Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

GÌN GIỮ HÌNH ẢNH ĐẸP CỦA "BỘ ĐỘI CỤ HỒ"

 “Bộ đội Cụ Hồ” là tên gọi trìu mến mà Nhân dân dành cho Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, bao gồm cả tình yêu thương, kính trọng hết mực dành cho người lãnh tụ vĩ đại của đất nước – Chủ tịch Hồ Chí Minh. Suốt hành trình 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, QĐND Việt Nam vẫn giữ trọn hình ảnh đẹp trong lòng dân.

Nhân dân ta gọi quân đội của mình là bộ đội của Cụ Hồ, vì cảm nhận một cách sâu sắc quan hệ đặc biệt hiếm có giữa Bác và quân đội, Bác và những người chiến sĩ. Mỗi bước trưởng thành, mỗi chiến công của quân đội đều gắn liền với sự giáo dục, rèn luyện của “Người cha thân yêu”.
Hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ" trở thành mẫu hình về con người mới có lý tưởng cao đẹp, có đạo đức trong sáng, thực hiện trọn vẹn, xuất sắc chỉ thị, những lời dặn và niềm tin sâu sắc của Bác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành lời khen nhân dịp kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/1964): “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
GS.TS Đinh Xuân Dũng (nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương) khẳng định: “Nhân cách "Bộ đội Cụ Hồ", tất nhiên, nó không phải là sản phẩm tự phát, mà đó là quá trình rèn luyện, phấn đấu, hy sinh vì lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của Nhân dân.
Bởi vậy, việc tiếp tục nuôi dưỡng, xây dựng, phát triển kiểu mẫu nhân cách đó lúc này và trong tương lai là nhiệm vụ cực kỳ to lớn và phức tạp. Khi lịch sử dân tộc chuyển sang giai đoạn mới, khác về chất lượng (kết thúc chiến tranh, đất nước hòa bình, trực tiếp chiến đấu sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa xây dựng, vừa bảo vệ Tổ quốc), một mặt, phải giữ vững các giá trị cốt lõi, cơ bản đã được định hình từ những năm kháng chiến. Mặt khác, phải bổ sung những giá trị cần thiết cho nhân cách người chiến sĩ thời kỳ mới”.
Người lính hôm nay phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, động cơ trong sáng, trách nhiệm cao; có đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh; có văn hóa, tri thức khoa học, trình độ quân sự, năng lực, phương pháp, tác phong công tác và sức khỏe tốt; thực hành dân chủ, kỷ luật tự giác, nghiêm minh; xây dựng đoàn kết nội bộ tốt, tôn trọng, giúp đỡ, gắn bó máu thịt với Nhân dân, tinh thần quốc tế trong sáng…
Bên cạnh đó, chú trọng xây dựng các mối quan hệ trong đơn vị, nhất là quan hệ giữa cán bộ với chiến sĩ, cấp trên với cấp dưới, chiến sĩ cũ với chiến sĩ mới; tình thương yêu đồng chí, đồng đội; đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân - dân tốt; có thói quen, hành vi ứng xử có văn hóa, hành động theo điều lệnh; biết phân biệt đúng - sai, bảo vệ cái đúng, đấu tranh với cái sai, giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập, công tác, trong các mối quan hệ, góp phần nâng cao “sức đề kháng” trước tác động tiêu cực của xã hội, nhất là từ Internet, mạng xã hội.
Dự báo, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố... vẫn sẽ diễn ra gay gắt.
Trong nước, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, song còn có nhiều khó khăn, thách thức, sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, suy thoái về đạo đức, lối sống, phân hóa giàu nghèo, những vấn đề bức xúc nảy sinh trong xã hội… đã tác động đến nhận thức, tư tưởng một bộ phận cán bộ, chiến sĩ, Nhân dân.
Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa” quân đội, xuyên tạc hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn ngày càng phức tạp.
Hơn ai hết, chính mỗi người dân chúng ta, từng cán bộ, chiến sĩ trong QĐND Việt Nam phải hết sức tỉnh táo, một lòng gìn giữ hình ảnh cao quý, thiêng liêng của “Bộ đội Cụ Hồ”, trở thành điều bất khả xâm phạm. Trong bất luận hoàn cảnh nào, truyền thống, phẩm chất, hình ảnh cao đẹp ấy phải trở thành lẽ sống, phương châm hành động, mãi tỏa sáng tin yêu./.
St

“MẠNG XÃ HỘI CÓ TRÁCH NHIỆM RÀ QUÉT, TỰ ĐỘNG GỠ THÔNG TIN XẤU ĐỘC, SAI SỰ THẬT”

 Theo Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, các nền tảng mạng xã hội có không gian riêng, thuê bao riêng với hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ người dùng phải có trách nhiệm rà quét, phát hiện, tự động gỡ bỏ thông tin xấu độc, sai sự thật.

