Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Cần xử phạt du khách vi phạm tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam?

 Để ngăn chặn thiệt hại cho Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam nói riêng và các bảo tàng, di tích nói chung, chuyên gia trong ngành du lịch cho rằng cần có biện pháp nghiêm khắc hơn nhằm điều chỉnh hành vi của khách tham quan.

Kể từ ngày mở cửa rộng rãi cho công chúng tại địa điểm mới ở quận Nam Từ Liêm (Hà Nội), Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam thu hút sự quan tâm rất lớn của công chúng. Có những ngày Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam ghi nhận tình trạng quá tải vì lượng khách quá đông. Trong đó, nhiều du khách không chấp hành nội quy khi tham quan Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.

Mới đây, trang facebook của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam đăng tải một số hình ảnh "chưa đẹp" tại bảo tàng, kèm nội dung: "Bên cạnh những niềm vui vì số lượng người dân đông đảo đến tham quan bảo tàng, vẫn còn đó nhiều hình ảnh không đẹp về một bộ phận du khách chưa có ý thức khi vô tư leo trèo, sờ nắn… làm ảnh hưởng đến các hiện vật được trưng bày. Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam là nơi trưng bày những hiện vật vô giá về lịch sử của dân tộc ta, bao gồm nhiều bảo vật quốc gia và khí tài quân sự có giá trị. Vì thế cho nên, ý thức của mỗi người cũng sẽ góp phần gìn giữ lịch sử cho những thế hệ tiếp nối mai sau".

Theo Trung tá, Quân nhân chuyên nghiệp Nguyễn Thị Lan Hương, Trưởng phòng Tuyên truyền - Giáo dục Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, sau thời gian mở cửa đón khách, những ngày qua, bảo tàng đã họp, đánh giá cũng như lên phương án đảm bảo tốt nhất cho công tác hướng dẫn tuyên truyền, bảo quản hiện vật trong thời gian tới. "Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tăng cường trong việc bố trí nhân lực ở khắp các khu vực của bảo tàng, nhằm phục vụ người dân và du khách một cách tốt nhất".

Tới đây các hiện vật trưng bày, đặc biệt là các bảo vật quốc gia sẽ được lưu trữ, bảo quản và bảo vệ một cách nghiêm ngặt hơn, tránh tính trạng không mong muốn xảy ra.

Cần thêm giải pháp bảo vệ hiện vật

Để ngăn chặn thiệt hại cho Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam nói riêng và các bảo tàng, di tích nói chung, ông Nguyễn Tiến Đạt – Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Hà Nội cho rằng cần có biện pháp nghiêm khắc hơn trong việc điều chỉnh hành vi của khách tham quan.

"Cần nghiêm khắc với các hành vi xâm hại hiện vật, trong đó cân nhắc xử phạt tùy theo tính chất, mức độ thiệt hại đến các hiện vật, bảo vật quốc gia hay tài sản khác của bảo tàng. Không chỉ ở bảo tàng mà rất nhiều di tích văn hóa - lịch sử hiện nay đều có nội quy và du khách phải tuân theo, như cấm sờ hiện vật, cấm leo trèo hay cấm các hành vi xâm hại...

Tôi quan sát thấy một điều rất lạ, du khách Việt Nam khi ra nước ngoài thường tuân thủ rất tốt nội quy các bảo tàng hay di tích; vậy tại sao những hành vi không đẹp lại xảy ra nhiều như vậy ở một bảo tàng ở trong nước? Những hiện vật, nhất là bảo vật quốc gia, cần được bảo vệ nguyên vẹn cho những thế hệ sau, điều đó cũng thể hiện sự văn minh của người Việt Nam", ông Nguyễn Tiến Đạt chia sẻ với VOV.VN.

Theo ông Nguyễn Tiến Đạt, một bộ quy tắc ứng xử khi tham quan, du lịch tại các bảo tàng và di tích cần được ban hành và đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao ý thức của khách tham quan. "Tại bảo tàng, người lớn cần phổ biến các quy tắc ứng xử này cho trẻ em, nhắc nhở con em mình. Không nên vì những bức ảnh chạy theo trào lưu, hay vì chiều con trẻ mà bất chấp các quy định của bảo tàng".

Trước mắt, ông Nguyễn Tiến Đạt đề xuất Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam nên tăng cường quản lý, có thể chăng dây tạo khoảng cách hợp lý giữa khách tham quan và hiện vật. Cân nhắc áp dụng công nghệ, hệ thống camera giám sát để điều tiết lượng khách và sớm phát hiện các cá nhân vi phạm để kịp thời chấn chỉnh.

"Bảo tàng nên thống kê xem lượng khách tăng cao trong khung giờ nào, ngày nào trong tuần, từ đó đặt ra giới hạn về lượng khách trong lúc cao điểm đó. Cần khuyến cáo về các khung giờ cao điểm để khách tham quan chủ động lên kế hoạch đến thăm bảo tàng. Dùng công nghệ để thống kê và điều tiết khách là phương pháp phổ biến mà nhiều nơi trên thế giới đã áp dụng. Thậm chí các biện pháp mang tính răn đe hơn cũng được các bảo tàng ở nước ngoài thực thi, có thể phạt tiền rất nặng hoặc truy tố, tùy theo mức độ thiệt hại gây ra. Khi biện pháp đủ mạnh, tất cả du khách đều phải tuân thủ, vì vậy ở nhiều nơi trên thế giới, những di tích, hiện vật được bảo tồn rất tốt sau hàng trăm năm", ông Nguyễn Tiến Đạt nói.

Nội quy khi tham quan Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam:

1. Tuyệt đối chấp hành mọi hướng dẫn của nhân viên Bảo tàng.

2. Trang phục lịch sự, không nói tục chửi bậy, không hút thuốc.

3. Mua vé đầy đủ.

4. Gửi hành lý, túi xách đúng nơi quy định.

5. Không mang vũ khí, vật liệu nổ, chất dễ cháy... vào Bảo tàng.

6. Không ăn, uống trong khu vực trưng bày.

7. Không tì tay lên kính, không chạm tay hay trèo lên hiện vật.

8. Có ý thức gìn giữ vệ sinh chung, bảo vệ hiện vật và các công trình công cộng.

9. Khách tham quan phải chịu trách nhiệm nếu gây ra bất cứ tổn thất nào cho Bảo tàng.

10. Khách quay phim, chụp ảnh phải hỏi ý kiến nhân viên Bảo tàng để biết được phạm vi cho phép. Không dùng đèn flash chụp ảnh hiện vật Bảo tàng.

11. Các cơ quan, đơn vị, trường học... đến tham quan theo đoàn vui lòng liên hệ đăng ký trước.

Quốc hội chốt chưa tăng lương khu vực công, lương hưu, trợ cấp BHXH trong năm 2025

 

Nghị Quyết về dự toán NSNN năm 2025 nêu rõ, chưa tăng tiền lương khu vực công, lương hưu, trợ cấp BHXH, trợ cấp hằng tháng, trợ cấp ưu đãi người có công trong năm 2025.

Sáng 13/11, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết về Dự toán NSNN năm 2025. Kết quả biểu quyết bằng hình thức điện tử cho thấy, với 428/430 ĐBQH tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội thông qua nghị quyết trên.

