của Đảng.

Hai là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, nâng cao nhận thức, hiểu biết về giá trị nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên được trau dồi lý luận và phương pháp luận khoa học nhằm tạo ra “sức đề kháng tự nhiên”, có khả năng nhận diện, đấu tranh những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về những giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Ba là, đa dạng hóa các hình thức, phương thức, sử dụng mọi phương tiện cả áp phíc, pano, hình vẽ, tranh biếm họa, tranh cổ động, slogan trên các phương tiện thông tin đại chúng, tiến hành nhiều hình thức sinh động như sáng tác, phổ biến những bài thơ, bài hát,… có ý nghĩa ca ngợi, phổ biến giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách mới mẻ, dễ tiếp cận, dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Phát huy hơn nữa vai trò, lợi thế của các ấn phẩm sách, báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, mạng xã hội, diễn đàn, phim ảnh… trong khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, giá trị nhân văn, ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh. Mở các cuộc thi sáng tác truyện ngắn, thơ ca, âm nhạc… để ca ngợi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tăng cường viết sách, tạp chí nhằm phổ thông hóa, truyền bá tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đơn giản, dễ hiểu cho mọi người dân Việt Nam có thể hiểu và nhớ … Qua đó góp phần nâng cao khả năng nhận diện, ngăn chặn các thế lực thù địch, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Bốn là, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông báo chí, internet, mạng xã hội để phổ biến, tuyên truyền nâng cao khả năng nhận diện, “điểm mặt, chỉ tên” những tổ, cá nhân phản động thù địch; phổ biến các nội dung, cách thức nhận diện, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các đối tượng thù địch nhằm phủ nhận giá trị nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Các cơ quan báo chí, truyền thông cần gia tăng những chuyên mục, thông tin phản bác những thông tin xấu, độc, những thông tin không chính xác, bôi nhọ, xuyên tạc quan điểm của Đảng, bôi xấu, hạ thấp uy tín của Đảng, phủ nhận những giá trị trong nền tảng tư tưởng của Đảng.

Năm là, phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng tuyên truyền viên, báo cáo viên để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, giác ngộ quần chúng, định hướng đúng dư luận xã hội về những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về tính đúng đắn của các nguyên lý như: lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH, học thuyết giá trị thặng dư, lý luận về thời kỳ quá độ, về nhà nước…

Nhận diện các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, những thế lực chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là việc khó khăn, phức tạp bởi các chủ thể chống phá đa dạng, xuất phát từ nhiều lợi ích, lại tiến hành những cách thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nham hiểm, khó lường. Vì vậy, cần có sự tham gia của cả hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân để nhận diện trúng, xử lý kịp thời bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng./.


 HÀ NỘI QUYẾT TÂM THỰC HIỆN “DẠY THẬT, HỌC THẬT, THI THẬT, NHÂN TÀI THẬT”

Đó là chia sẻ của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội Trần Thế Cương về việc Hà Nội đã và đang triển khai rất nhiều giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó thành phố quyết tâm thực hiện “dạy thật, học thật, thi thật, nhân tài thật”.

Chủ trương việc “dạy thật, học thật, thi thật, nhân tài thật” đã từng được người đứng đầu Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh đến ngành Giáo dục cách đây ít năm. Với thủ đô Hà Nội, với mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, việc quyết tâm thực hiện “dạy thật, học thật, thi thật, nhân tài thật” là điều rất cấp thiết hiện nay.

Để thực hiện được chủ trương “dạy thật, học thật, thi thật, nhân tài thật”, ngành giáo dục Thủ đô đã và đang triền khai đồng bộ nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và học, vừa nâng cao kiến thức, kỹ năng cần chú trọng giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh gắn với giáo dục giá trị sống cho học sinh trên địa bàn Thủ đô. Nhiều mô hình, phương pháp hay, điển hình tiên tiến đã được phát triển, nhân rộng học tập ở các trường học trên địa bàn. 

Tuy nhiên, để thực hiện có hiệu quả chủ trương trên, với số lượng học sinh, trường học thuộc nhóm lớn nhất cả nước thì hơn lúc nào hết cần sự chung tay, vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của ngành giáo dục, các nhà trường, phụ huynh và các thế hệ học sinh trên địa bàn Thủ đô.


 CHỐNG LÃNG PHÍ

Vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết quan trọng về chống lãng phí. Trong đó, một quan điểm lớn được khẳng định là: “Cần thống nhất nhận thức đấu tranh phòng, chống lãng phí là cuộc chiến chống giặc nội xâm đầy cam go, phức tạp; là một phần của cuộc đấu tranh giai cấp; có vị trí tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để xây dựng Đảng ta vững mạnh, là đạo đức, là văn minh”.

Lãng phí nghĩa là không tiết kiệm, xa xỉ, hoang phí, bừa bãi, quản lý, sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên không hiệu quả. Lãng phí được biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau như: chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực; lãng phí thời gian, công sức của người dân, doanh nghiệp; lãng phí cơ hội phát triển của địa phương, đất nước; lãng phí tài nguyên thiên nhiên… Dù ở dạng thức nào, lãng phí cũng đã gây ra không ít hệ quả xấu. Lãng phí không chỉ tiêu tốn nguồn lực vật chất của quốc gia mà còn trở thành rào cản ngăn trở sự phát triển của đất nước.

Chống lãng phí không phải là vấn đề mới được đề ra. Ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Nhiều lần Người chỉ rõ: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”, “Tham ô có hại nhưng lãng phí có khi còn hại nhiều hơn: Nó tai hại hơn tham ô vì lãng phí rất phổ biến”, “Lãng phí tuy khác với tham ô ở chỗ người gây ra lãng phí không trực tiếp trộm cắp của công làm của riêng. Nhưng kết quả thì làm tổn hại rất nghiêm trọng cho Nhà nước, cho nhân dân”… Nhận thức rõ tác hại của lãng phí, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chúng ta phải kiên quyết chống nạn lãng phí ở các cơ quan và trong sinh hoạt của chúng ta. Chống cách tiêu dùng bừa bãi tiền của của nhân dân và vốn liếng của Chính phủ”.

Trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, những năm qua, cùng với đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Đảng ta cũng đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống lãng phí. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta không thể phủ nhận tình trạng lãng phí vẫn tồn tại ở không ít đơn vị, địa bàn, lĩnh vực, gây bức xúc dư luận. Cuối tháng 5 vừa qua, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội đã nghe báo cáo về kết quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2023. Bên cạnh những kết quả đạt được, các cơ quan chức năng cũng chỉ ra nhiều hạn chế, bất cập như: tình trạng vi phạm các định mức, tiêu chuẩn, chế độ còn xảy ra tại một số cơ quan, tổ chức, đơn vị; việc xử lý các dự án, cụm dự án không hiệu quả, lãng phí theo Nghị quyết số 74/2022/QH15 chưa đạt yêu cầu, mới có phương án xử lý đối với 17/51 dự án sử dụng vốn đầu tư công và vốn nhà nước khác không hiệu quả hoặc lãng phí, 11/13 dự án trọng điểm trong lĩnh vực điện, than, dầu khí chậm tiến độ; 14/19 dự án chậm triển khai, có khó khăn, vướng mắc để đất đai hoang hóa, lãng phí… Ngoài ra, việc thực hiện kết luận, kiến nghị của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán liên quan đến thực hành tiết kiệm, chống lãng phí còn chậm; có lúc, có nơi công tác vận động, tuyên truyền cán bộ, đảng viên chống lãng phí chưa được quan tâm đúng mức.