Sáng 12/11, Quốc hội tiến hành phiên chất vấn nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực Thông tin và Truyền thông.
Đại biểu Nguyễn Duy Thanh (đoàn Cà Mau) cho biết, trong những năm qua, sự phát triển bùng nổ của mạng xã hội đã kéo theo tình trạng tin giả, tin sai sự thật, tạo ra những hệ lụy tiêu cực, gây bức xúc trong dư luận, lại cạnh tranh khốc liệt với báo chính thống cả về thông tin và doanh thu.
“Với vai trò quản lý nhà nước, Bộ trưởng có phương án như thế nào để quản lý mạng xã hội?”, đại biểu Nguyễn Duy Thanh nêu câu hỏi.
Trả lời vấn đề này, Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, đây là vấn đề không chỉ ở Việt Nam mà mang tính toàn cầu. Trong lần trả lời chất vấn này, Bộ trưởng nói về một số giải pháp mới.
Đầu tiên là việc hoàn thiện thể chế. Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, trước đây chỉ quy định xử lý cá nhân sử dụng mạng xã hội khi đưa thông tin sai sự thật, tin giả. Còn Nghị định 147/NĐ-CP/2024 vừa được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành đã đưa vấn đề xử lý các nền tảng xã hội khi vi phạm pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, trước đây hay nghĩ nhiều đến trách nhiệm quản lý nhà nước, nhưng theo Bộ trưởng TT&TT, ở đây có trách nhiệm lớn của các nền tảng mạng xã hội. “Họ có không gian riêng, thuê bao riêng với hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ người dùng, thì họ phải có trách nhiệm rà quét, phát hiện, tự động gỡ bỏ thông tin xấu độc, sai sự thật”, ông Nguyễn Mạnh Hùng cho hay.
Vấn đề thứ ba, theo Bộ trưởng là công tác truyền thông. “Chúng ta sống trong thế giới thực hàng chục nghìn năm vẫn còn có những tồn tại. Không gian mới là không gian số thì mới được 20 năm, mới lạ với tất cả chúng ta”. Bởi vậy, theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, vấn đề truyền thông để người dân có kỹ năng số, biết sử dụng các nền tảng số, có khả năng đề kháng trên không gian số... không chỉ cho chúng ta, mà còn cho thế hệ tương lai, tức các em học sinh.
Ngoài ra, Bộ TT&TT đã thành lập và đưa vào vận hành trung tâm chống tin giả, tin sai sự thật quốc gia để người dân có nơi để phản ánh, đề nghị giúp đỡ.
Muốn giữ vững trận địa, báo chí phải làm khác mạng xã hội
Đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi (đoàn Bến Tre) cho biết, trong giai đoạn bùng nổ thông tin với sự hỗ trợ của các nền tảng mạng xã hội có tính năng chia sẻ cao, thì hiện tượng "người người làm báo, nhà nhà làm báo", làm kênh riêng đưa lên mạng, kèm theo quảng cáo, với nhiều nội dung giật gân, phản cảm, sai sự thật đã gây bức xúc trong dư luận.
“Đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp để chấn chỉnh tình trạng trên, đồng thời có các giải pháp nào nhằm nâng cao vai trò của báo chí chính thống, cách mạng để làm tốt vai trò định hướng, tuyên truyền?”, đại biểu đoàn Bến Tre nêu câu hỏi.
Trả lời câu hỏi của đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, khi mạng xã hội ra đời, có thể nói đã lấy mất nghề của báo chí. Nghề báo chí trong nhiều trăm năm qua tập trung vào đưa tin, nhưng mạng xã hội hiện nay đưa tin nhanh hơn, mạng xã hội có hàng chục triệu phóng viên mà không phải trả tiền lương, họ ở khắp mọi nơi.
“Báo chí muốn giữ vững trận địa của mình thì phải làm khác mạng xã hội, quay về những giá trị cốt lõi của báo chí, tin xác thực, chính xác, khách quan, có trách nhiệm giải trình, đạo đức nghề nghiệp; thay vì đưa tin thì phân tích đánh giá; thay vì bình luận thì đưa ra giải pháp, thay vì đưa tin thì kể câu chuyện dẫn dắt định hướng xã hội”, Bộ trưởng nói.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, trước đây, báo chí trong không gian thực là lực lượng chủ đạo, còn hiện nay lên không gian mạng, thông tin từ báo chí phải định hướng được dòng chảy, đảm bảo chất lượng tin tức, nội dung. Bộ TT&TT, Ban Tuyên giáo Trung ương và Hội Nhà báo Việt Nam đã xác định đây là định hướng chính để xác định lại vị trí, vai trò của báo chí cách mạng.
“Chúng tôi cũng xác định cách tốt nhất để báo chí cạnh tranh với mạng xã hội là làm khác mạng xã hội và quay về với giá trị cốt lõi của mình. Sử dụng công nghệ của mạng xã hội để làm báo và coi mạng xã hội là môi trường để xuất hiện”, Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng nói./.
St

TỪ NĂM 2025, CÁC ĐỐI TƯỢNG XẾP LOẠI HOÀN THÀNH XUẤT SẮC NHIỆM VỤ ĐƯỢC THƯỞNG 8 LẦN MỨC LƯƠNG CƠ SỞ

 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vừa ban hành Thông tư số 95/2024/TT-BQP ngày 11-11-2024 về việc hướng dẫn thực hiện chế độ tiền thưởng (thưởng định kỳ hằng năm và thưởng đột xuất) đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.​

Theo đó, đối tượng áp dụng của Thông tư gồm: Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng và công chức làm việc trong Quân đội (công chức quốc phòng);
Người làm công tác cơ yếu, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu tại Ban Cơ yếu Chính phủ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan.
1. Chế độ tiền thưởng định kỳ hằng năm
Các đối tượng nêu trên được hưởng chế độ tiền thưởng định kỳ hằng năm khi được cấp có thẩm quyền đánh giá kết quả, xếp loại từ mức độ hoàn thành nhiệm vụ trở lên.
Mức tiền thưởng:
Các đối tượng được đánh giá, xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: Năm 2024, mức thưởng bằng 4 lần mức lương cơ sở; từ năm 2025 trở đi, mức thưởng bằng 8 lần mức lương cơ sở.
Các đối tượng được đánh giá, xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ: Năm 2024, mức thưởng bằng 3,5 lần mức lương cơ sở; từ năm 2025 trở đi, mức thưởng bằng 7 lần mức lương cơ sở.
Các đối tượng được đánh giá, xếp loại hoàn thành nhiệm vụ: Năm 2024, mức thưởng bằng 1,5 lần mức lương cơ sở; từ năm 2025 trở đi, mức thưởng bằng 3 lần mức lương cơ sở.
Trong năm, nếu các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước từ 7 tháng trở lên thì mức tiền thưởng bằng 1 lần các mức nêu trên; nếu hưởng lương từ ngân sách nhà nước dưới 7 tháng thì được hưởng 1/2 mức thưởng nêu trên.
2. Chế độ tiền thưởng đột xuất
Các đối tượng được hưởng chế độ tiền thưởng đột xuất khi có thành tích công tác đột xuất lập được trong hoàn cảnh không được dự báo trước, diễn ra ngoài kế hoạch hoặc ngoài nhiệm vụ thường xuyên mà cá nhân được giao đảm nhiệm.
Mức tiền thưởng đột xuất thực hiện theo quy chế tiền thưởng đột xuất của Bộ Quốc phòng.
Trường hợp đối tượng lập thành tích công tác đột xuất được cấp có thẩm quyền xét thăng quân hàm, nâng bậc lương trước thời hạn nhưng đã giữ quân hàm cao nhất của chức vụ, chức danh đảm nhiệm; đã giữ bậc lương cuối cùng trong loại, nhóm lương hiện hưởng hoặc nếu bảo lưu thành tích công tác đột xuất nhưng không còn đủ thời gian công tác để được thăng quân hàm, nâng bậc lương trước thời hạn hoặc đồng thời có các thành tích khác đủ điều kiện để xét thăng quân hàm, nâng bậc lương trước thời hạn thì ngoài mức tiền thưởng đột xuất như nêu trên, được xem xét thưởng thêm một khoản tiền bằng một tháng tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội tính tại thời điểm lập thành tích công tác đột xuất.
Trường hợp cùng thực hiện một nhiệm vụ đủ điều kiện xét nhiều mức tiền thưởng thì chỉ được hưởng mức tiền thưởng cao nhất.
Chế độ tiền thưởng đột xuất không áp dụng đối với các đối tượng được khen thưởng theo quy định của Luật Thi đua khen thưởng với các hình thức: Khen thưởng công trạng; khen thưởng phong trào thi đua; khen thưởng quá trình cống hiến; khen thưởng niên hạn; khen thưởng đối ngoại; khen thưởng trong sơ kết, tổng kết các cuộc vận động theo chuyên đề, thực hiện nhiệm vụ thường xuyên.
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 25-12-2024.
Chế độ tiền thưởng định kỳ hằng năm quy định tại Thông tư này được thực hiện từ ngày 1-7-2024./.
St

VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

 Trong giai đoạn hiện tại, không một quốc gia nào có thể bỏ qua vấn đề nhân quyền mà có thể thiết lập quan hệ tốt đẹp với nước khác và không gặp phải sự phản kháng của nhân dân. Vì thế, quay trở lại với các tư tưởng chính trực, đúng đắn và nhân văn được thực tế và lịch sử thừa nhận về quyền con người (QCN) của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính tất yếu khách quan. Tuy nhiên, thời đại ngày nay đã khác với những năm 50, 60 của thế kỷ XX nên những vấn đề mà người dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam phải đối mặt trong lĩnh vực phát triển kinh tế nhằm bảo đảm QCN cũng có nhiều vấn đề mới, cần nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo và khoa học và phù hợp.