Quốc hội chốt chưa tăng lương khu vực công, lương hưu, trợ cấp BHXH trong năm 2025- Ảnh 1.

Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết Dự toán NSNN năm 2025.

Theo đó, Nghị quyết thông qua dự toán NSNN năm 2025, cụ thể:

1/ Thu NSNN là 1.966.839 tỷ đồng.

2/ Sử dụng 60.000 tỷ đồng nguồn tích lũy cho cải cách tiền lương của NSTƯ và 50.619 tỷ đồng nguồn cải cách tiền lương của ngân sách địa phương đến hết năm 2024 còn dư chuyển sang bố trí dự toán năm 2025 của các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương để thực hiện mức lương cơ sở 2,34 triệu đồng/tháng.

3/ Tổng số chi NSNN là 2.548.958 tỷ đồng.

4/ Mức bội chi NSNN là 471.500 tỷ đồng, tương đương 3,8% tổng sản phẩm trong nước (GDP), gồm: Bội chi NSTƯ là 443.100 tỷ đồng, tương đương 3,6%GDP; Bội chi ngân sách địa phương là 28.400 tỷ đồng, tương đương 0,2%GDP.

5/ Tổng mức vay của NSNN là 835.965 tỷ đồng.

Tại Điều 3 của Nghị quyết về thực hiện chính sách tiền lương, một số chính sách xã hội nêu rõ: Chưa tăng tiền lương khu vực công, lương hưu, trợ cấp BHXH, trợ cấp hằng tháng, trợ cấp ưu đãi người có công trong năm 2025.

Các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương tiếp tục thực hiện các giải pháp tạo nguồn cải cách chính sách tiền lương theo quy định. Cho phép tiếp tục loại trừ một số khoản thu khi tính số tăng thu ngân sách địa phương dành để cải cách tiền lương như quy định tại khoản 2 Điều 3 của Nghị quyết số 34/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội.

Quốc hội chốt chưa tăng lương khu vực công, lương hưu, trợ cấp BHXH trong năm 2025- Ảnh 2.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết.

Cho phép từ ngày 1/7/2024 được mở rộng phạm vi sử dụng nguồn tích lũy cho cải cách tiền lương của NSTƯ để điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH, trợ cấp hằng tháng, trợ cấp ưu đãi người có công và tinh giản biên chế; cho phép sử dụng nguồn cải cách tiền lương của ngân sách địa phương để thực hiện các chính sách an sinh xã hội do Trung ương ban hành và tinh giản biên chế.

Cho phép các địa phương sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn dư để đầu tư cho các dự án kết nối vùng, kết nối quốc gia, các công trình trọng điểm quốc gia thực hiện tại địa phương theo quy định của cấp có thẩm quyền trong trường hợp địa phương có nguồn dư lớn, cam kết bảo đảm nguồn kinh phí cải cách tiền lương và thực hiện các chính sách an sinh xã hội do Trung ương ban hành cho cả lộ trình đến năm 2030 và không đề nghị NSTƯ hỗ trợ.

Tiền đề thúc đẩy quan hệ hợp tác văn hóa giữa hai nước Việt Nam và Chile

 Nội dung chính của Chương trình hợp tác văn hóa Việt Nam-Chile bao gồm thúc đẩy sự phát triển của văn hóa sáng tạo thông qua các hoạt động trao đổi các nghệ sỹ, chuyên gia văn hóa...

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng và Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Nghệ thuật và Di sản Chile Carolina Arredondo Marzan đã tiến hành ký kết Chương trình hợp tác văn hóa Việt Nam-Chile giai đoạn 2024-2026. (Nguồn: Vietnam+)
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng và Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Nghệ thuật và Di sản Chile Carolina Arredondo Marzan đã tiến hành ký kết Chương trình hợp tác văn hóa Việt Nam-Chile giai đoạn 2024-2026. (Nguồn: Vietnam+)

Chiều 11/11, trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Cộng hòa Chile của Chủ tịch nước Lương Cường, lễ ký kết văn kiện hợp tác giữa hai nước đã diễn ra tại thủ đô Santiago de Chile dưới sự chứng kiến của Chủ tịch nước Việt Nam và Tổng thống Chile Gabriel Boric Font.

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng và Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Nghệ thuật và Di sản Chile Carolina Arredondo Marzan đã tiến hành ký kết Chương trình hợp tác văn hóa Việt Nam-Chile giai đoạn 2024-2026.

Chương trình hợp tác văn hóa giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam và Bộ Văn hóa, Nghệ thuật và Di sản Chile giai đoạn 2024-2026 nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện Tuyên bố ý định về hợp tác văn hóa giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Chile đã ký vào năm 2006.

Đây sẽ là tiền đề để thúc đẩy quan hệ hợp tác văn hóa giữa hai nước, đưa mối quan hệ Đối tác Toàn diện tiếp tục đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả và hướng tới nâng tầm quan hệ trong thời gian tới.

Nội dung chính của Chương trình hợp tác văn hóa bao gồm tăng cường hợp tác và trao đổi văn hóa giữa hai nước, thúc đẩy sự phát triển của văn hóa sáng tạo thông qua các hoạt động như trao đổi các nghệ sỹ, chuyên gia văn hóa, trao đổi chuyên môn, kiến thức và thông tin trong các lĩnh vực văn hóa, thiết lập mạng lưới các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo của Việt Nam và Chile, đào tạo nghệ thuật ở các cấp học...

Trong thời gian qua, Việt Nam và Chile đã triển khai một số hoạt động giao lưu, trao đổi văn hóa. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã hỗ trợ Đại sứ quán Chile tại Việt Nam tổ chức giới thiệu, quảng bá văn hóa thông qua các hoạt động chiếu phim, triển lãm tranh, ảnh như bức tường gốm sứ của Chile trên "Con đường gốm sứ" ở đê sông Hồng, Liên hoan phim Mỹ Latinh tại Việt Nam; Tuần phim Chile “Nền dân chủ là ký ức và tương lại”; Liên hoan phim Liên minh Thái Bình Dương.

Thời gian tới, hai nước sẽ tiếp tục trao đổi, phối hợp và tìm kiếm cơ hội để giới thiệu những nét đẹp văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam đến bạn bè Chile để hình ảnh, đất nước con người Việt Nam trở nên gần gũi, thân thiết hơn trong mắt người dân Chile./.

THÀNH LẬP QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM - MỘT TẤT YẾU LỊCH SỬ

 Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), Xứ ủy Nam Bộ, từ năm 1957, hoạt động xây dựng lực lượng vũ trang ở miền Nam diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp.