Lãng phí bắt nguồn từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Về mặt khách quan, một phần là do cơ chế, chính sách còn chưa đồng bộ, bất cập, chậm đổi mới, gây khó khăn khi áp dụng… Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan vẫn là yếu tố chính dẫn đến lãng phí. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng “điểm mặt” các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này: “Hoặc vì lập kế hoạch không chu đáo. Hoặc vì trong khi thực hiện kế hoạch tính toán không cẩn thận. Hoặc vì bệnh hình thức, xa xỉ, phô trương. Hoặc vì thiếu tinh thần bảo vệ của công. Nói tóm lại là vì thiếu ý thức trách nhiệm, thiếu ý thức quý trọng sức của, sức người của Nhà nước và của nhân dân”. Nói cách khác, ý thức, kỷ luật, kỷ cương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở nhiều nơi vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc. Thậm chí, có người còn coi tài sản công là “cha chung không ai khóc”, sử dụng một cách vô tội vạ.

Chống lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên từ chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách đến tổ chức thực hiện gắn với kiểm tra, giám sát. Trong bài viết về chống lãng phí mới được công bố, Tổng Bí thư Tô Lâm đề ra 4 nhóm giải pháp gồm: thống nhất nhận thức đấu tranh phòng, chống lãng phí là cuộc chiến chống “giặc nội xâm” đầy cam go, phức tạp, là một phần của cuộc đấu tranh giai cấp và có vị trí tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để xây dựng Đảng ta vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”; tập trung hoàn thiện, tổ chức triển khai có hiệu quả thể chế phòng, chống lãng phí, xử lý nghiêm các cá nhân, tập thể có hành vi, việc làm gây thất thoát, lãng phí tài sản công; giải quyết triệt để các nguyên nhân dẫn đến lãng phí tài sản công, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực chăm lo nhân dân và phát triển đất nước; xây dựng văn hóa phòng, chống lãng phí, đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành “tự giác”, “tự nguyện”, “cơm ăn nước uống, áo mặc hằng ngày”.

Trong bối cảnh đất nước đang có nhiều thời cơ thuận lợi để bước vào “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Như Bác Hồ từng nhấn mạnh: “Kết quả CẦN (cần cù) cộng với kết quả KIỆM (tiết kiệm) là bộ đội sẽ đầy đủ, nhân dân sẽ ấm no, kháng chiến sẽ mau thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành công, nước ta sẽ mau giàu mạnh ngang hàng với các nước tiên tiến trên thế giới”. Để chống lãng phí thực sự hiệu quả, từng cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp phải nghiên cứu, quán triệt, thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư trong bài viết “Chống lãng phí”. Cùng với đó là đẩy mạnh dân chủ cơ sở, tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền giám sát theo quy định pháp luật, kịp thời biểu dương, khen thưởng, nhân rộng các điển hình, sáng kiến về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

MUÔN VÀN TÌNH YÊU THƯƠNG CON NGƯỜI CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG DI CHÚC

 Trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, tư tưởng yêu thương con người chiếm giữ một vị trí rất quan trọng.

Đó là sự quan tâm, biết ơn, trân trọng, tin tưởng vào sức mạnh của con người, quyết tâm hành động để mang lại hạnh phúc, ấm no cho con người, giải phóng con người; là tình yêu thương con người của một trái tim lớn và vô cùng nhân hậu. Tình yêu thương con người ấy là động lực mãnh liệt thôi thúc hoạt động không mệt mỏi vì nước, vì dân của Người, cũng là nền gốc để quy tụ, đoàn kết hết thảy mọi tầng lớp, mọi lực lượng. Điều này được thể hiện sâu sắc qua mỗi lời nói, việc làm, bài viết và đặc biệt là những căn dặn của Người trong bản Di chúc thiêng liêng.
Di chúc để lại những điều căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng; về chăm lo đối với con người và thế hệ trẻ; về quản lý, chính sách và an sinh xã hội sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta giành thắng lợi. Di chúc là sự tổng kết lý luận và thực tiễn về sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc Việt Nam, là lý luận về đổi mới và tương lai phát triển của đất nước, đặc biệt thể hiện tình yêu thương bao la của Bác đối với con người. Bởi theo Người, tình yêu thương con người không thể chung chung, trừu tượng, mà thiết thực. Người dành cả cuộc đời để lo giải phóng cho dân tộc, đấu tranh cho con người thoát khỏi áp bức, bất công như Người đã từng nói: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân; những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó. Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ cùng với việc thể nghiệm của chính bản thân mình qua hoạt động cách mạng thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định: Yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu thương con người của Bác Hồ là rất cụ thể, từ việc to như lo giải phóng cho con người, khuyến khích: "Phần tốt ở mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân, và phần xấu bị mất dần đi", đến việc chăm lo từng con người cụ thể, không chỉ: Lụa tặng cụ già, sữa tặng bà mẹ sinh ba, mà là từng bát cơm, manh áo, từ chỗ ở, việc làm để an cư, lạc nghiệp đến tương cà mắm muối hàng ngày cho nhân dân. Bác lo cho cả dân tộc và chăm lo cho từng chiến sỹ bảo vệ, phục vụ quanh Người. Theo Bác: Yêu thương con người là phải tôn trọng, quý trọng con người. Bác đánh giá cao vai trò của nhân dân: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân". Bác tôn trọng từ các nhà khoa học, các bậc hiền tài cho tới những người lao công quét rác, bởi theo Bác, từ Chủ tịch nước tới người lao động bình thường, nếu hoàn thành tốt nhiệm vụ, đều được coi trọng, đều vẻ vang như nhau. Theo Bác, yêu thương con người là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Năm 1968, khi làm việc với cán bộ Ban Tuyên huấn Trung ương về việc xuất bản sách "Người tốt, việc tốt", nhằm tuyên truyền sâu rộng những gương điển hình tiên tiến trong lao động sản xuất, trong ứng xử giữa những con người, Bác Hồ đã nhắc nhở: "Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được".
Yêu thương con người vận dụng vào trong Đảng, trong tổ chức là phải "có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Đồng chí Vũ Kỳ, Thư ký riêng của Bác kể lại: Vào dịp tháng 5 các năm 1966, 1968, 1969, Bác đều cho mang bản Di chúc đã viết năm 1965 ra để bổ sung, sửa chữa. Năm 1966, bên cạnh câu đã đánh máy từ năm 1965: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng", Bác ghi thêm vào cùng dòng câu: "Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Chỉ một dòng này thôi, cho thấy sự trăn trở của Người về việc không ngừng rèn luyện đạo đức cho mỗi cán bộ, đảng viên. Trong bản tự tay đánh máy năm 1965, Bác gạch chân 5 chữ: Tự phê bình và phê bình. Song dường như việc nhấn mạnh, kể cả đặt chữ tự phê bình lên trước phê bình chưa làm Người yên tâm, nên năm 1966 Người bổ sung thêm câu: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đây chính là đòi hỏi xác định động cơ, hay nói chính xác hơn là cái Tâm của người phê bình. Bởi khi phê bình nhau, cần đúng lúc đúng chỗ đã khó, song mục đích phê bình để giúp đỡ nhau tiến bộ mới quan trọng hơn, cái vũ khí phê bình ấy phải trở thành văn hoá phê bình, chứ không phải là cớ để sát phạt, bới móc nhau. Di chúc thiêng liêng của Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau chính là điều nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người. Đây là tình yêu trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành, nghiêm túc giữa những người cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ ''dĩ hòa vi quý'', bao che sai lầm khuyết điểm cho nhau, càng xa lạ với thái độ yêu ghét chủ quan cảm tính, các hiện tượng kéo bè, kéo cánh, phường hội có thể đưa đến những tổn thất lớn cho Đảng, cho cách mạng.
Xuất phát từ yêu thương bao la ấy, khi viết về những việc Đảng, Nhà nước cần làm sau ngày thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, Người đã nhấn mạnh: "Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...) Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần "tự lực cánh sinh". Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha, mẹ vợ, con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói, rét..."(1). Lời căn dặn trên của Người là sự thể hiện thấm nhuần đạo lý, truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời nay của người Việt Nam là "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây" và tôn vinh những người có công với cách mạng.
Trong chiến lược xây dựng con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Người rất quan tâm tới những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đã được rèn luyện trong chiến đấu. Người đã căn dặn: "Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề để đào tạo thành những cán bộ, công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta". Và đây là tư tưởng thể hiện rất rõ sự thống nhất giữa tính nhân văn cộng sản, tầm nhìn chiến lược về việc lựa chọn, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực tế của cuộc sống đã chứng minh tư tưởng ấy của Người là hoàn toàn đúng đắn.
Không những vậy, Người còn dành sự quan tâm sâu sắc đến việc bồi dưỡng, cất nhắc, giúp đỡ phụ nữ để họ được tiến bộ, bình đẳng và thật sự được giải phóng. Người đã khẳng định: Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng có nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ".
Ngay cả đối với những người Việt Nam lầm lỡ, trước đây làm việc cho chế độ cũ hoặc không lương thiện trong chế độ cũ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ gọi họ là "nạn nhân của chế độ xã hội cũ" và Người nhắc nhở: "Nhà nước phải vừa dùng giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện". Và đây cũng chính là truyền thống khoan dung, triết lý sống khoan dung của dân tộc Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, khắc sâu thêm vào tâm khảm mỗi chúng ta.
Cũng xuất phát từ truyền thống "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây" và quan điểm an dân, khoan sức dân là kế sách giữ nước vừa sâu gốc, bền rễ, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị: "Miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất...".
Tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh là không biên giới. Trước hết, Người lo cho dân tộc của mình và sau đó, Người lo cho tất cả những kiếp người trên hành tinh còn bị đoạ đầy, đau khổ, bởi vì: "Họ là thân thích ruột già, công nông thế giới đều là anh em". Tư tưởng yêu thương con người được Hồ Chí Minh nêu lên và vận động mọi người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Và Di chúc của Người thực sự là mẫu mực tuyệt vời về sự ứng xử tinh tế và cao thượng của một vị lãnh tụ cách mạng thiên tài, người con ưu tú của dân tộc, sự khoáng đạt, cởi mở, hài hòa, nhân ái, vị tha, khoan dung, độ lượng và tình nghĩa thủy chung, sâu sắc. Đó là sự hoàn chỉnh Chân - Thiện - Mỹ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động và cảm động, có sức cảm hóa lay động muôn triệu trái tim con người Việt Nam và nhân loại trên thế giới. Đó thực sự là phong cách ứng xử tinh tế của con người Hồ Chí Minh. Người viết: "Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế". Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ sự vĩ đại trong con người Bác. Và như thế, chúng ta càng phải đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Bởi, đó là động lực to lớn để nhân dân ta, đất nước ta sớm tiến đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Việc xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện chúng ta cũng đang làm mạnh với các Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Trung ương 4 khóa XII, rồi Quy định về trách nhiệm nêu gương trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương..., những nội dung đó cũng theo tinh thần Di chúc của Bác để nâng cao hơn nữa tinh thần phê bình và tự phê bình của các thế hệ đảng viên./.