1. Trong lĩnh vực kinh tế, QCN được Hồ Chí Minh giải thích một cách giản dị, đó là làm cho dân được ấm no và giàu có. Để nhân dân Việt Nam được no cơm, ấm áo, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: phải phát triển sản xuất. Người nói: “Muốn xã hội giàu thì mỗi cá nhân, mỗi gia đình cho đến cả nước phải tăng gia sản xuất”. Muốn phát triển sản xuất, phải tiết kiệm để tích lũy vốn cho đầu tư phát triển, phải nắm vững và tích cực cải tiến công nghệ, phải áp dụng các hình thức tổ chức sản xuất tối ưu.
Dù theo chủ nghĩa nào thì phát triển kinh tế cũng là điều kiện vật chất để công dân cải thiện cuộc sống và vị thế trong xã hội. Thực tế cho thấy, ở các nước có chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa, khi thu nhập đầu người khá cao, vượt qua nhiều mức thu nhập thỏa mãn nhu cầu tất yếu, chính phủ có thể tăng thu thuế để cung cấp nhiều loại phúc lợi xã hội cho dân cư, tức bảo đảm QCN một cách phổ biến. Một chính phủ không có nguồn lực tài chính thì khó có thể duy trì bộ máy quyền lực của mình, nói gì đến hỗ trợ công dân bằng phúc lợi xã hội. Chính vì thế, ưu tiên phát triển kinh tế, với tư cách điều kiện và nội dung quan trọng bảo đảm QCN, một trong những tư tưởng kiên định của Hồ Chí Minh cần được phát huy.
Trong giai đoạn đến 2030 và 2045, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao năng suất lao động để đạt được thu nhập cao trên cơ sở ứng dụng thành quả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu giúp Việt Nam tăng trưởng nhanh, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội, bảo đảm QCN. Đây là nhiệm vụ không hề dễ dàng, nhưng không phải bất khả thi. Trên thế giới đã có nhiều nước hoàn thành quá trình này trong 25-30 năm. Năm 2020 Việt Nam đã lỡ hẹn với mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên cần tính toán các kế hoạch khả thi.
L Một trong những điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ này là đội ngũ lao động đáp ứng yêu cầu và quản lý nhà nước nhằm tạo môi trường thích ứng. Trong điều kiện đó, tư tưởng người lao động phải tự giác, tự chủ hoàn thành nhiệm vụ của mình, không dựa dẫm, ỷ lại vào xã hội, nhà nước và yêu cầu đối với cán bộ mà Hồ Chí Minh đề ra là vừa hồng,vừa chuyên phải được vận dụng thực chất và phù hợp với tình hình mới.
Phát triển kinh tế trong điều kiện hội nhập vào thị trường thế giới trong đó quyền chi phối còn nằm trong tay các nước tư bản lớn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mọi công dân phải linh hoạt ứng biến, một mặt, giống như khẳng định của Hồ Chí Minh, phải kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, bởi chỉ có xã hội chủ nghĩa mới cho phép quảng đại người lao động có điều kiện vật chất và tinh thần làm chủ xã hội, làm chủ chính mình. Tuy nhiên, phải thoát khỏi tư tưởng nóng vội cho rằng có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng biện pháp hành chính.
Phát triển kinh tế phải tuân theo quy luật là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, do đó, phải phát huy mọi nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho từng người dân tự chủ quyết định trong điều kiện kinh tế thị trường bằng cách thừa nhận và đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, trong đó lấy cạnh tranh lành mạnh làm thuốc thử loại bỏ thành phần kinh tế có hiệu quả hoạt động thấp hơn các thành phần kinh tế khác. Không nên áp đặt cho thành phần nào đó vai trò kiểm soát nền kinh tế.
Mặt khác, cần tuân thủ pháp luật quốc tế, vì đó là điều kiện đầu tiên để Việt Nam có thể hội nhập, từ đó tăng khả năng, cơ hội và nguồn lực cho phát triển nhanh, bền vững, dù rằng pháp luật quốc tế chưa phải công bằng do sự kiểm soát của các nước tư bản chủ nghĩa. Ở đây nguyên tắc mà Hồ Chí Minh đưa ra vẫn có giá trị định hướng, soi sáng cho chúng ta. Đó là, Việt Nam sẽ thiết lập quan hệ với tất cả các nước tôn trọng và đối xử thành thật với chúng ta. Mọi vấn đề lợi ích phải dựa trên nguyên tắc cùng có lợi và chủ quyền quốc gia.
2. Các tư tưởng về tự do, độc lập, bình đẳng giữa các dân tộc, trên cơ sở đó thiết lập thể chế để người dân lao động được quyền tự chủ trong các quyết định liên quan đến họ của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, nhất là đối với Việt Nam trong giai đoạn đến 2030 và 2045. Tuy nhiên, vận dụng các tư tưởng đó vào thực tiễn cần phù hợp với thời đại và đặc thù Việt Nam thể hiện qua một số quan điểm sau đây:
Một là, Việt Nam ngày nay đã khác xa thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày nay Việt Nam không chỉ độc lập, thống nhất, mà còn trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế cũng như có quan hệ kinh tế với nhiều nước trên thế giới. Vì thế, cách hiểu về độc lập, nhất là độc lập về kinh tế đã khác những năm 50-60 của thế kỷ XX. Độc lập kinh tế không phải là không phụ thuộc vào đầu tư, thương mại với nước khác. Độc lập về kinh tế thể hiện ở khía cạnh Việt Nam có tiếng nói trong xây dựng pháp luật quốc tế cũng như có cơ cấu kinh tế tiến bộ hiện đại, định vị vững vàng trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Hai là, mặc dù xu hướng toàn cầu hóa đã định hình rõ nét, chi phối đời sống kinh tế của các nước trên thế giới, nhưng mâu thuẫn lợi ích giữa các nước theo nguyên tắc cạnh tranh vẫn tồn tại dai dẳng có thể dẫn đến các xung đột, chiến tranh. Việt Nam cần hòa bình để phát triển kinh tế nên chính sách đối ngoại phải hết sức tinh nhạy, mềm dẻo nhằm theo tinh thần của Hồ Chí Minh là: hợp tác với tất cả các nước tôn trọng độc lập và quan hệ trung thực với Việt Nam, nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng suất lao động và thu nhập cho dân cư.
Ba là, đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, vận động, cung cấp tri thức, kỹ năng để công dân Việt Nam có thể làm chủ theo tư tưởng của Hồ Chí Minh. Nếu Việt Nam có đội ngũ lao động có kỹ năng, tri thức, thái độ lao động vượt trội so với các nước khác, có các doanh nghiệp được tổ chức tốt, có môi trường đáp ứng yêu cầu chi phí thấp cho đầu tư thì có thể hoàn thành công nghiệp hóa trong thời gian ngắn và tăng nhanh thu nhập cho dân cư, tăng thu ngân sách nhà nước và trụ vững trên thị trường thế giới.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế theo tinh thần của Hồ Chí Minh, đó là những người tận trung với nước, tận hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đi cùng với chính sách đãi ngộ thỏa đáng để họ tập trung cho công việc. Hơn nữa cần có cơ chế kiểm soát chặt chẽ cán bộ của Đảng và Nhà nước cũng như thiết lập cơ chế giám sát của dân cư để bảo đảm cán bộ quản lý kinh tế phải là những tấm gương trong tạo điều kiện cho nhân dân và bản thân họ làm chủ xã hội theo tinh thần xã hội chủ nghĩa.
3. Để có thể vận dụng hiệu quả và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế tạo tiền đề vật chất bảo đảm QCN định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, thiết nghĩ, Đảng, Chính phủ và mọi công dân cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, nghiên cứu sâu sắc, chắt lọc các tư tưởng tinh túy còn giá trị đến ngày nay của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực phát triển kinh tế tạo tiền đề vật chất bảo đảm QCN. Những tư tưởng sau đây của Hồ Chí Minh cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng: (i) QCN chỉ có thể được thực hiện khi dân tộc có quyền độc lập, tự quyết và quyền này phải được các nước tôn trọng. Muốn vậy phải trở thành một nước giàu, mạnh; (ii) phải phát triển kinh tế toàn diện cả công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trên cơ sở cải tiến kỹ thuật và tổ chức sản xuất; (iii) mỗi người, cả nông dân, công nhân, trí thức, công thương… đều phải nỗ lực tự chủ phát triển kinh tế trên cương vị người làm chủ, không thể trông chờ, chây ì dựa vào nhà nước, người khác, nước khác; (iv) Đảng, Nhà nước thông qua cán bộ quản lý kinh tế phải tạo điều kiện cho công dân làm chủ thông qua chế độ quản lý dân chủ, chế độ dân phê bình cán bộ, cán bộ đi sâu đi sát nhân dân.
Thứ hai, sau khi đã xác định rõ các tư tưởng cốt lõi, cần xây dựng kế hoạch, phương thức tuyên truyền, vận động thực chất, phù hợp với từng ngành nghề, từng đối tượng như Hồ Chí Minh đã làm, như đối với công nhân, đối với nông dân, người làm dịch vụ, đối với các dân tộc ít người, thanh niên, phụ nữ... Điều quyết định là gây dựng ở mỗi công dân ý chí tự lực, tự cường, có ý chí vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội. Đồng thời cũng xác định rõ những nghĩa vụ, yêu cầu, nhiệm vụ mà mỗi công dân phải hoàn thành trên cương vị của mình theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Hạn chế khai thác khía cạnh thần thánh hóa Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ ba, muốn phát triển kinh tế, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần kỹ thuật, thái độ làm việc tích cực, sáng tạo của người lao động, thái độ tận tâm, phong cách dân chủ của cán bộ quản lý. Muốn vận dụng các tư tưởng này vào thực tiễn Việt Nam hiện nay cần cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu đào tạo được đội ngũ lao động chuyên nghiệp, thành thạo nghề và có năng lực sáng tạo để làm chủ quá trình sản xuất. Cần chọn lọc, bồi dưỡng, quản lý, đãi ngộ, kiểm soát để có đội ngũ cán bộ quản lý vừa hồng, vừa chuyên.
Thứ tư, thực hiện QCN cần những con người nhận thức được quyền của mình và xã hội hỗ trợ họ thể chế thực hiện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Chính vì vậy, ngoài việc đề cao giáo dục tuyên truyền trong các trường phổ thông, trường dạy nghề về QCN, cần xây dựng thể chế hỗ trợ công dân thực hiện QCN. Trong kinh tế là các thể chế hỗ trợ bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp. Trong quan hệ xã hội là các thể chế hỗ trợ người yếu thế, người thuộc các dân tộc ít người. Cần thừa nhận và hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ đại diện cho lợi ích của các nhóm dân cư trong giải quyết các quan hệ kinh tế với Nhà nước.
Thứ năm, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế đi đôi với chính sách thuế và phúc lợi xã hội hợp lý để phân phối của cải xã hội công bằng giữa những nhóm người có điều kiện khách quan khác nhau, nhưng có nhu cầu giống nhau.
Hồ Chí Minh là tấm gương của đạo đức cách mạng, là người suốt đời phấn đấu vì dân, vì nước. Những tư tưởng của người về phát triển kinh tế tạo điều kiện bảo đảm QCN vẫn còn nguyên giá trị định hướng Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Thực hiện nghiêm chỉnh, thực chất những tư tưởng định hướng đó Việt Nam nhất định sẽ đạt được các mục tiêu mà Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII đặt ra cho giai đoạn đến 2030 và 2045./.
St