Tháng 1-1959, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc bằng phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang”.
Để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi hoàn toàn, giành lại độc lập toàn vẹn cho dân tộc, thống nhất đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) khẳng định: “Xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang nhân dân là một trong những điều kiện quan trọng của cách mạng nước ta để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược”. Quán triệt chủ trương của Đại hội, tháng 1-1961, Tổng Quân ủy (nay là Quân ủy Trung ương) ra Chỉ thị thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam - một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp chiến đấu trên chiến trường miền Nam.
Ngày 15-2-1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được chính thức tuyên bố thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tư lệnh, của Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền; được sự chi viện đắc lực, kịp thời của hậu phương miền Bắc, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nhanh chóng trưởng thành, lớn mạnh, lập nên những chiến công xuất sắc, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành sứ mệnh lịch sử giao phó.
Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, công lao đóng góp của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã khẳng định tầm nhìn chiến lược, quyết định đúng đắn, sáng tạo của Đảng về tổ chức, sử dụng lực lượng vũ trang trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng; là kết tinh của tinh thần chiến đấu mưu trí, dũng cảm, ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ; là sự đóng góp, đùm bọc của đồng bào trên mọi miền đất nước; sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế.
Sự kiện thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thể hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên lý Chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng; là nét đặc sắc của nghệ thuật sử dụng lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử, đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Về danh nghĩa, đây là đội quân do Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lập ra, có tên gọi, màu cờ, sắc áo riêng, nhưng thực chất là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, hoạt động trên chiến trường miền Nam.
Đây chính là sự sáng tạo của Đảng trong tổ chức và sử dụng lực lượng vũ trang cách mạng, bởi việc thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã hóa giải được quy định “lực lượng quân sự chính quy phải tiến hành tập kết” của Hiệp định Geneva. Vậy nên, về mặt pháp lý, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có vị thế tương đối độc lập với Quân đội nhân dân Việt Nam. Song về thực chất, đây là lực lượng nòng cốt của các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, chịu sự lãnh đạo tối cao từ trên xuống của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Bộ Quốc phòng - Bộ Tổng Tư lệnh, Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy Miền - Bộ Tư lệnh Miền. Nhiệm vụ của đội quân này được thể hiện rõ ràng trên tên gọi “Giải phóng miền Nam Việt Nam”. Tên gọi này đã nhận được sự đồng tình ủng hộ từ các lực lượng hòa bình, độc lập, dân chủ trên thế giới, tăng thêm sức mạnh từ hậu phương quốc tế để tiến hành chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Với tên gọi “Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam”, chúng ta đã tập hợp được các lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam, nhanh chóng phát triển về quy mô, tổ chức, chỉ huy thống nhất, tạo nên sức mạnh làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành đấu tranh vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tạo nên nét đặc sắc về sử dụng lực lượng vũ trang trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Quá trình xây dựng, trưởng thành, chiến đấu giành chiến thắng, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam càng khẳng định sự sáng tạo tài tình của Đảng. Đó cũng chính là yếu tố quan trọng để Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam lập nên những chiến công chói lọi, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà.
Quán triệt sâu sắc đường lối cách mạng của Đảng, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nhanh chóng phát triển với ba lực lượng: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Trong đó, chú trọng phát triển bộ đội chủ lực cả về biên chế, tổ chức và vũ khí, trang bị. Từ 5 trung đoàn của năm đầu tiên thành lập, bộ đội chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nhanh chóng phát triển, được trang bị hiện đại, có hỏa lực mạnh, sức cơ động cao, từ tiến hành các trận đánh quy mô nhỏ và vừa trong những năm đầu thành lập, tiến lên lên hình thành các sư đoàn đứng chân ở các vị trí chiến lược. Cùng với đó là sự phát triển rộng khắp của các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân, du kích, là cơ sở để Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đẩy mạnh tác chiến tập trung, kết hợp với tác chiến rộng khắp quy mô vừa và nhỏ của lực lượng dân quân du kích, tạo nên phương pháp tác chiến tổng hợp để thắng ngay trận đầu, giành thắng lợi từng bước, tiến tới làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Từ những chiến thắng đầu tiên như Vạn Tường, Plei Me năm 1965... khẳng định khả năng đánh được Mỹ, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phát triển thế tiến công giành thắng lợi trong hai mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967, tạo tiền đề để Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Để hỗ trợ cho phái đoàn đàm phán, hiện thực chủ trương “vừa đánh, vừa đàm” của Đảng, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã vượt qua tổn thất, mất mát, hy sinh, phát huy tinh thần quyết chiến quyết thắng, chủ động mở nhiều chiến dịch phản công và tiến công địch, giành những thắng lợi quan trọng như: Bu Prăng - Đức Lập, Phước Bình - Bù Đốp, Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào; Chiến dịch Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, Nguyễn Huệ,...; đánh bại các cuộc hành quân “Toàn thắng 1-71”, “Quang Trung 4”, “Lam Sơn 720”, “Quyết Thắng 20” của quân đội Sài Gòn, góp phần xoay chuyển cục diện chiến trường, cùng với thắng lợi của chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972 đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút quân về nước.
Để đi đến thắng lợi hoàn toàn, vượt qua rất nhiều khó khăn của những ngày đầu thi hành Hiệp định Paris, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đập tan âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền và quân đội Sài Gòn; tập trung phát triển lực lượng, hình thành nên những quân đoàn chủ lực, liên tiếp mở và giành thắng lợi ở các chiến dịch: Đường số 2 Bà Rịa - Long Khánh; Đường số 7 Bến Cát - Rạch Bắp; Nông Sơn - Thượng Đức; La Sơn - Mộ Tàu; Đường 14 - Phước Long... tạo thêm thế và lực để phát triển thế tiến công, thực hiện thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Những chiến công đó là kết tinh của tinh thần bất khuất, gan dạ, ý chí chiến đấu kiên cường, để lại những nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự.
Những dấu ấn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đi vào lịch sử chiến tranh cách mạng như những bản hùng ca, tô thắm thêm truyền thống đấu tranh anh dũng chống giặc ngoại xâm của dân tộc, khẳng định vị trí, vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại./.

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH SÁNG LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CẢ DÂN TỘC GIÀNH THẮNG LỢI VĨ ĐẠI

 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03/02/1930 là một tất yếu khách quan từ thực tiễn đấu tranh của Nhân dân ta chống sự nô dịch đế quốc. Sự ra đời của Đảng cũng gắn liền với tên tuổi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thực hiện sứ mệnh lịch sử sáng lập chính đảng vô sản ở Việt Nam, với những sáng tạo lý luận xuất sắc, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, xem người ta làm thế nào để trở về giúp đồng bào mình. Và Người phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các thuộc địa.
Cuối năm 1920, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp. Tại Đại hội này, Người đã tán thành theo Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập, trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam và là một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Ở các nước tư bản phát triển, như V.I.Lênin đã nói: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Còn ở Việt Nam, trong điều kiện một nước nông nghiệp thuộc địa nửa phong kiến, công nghiệp chưa phát triển, vào đầu những năm 1920, giai cấp công nhân Việt Nam tuy đã ra đời, nhưng còn rất nhỏ bé. Bằng kinh nghiệm của bản thân mình: Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đi tới một sáng tạo lớn là đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước để từng bước đi tới chuẩn bị thành lập một Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Bằng nhiều hoạt động, trong giai đoạn 1921-1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Đầu năm 1927, tập Đề cương bài giảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc biên soạn làm tài liệu huấn luyện chính trị ở Quảng Châu, 1925-1927, được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông do Người sáng lập, xuất bản thành sách với nhan đề Đường Kách mệnh. Tác phẩm Đường Kách mệnh được bí mật đưa về trong nước và sớm trở thành tài liệu căn bản để tuyên truyền giác ngộ chính trị theo chủ nghĩa Mác - Lênin và hướng dẫn các mặt hoạt động của Hội Thanh niên. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác dụng lớn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Nhân dân các nước thuộc địa Phương Đông. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại; cách mạng muốn thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản thế giới.
Về tư tưởng: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích đưa hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội. Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Đồng thời, Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với Nhân dân thuộc địa, Nhân dân Việt Nam và đề ra cho Nhân dân Việt Nam con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Về tổ chức: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu, Trung Quốc để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng.
Ở Việt Nam chỉ trong thời gian ngắn lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (tháng 11/1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (tháng 01/1930). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Nhiệm vụ đó đặt lên vai lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu của lịch sử là thống nhất các tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long - Hồng Kông, Trung Quốc, Hội nghị hợp nhất được tiến hành dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Trong Hội nghị hợp nhất, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình: Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm Cộng sản Đông Dương. Với sự nhất trí cao, Hội nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, sự nghiệp cách mạng nước ta đã giành những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đoàn kết, đồng lòng đánh thắng các thế lực thù địch. Những chiến công đã đi vào lịch sử như Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975). Đặc biệt, những thành tựu của công cuộc đổi mới, càng chứng minh cho sự lựa chọn đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thắng lợi to lớn đó đã chứng minh một chân lý: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta, cho dân tộc ta một di sản vô giá - Tư tưởng Hồ Chí Minh, một tấm gương trong sáng, mẫu mực mà mỗi công dân Việt Nam cần phải noi theo. Sự nghiệp cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng là ngọn đuốc soi đường cho Nhân dân Việt Nam xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hòa bình, thịnh vượng và phát triển./.