Đưa gạo, muối lên chiến khu phục vụ kháng chiến

 Để chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp, từ đầu năm 1946, quân và dân ta ở miền Bắc bắt đầu di chuyển các cơ sở ra khỏi thành phố về vùng nông thôn và các khu căn cứ. Ngày 20-11-1946, quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng, Lạng Sơn. Việc chuẩn bị kháng chiến trên phạm vi cả nước trở thành nhiệm vụ cấp thiết.

Quân nhu Cục được lệnh gấp rút di chuyển kho tàng, nguyên liệu ra khỏi thành phố và tổ chức thu mua, dự trữ gạo, muối ở các địa phương. Nhiều kho dự trữ gạo đã được thiết lập ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Đông, Hòa Bình… mỗi kho khoảng 200 đến 400 tấn. Cùng thời gian trên, Quân nhu Cục đã mua và chuyển lên Hòa Bình 2,5 triệu mét vải, 3.000 bao tải bông, 60 kiện sợi… Đó là lượng dự trữ chủ yếu về nguyên liệu quân trang của quân đội ta trước khi bước vào kháng chiến. Quân nhu Cục còn gấp rút chuyển lên Việt Bắc hơn 400 tấn muối.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Lương Bằng (khi đó phụ trách Ban Kinh tài Trung ương) trực tiếp lên Việt Bắc chuẩn bị mọi mặt cho việc di chuyển các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Bác dặn dò đồng chí Nguyễn Lương Bằng tỉ mỉ từ việc chuyển tiền đến việc dự trữ muối đề phòng tình huống đường liên lạc giữa vùng biển và Việt Bắc bị địch cắt đứt, vì gạo, muối là hai nhu cầu thiết yếu đối với nhân dân và LLVT lúc này. Trước giờ nổ súng mở đầu toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội, Bộ Tài chính đã đưa kho bạc từ Hà Nội về Chi Nê (Hòa Bình) an toàn và tổ chức thu mua thóc gạo, đặt các kho gạo phân tán khắp nơi.
Thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã chỉ đạo vận chuyển 20.000 tấn muối ở kho Văn Lý (Nam Định) ngược sông Đáy vào Vân Đình (Hà Đông) qua sông Bùi rồi ngược sông Hồng lên Phú Thọ, Tuyên Quang. Để muối, gạo vượt sông lên Tây Bắc, nhiều địa phương đã phải tạm dỡ kè ngăn tàu chiến, ca nô địch để các thuyền muối đi qua. Từ Tuyên Quang, muối được chuyển lên Lào Cai, Sơn La, Hà Giang sang Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng… đến đích an toàn.
Qua ba tháng chiến đấu, đầu năm 1947, hình thái chiến trường đã hình thành vùng tự do do ta làm chủ (trong đó có các căn cứ kháng chiến) và vùng địch tạm chiếm. Kế hoạch tổng di chuyển lên căn cứ Việt Bắc của ta đã cơ bản hoàn thành. Chủ trương của Đảng tiêu thổ kháng chiến, phá hoại gây nhiều khó khăn cho địch. Đặc biệt, nhờ chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, Việt Bắc đã trở thành hậu phương, căn cứ địa vững chắc của cả nước. Các cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ, quân đội đã di chuyển an toàn lên Việt Bắc để lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến.

HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC HỒ

 Ngày 11 tháng 11- “Hồ Chí Minh chỉ muốn hòa bình”.

Cách đúng 100 năm, ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu với nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản là theo dõi phong trào nông dân Trung Quốc và tham gia phái đoàn của Cố vấn Liên Xô bên cạnh chính phủ Quốc dân Đảng, đồng thời cũng là cơ hội để Nguyễn Ái Quốc (với bí danh Lý Thụy) tập hợp các lực lượng thanh niên Việt Nam yêu nước đang có mặt tại đây.