CÓ MỘT TÌNH YÊU NHƯ THẾ

 Có một chàng trai từ biệt người yêu

Để ra đi tìm đường cứu nước
Kỷ vật trao nhau chiếc khăn, chiếc lược
Mẹ yêu thương đã để lại cho
Lời chàng trai tha thiết dặn dò:
"Anh ra đi không biết khi nào về được
Phải tìm cách cứu quê hương, đất nước
Anh chỉ quay về khi tìm được lối đi "
Người con gái lệ ướt nhòe mi
Biết nói gì trong phút giây tiễn biệt
Nắm chặt tay, khuyên chàng thực hiện
Chí nam nhi cứu nước can trường
"Em ở nhà vẫn luôn mãi yêu thương
Nếu còn sống mình tìm nhau anh nhé"
Rồi âm thầm chia tay trong lặng lẽ
Bến Nhà Rồng lưu luyến buổi chia ly
Chàng trai lên Tàu, dứt áo ra đi
Để lại trời Nam một bông Huệ trắng
Gửi lại quê nhà mối tình đầu sâu nặng
Biết khi nào mới được gặp lại nhau
Đời bôn ba, tù ngục kh,ổ đ,a,u
Thực dân bắt, phao tin Chàng đã ch,ế,t
Nàng nghe tin lòng đ,a,u khôn xiết
Giữ trọn tình, xuống tóc đi tu
Ba mươi năm sau Chàng trở lại Chiến khu
Lãnh đạo toàn dân dành nền độc lập
Tin tức Nàng, Chàng cho dò hỏi khắp
Nhưng bặt tăm, chẳng thể kiếm tìm
Hình bóng Nàng luôn ở trong Tim...
Khóm Huệ trắng sáng chiều Người chăm tưới
Nào đâu biết ngôi Chùa kia có một người đang đợi
Hy vọng, yêu thương vô bến, vô bờ
Một mối tình đẹp tựa trong mơ...
Vì Đất nước, Người hy sinh tất cả
Tìm hiểu về Người thấy bao điều mới lạ
Như Ngọc càng mài, càng sáng, càng trong.
St

NHÂN CÁCH VĂN HÓA VÀ DANH HIỆU BỘ ĐỘI CỤ HỒ HỘI TỤ CÁC GIÁ TRỊ CHÂN, THIỆN, MỸ

 Chân, thiện, mỹ là giá trị quan trọng trong hệ giá trị của cá nhân cũng như quốc gia, dân tộc; là giá trị phổ quát lý tưởng của toàn nhân loại. Đối với Quân đội ta, giá trị chân, thiện, mỹ không phải tự nhiên mà có, nó được hình thành, phát triển trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và trao truyền qua các thế hệ thông qua những việc làm tốt đẹp, những hành động anh hùng, những hy sinh cao cả của tập thể, cá nhân, từ đó vun đắp, trở thành những chuẩn mực hằng ngày của cán bộ, chiến sĩ.