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - BIỂU TƯỢNG VỀ HOÀ BÌNH CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI

 Ngày 21/5, Đại sứ quán Việt Nam tại Italy đã phối hợp với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức buổi tọa đàm “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Biểu tượng về hòa bình của nhân dân Việt Nam và thế giới” dưới hình thức cả trực tiếp và trực tuyến.

Tọa đàm diễn ra trong bối cảnh kỷ niệm 134 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, danh nhân văn hóa, anh hùng giải phóng dân tộc được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh.
Tham dự tọa đàm có Đoàn công tác của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, do GS. TS. Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện làm trưởng đoàn; Đại sứ Dương Hải Hưng và cán bộ các cơ quan đại diện tại Italy; bà Lê Thị Bích Hường, Liên minh Chủ tịch các hội người Việt Nam tại Italy, kiêm đại diện Bộ môn Tiếng Việt, Trường Đại học Ca' Foscari, Italy; đại diện Chi bộ Lưu học sinh, sinh viên tại Rome; các đại diện của Đảng Cộng sản Italia, Đảng Cộng sản Tái lập Italia, Đảng Dân chủ Italia, Đảng Anh em Italy; Thượng viện Italy; Hội hữu nghị Italia - Việt Nam vùng Piemonte; Quỹ Italia - Việt Nam; Trường Đại học Đông phương Napoli; Đại học Palermo; Nhà xuất bản Anteo Edizioni.
Phát biểu khai mạc tọa đàm, Đại sứ Dương Hải Hưng nhấn mạnh rằng đây là hoạt động có ý nghĩa sâu sắc, giới thiệu những nội dung cốt lõi và quan trọng nhất về Chủ tịch Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công cuộc đổi mới mà Việt Nam đã thực hiện gần 40 năm qua, đưa Việt Nam trở thành một trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, một trong 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất toàn cầu, và tạo cơ sở vững chắc để thực hiện mục tiêu đến năm 2045 trở thành một nước công nghiệp hóa - hiện đại hóa, một nước phát triển có thu nhập cao.
Ngoài các nội dung chính trên, tọa đàm còn cung cấp thêm thông tin, làm rõ thêm thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Italy trong những năm 30 của thế kỷ trước, là mối dây tình cảm tô thắm thêm quan hệ đoàn kết chặt chẽ và sâu sắc giữa Việt Nam với Italy.
Trong báo cáo đề dẫn, GS. TS. Lê Văn Lợi nêu rõ mục tiêu của cuộc tọa đàm là làm sáng tỏ 5 nội dung, giá trị cốt lõi. Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng của hòa bình và phát triển trong độc lập, tự do, là hiện thân của quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm giữa các dân tộc và là lý tưởng, khát vọng của dân tộc Việt Nam và nhân loại. Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán khẳng định các nước có chế độ chính trị khác nhau đều có thể chung sống hòa bình, hợp tác cùng phát triển. Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh đấu tranh để bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản; giải quyết mâu thuẫn, bất đồng bằng thương lượng hòa bình, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi. Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn bày tỏ mong muốn: Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy và hữu nghị, hợp tác phát triển với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Thứ năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh nỗ lực giải quyết xung đột bằng con đường hòa bình; kiên quyết, kiên trì ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.
Theo GS. TS. Lê Văn Lợi, việc Việt Nam và Italy tăng cường hơn nữa sự hợp tác nghiên cứu, phổ biến, lan tỏa giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như tư tưởng các vĩ nhân, danh nhân văn hóa thế giới để cùng học tập, làm theo vì một thế giới hòa bình, phát triển và tiến bộ, chính là cách thức thiết thực để nâng cao sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tìm tiếng nói chung trong quan hệ hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Trong bản tham luận chính tại tọa đàm, PGS. TS. Đỗ Xuân Tuất, Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Hồ Chí Minh, cung cấp cho những người tham dự về dấu ấn không gian Italy trên hành trình khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc, hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. PGS. Đỗ Xuân Tuất đã dẫn các nguồn tài liệu đáng tin cậy cho thấy đầu tháng 6/1928, người thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã rời Berlin (Đức), qua Thụy Sĩ sang Italy, đến Milan, Rome và Napoli. Dù thời gian trên đất nước Italy ngắn ngủi, nhưng đó là "gạch nối" cho một dấu ấn trên hành trình khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc, hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
GS. Mario Primicerio, người được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tháng 11/1965 cùng cựu Thị trưởng thành phố Firenze, ông Giorgio La Pira, tại Hà Nội, nhớ lại kỷ niệm Bác Hồ đã chào bằng tiếng Italy và giải thích rằng Người đã từng ở Italy trong những năm 1930; đến Napoli với tư cách là thủy thủ trên một con tàu, sau đó đến thành phố Milan và làm việc trong một nhà hàng.
Bà Sandra Scagliotti, Lãnh sự danh dự Việt Nam, Chủ tịch Hội hữu nghị Italy - Việt Nam vùng Piemonte, kiêm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Việt Nam học tại thành phố Turin, khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng hòa bình, tình bạn giữa Việt Nam và thế giới. Bà cũng rất tâm đắc với những thông tin về thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Italy và bày tỏ mong ước có thể sưu tầm được đầy đủ.
Tại cuộc tọa đàm, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Italy Mauro Alboresi cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, đã trở thành điểm tham chiếu cho toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế, trong đó có Italy. Những người cộng sản Italy rất quan tâm đến hệ tư tưởng đã và đang hướng dẫn hành động của những người cộng sản Việt Nam nhằm khẳng định một giải pháp thay thế cho hệ thống tư bản chủ nghĩa, xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa hiện đại, với hạnh phúc của người dân là mục tiêu hàng đầu.
Trong tham luận của mình, ông Francesco Maringiò, Phó Chủ tịch Quỹ Italy-Việt Nam nói về nền tảng mang tính quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với vấn đề hội nhập quốc tế của Việt Nam. Theo ông, lời kết trong di chúc của Người, rằng “Mong muốn cuối cùng của tôi là Đảng và nhân dân ta đoàn kết chặt chẽ xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và thịnh vượng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”, chứa đựng tất cả những nét cơ bản của quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Những thành tựu trong 40 năm Đổi mới thể hiện việc vận dụng chiến lược hội nhập quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh của Việt Nam.
Còn tham luận của ông Stefano Bonilauri, Giám đốc Nhà xuất bản Anteo lại nêu bật rằng đóng góp về mặt lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho chủ nghĩa xã hội phản ánh sự kết hợp độc đáo giữa tư tưởng Mác - Lênin và truyền thống văn hóa Việt Nam, đưa ra một góc nhìn độc đáo về việc áp dụng các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa vào thực tế Việt Nam và toàn cầu. Một trong những nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tổng hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội quốc tế. Nói cách khác, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội không chỉ là một hệ tư tưởng kinh tế, mà còn là một hệ tư tưởng chính trị, đề cao quyền tự quyết của các dân tộc bị áp bức và sự tương trợ lẫn nhau. Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là minh chứng cho sức mạnh ý chí bất khuất của con người và khả năng ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử của một cá nhân.
Trao đổi với phóng viên TTXVN, ông Ugo Papi, Cố vấn Thị trưởng thành phố Rome, đại diện đảng Dân chủ Italia, nói: “Trong cuộc tọa đàm hôm nay, chúng ta tưởng nhớ đóng góp lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho nền hòa bình nhân loại. Đối với chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh thì hòa bình có ý nghĩa trước hết là công bằng, độc lập và tự quyết cho dân tộc. Do đó, nền hòa bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nền hòa bình gắn liền với thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân và đế quốc. Để giành lại nền độc lập và quyền tự quyết, nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu chống phát xít Nhật, rồi đến thực dân Pháp và cuối cùng là đế quốc Mỹ. Ngày nay, đất nước Việt Nam đã lớn mạnh với đường lối Đổi mới và tất cả chúng ta đều nhận thấy rõ từ Việt Nam một nền kinh tế phát triển, đời sống người dân được nâng cao. Hơi thở thời đại Hồ Chí Minh vẫn được tiếp nối trong mỗi người dân cũng như những người lãnh đạo đất nước và trong sự tôn trọng của toàn thế giới đối với Việt Nam”.
Ông Noberto Natali chia sẻ: “Thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần năm 1969, Đảng Cộng sản Italy đã long trọng tưởng nhớ Người và rất nhiều đảng viên mới đã gia nhập Đảng trong năm đó. Lúc ấy còn nhỏ, nhưng tôi cũng đứng trong hàng ngũ Đoàn Thanh niên Cộng sản với một niềm cảm hứng mang tên Hồ Chí Minh. Vì vậy, phẩm chất con người và hình ảnh đất nước Việt Nam luôn ở trong trong trái tim tôi”.
Còn ông Pino Piretti bày tỏ hy vọng: “Chúng tôi rất vui mừng được có mặt ở đây ngày hôm nay, được thảo luận với đoàn đại biểu Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là một dịp rất quan trọng bởi sự hiện diện của đoàn là minh chứng đạị diện cho ý chí kiên cường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không bao giờ ngừng đấu tranh. Những người Italy chúng tôi không thể nào quên những gì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho dân tộc Việt Nam. Chúng tôi cũng hy vọng về một triển vọng rằng một phần của sự nghiệp đó cũng được hiện thực hóa cả ở Italy, để triển vọng về chủ nghĩa xã hội, hòa bình, dân chủ, tự do, độc lập cuối cùng cũng có thể được thực hiện ở Italy”.
Một số tham luận, trao đổi của học giả Việt Nam và Italy đã làm sáng tỏ dấu ấn không gian Italy trên hành trình Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc, hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc. Dù ở đất nước Italy chỉ trong thời gian rất ngắn, nhưng hành trình đó của Người cũng đặt cơ sở cho việc Việt Nam và Italy thiết lập, tăng cường, mở rộng quan hệ ngoại giao (từ năm 1973) và quan hệ Đối tác chiến lược (từ năm 2013), tạo nền tảng quan trọng góp phần thúc đẩy quan hệ hai nước lên tầm cao mới./.