Ngày 11-11-1942, trong nhà tù ở Quảng Tây, Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ có đầu đề “Song thập nhất” cảm nhận về tình hình thế giới trong đó có đoạn: “…Kháng Nhật cờ bay khắp Á châu/ Cờ to, cờ nhỏ chẳng đều nhau/ Cờ to đã hẳn là nên có/ Cờ nhỏ dù sao thiếu được đâu” (bản dịch của Nam Trân).

Ngày 11-11-1949, từ Chiến khu Việt Bắc, Bác điện cho Đại diện Thông tấn xã Việt Nam ở Bangkok: “Hồ Chủ tịch gửi lời chúc mừng bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã trở về Tổ quốc”. Là một nhà trí thức được đào tạo tại Nhật Bản, bác sĩ Ngữ đã tìm đường trở về nước, có nhiều cống hiến trong cả 2 cuộc kháng chiến và đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.

Ngày 11-11-1950, báo Cứu Quốc đăng “Thư gửi các bạn nam nữ Pháp đấu tranh cho hòa bình”, trong đó Bác nêu rõ: “...Không phân biệt nam nữ, trẻ già, thợ thuyền, nông dân hay trí thức, các bạn đã đoàn kết để cùng góp phần cố gắng và quyết tâm của mình, chúng tôi kính phục và theo dõi cuộc đấu tranh của các bạn... Tất cả chúng ta đều gắng sức theo đuổi một mục đích, nhất định những cố gắng của chúng ta chẳng bao lâu sẽ đưa bọn đế quốc đến chỗ thất bại hoàn toàn”.

Ngày 11-11-1953, báo Cứu Quốc đăng bài “Bà mẹ anh hùng” biểu dương các gia đình có từ 3 đến 5 con đi bộ đội được Chính phủ tôn vinh, với trường hợp một bà mẹ ở Việt Bắc có 9 con đi bộ đội, Bác tặng câu thơ: “Cả nhà kháng chiến/ Muôn thuở rạng danh/ Nêu gương dân tộc/ Việt Nam quang vinh”.

Cùng ngày, Bác còn cho đăng bài “Đội Thanh niên xung phong” trên báo Nhân Dân, xác định: “Đó là một trường đào tạo thanh niên bằng những công việc thiết thực... Chúng ta cần củng cố và phát triển Đội Thanh niên xung phong để đảm bảo thêm công việc kháng chiến và đào tạo cán bộ sau này”.

Ngày 11-11-1954, trả lời phỏng vấn của Hãng thông tấn Pháp (AFP) về quan hệ Việt-Pháp sau chiến tranh, Bác vạch rõ: “Cơ sở và phương pháp tốt nhất là sự hiểu biết, lòng trung thực, tin cậy lẫn nhau, bình đẳng, hai bên cùng có lợi theo nguyên tắc có đi có lại”. Bác cũng khẳng định: “Nhân dân Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ hoạt động không ngừng để thực hiện thống nhất đất nước theo phương pháp hoàn toàn phù hợp với Hiệp định Giơnevơ”.

Ngày 11-11-1965, tiếp 2 nhà khoa học là phái viên của Bộ trưởng Ngoại giao Italia đến nước ta để tìm giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, Bác nói: “Chúng tôi sẵn sàng trải thảm đỏ và rắc hoa cho Mỹ rút. Nhưng nếu Mỹ không rút thì phải đánh đuổi Mỹ đi... Nhờ ông nói với Tổng thống Giônxơn và Mc Namarra rằng: Hồ Chí Minh chỉ muốn hòa bình... Mỹ phải rút khỏi Việt Nam rồi Tổng thống Giônxơn đến đây nói chuyện cũng được hoặc ông ta có mời tôi đến Oasinhtơn tôi cũng sẵn sàng! Nhưng trước hết Mỹ phải để chúng tôi yên. Mỹ phải chấm dứt chiến tranh!”./.

Lật tẩy phương thức, thủ đoạn thâm độc chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc

 Với ý đồ chia rẽ khối đoàn kết dân tộc anh em Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động đã dùng nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc tuyên truyền kích động ‘ly khai’, ‘tự trị’ trong vùng dân tộc thiểu số.

Qua thực tiễn công tác bảo đảm an ninh trên lĩnh vực dân tộc, Thiếu tướng Hầu Văn Lý, Phó cục trưởng Cục An ninh nội địa, Bộ Công an cho biết, hoạt động tuyên truyền chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, kích động ly khai, tự trị của các đối tượng có một số đặc điểm đáng chú ý:

Chủ thể

Chủ thể tiến hành hoạt động tuyên truyền chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, kích động ly khai, tự trị rất đa dạng, ở cả trong và ngoài nước, song trước hết và chủ yếu là các cá nhân, tổ chức phản động người dân tộc thiểu số (DTTS).

Ở bên ngoài, nổi lên là hoạt động của một số nghị sĩ, dân biểu, chính khách, nhân viên ngoại giao các nước phương Tây có quan điểm thù địch, định kiến với Việt Nam; các trung tâm phá hoại tư tưởng bên ngoài; nhân viên các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài, học giả, nhà nghiên cứu về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo… nước ngoài thiếu thiện cảm, định kiến với Việt Nam; các cá nhân, tổ chức phản động người DTTS lưu vong.

Ở trong nước, hoạt động tuyên truyền chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, kích động ly khai, tự trị chủ yếu do số đối tượng cầm đầu, cốt cán trong các “tà đạo”, số phản động, cực đoan, chống đối người DTTS; số có lịch sử tham gia các hoạt động nhằm đòi ly khai, tự trị, lập “Nhà nước riêng” đã bị xử lý, vô hiệu hóa nhưng chưa chịu từ bỏ tư tưởng chống đối (như số có lịch sử tham gia hoạt động FULRO, “Tin lành Đêga”, số hoạt động lập “Nhà nước Mông”, số cốt cán từng tin theo các tổ chức bất hợp pháp, tà đạo như “Giê Sùa”, Bà cô Dợ”…)

Đối tượng

Đối tượng bị tác động chủ yếu là đồng bào DTTS tại các địa bàn, nhất là các vùng chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ.

Đây là bộ phận quần chúng nhân dân có cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn; mức sống, mức hưởng thụ văn hóa và đời sống tinh thần của đồng bào còn thấp; tỉ lệ nghèo đói, mù chữ, thất nghiệp còn cao.

Đồng bào DTTS bị các đối tượng xấu nhắm tới có ý thức cố kết cộng đồng, thân tộc, dòng tộc sâu sắc nhưng nhận thức chính trị còn hạn chế, chưa hiểu hết tính chất phản động của các luận điệu kích động ly khai, tự trị nên dễ bị tác động, ảnh hưởng.

Ngoài ra, hoạt động tuyên truyền, kích động ly khai, tự trị còn hướng tới bộ phận đồng bào DTTS ở nước ngoài, nhất là những người vượt biên, trốn ra nước ngoài xin “tị nạn” hoặc cư trú bất hợp pháp tại các nước Thái Lan, Campuchia, Lào, Mỹ…

Nội dung

Nội dung tuyên truyền thường đa dạng, tùy từng đối tượng tiến hành cụ thể mà nội dung tuyên truyền có thể khác nhau nhưng về cơ bản, các đối tượng thường tập trung vào một số vấn đề chủ yếu như:

Thứ nhất, tuyên truyền xuyên tạc lịch sử, khơi gợi quá khứ để kích động tư tưởng hận thù, chống đối hoặc lợi dụng danh nghĩa “bảo tồn văn hóa”, chữ viết, phong tục tập quán… để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc.