Bộ đội Cụ Hồ luôn thấm nhuần các giá trị chân, thiện, mỹ
Giá trị chân, thiện, mỹ ở mỗi thời đại, giai đoạn lịch sử khác nhau thì biểu hiện khác nhau. Trong xã hội có giai cấp thì giá trị chân, thiện, mỹ cũng mang tính giai cấp sâu sắc. Trong thời đại ngày nay, chân, thiện, mỹ theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta là phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử.
Hệ thống giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ là sự kết tinh những chuẩn mực con người mới theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta; có sự thống nhất giữa tính phổ quát của nhân cách con người mới và tính đặc thù của nhân cách quân nhân.
“Chân” có nghĩa là chân lý, tính đúng đắn của tri thức. Trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, “chân” được biểu hiện ở sự thấm nhuần, kiên định với những chân lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; có niềm tin sâu sắc vào mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng cao cả đó.
Thực tiễn lịch sử chứng minh, trong suốt những năm tháng kháng chiến đã có nhiều tấm gương anh dũng xả thân vì nước, vì dân. Đầu những năm 90 của thế kỷ 20, khi mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta vẫn luôn tin tưởng tuyệt đối vào tính đúng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Ngày nay, khi tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, các thế lực thù địch ra sức chống phá, nhưng Quân đội ta vẫn luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
“Thiện” có nghĩa là tốt, trái nghĩa với ác. Trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, “thiện” được biểu hiện ở sự đoàn kết, thống nhất nội bộ, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng đội như anh em ruột thịt, luôn đồng cam cộng khổ; lắng nghe, tôn trọng, giúp đỡ, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; có tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, chí nghĩa, chí tình.
Lịch sử 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta, cái thiện trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ được thể hiện sâu sắc ở tinh thần đoàn kết một lòng với nhân dân, kiên cường chiến đấu đánh đuổi kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc, đưa cả nước đi lên CNXH. Không những vậy, Quân đội ta đã làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh đất nước, vì thế người dân Campuchia thân thương gọi bộ đội Việt Nam là “đội quân nhà Phật”. Trong thời bình có rất nhiều tấm gương cán bộ, chiến sĩ xả thân giúp đỡ nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; cùng chung sức, đồng lòng với nhân dân trong công cuộc giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
“Mỹ” là cái đẹp, bao gồm cả vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp nội tâm của mỗi con người. Cái đẹp trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ là hệ giá trị văn hóa-chính trị-đạo đức tốt đẹp, phản ánh bản chất, truyền thống của Quân đội, biểu hiện ở đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, chân thành, lạc quan, nói đi đôi với làm, luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân, không thỏa mãn với thành tích, không chùn bước trước khó khăn, thử thách; có văn hóa, tri thức khoa học kỹ thuật quân sự, năng lực, phương pháp, tác phong công tác khoa học, nghiêm túc, trách nhiệm cao; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung; gương mẫu chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội; có thể chất, sức khỏe bền bỉ, dẻo dai, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta là lịch sử hình thành, phát triển giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, làm phong phú thêm giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Hướng tới giá trị chân, thiện, mỹ là quá trình “gạn đục khơi trong”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, góp phần xây dựng nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, tạo động lực, động viên, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ tu dưỡng, rèn luyện hoàn thiện nhân cách người quân nhân cách mạng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Tiếp tục hoàn thiện giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ
Trong giai đoạn cách mạng mới, tiếp tục xây dựng, bổ sung, phát triển giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ là vấn đề cần thiết, góp phần xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và tô đẹp, tỏa sáng hình ảnh, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân.
Trước hết, chú trọng làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động hướng tới giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ.
Giáo dục chính trị tư tưởng là nhiệm vụ quan trọng, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, bồi đắp, củng cố giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ. Tập trung nâng cao nhận thức cho mỗi quân nhân về vai trò, ý nghĩa, giá trị và nội dung biểu hiện của các giá trị chân, thiện, mỹ, qua đó nêu cao trách nhiệm, tự giác phấn đấu hoàn thiện các giá trị tốt đẹp ấy.
Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tập trung giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kỷ luật Quân đội; nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và bản chất cách mạng của Quân đội, hệ giá trị chuẩn mực Bộ đội Cụ Hồ để khơi dậy lòng tự hào, tinh thần trách nhiệm, ý chí quyết tâm cao của cán bộ, chiến sĩ trong học tập, rèn luyện theo giá trị chân, thiện, mỹ.
Hai là, cụ thể hóa các giá trị chân, thiện, mỹ thành các tiêu chí phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị.
Trải qua các cuộc kháng chiến, giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ được kết tinh, thể hiện rõ nét qua lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".
Trong giai đoạn hiện nay, giá trị ấy tiếp tục được phát huy, cụ thể hóa thành các chuẩn mực Bộ đội Cụ Hồ được xác định trong Chỉ thị số 855-CT/QUTW ngày 12-8-2019 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ" và Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương "Về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới".
Các chuẩn mực đó mang tính phổ quát, là chuẩn mực chung đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đội. Các cơ quan, đơn vị căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể hóa thành các tiêu chí để mỗi quân nhân học tập, rèn luyện, phấn đấu làm theo, đồng thời là thước đo để đánh giá mức độ hoàn thiện các giá trị chân, thiện, mỹ của mỗi quân nhân.
Ba là, phát huy vai trò của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong rèn luyện, phấn đấu hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ.
Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tự đánh giá đúng bản thân; đối chiếu với giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, trên cơ sở đó tiếp tục rèn luyện, phấn đấu, hoàn thiện bản thân, loại bỏ cái sai, cái xấu, cái không phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ Quân đội và đơn vị trong thời kỳ mới.
Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục; có tinh thần tự nguyện, tự giác cao để việc hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ trở thành nhu cầu, việc làm thường xuyên hằng ngày; trong mọi điều kiện, hoàn cảnh luôn giữ vững và nêu gương sáng về nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ.
Bốn là, xây dựng môi trường văn hóa quân sự tốt đẹp để góp phần hình thành, phát triển các giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ.
Giá trị chân, thiện, mỹ chỉ thực sự được dung nạp, bồi đắp, lan tỏa và trở thành giá trị bền vững trong một môi trường văn hóa quân sự tốt đẹp, đồng thời môi trường ấy cũng là tấm khiên ngăn chặn, loại bỏ cái sai, cái xấu trong mỗi cá nhân, tập thể. Vì vậy, các cơ quan, đơn vị cần thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; đề cao tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể; kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch và những tiêu cực, lạc hậu; đề cao trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp để tạo sức lan tỏa mạnh mẽ các giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa và danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ./.
St