BÁC HỒ VỚI TINH THẦN TỰ HỌC

 Mùa hè năm 1911, Bác đặt chân lên đất Pháp, đối với Bác, kể từ thời điểm đó mọi việc từ sinh hoạt hàng ngày, tới công việc, nhằm tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đều phải sử dụng tiếng Pháp. Vì thế, nếu không biết tiếng Pháp thì thật là “trở ngại lớn nhất trên con đường tìm đường cứu nước, cứu dân”. Bác đã đặt ra quyết tâm “Nhất định phải học nói, học học viết cho kỳ được” và Bác đã tìm ra được phương pháp học cho riêng mình dù trong hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn.

Ngay khi còn trên chuyến tàu sang Pháp (La-tu-sơ Tơ-rê-vin, dưới các tên Văn Ba) mỗi lúc rảnh rổi, Bác thường tìm đến hai người lính trẻ đi cùng chuyến tàu để học đọc và viết tiếng Pháp. Họ cho Bác mượn những quyển sách nhỏ in tiếng Pháp. Muốn biết rõ về cái gì, muốn biết đồ vật nào đó viết bằng tiếng Pháp như thế nào, Bác đều chỉ tay hỏi. Tối tối sau khi đi làm về, Bác ghi lại những từ mới vào. Học được chữ nào, Bác ghép chúng lại thành câu thực hành ngay.
Ban đầu, Bác tập ghép một vài từ, sau ghép thành đoạn, dần dần Người tập viết thành từng bài dài. Một thời gian sau, Bác tìm đến các tờ báo của Pháp để xin được viết bài đăng báo. Trong những lần gửi bài, Bác nói với mọi người trong Tòa soạn rằng: “Tôi rất sung sướng nếu bài viết này của tôi được đăng, nhưng dù thế nào cũng xin các đồng chí sửa lỗi tiếng Pháp cho tôi”. Sau mỗi lần bài viết của Bác được đăng báo, Bác vui mừng khôn xiết, và theo chỉ dẫn của những chủ bút Bác vẫn không quên xem lại từng câu từng chữ, xem bài viết của mình đúng sai chỗ nào, Toàn soạn báo đã sửa lại cho mình ra sao? Bác tập viết di viết lại, khi thì viết diễn giải ra cho dài, lúc là những đoạn ngắn cho súc tích.
Cứ sau mỗi ngày làm việc, dù công việc bận bịu tới đâu, Bác vẫn tranh thủ đọc vài trang tiểu thuyết, vừa để giải trí, thư giãn đầu óc lại vừa để trao dồi kiến thức. Bác tập viết những bài phóng sự. Sáng nào Bác cũng viết từ 5 giờ đến 6 giờ rưỡi, tới 7 giờ Bác lại bắt tay vào công việc. Dù trời nóng hay rét Bác cũng không nản chí. Thấm thoắt thời gian trôi đi, cho đến năm 1922, Bác đã trở thành chủ bút của tờ báo “Người cùng khổ” viết bằng 3 thứ tiếng. Tên báo bằng tiếng Pháp đặt ở giữa, chữ Ả Rập bên trái và bên phải là chữ Hán, tất cả đều do Bác viết. Do Tòa soạn báo không có Ban biên tập thường xuyên, nên nhiều khi Bác phải “cáng đáng” mọi việc từ khâu sửa chữa, biên tập bài vở, tới khâu bán báo…

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 11/11

 “Phải luôn thi đua học tập và công tác, mở rộng tự phê bình và phê bình để tiến bộ mãi, để làm cho bộ đội ta càng thêm hùng mạnh, chính quyền ta càng thêm vững chắc”.