Điển hình như ở Tây Bắc, các đối tượng duy trì tuyên truyền về “Vương quốc Mông”, “vua Mông”; ở Tây Nam bộ, các đối tượng đẩy mạnh tuyên truyền về lịch sử hình thành vùng đất Nam Bộ; số phản động, chống đối trong dân tộc Chăm tìm cách khơi gợi lịch sử “Vương quốc Champa”, “Hoàng gia Champa”; kêu gọi bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa Chăm, lợi dụng việc triển khai dự án hồ chứa nước Ka Pét (Bình Thuận) để tuyên truyền xuyên tạc cho rằng chính quyền muốn xóa bỏ thánh tích, xâm hại đời sống tâm linh của người Chăm; đăng tải các bài viết phản đối việc cải cách chữ Chăm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cho rằng nhà nước muốn xóa bỏ văn hóa, bản sắc dân tộc để kích động tâm lý nghi kỵ, phản đối trong nhân dân…

Thứ hai, xuyên tạc chính sách phát triển kinh tế-xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; khoét sâu vào những sơ hở, thiếu sót trong triển khai thực hiện của chính quyền cơ sở; lợi dụng các vụ tranh chấp, khiếu kiện trong nhân dân, nhất là giữa đồng bào DTTS với chính quyền, doanh nghiệp, người Kinh, tạo sự so sánh về chênh lệch trong phát triển kinh tế, xã hội giữa đồng bào DTTS với người Kinh để kích động tâm lý bất mãn, phản kháng, chống đối trong đồng bào.

Bên cạnh đó, lợi dụng việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác dân tộc, các dự án, đề án, nhất là Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế – xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn 1, từ năm 2021-2025 còn nhiều thiếu sót, hạn chế, chậm; tỷ lệ hộ nghèo người DTTS và tình trạng thiếu đất sản xuất… các đối tượng đã triệt để lợi dụng vu cáo, xuyên tạc, hạ uy tín Đảng, Nhà nước, chính quyền các địa phương, đồng thời kích động người dân hoạt động chống phá, gây mất an ninh, trật tự tại các địa bàn chiến lược.

Thứ ba, tuyên tuyền khuếch trương thanh thế nhằm tập hợp lực lượng, lôi kéo đồng bào DTTS tham gia thành lập “nhà nước riêng”, “tôn giáo riêng”. Trong đó, các đối tượng tập trung ca ngợi, thậm chí thần thánh hóa đối tượng cầm đầu, cốt cán, khuếch trương thanh thế của tổ chức ở bên ngoài, xuyên tạc rằng đã được quốc tế công nhận chính phủ, con dấu, cờ, tôn giáo riêng… nhằm lựa bịp, tạo sự ngộ nhận cho đồng bào DTTS trong nước về thực lực của các đối tượng ở bên ngoài, từ đó lôi kéo họ tham gia vào các hoạt động ly khai, tự trị.

Thứ tư, xuyên tạc các vụ việc Việt Nam đấu tranh, xử lý, bắt giữ các đối tượng phản động, chống đối, khủng bố (như các đối tượng tham gia vụ khủng bố ngày 11/6/2023 tại Đắk Lắk; đối tượng tham gia tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình; số đối tượng tham gia vụ gây rối trật tự công cộng ở Thánh đường 102, Ninh Thuận)… cho rằng Đảng, Nhà nước vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp người DTTS, từ đó kích động người dân đứng lên chống lại chính quyền.

Thứ năm, tuyên truyền về “xã hội dân sự”, về tự do, dân chủ, nhân quyền theo tiêu chí của phương Tây, hướng dẫn phương thức đấu tranh bất bạo động, bất tuân dân sự, phản kháng chính quyền.

Thứ sáu, tuyên truyền ca ngợi cuộc sống hưởng thụ vật chất tại các nước phương Tây: Một số đối tượng hoạt động lập “Nhà nước Mông”, “Nhà nước Đêga” khi xuất cảnh trốn ra nước ngoài được các cá nhân, tổ chức phản động bên ngoài hỗ trợ đi định cư ở nước thứ ba đã thường xuyên đăng tải hình ảnh về cuộc sống hưởng thụ ở nước ngoài, qua đó tạo sự so sánh với cuộc sống khó khăn trong nước, kích thích số chống đối trong nước tiếp tục chống đối, trốn ra nước ngoài để được bảo trợ, bảo lãnh “tị nạn chính trị”…

Phương thức, thủ đoạn

Phương thức, thủ đoạn, để gia tăng hiệu quả tuyên truyền, vừa triệt để khai thác thành tựu khoa học công nghệ, tận dụng sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch nước ngoài, vừa phù hợp với đặc điểm tâm lý, trình độ nhận thức của đồng bào DTTS, các đối tượng sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn tuyên truyền hết sức tinh vi, cụ thể:

Một là, triệt để khai thác các tiện ích của mạng xã hội để thành lập các “nhóm kín” trên không gian mạng, sử dụng các ứng dụng mạng xã hội, OTT (như Zoom, Gotomeeting, Signal, Zalo, Facebook…) duy trì để liên lạc, quan hệ, chỉ đạo hoạt động tuyên truyền, chia rẽ dân tộc, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo kích động ly khai, tự trị, lập “Nhà nước riêng”.

Điển hình như số đối tượng ở Tây Nguyên triệt để sử dụng các ứng dụng mạng xã hội, phần mềm hội họp trực tuyến để lập 26 hội, nhóm có hoạt động tuyên truyền phục hồi FULRO, “Tin lành Đêga” tập huấn nhân quyền, thông công, họp nhóm trực tuyến, móc nối phát triển lực lượng vào số đối tượng yếu thế, số tín đồ Tin lành, số thanh niên, công nhân tại các khu công nghiệp và số trước đây theo “Tin lành Đêga”, “Tin lành Đấng Christ” hiện đang sinh hoạt tại gia; một số thanh niên có tư tưởng hướng ngoại, có ý định trốn…

Hai là, sử dụng báo đài ngoại vi tại nước ngoài để tuyên truyền vào trong nước xuyên tạc tình hình trong nước và kích động tư tưởng ly khai dân tộc, kêu gọi các thế lực bên ngoài can thiệp, hậu thuẫn; nổi lên là các tổ chức KKK, KKF triệt để sử dụng các các báo, đài ngoại vi (VOKK, KKCTV, Khmer21, Reahou TV, KKIP TV…) để tuyên truyền kích động ly khai, tự trị, đòi “quyền dân tộc bản địa” cho người Khmer.

Ba là, lợi dụng việc tham gia các Hội nghị, hội thảo quốc tế, phiên điều trần hoặc kích động, tổ chức biểu tình ở nước ngoài để tuyên truyền chống Việt Nam.