XÂY DỰNG NGƯỜI PHỤ NỮ QUÂN ĐỘI "TRÍ TUỆ, BẢN LĨNH, KỶ CƯƠNG, NHÂN ÁI", XỨNG DANH "BỘ ĐỘI CỤ HỒ" THỜI KỲ MỚI

 Thấm nhuần lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”1 và trên cơ sở phát huy truyền thống “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” của Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Quân đội luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý chí tự lực, tự cường, cần cù, sáng tạo, hăng hái vươn lên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Với lực lượng khá đông đảo, có mặt ở hầu hết các lĩnh vực công tác và ở các đơn vị trong toàn quân; dù ở cương vị, chức trách nào, các nữ quân nhân cũng không quản ngại khó khăn, gian khổ, nỗ lực phấn đấu để không ngừng tiến bộ, hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội giao phó. Cùng với việc nhận và hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị, Phụ nữ Quân đội còn hoàn thành tốt thiên chức của người phụ nữ, thực sự là những người giữ lửa hạnh phúc gia đình, là hậu phương vững chắc; luôn xứng đáng “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” và phẩm chất tốt đẹp mà Quân ủy Trung ương khen tặng “Yêu nước, đoàn kết, sáng tạo, trung hậu, đảm đang”.
Trước yêu cầu xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy vững mạnh về chính trị và tiêu chí, chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” làm cơ sở, Chương trình hành động của Phụ nữ Quân đội 05 năm (2021 - 2026) xác định tập trung xây dựng người Phụ nữ Quân đội: “Trí tuệ, bản lĩnh, kỷ cương, nhân ái”, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới, người phụ nữ Việt Nam thời đại mới.
Người phụ nữ Quân đội “trí tuệ” cần có văn hóa, tri thức khoa học, trình độ quân sự, năng lực, phương pháp, tác phong công tác và sức khỏe đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Để đạt được mục tiêu đó, mỗi cán bộ, hội viên phụ nữ Quân đội cần tích cực học tập, huấn luyện, nghiên cứu nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học và các kỹ năng cần thiết, nhất là về lĩnh vực quân sự, quốc phòng; có tư duy lý luận tốt, năng lực tổ chức thực tiễn phong phú; nhận thức đúng đối tượng, đối tác của cách mạng; đối tượng tác chiến của Quân đội ta. Tập trung rèn luyện, xây dựng tác phong, phương pháp làm việc chuyên nghiệp, nghiêm túc, trách nhiệm; phát huy tốt tiềm năng, sức sáng tạo và đạt hiệu quả công tác cao (tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí nhưng đạt và vượt yêu cầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ), đóng góp xứng đáng vào phong trào thi đua của phụ nữ và việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan, đơn vị. Tích cực nghiên cứu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Hội phụ nữ. Đồng thời, luôn gương mẫu chấp hành nghiêm các quy định về văn hóa công sở, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện để hoàn thiện nhân cách người quân nhân cách mạng với các giá trị chân - thiện - mỹ. Thường xuyên, tích cực nâng cao kiến thức, kỹ năng tổ chức tốt cuộc sống gia đình, xây dựng gia đình đạt các tiêu chí “5 không, 3 sạch”2 và đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa”.
Sự dũng cảm, kiên cường, bất khuất, dám nghĩ, dám làm, làm những gì mà bản thân đặt niềm tin, dám đối mặt với thực tế, không ngại thách thức và sẵn sàng chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ là “bản lĩnh” Người nữ quân nhân - “Bộ đội Cụ Hồ”. Đây là tiêu chí quan trọng, là thước đo kết quả trong học tập và làm theo Bác. Bởi vậy, đòi hỏi mỗi cán bộ, hội viên phụ nữ Quân đội cần phải phấn đấu, rèn luyện bản lĩnh chính trị luôn vững vàng, động cơ phấn đấu trong sáng, tinh thần trách nhiệm cao. Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ động phòng, chống “diễn biến hòa bình”, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Có ý chí quyết tâm chiến đấu cao, chấp nhận hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong sinh hoạt, công tác phải luôn mẫu mực về đạo đức, lối sống; thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, khiêm tốn, giản dị, chân thành, lạc quan; nghiêm khắc với bản thân, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của đơn vị, của nhân dân và quốc gia, dân tộc. Thường xuyên nêu cao tinh thần đổi mới, sáng tạo; không vụ lợi dưới mọi hình thức, không thỏa mãn với thành tích, không chùn bước trước khó khăn, nguy hiểm. Giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, luôn tôn trọng và lắng nghe ý kiến góp ý với tinh thần cầu thị.
Để không ngừng nâng cao sức mạnh của Quân đội, việc thực hiện tốt hệ thống các quy định, tính kỷ luật chặt chẽ là một trong những yêu cầu tất yếu và ngày càng cao, bởi kỷ luật là sức mạnh của Quân đội. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với mọi quân nhân nói chung và quân nhân nữ cũng không phải là ngoại lệ. Do vậy, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, mỗi cán bộ, hội viên phụ nữ Quân đội đều phải tự giác rèn luyện và đặt tiêu chí “kỷ cương” lên hàng đầu. Tiêu chí này thể hiện rõ tính đặc thù trong phấn đấu rèn luyện của hội viên phụ nữ Quân đội so với phụ nữ các lực lượng khác trong hệ thống Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Để thực hiện được nội dung tiêu chí kỷ cương, đáp ứng yêu cầu về chấp hành pháp luật, kỷ luật tự giác nghiêm minh, mỗi hội viên phụ nữ Quân đội cần chủ động nghiên cứu, học tập nắm chắc những nội dung, kiến thức pháp luật, kỷ luật; tự giác chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, Điều lệnh, điều lệ, kỷ luật Quân đội, chỉ thị mệnh lệnh của cấp trên; nền nếp chế độ công tác, sinh hoạt, học tập, rèn luyện, lao động sản xuất của đơn vị; các quy định, nội quy nơi cư trú và những nơi sinh hoạt cộng đồng; không ngừng rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật và tác phong chính quy của Quân đội. Đồng thời, thực hiện nghiêm Quy chế Dân chủ cơ sở; phát huy tốt dân chủ của các tổ chức quần chúng, Hội đồng quân nhân về quân sự - chuyên môn, chính trị, kinh tế - đời sống.
Quan điểm “vì con người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một triết lý nhân sinh cao cả, kết tinh từ những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại, là một định nghĩa đầy đủ, sâu sắc nhất về khái niệm “nhân ái”. Học tập Bác, mỗi cán bộ, hội viên phụ nữ Quân đội cần nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, phương châm “mình vì mọi người”, bằng những hành động, việc làm cụ thể. Thường xuyên giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất; thương yêu, giúp đỡ đồng chí, đồng đội; quan hệ bình đẳng, thân ái, đồng cam, cộng khổ, lúc thường cũng như lúc chiến đấu. Không thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn của đồng chí, đồng đội. Đặc biệt, phải thấm nhuần quan điểm gần dân, trọng dân, tin dân, sẵn sàng xả thân vì nhân dân. Phát huy tốt truyền thống “Trung hậu, đảm đang” của Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Quân đội, tích cực tổ chức, tham gia các hoạt động “đền ơn, đáp nghĩa”, “nhân đạo, từ thiện”, các hoạt động hỗ trợ phụ nữ và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; các phong trào thi đua “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Quân đội chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”; chương trình “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương” giai đoạn 2021 - 2025, chương trình “Mẹ đỡ đầu” do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động. Đồng thời, luôn nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí tình; tích cực quảng bá văn hóa và du lịch Việt Nam, tham gia vào hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, chia sẻ những kinh nghiệm, thành tựu của Việt Nam và sự đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh vực an ninh truyền thống (hỗ trợ nạn nhân chiến tranh, tái thiết đất nước,…), cũng như an ninh phi truyền thống (ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống dịch bệnh, di cư an toàn,…); kiên quyết đấu tranh chống lại các hoạt động phá hoại khối đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Cùng với sự tự giác, nỗ lực rèn luyện phấn đấu của cá nhân hội viên phụ nữ Quân đội theo các tiêu chí “Trí tuệ, bản lĩnh, kỷ cương, nhân ái”, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới và người phụ nữ Việt Nam thời đại mới, đòi hỏi cấp ủy, chỉ huy và tổ chức phụ nữ các cấp trong toàn quân cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, hội viên phụ nữ Quân đội về đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; truyền thống tốt đẹp của Quân đội, của phụ nữ Việt Nam và phụ nữ Quân đội; tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; các phẩm chất đạo đức “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” của phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình thực hiện, cần đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền, bảo đảm phong phú, đa dạng, hiệu quả. Thường xuyên làm tốt công tác xây dựng, nhân điển hình tiên tiến, gương người tốt việc tốt trong giữ gìn, phát huy và rèn luyện các phẩm chất đạo đức tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Quân đội trong học tập và làm theo Bác. Thực hiện tốt phong trào thi đua “Phụ nữ Quân đội trí tuệ - bản lĩnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ, xây dựng gia đình hạnh phúc, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới” gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phong trào Thi đua Quyết thắng tại cơ quan, đơn vị bằng các chỉ tiêu, biện pháp phù hợp, có tính khả thi cao; coi đây là một biện pháp tích cực để không ngừng trau dồi, rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối sống cho mỗi cán bộ, hội viên, góp phần xây dựng Hội Phụ nữ vững mạnh. Hằng năm tổ chức cho hội viên phụ nữ đăng ký phấn đấu, đạt các tiêu chuẩn của phong trào thi đua; các tiêu chí của người phụ nữ Quân đội thời kỳ mới. Đồng thời, tích cực nghiên cứu, xây dựng và triển khai các mô hình mới phù hợp, chú trọng các mô hình cải tiến lề lối làm việc, mô hình tiết kiệm theo gương Bác, mô hình rèn luyện các phẩm chất đạo đức và xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Lãnh đạo, chỉ huy và các tổ chức hội thường xuyên quan tâm coi trọng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời rút kinh nghiệm, điều chỉnh hình thức, phương pháp, tạo sức mạnh tổng hợp, góp phần để cán bộ, hội viên phụ nữ Quân đội luôn tỏa sáng phẩm chất cao đẹp người phụ nữ Việt Nam nói chung, phụ nữ Quân đội nói riêng, xứng đáng là người “giữ ngọn lửa ấm” hạnh phúc trong mỗi gia đình; góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới./.
St