 

         Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư khen các chiến sĩ và cán bộ của các đơn vị tiếp quản Thủ đô”, đăng trên Báo Nhân dân, số 260, ra ngày 11 tháng 11 năm 1954.

 

      Thư gửi của Người viết trong trong thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa mới kết thúc (07/5/1954), Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21/7/1954). Sau một thời gian bộ đội ta về tiếp quản Thủ đô và bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng. Để cổ vũ, động viên kịp thời các đơn vị quân đội tiếp quản Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi và có những lời căn dặn quý báu đối với các đơn vị thực hiện nhiệm vụ này. Lời căn dặn của Bác là sự nhắc nhở sâu sắc đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội ta khi thực hiện nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô cần ra sức thi đua trong học tập và công tác, tích cực tu dưỡng và rèn luyện, giữ vững phẩm chất, đạo đức, khí tiết của người quân nhân cách mạng; gương mẫu trong mọi lời nói, hành động và việc làm; phải thường xuyên mở rộng và nêu cao tự phê bình và phê bình...

 

          Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, lời dạy của Bác có ý nghĩa to lớn, là sự định hướng cho quá trình học tập và công tác của mỗi cán bộ, công chức, viên chức các cấp, nhất là những cán bộ chủ trì các cấp, phải là lực lượng xung kích, đi đầu, phải nêu gương trên mọi lĩnh vực. Muốn vậy, mỗi cán bộ, công chức, viên chức các cấp cần tích cực học tập để nâng cao trình độ, năng lực, phương pháp tác phong công tác; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống; có thái độ giao tiếp, ứng xử chuẩn mực, có năng lực và tính chuyên nghiệp cao trong thực thi công vụ, nhiệm vụ được giao; thường xuyên nêu cao tự phê bình và phê bình, khắc phục những hạn chế, yếu kém để hoàn thiện bản thân. Đặc biệt, cần kiên quyết đấu tranh phòng, chống và khắc phục kịp thời sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

 

           Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ra sức học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ chính trị, quân sự, chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ được giao. Chủ động sáng tạo, quyết đoán, tự lực, tự cường, mưu trí, dũng cảm trong thực hiện nhiệm vụ. Chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội; gương mẫu trong thực hiện các quy định, nền nếp chế độ công tác, sinh hoạt, học tập, rèn luyện của đơn vị. Nói đi đôi với làm, tự phê bình và phê bình nghiêm túc, thẳng thắn, kiên quyết sửa chữa, khắc phục khuyết điểm; đấu tranh với mọi biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, gia trưởng, quân phiệt và những biểu hiện tiêu cực khác./.

 ĐI BẢO TÀNG LÀ VÌ YÊU NƯỚC, DẠY CHO CON LỊCH SỬ VIỆT NAM CHỨ ĐỪNG ĐẾN VÌ PHONG TRÀO

Ngày thứ 2 Bảo Tàng Lịch Sử Quân Sự Việt Nam mở cửa ❤️

Chị mặc áo đỏ, 2 bé mặc áo cờ đỏ sao vàng nổi bật trong đám đông. Mình có dõi theo 3 mẹ con, vì thực sự 3 mẹ con rất dễ thương, chụp ảnh mọi nơi với hiện vật và quốc bảo trong Bảo Tàng.



Điều làm mình ấn tượng và dễ thương là chị dặn tụi nhỏ rất kỹ : "Đứng xa ra con kẻo chạm vào hiện vật", "Cẩn thận đổ đó con"...

Tự dưng thấy dễ thương vô cùng và mình cũng mảy may nảy lên suy nghĩ mến mộ và tôn trọng chị hết sức vì đã dạy tụi nhỏ biết những điều nhỏ nhưng lại rất quan trọng. 

Nếu sau này có con mình cũng sẽ dạy con như vậy, vì đó là điều đúng đắn, đó là thứ giúp con trẻ hình thành từ nhỏ lòng biết ơn, sự trân trọng với những điều mà cha ông đã đánh đổi.

Những thứ được trưng bày trước mắt không đơn giản là hiện vật mà là minh chứng cho sự hy sinh, là các dấu mốc đau thương mà những cựu chiến binh, những người mẹ Việt Nam Anh Hùng có thể khóc ngất, nấc đến nghẹn lời khi nhìn lại.

Thế nên bằng mọi giá sau này mình sẽ dạy con mình những điều đó, phần vì mình muốn con là những đứa trẻ ngoan, sống có ích. Phần vì mình có lòng tự trọng của một người đàng hoàng, khi đặt mình vào vị trí của các phụ huynh của những bé leo trèo lên "Xe Tăng 843 Quốc Bảo của Dân Tộc" thì mình sẽ ôm cái nhục nhã đó đến hết đời mất.


QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ “HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH” VÀ VẬN DỤNG TRONG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ

 Trong công tác giáo dục, đào tạo nói chung; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng phương châm “học đi đôi với hành”. Người coi việc thực hiện phương châm này là nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên; đồng thời là tiêu chuẩn của một đảng cách mạng chân chính. Quan điểm của Người về thực hiện “học đi đôi với hành” luôn mang giá trị thời sự để Đảng ta vận dụng nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận cho đội ngũ cán bộ trong công cuộc đổi mới hiện nay.