Bốn là, thông qua gặp, gỡ, tiếp xúc các đối tượng, nhóm đồng bào DTTS ở trong và ngoài nước để trực tiếp tuyên truyền. Trong đó, chúng thường lợi dụng các dịp kỷ niệm, tết cổ truyền các dân tộc để tập trung đông người, đẩy mạnh tuyên truyền kích động tư tưởng ly khai, tự trị; lợi dụng các hoạt động từ thiện, tài trợ cho các điểm, nhóm tôn giáo để tuyên truyền chi rẽ dân tộc, kích động li khai, tự trị; lợi dụng các quan hệ thân tộc, dòng tộc, bạn bè, sinh hoạt tôn giáo hoặc các sự kiện tập trung đông người (hiếu, hỷ, lễ hội…) để có điều kiện gặp nhau tuyên truyền, củng cố niềm tin, họp bàn, phục hồi tổ chức, phát triển lực lượng, nhận sự chỉ đạo của đối tượng phản động người DTTS lưu vong

Thông qua những thủ đoạn tinh vi, hoạt động chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, kích động “ly khai”, “tự trị” đã để lại nhiều hậu quả hết sức phức tạp, lâu dài tại các địa bàn vùng DTTS. Thực tế cho thấy, mặc dù chưa thể thành lập, công khai hóa tổ chức chính trị đối lập ở trong nước, chưa thực hiện được mưu đồ lập “Nhà nước riêng” song bằng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, các đối tượng đã tuyên truyền, lôi kéo được một bộ phận quần chúng tham gia các hoạt động chống chính quyền, xâm phạm an ninh quốc gia, gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về an ninh chính trị tại các địa bàn chiến lược.

Hoạt động này không chỉ gây chia rẽ gây mất đoàn kết giữa các DTTS, giữa người DTTS với người Kinh, với chính quyền, mà còn gây tâm lý hoang mang, dao động trong một bộ phận đồng bào DTTS, tạo điều kiện cho các loại hình “tà đạo”, tôn giáo mới phát triển vào địa bàn, làm xáo trộn đời sống chính trị, xã hội, gây mất ổn định tình hình an ninh, trật tự địa phương; gây khó khăn cho việc triển khai các chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn, làm giảm hiệu quả các biện pháp quản lý nhà nước của chính quyền địa phương.

Trên phạm vi quốc tế, hoạt động của các đối tượng đã tạo cơ hội cho các thế lực thù địch, trung tâm phá hoại tư tưởng nước ngoài triệt để khai thác, lợi dụng chống phá, gây khó khăn, hạ uy tín Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Đây là hành vi đáng lên án và cần đẩy mạnh các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, tăng cường gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc.

NGUYỄN ÁI QUỐC - NHỮNG NĂM THÁNG Ở QUẢNG CHÂU

        Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng sống và hoạt động cách mạng ở nhiều nơi, nhiều nước, trong đó có Quảng Châu, Trung Quốc (1924 - 1927). Đây là nơi Người đã sống và hoạt động trong thời kỳ Quốc - Cộng hợp tác lần thứ nhất và đó cũng là địa bàn gần Tổ quốc mà Người đã lựa chọn trở về hoạt động để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp và dân tộc Việt Nam. 

LỰA CHỌN QUẢNG CHÂU LÀ MỘT BƯỚC ĐI QUAN TRỌNG

Trên hành trình tìm đường cứu nước để giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bất công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới - con đường mà Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã giành thắng lợi và Người đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Một chặng đường mới trên hành trình hoạt động cách mạng của Người - khi rời Pháp đến nước Nga Xô Viết để học tập, trau dồi lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; khi tiến hành các hoạt động thực tiễn phong phú đã giúp Người hiểu rõ cần phải đi về đâu và làm thế nào để tiến hành sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.

Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc đã viết trong Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về Tổ quốc, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(1). Đến nước Nga, khi trả lời phỏng vấn Giôvanni Giécmanto - Phóng viên báo L’Unità, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Italia, ngày 15/3/1924: “Khi học xong, anh dự định làm gì?”, Nguyễn Ái Quốc đã trả lời: “Dĩ nhiên là tôi sẽ trở về Tổ quốc để đấu tranh cho sự nghiệp của chúng tôi. Ở bên chúng tôi còn nhiều việc phải làm lắm”(2). Tuy nhiên, từ những hoạt động lý luận và thực tiễn ở Liên Xô, nhận thức của Người về cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, mối quan hệ giữa cách mạng ở thuộc địa với cách mạng ở chính quốc… đã giúp Người xác định được con đường để giải phóng dân tộc, vì thế kế hoạch “trở về Tổ quốc” của Người đã thay đổi. Điều này thể hiện rõ trong Thư gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ngày 11/4/1924 của Nguyễn Ái Quốc: “Trước hết tôi phải đi Trung Quốc. Tiếp đó sẽ hướng sự hoạt động theo những khả năng sẽ xuất hiện”(3) - Đó chính là thiết lập những quan hệ giữa Đông Dương và Quốc tế Cộng sản; thông báo tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của thuộc địa này; tiếp xúc với các tổ chức đang tồn tại ở đó; tổ chức một cơ sở thông tin và tuyên truyền…

Trong khi đó, ở Trung Quốc, tình hình Quốc - Cộng hợp tác có chiều hướng phát triển tốt đã thúc đẩy sự phát triển của cách mạng Trung Quốc, nhất là ở Quảng Châu. Vì thế, để tăng cường cán bộ cho phái bộ M. M. Bôrôđin giúp đỡ cách mạng Trung Quốc, ngày 25/9/1924, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã quyết định: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cần đi Quảng Châu. Chi phí do Ban Phương Đông chịu”(4) theo đề nghị của Người. Vì thế, Người đã rời nước Nga và ngày 11/11/1924, về đến Quảng Châu, Trung Quốc (trên cương vị phái viên của Quốc tế Cộng sản; trong Phái bộ của Cố vấn Bôrôđin, bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn), với tên gọi Lý Thụy để triển khai kế hoạch hoạt động của mình. Từ những “ưu thế” không thể phủ nhận của Quảng Châu, có thể hiểu được vì sao Nguyễn Ái Quốc lại chọn địa bàn chiến lược này làm điểm “dừng chân” để xây dựng “căn cứ địa” và triển khai những hoạt động quan trọng trong lộ trình giải phóng dân tộc.

Thứ nhất, Quảng Châu khi đó đang là trung tâm phong trào cách mạng của Trung Quốc. Năm 1924, được Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp đỡ, Tôn Trung Sơn đã cải tổ thành công Quốc Dân Đảng, thành lập Chính phủ Cách mạng tại Quảng Châu và với vị thế Tổng thống, Tôn Trung Sơn đã tiến hành công cuộc hợp tác giữa Quốc Dân Đảng với Đảng Cộng sản lần đầu tiên; đã tiếp nhận sự trợ giúp của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô (với sự giúp đỡ của Đoàn cố vấn do Liên Xô và Quốc tế Cộng sản cử tới); đồng thời triển khai thực hiện 3 chính sách lớn “Liên Nga, liên Cộng, phù trợ công nông”.

Thứ hai, Quảng Châu khi đó đang được mệnh danh là “Mátxcơva của phương Đông”. Khi ấy, những người cộng sản Trung Quốc như Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Trương Thái Lôi... mà Nguyễn Ái Quốc từng gặp gỡ, cùng hoạt động cách mạng khi còn ở Paris và được Người giới thiệu vào Đảng Cộng sản Pháp thập niên 1920 cũng đã có mặt tại Quảng Châu, nên nơi đây đã thu hút nhiều nhà cách mạng từ những nước thuộc địa và phụ thuộc đến hoạt động.