Đại tướng Phan Văn Giang hội đàm với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chile

 Nhân chuyến thăm chính thức của Chủ tịch nước Lương Cường tới Chile, chiều 11-11 (giờ địa phương), tại thủ đô Santiago, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hội đàm với bà Maya Fernández Allende, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chile.

Bộ trưởng Phan Văn Giang nhấn mạnh Việt Nam và Chile tuy xa xôi về khoảng cách địa lý nhưng luôn duy trì quan hệ hợp tác truyền thống tốt đẹp, gần gũi, cả trong thời kỳ nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước ngày nay; khẳng định Việt Nam luôn trân trọng Chile, quốc gia Nam Mỹ đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (25-3-1971). Việc Chủ tịch nước Lương Cường lựa chọn Chile là nước thăm đầu tiên đã khẳng định sự coi trọng và mong muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác với Chile của Việt Nam. Bộ trưởng Phan Văn Giang đánh giá, thời gian qua, quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Chile không ngừng được củng cố, phát triển, ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả trên nhiều lĩnh vực.
Thông tin tới Bộ trưởng Maya Fernández Allende về chính sách đối ngoại và chính sách quốc phòng của Việt Nam, Bộ trưởng Phan Văn Giang khẳng định Việt Nam luôn nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị và hợp tác phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Đồng thời, Bộ trưởng Phan Văn Giang cũng nhấn mạnh quan điểm và chính sách quốc phòng “4 không” của Việt Nam nhằm mục đích hòa bình, tự vệ, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Bộ trưởng Phan Văn Giang nhấn mạnh, trong tổng thể quan hệ chung tốt đẹp giữa hai nước, quan hệ hợp tác quốc phòng Việt Nam - Chile là lĩnh vực được lãnh đạo cấp cao hai bên quan tâm thúc đẩy. Bộ trưởng Phan Văn Giang đánh giá việc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập Văn phòng Tùy viên Quốc phòng thường trú tại Chile (tháng 4-2024), cũng như việc hai bên ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng trong chuyến thăm lần này sẽ tạo điều kiện thuận lợi và nền tảng vững chắc cho việc thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng song phương.
Tại hội đàm, hai Bộ trưởng đã trao đổi về tình hình thế giới, khu vực, tình hình đất nước, quân đội mỗi nước. Hai Bộ trưởng nhất trí đánh giá hai bên còn nhiều dư địa thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương, phù hợp với nhu cầu và khả năng của mỗi nước. Do đó, hai Bộ trưởng đề nghị thời gian tới, Bộ Quốc phòng hai nước nghiên cứu triển khai hợp tác trên các lĩnh vực: Trao đổi đoàn các cấp, nhất là cấp cao, nhằm tăng cường hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và tìm hiểu khả năng hợp tác; tăng cường tiếp xúc bên lề tại các sự kiện đa phương; đào tạo; hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc; tham vấn, ủng hộ lẫn nhau tại các cơ chế, diễn đàn đa phương về quốc phòng, an ninh; thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực tiềm năng như đối thoại - tham vấn, cứu hộ - cứu nạn, trao đổi thông tin, kỹ thuật quân sự, công nghiệp quốc phòng, hậu cần, giao lưu văn hóa và thể thao, pháp luật quân sự - quốc phòng...
Nhân dịp này, Bộ trưởng Phan Văn Giang trân trọng mời Bộ trưởng Maya Fernández Allende và lãnh đạo Bộ Quốc phòng, các doanh nghiệp quốc phòng của Chile sang Việt Nam tham dự Triển lãm Quốc phòng Quốc tế lần thứ hai, dự kiến diễn ra tại Hà Nội vào tháng 12-2024.
Về phần mình, Bộ trưởng Maya Fernández Allende tin tưởng việc Bộ trưởng Phan Văn Giang lần đầu tiên đến thăm Chile sẽ mở ra cơ hội hợp tác mới giữa Bộ Quốc phòng hai nước, tương xứng với tiềm năng hợp tác giữa hai bên. Nhất trí với những đánh giá của Bộ trưởng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Maya Fernández Allende mong muốn thúc đẩy hơn nữa hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực quốc phòng, góp phần tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia nói chung.
Trước đó, sáng cùng ngày, hai Bộ trưởng đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng hai nước trước sự chứng kiến của Chủ tịch nước Lương Cường và Tổng thống Chile Gabriel Boric. Đây là Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng đầu tiên giữa hai nước, đặt dấu mốc trong quan hệ quốc phòng song phương, mở ra các cơ hội hợp tác quốc phòng, đóng góp tích cực vào quan hệ hai nước, vì hòa bình, ổn định và phát triển chung của khu vực và thế giới, góp phần thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Chile./.
St