1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “học đi đôi với hành”
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: cán bộ là gốc của mọi công việc và muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Người xác định: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”; và để huấn luyện cán bộ đạt hiệu quả thì phải thực hiện phương châm “học đi đôi với hành”. Đây là quan điểm mang tính phương pháp luận sâu sắc, không những có ý nghĩa chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng và cả hệ thống chính trị, mà còn trong xây dựng nền giáo dục mới của nước nhà.
Trong hành trình tìm đường cứu nước đầy gian nan, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không ngừng tự học tập và thực hiện gắn kết giữa học và hành để bổ sung những kiến thức mới trong kho tàng tri thức nhân loại, nhằm mục tiêu cao nhất là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhờ đó, Người đã vươn tầm trở thành một lãnh tụ vĩ đại, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, được nhiều nhà chính trị và cả những nhà văn hóa nổi tiếng trên thế giới cảm phục, yêu mến, ngưỡng mộ bởi cả đạo đức trong sáng, mẫu mực và trí tuệ lỗi lạc, uyên bác.
Khi sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925) và bắt tay vào công việc trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng những “hạt giống đỏ” của cách mạng Việt Nam, tại các lớp huấn luyện lý luận chính trị ở Quảng Châu, Trung Quốc trong những năm 1925 - 1927, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện nhất quán phương châm học đi đôi với hành. Chương trình đào tạo luôn có sự gắn kết giữa kiến thức lý luận và kiến thức thực tiễn, giữa truyền dạy lý thuyết và thảo luận, đặc biệt là thực hành, rèn luyện các kỹ năng tuyên truyền, làm báo, diễn thuyết, đi thực tế... Sau những khóa học, các học viên được đưa về nước hoạt động, thâm nhập thực tế đời sống nhân dân lao động, vận dụng những kiến thức đã học để vừa tuyên truyền, xây dựng, phát triển cơ sở cách mạng; vừa tìm kiếm, chọn lựa những học viên mới đưa sang Tổng bộ Thanh niên đào tạo.
Phương pháp huấn luyện cán bộ rất hiệu quả đó của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã lý giải được vì sao từ lúc ban đầu mới chỉ có 09 hội viên thì đến năm 1927, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã phát triển nhanh chóng các cơ sở về trong nước, trải rộng khắp ba miền Bắc - Trung - Nam với số lượng hàng trăm hội viên và ngày càng phát triển mạnh mẽ, góp phần hình thành nên lớp đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua, việc gắn liền giữa học và hành không chỉ là phương châm trong công tác huấn luyện cán bộ, mà còn được xác định là một trong năm nhiệm vụ (trách nhiệm) của cán bộ, đảng viên, đó là: “Phải thực hành cho được chánh sách và nghị quyết của Đảng và Quốc tế Cộng sản”. Người phê bình các cuộc hội nghị của tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ chỉ đưa ra “các lời đề nghị đều có ý mênh mông, không thấy đề nghị thế nào để tất cả đảng viên, tất cả chi bộ thảo luận và thực hành được các nghị quyết án của Trung ương; không thấy đề nghị kế hoạch thiết thực cho mỗi địa phương”.
Phương châm học đi đôi với hành tiếp tục được Nguyễn Ái Quốc chú trọng trong việc tổ chức huấn luyện cán bộ vào những năm 1941-1942 và trong công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ sau này. Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, sự thiếu hụt cán bộ có năng lực lãnh đạo, quản lý đặt ra yêu cầu cấp bách phải đẩy mạnh đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ. Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng vừa quan tâm chỉ đạo mở những lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ; vừa chú ý uốn nắn những lệch lạc trong công tác huấn luyện, học tập lý luận chính trị. Người phê phán một số cán bộ: “Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách”. Người nhấn mạnh, người cán bộ đã đọc được sách, đã học được lý luận thì phải ra sức thực hành, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế, phải chữa bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông.
Từ vai trò là một trong những phương châm chỉ đạo công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ, rồi trở thành một nhiệm vụ, trách nhiệm của người đảng viên, phương châm học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực hành được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là một trong 12 tiêu chuẩn của một đảng cách mạng chân chính: “Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, lý thuyết và thực hành, trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực hành là một chỉnh thể không thể tách rời trên thực tế của quá trình nhận thức. Sự phân định ra từng khâu trong quá trình nhận thức chỉ mang ý nghĩa tương đối, để thực hiện một cách hiệu quả, hoàn toàn không bị biệt lập.
Người nhấn mạnh: “Hiểu biết do thực hành mà ra. Hiểu biết lại trải qua thực hành mà thành lý luận. Lý luận ấy lại phải dùng vào thực hành. Sự tiến tới của hiểu biết chẳng những ở chỗ từ cảm giác tiến đến lý luận, mà cốt nhất là từ lý luận tiến đến thực hành cách mạng. Đã nắm được quy luật thế giới, thì phải dùng nó vào thực hành cải tạo thế giới, thực hành tăng gia sản xuất, thực hành giai cấp đấu tranh, dân tộc đấu tranh. Đó là quá trình liên tiếp của hiểu biết”. Vì vậy, Người phê bình những sai lầm, hạn chế xảy ra do tách rời giữa việc học và hành, lý thuyết và thực hành: “Những bệnh duy tâm, máy móc, mạo hiểm, chủ quan,v.v, đều vì tách rời điều kiện khách quan với chủ quan, tách rời lý luận với thực hành mà có”. Đây là sự cảnh báo có ý nghĩa thời sự rất cao đối với công tác lãnh đạo, quản lý nói chung; việc xây dựng chủ trương, chính sách, biện pháp nói riêng.
Trước khi về cõi vĩnh hằng, trong bản Di chúc thiêng liêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn trăn trở dặn lại một trong những công việc cần phải làm sau ngày nước nhà thống nhất là: “Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập nửa ngày lao động”. Đó là mô hình các trường học gắn liền giữa học và hành, giữa chương trình học trên lớp và thực tế đầy sinh động của cuộc sống.
2. Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “học đi đôi với hành” để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hiện nay
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc quán triệt, thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về học đi đôi với hành, lý thuyết gắn kết chặt chẽ với thực hành là một yêu cầu cấp thiết đối với nền giáo dục Việt Nam nói chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng và hệ thống chính trị nói riêng. Trong thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được nêu ra từ Đại hội ĐBTQ lần thứ XI và Hội nghị Trung ương lần thứ tám, khóa XI, nhiều ý kiến của các nhà quản lý, nhà khoa học đã chỉ ra những vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết là chất lượng nền giáo dục còn thấp và lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, lạc hậu với thực tế; chương trình học vừa nặng nề, quá tải, vừa không thiết thực, nặng về truyền thụ kiến thức hàn lâm, ít chú trọng giáo dục đạo đức công dân, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng sống; tình trạng “hư học” nhiều hơn “thực học”; tình trạng thừa thầy, thiếu thợ; học xong mà không sử dụng được, học nghề này, nhưng khi ra trường lại làm nghề khác...
Riêng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng và hệ thống chính trị, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư, khóa XII đã chỉ ra một trong những hạn chế, yếu kém là: “Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới”. Nghị quyết xác định một trong chín biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên là: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa XII đánh giá: “Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”. Một trong những biểu hiện cụ thể của những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ được Nghị quyết chỉ ra là: “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh”.
Những hạn chế, yếu kém trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có một thực tế là quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về học đi đôi với hành, lý thuyết gắn kết với thực hành chưa thực sự được chú trọng đầy đủ và thực hiện nghiêm túc trong nền giáo dục nói chung, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng. Vì vậy, việc vận dụng quan điểm “học đi đôi với hành” nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hiện nay, cần chú ý những nội dung sau:
Một là, đối với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải thực sự quán triệt và thực hiện nghiêm túc phương châm học đi đôi với hành mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, coi đây là một trong những nguyên tắc chỉ đạo trong thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Quan điểm học đi đôi với hành phải được thể hiện nhất quán và toàn diện trong các khâu của quá trình đào tạo, bồi dưỡng, từ mục tiêu, nội dung, chương trình đến tài liệu giảng dạy, học tập; phương pháp giảng dạy và học tập; kiểm tra, đánh giá kết quả học tập; từ cán bộ quản lý nhà trường đến giảng viên. Đặc biệt, phải chú ý làm rõ: “Người đến chịu huấn luyện rồi, có áp dụng được ngay không? Có thực hành được ngay không?”.
Hai là, đối với học viên, khi tham dự các khóa đào tạo, bồi dưỡng phải ý thức được học tập là để vận dụng vào thực tiễn công tác, để làm cho công tác đạt hiệu quả cao hơn. Qua quá trình vận dụng nhuần nhuyễn những kiến thức đã học vào thực tiễn công tác, mỗi người mới thực sự nắm bắt những kiến thức đã học, biến những kiến thức trong kho tàng tri thức nhân loại thành tri thức của bản thân; đồng thời trên cơ sở vận dụng những kiến thức đó trong thực tiễn để bổ sung, phát triển những tri thức mới. Mỗi người học cũng cần có ý thức rõ rằng việc tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng không phải là học tập cho xong việc, không phải vì chạy theo bằng cấp, hoặc “vì tạo cho mình một cái vốn để sau này đưa ra mặc cả với Đảng”. Bởi lẽ, quá trình giáo dục chỉ thực sự đạt được kết quả khi người học nhận thức được và biến nó thành quá trình tự giáo dục. Mục tiêu, động cơ học tập đúng đắn là tiền đề giúp quá trình học tập đạt hiệu quả tối ưu.
Ba là, trong quá trình học tập, đặc biệt là việc học tập lý luận chính trị, cần tránh việc học thuộc lòng câu chữ và áp dụng một cách máy móc, rập khuôn những kiến thức đã học; phải có tư duy độc lập, tự chủ để hiểu rõ, hiểu đúng các quan điểm, nguyên lý và xem xét chúng có phù hợp với tình hình mới hay không. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Việc học tập lý luận của các đồng chí không phải nhằm biến các đồng chí thành những người lý luận suông, mà nhằm làm thế nào cho công tác của các đồng chí tốt hơn, nghĩa là các đồng chí phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”.
Bốn là, để thực hiện tốt phương châm học đi đôi với hành, mỗi học viên phải luôn nêu cao tinh thần khiêm tốn, không ngừng học hỏi, cầu tiến bộ, tránh chủ quan, kiêu ngạo tự phụ, tự mãn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”./.