Thứ ba, Quảng Châu khi đó vừa gần Việt Nam, vừa là địa bàn đang có nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước, đầy nhiệt huyết sang hoạt động, trong đó có tổ chức Tâm Tâm Xã. Dù là một tổ chức yêu nước, nhưng Cương lĩnh của tổ chức này vừa chưa rõ ràng, vừa phần nào chịu ảnh hưởng của một số tổ chức cánh tả ở Trung Quốc, nên đây cũng vừa là mảnh đất tốt, vừa có những hạt giống tốt để Nguyễn Ái Quốc có thể gieo mầm con đường cách mạng vô sản theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Hơn nữa, Quảng Châu còn có những điều kiện tương đối thuận lợi về giao thông, dễ thực hiện việc chuyển tài liệu, sách báo bí mật cũng như đưa người sang và đưa người về nước để phát triển phong trào cách mạng…

Thực tế là Nguyễn Ái Quốc không chỉ lựa chọn Quảng Châu để thực hiện “lộ trình” giải phóng dân tộc Người đã ấp ủ, mà Người còn triển khai lộ trình đó vừa đúng đắn vừa phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam để tiến hành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc trong những thập niên sau.

DẤU ẤN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC Ở QUẢNG CHÂU

Được về hoạt động tại một địa bàn gần Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc không chỉ kịp thời báo cáo tình hình của Người về Mátxcơva (thông qua 3 bức thư gửi cho Quốc tế Cộng sản; cho đồng chí Đômban - Tổng thư ký Quốc tế Nông dân và cho Ban biên tập Tạp chí Rabốtnhítxa), mà còn nhanh chóng bắt liên lạc với những người Việt Nam yêu nước, trong đó có những thanh niên hăng hái nhất trong tổ chức Tâm Tâm xã để mở rộng địa bàn hoạt động. Với công việc này, Người đã báo cáo cán bộ phụ trách Ban Phương Đông là “đã tìm thấy ở đây một vài người Đông Dương mà với họ, tôi hy vọng làm được việc gì đó”(5).

Tiếp đó, từ những thanh niên yêu nước này, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (6/1925) - một tổ chức có tính chất quần chúng “có khuynh hướng mácxít”, với hạt nhân là Cộng sản đoàn gồm 9 đồng chí (Lê Hồng Sơn tức Lê Văn Phan; Lê Hồng Phong tức Lê Huy Doãn; Hồ Tùng Mậu tức Hồ Bá Cự; Lê Quảng Đạt tức Lê Doạt; Vương Thúc Oánh; Trương Vân Lĩnh tức Lệnh; Lưu Quốc Long tức Quý; Lý Quý tức Trần Phú; Lâm Đức Thụ tức Nguyễn Chí Viễn).

Được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số; thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình; yêu cầu tất cả các hội viên phải hoạt động trong quần chúng, tuyệt đối giữ bí mật hoạt động của Hội... Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã thu hút nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước đến Quảng Châu dù thực dân Pháp khủng bố gắt gao.

Có thể nói, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên là một sáng tạo, có chủ đích của Nguyễn Ái Quốc, bởi “trong tư tưởng của những người đứng ra tổ chức thì Hội này sẽ là cơ sở cho một đảng lớn hơn và tương lai đã chứng minh điều đó”(6) . Thông qua những hội viên của Hội này và qua hoạt động của phong trào vô sản hoá, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ được truyền bá về trong nước, xâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, mà còn thúc đẩy, làm thay đổi tính chất, chiều hướng phát triển của phong trào cách mạng trong nước, làm cho khuynh hướng vô sản lan tỏa, phổ rộng và phong trào công nhân chuyển dần từ tự phát sang tự giác…

Không chỉ dừng ở việc sáng lập và tổ chức hoạt động Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc còn tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán “thời dựng Đảng” cho cách mạng Việt Nam bằng việc mở các Lớp huấn luyện chính trị tại số nhà 13 và 13/1 đường Văn Minh (nay là số nhà 248 và 250). Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp phụ trách lớp và là giảng viên chính của các khóa học. Ngoài ra còn có Hồ Tùng Mâu, Lê Hồng Sơn; một số cán bộ trong Đoàn cố vấn của Liên Xô và một số cán bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các bài giảng tập trung vào 3 loại vấn đề “cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam và phương pháp vận động cách mạng” gắn với hoạt động ra “bích báo” của học viên; tổ chức các vở diễn “kịch cương”, sinh hoạt văn nghệ hoặc tham quan Trường Quân sự Hoàng Phố… đã giúp cho các học viên sự liên hệ lý luận với thực tiễn. Với 3 khóa huấn luyện (từ đầu năm 1926 - 4/1927), đã có khoảng 75 học viên học xong đã trở về nước và đến Xiêm hoạt động. Đó chính là những “hạt giống đỏ”, những người tuyên truyền, tổ chức phong trào cách mạng ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Nam Kỳ và Việt kiều ở Xiêm.

Đặc biệt, ngay từ thời gian này, để thực hiện sự kế tục trong xây dựng và đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc không chỉ lựa chọn một số thanh niên Việt Nam để gửi đi học ở Trường Đại học Phương Đông và Trường Quân sự Hoàng Phố, mà còn viết thư gửi Uỷ banTrung ương thiếu nhi Liên xô, gửi thư cho đại diện đoàn Thanh niên cộng sản Pháp tại Quốc tế Thanh niên cộng sản đề nghị giúp đỡ, để gửi một số thiếu niên Việt Nam sang Liên Xô học tập. Mục đích của Người là “để các em được tiếp thu một nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp, trở thành những thiếu nhi cộng sản đầu tiên của nước An Nam”- “những chiến sĩ Lêninnít tí hon chân chính” - hạt nhân vừa hồng vừa chuyên của Đoàn Thanh niên Cộng sản sau này. Đó cũng chính là thế hệ “rường cột” đảm đương vai trò kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh.

Cùng với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc chủ trương xuất bản sách, báo chí làm phương tiện tuyên truyền. Đầu tiên, báo Thanh Niên ra đời, số 1 ra ngày 21/6/1925. Trong tổng số 202 số báo Thanh Niên, thì có có 88 số báo được xuất bản từ 21/6/1925 - 17/4/1927 do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp biên soạn, sửa chữa. Từ việc xác định rõ mục đích của báo là “gửi về nước để tuyên truyền cho nhân dân”, Người chọn lối viết ngắn gọn, dễ hiểu thể hiện qua tranh vẽ, ca dao, thơ ca, khẩu hiệu đăng tải trong các chuyên mục Tin tức trong nước, Thế giới, Phụ nữ, Từ điển cách mạng,v.v.. để tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản, Đảng Cộng sản. Nội dung của các bài báo không chỉ khơi dậy truyền thống yêu nước, ý chí đấu tranh chống giặc ngoại xâm, mà còn kêu gọi tinh thần đoàn kết của mọi người dân để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc.

Dù số lượng phát hành không nhiều (100 bản), nhưng báo Thanh Niên có hình thức nhỏ, gọn được chuyển về trong nước, được người dân truyền đọc và ghi chép lại đã góp phần mang hơi thở của thời đại đến với phong trào công nhân, phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam; đồng thời đưa ý thức hệ vô sản lan tỏa trong đời sống xã hội Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Mácxít Lêninnít kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam.

Sau báo Thanh Niên, Người cho xuất bản báo Công nông (từ 12/1926 - đầu năm 1928), Bán nguyệt san Lính Cách mệnh (đầu năm 1927 - đầu năm 1928); Việt Nam tiền phong cho những đối tượng hẹp hơn…

Tiếp đó, Nguyễn Ái Quốc dành thời tập hợp và hoàn thiện những bài giảng của mình tại các Lớp huấn luyện chính trị để xuất bản thành cuốn sách Đường Kách mệnh. Sách được Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản đầu năm 1927, làm tài liệu học tập và truyên truyền. Đường Kách mệnh được bí mật được chuyển về trong nước không chỉ là một trong những tác phẩm lý luận quan trọng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam, mà còn góp phần trang bị lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cho nhân dân/đưa thế giới đương đại hội nhập với Việt Nam và đưa cách mạng Việt Nam hội cùng dòng chảy của cách mạng thế giới.