XẠ THỦ TÊN LỬA VÁC VAI A72 HUYỀN THOẠI CỦA PHÒNG KHÔNG VIỆT NAM

 Với 13 lần bắn hạ máy bay các loại, Nguyễn Văn Thoa là một trong những "xạ thủ" sử dụng tên lửa vác vai A72 nổi tiếng nhất của Quân chủng Phòng không - Không quân Việt Nam.

Từ khi còn nhỏ, cậu bé Nguyễn Văn Thoa (SN 1952) đã ước mơ được đi bộ đội, vác súng bắn rơi những chiếc máy bay Mỹ suốt ngày quần lượn, ném bom bắn phá nhà cửa, trường học, giết hại người dân quê mình (xã Cao Đại, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc).
Đến tháng 8/1971, khi vừa tốt nghiệp Trường cấp 3 Lê Xoay, Nguyễn Văn Thoa đã viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Cho dù chưa đủ cân nặng theo quy định, nhưng với khát khao và khí thế hừng hực của tuổi trẻ, Nguyễn Văn Thoa được đồng ý cho nhập ngũ.
Ngày đầu nhập ngũ, Thoa được vào đại đội 3, tiểu đoàn 17 thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân. Sau đợt huấn luyện tân binh, Nguyễn Văn Thoa được cấp trên cử tham gia một khóa huấn luyện ngắn chuyên sử dụng tên lửa vác vai A72.
Tích cực học hỏi, nghiên cứu, Nguyễn Văn Thoa nhanh chóng nắm chắc nguyên lý, cơ chế hoạt động của tên lửa vác vai A72. Chỉ qua vài tháng huấn luyện, đồng đội và thủ trưởng đánh giá Nguyễn Văn Thoa rất giỏi về ước lượng cự ly, ngắm bắn đón, chọn vị trí, lấy tham số nhanh và phóng đạn kịp thời.
Ngày 5/4/1972, một dàn máy bay Mỹ ầm ầm kéo vào khu vực Minh Thạnh, Tây Ninh. Chỉ với 37 giây ngắm bắn, Thoa phóng quả đạn đầu tiên bắn rơi một máy bay địch trong sự vui mừng khôn xiết của cả đơn vị.
Tháng 5/1972, Nguyễn Văn Thoa tiếp tục bắn cháy và rơi tại chỗ 3 máy bay (gồm 2 chiếc HU-1A và 1 máy bay trinh sát L19) của địch.
Với sự sáng tạo trong cách đánh và khả năng tính toán tài tình về kỹ thuật sử dụng tên lửa A72, Nguyễn Văn Thoa được điều động tăng cường phối thuộc cho các đơn vị trong nhiều trận chiến đấu quan trọng. Ở đơn vị nào anh cũng lập được thành tích bắn rơi máy bay địch và được cấp trên tuyên dương, khen thưởng.
Ngày 15/1/1975, trong trận chiến đấu ở thị xã Mộc Hóa, bên bờ sông Vàm Cỏ Tây, Nguyễn Văn Thoa bị thương do mảnh đạn nhỏ bắn trúng vào đầu. Thế nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, anh lại xin đi theo đơn vị để chiến đấu.
Những ngày đầu tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Thoa được điều động tăng cường cho đoàn Pháo binh Biên Hòa tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Anh được giao cùng các đồng đội án ngữ, kìm chế máy bay lên xuống phía Bắc sân bay Tân Sơn Nhất.
Đúng ngày 30/4, sau khi quan sát thấy máy bay địch vào tầm ngắm, nhận lệnh từ cấp trên, Nguyễn Văn Thoa đã phóng đạn bắn rơi chiếc máy bay C130 của địch, cách giờ toàn thắng 2h30 phút. Đây cũng là chiếc máy bay cuối cùng của Mỹ bị bắn rơi trong chiến tranh Việt Nam.
Kết thúc sự nghiệp "xạ thủ", Nguyễn Văn Thoa đã bắn rơi tổng cộng 13 máy bay các loại. Anh đã được tặng thưởng 13 huy chương dũng sĩ diệt Mỹ, 3 huân chương chiến công và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Niềm vui đời thường
Tháng 10/1976, Nguyễn Văn Thoa có quyết định nghỉ phục viên. Anh đăng ký thi và đỗ vào chuyên ngành thú y, trường Đại học Nông nghiệp Thái Nguyên, rồi công tác trong ngành chăn nuôi đến năm 1991 thì nghỉ chế độ.
Nhận thấy vùng đất bãi quê mình có nhiều thuận lợi khi phát triển chăn nuôi, trồng trọt, ông nhận thầu một khu đất bãi để làm trang trại. Vừa làm kinh tế trang trại, ông Thoa vừa tích cực tham gia các hoạt động của hội cựu chiến binh xã.
Những năm gần đây, do tuổi cao và sức khỏe thuyên giảm, anh hùng Nguyễn Văn Thoa xin nghỉ làm ở hội cựu chiến binh. Niềm vui bình dị mỗi ngày của ông là chăm sóc cây cảnh, đọc báo và vui vầy cùng con cháu tại ngôi nhà nhỏ nằm ven sông Hồng đỏ quạch phù sa.