Những năm tháng ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc còn cùng với các đồng chí Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Miến Điện… vận động thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (9/7/1925) nhằm đoàn kết, liên lạc với các dân tộc bị áp bức cùng làm cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc, bởi “con đường thoát duy nhất để xóa bỏ sự áp bức chỉ có thể là liên hiệp các dân tộc nhỏ yếu bị áp bức và giai cấp vô sản toàn thế giới”(7).

Tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức mở rộng hơn Hội Liên hiệp thuộc địa (1922) không chỉ “đánh dấu sự thức tỉnh của các dân tộc châu Á”, mà còn nhanh chóng thu hút đông đảo sự tham gia của chi hội Nông dân Quảng Đông, Hội Phụ nữ Quảng Đông,v.v.. Với Hội này, Nguyễn Ái Quốc “mang tên Lý Thụy là một trong những người lãnh đạo của Hội, được bầu làm Bí thư kiêm phụ trách công việc tài chính của Hội, đồng thời cũng là người trực tiếp phụ trách chi bộ Việt Nam của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức”(8).

Cũng ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã quan tâm, nghiên cứu tình hình nông dân Trung Quốc (bài viết “Tình cảnh nông dân Trung Quốc” ngày 4/1/1924; “Nông dân Trung Quốc” ngày 19 - 21/3/1925); đã tham gia tổ chức Đại hội lần thứ nhất của nông dân tỉnh Quảng Đông (1/5/1925); đã tham gia tổ chức Hội nghị đại biểu đầu tiên của 20 vạn nông dân tỉnh Quảng Đông và Hội nghị đại biểu lần thứ hai của công nhân Trung Quốc (đầu tháng 5/1925) nhằm “thành lập một Mặt trận thống nhất giữa những người bị bóc lột ở thành thị và nông thôn”; đã tham gia đội diễn thuyết, ủng hộ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Trung Quốc…

Thực tế là sau ngày 12/4/1927, mặc dù Tưởng Giới Thạch đã tiến hành đảo chính phản cách mạng và đàn áp khủng bố các lực lượng cách mạng, nhưng Nguyễn Ái Quốc “vẫn tiếp tục ở lại Quảng Châu để bí mật liên lạc với các đồng chí Trung Quốc và duy trì công việc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên”(9), thể hiện rõ tinh thần, trách nhiệm của một người chiến sĩ cộng sản quốc tế…

Tháng 6/1927, trước khi rời Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã viết gửi Ban Phương Đông kết quả công tác của mình: “Mặc dù thiếu thời gian và tiền, nhờ sự giúp đỡ của các đồng chí người Nga và Annam, chúng tôi đã có thể: 1) Đưa 75 thanh niên Annam đến học ở Trường tuyên truyền do chúng tôi tổ chức ở Quảng Châu, 2) Xuất bản ba tờ tuần báo nhỏ, 3) Phái những người tuyên truyền vừa mới được đào tạo về Xiêm, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Nam Kỳ, 4) Thành lập một liên đoàn cách mạng do một uỷ ban gồm 5 uỷ viên ở Quảng Châu lãnh đạo, liên đoàn đã bắt rễ khắp nơi trong tất cả các xứ Đông Dương đó”(10). Những nội dung ngắn gọn trong báo cáo này là kết quả thực hiện kế hoạch mà Nguyễn Ái Quốc đã đề ra trong những năm tháng hoạt động cách mạng ở Quảng Châu (11/11/1924 - 5/1927). Những kết quả này không chỉ có ý nghĩa vô cùng to lớn, góp phần quan trọng dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; con đường và tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng sau đó, mà còn tác động đến phong trào cách mạng Trung Quốc nói riêng và Quốc tế Cộng sản nói chung.

Những thông tin trong các báo cáo, trong những bài viết của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này không những giúp Quốc tế Cộng sản nắm được tình hình phong trào cách mạng ở các nước phương Đông, mà còn phân tích, đánh giá, làm phong phú hơn lý luận của Quốc tế Cộng sản trong lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản bởi thực tiễn sinh động ở Trung Quốc và An Nam…

Đặc biệt, từ sự am hiểu tình hình Trung Quốc, phong trào cách mạng Trung Quốc - Nguyễn Ái Quốc đã không chỉ là Người bắc nhịp cầu đoàn kết giữa những người cộng sản Việt Nam và những người cộng sản Trung Quốc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Trung Quốc, mà còn đặt nền móng vững chắc cho mối quan hệ tương hỗ, tương trợ, cùng đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc “có núi liền núi, sông liền sông” ở những thời kỳ sau./.

ĐI BẢO TÀNG ĐỂ YÊU NƯỚC HAY ĐỂ PHÁ HOẠI

Đi bảo tàng để học tập về lịch sử, thăm quan các kỉ vật, ôn lại những năm tháng hào hùng của cha ông chúng ta… luôn luôn là một điều đáng trân quý. Rõ ràng, nhìn dòng người đông đúc ghé thăm Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam trong ngày vừa qua, ai nhìn vào cũng thấy vui mừng, phấn khởi. 

Nhưng, giữa những hình ảnh vô cùng đẹp đẽ trong những ngày vừa qua, cũng tồn tại những vết gợn rất lớn, thậm chí có thể nói là hành động phá hoại các hiện vật, cổ vật, tổn thương không gian trưng bày của bảo tàng. 

Cha mẹ không quản lý được con cái, để mặc chúng bẻ gãy, đạp vỡ các mô hình trưng bày. Nhiều cha mẹ còn biến bảo tàng thành một cái tiệm giặt là quy mô lớn khi phơi quần áo ở ngay trước tòa nhà chính của bảo tàng. Nhiều người lớn dùng bút, phấn vẽ bậy lên nhiều bức tường, hiện vật, vũ khí trưng bày. Có một số người còn bê nguyên hiện vật súng phóng lựu lên chụp ảnh, dẫn đến khẩu súng đổ ra sàn, vỡ luôn cả bảng tên… Rác rưởi thì vứt nhiều nơi, sữa và nước ngọt đổ ra tung tóe trên hành lang di chuyển… 

Các bố mẹ còn để tụi nhỏ vô tư trèo lên các hiện vật như trực thăng, xe bóc thép, pháo, gây nguy hiểm cho các cháu. 

Nội quy của bảo tàng quy định cấm trèo lên hiện vật, tì tay lên kính, không ăn uống trong khu vực trưng bày, phải đóng góp bảo vệ hiện vật… Bác Phan Văn Giang có nói chỉ nên sờ hiện vật ở khu vực trưng bày ngoài trời mà thôi. 

Khi đăng những dòng viết này, mình cũng thấy có gì đó rất khó tả. Đáng nhẽ ra, chúng ta nên chia sẻ về những điều hay ho thú vị, chứ không phải là những hình ảnh xấu xí, phản cảm như thế này. Mong rằng, hãy thực sự đến vì sự biết ơn, tìm hiểu kỹ càng. 

Tôn trọng hiện vật trưng bày cũng chính là tôn trọng lịch sử và tôn trọng cha ông chúng ta./.