CẢNH GIÁC TRƯỚC MƯU ĐỒ “ĐỔI MÀU” VĂN HÓA

 Công nghiệp văn hóa đã và đang là trụ cột phát triển kinh tế quan trọng của nhiều quốc gia. Việc chú trọng phát triển công nghiệp văn hóa sẽ giúp các quốc gia có thể nhanh chóng thu về những lợi ích kinh tế to lớn với tư cách như là một ngành kinh tế mũi nhọn, đầu tàu. Tại Việt Nam, phát triển công nghiệp văn hóa là một nội dung quan trọng được Đảng, Nhà nước ta quyết liệt chỉ đạo triển khai trong những năm gần đây.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội”, “là sức mạnh nội sinh, động lực để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Đồng thời, Tổng Bí thư nhấn mạnh, chúng ta phải khẩn trương phát triển ngành công nghiệp văn hóa, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay.
Thực tế cho thấy, đây chính là xu thế phát triển văn minh tất yếu của nhân loại. Công nghiệp văn hóa đã và đang là một trong những trụ cột phát triển kinh tế của nhiều quốc gia.
Thậm chí, xét về tổng thể, ngành công nghiệp văn hóa đang có nhiều lợi thế hơn, bởi văn hóa chính là nguồn “của cải”, nguồn tài nguyên vô tận, càng khai thác tốt, càng gia tăng giá trị.
Hơn thế, phát triển công nghiệp văn hóa còn là cách thức hữu hiệu, cơ hội vàng để lan tỏa, quảng bá những giá trị văn hóa dân tộc ra thế giới, góp phần gia tăng sức mạnh mềm quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín của quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Từ đó giúp mở ra nhiều cơ hội hợp tác đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực khác, đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển chung của quốc gia.
Đối với một quốc gia có nhiều tiềm năng và lợi thế về bề dày lịch sử, truyền thống văn hóa tốt đẹp, sự phong phú, đa dạng, đặc sắc về các giá trị, sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể như Việt Nam, phát triển công nghiệp văn hóa là lựa chọn đúng đắn, cần được đề cao, coi trọng.
Từ những định hướng, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, những năm qua, các tỉnh, thành phố, địa phương trong cả nước đã nỗ lực triển khai hành động, tăng cường các biện pháp thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Xác định công nghiệp văn hóa là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế cần chú trọng để đem về các nguồn lợi kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào tổng nguồn thu quốc gia. Trong đó trước hết cần tập trung vào các ngành văn hóa thế mạnh của đất nước như du lịch văn hóa, nghệ thuật biểu diễn, thủ công mỹ nghệ,…
Theo báo cáo tại Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam năm 2023, kể từ khi thực hiện Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, nhất là sau hai năm thực hiện chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đến nay, tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp văn hóa vào GDP nước ta hằng năm đều có sự cải thiện đáng kể.
Cụ thể: năm 2018 đã đóng góp được 5,82% (vượt xa chỉ tiêu 3% vào năm 2020 mà Chiến lược đề ra); năm 2019 đã tăng lên 6,02%. Ngay cả trong giai đoạn dịch COVID-19 hoành hành, ngành công nghiệp văn hóa vẫn có đóng góp tích cực vào GDP với con số ước tính là khoảng 4%.
Chỉ tính riêng giai đoạn từ năm 2018-2022, giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đóng góp khoảng 44 tỷ USD, tương đương 1,059 triệu tỷ đồng. Trong số 12 ngành công nghiệp văn hóa thì có tới 6 ngành (điện ảnh; thủ công mỹ nghệ; thiết kế; nghệ thuật biểu diễn; du lịch văn hóa; phần mềm và các trò chơi giải trí) đã đạt những dấu ấn phát triển quan trọng, đồng thời đều có mức đóng góp vào GDP vượt xa kỳ vọng. Đặc biệt, các ngành như điện ảnh, thời trang, kiến trúc đều đóng góp từ 7- 8% vào GDP.
Hiện nay, ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đã tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa mang thương hiệu quốc gia có giá trị, có sức thu hút trên thị trường, thu về lợi ích kinh tế cao...
Với những thành tựu đáng mừng đó, chúng ta có thể lạc quan tin tưởng, trong những năm tới, mục tiêu đóng góp 7-8% vào GDP của ngành công nghiệp văn hóa sẽ nhanh chóng đạt được. Việt Nam sẽ sớm trở thành trung tâm công nghiệp văn hóa của khu vực Đông Nam Á. Ngành công nghiệp văn hóa sẽ thật sự trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, đầu tàu, đóng góp lớn cho tiến trình phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Tuy nhiên, quá trình đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta hiện nay cũng nảy sinh một số bất cập, hạn chế, đáng quan tâm, lo ngại, trong đó có cả nguy cơ “đổi màu” văn hóa dưới nhiều hình thức.
Thực tế cho thấy, khi thực hiện các hoạt động phát triển công nghiệp văn hóa, không ít cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa vì mục tiêu câu khách, thu hút người sử dụng để thu nhiều lợi nhuận đã bất chấp tất cả, chạy theo thị hiếu văn hóa tầm thường, thấp kém của một bộ phận công chúng.
Một số tổ chức, cá nhân sẵn sàng đưa ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ không phù hợp, phản văn hóa mang tính khiêu dâm, bạo lực, đi ngược lại thuần phong mỹ tục và chuẩn mực giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Cũng vì lợi nhuận và để hút khách, những cá nhân, tổ chức này đã thương mại hóa văn hóa bằng mọi cách thức, chiêu trò. Như việc “cách tân”, tàn phá những giá trị đặc sắc lâu đời của các công trình văn hóa, di tích lịch sử, biến tấu tùy tiện, thô thiển các chương trình lễ hội văn hóa truyền thống, các sản phẩm văn hóa,… Hậu quả của việc làm này đã khiến cho văn hóa dân tộc đứng trước nguy cơ bị biến tướng, phai màu, đổi màu, mất đi bản sắc tốt đẹp vốn có.
Bên cạnh đó, để thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa đòi hỏi phải tăng cường mở cửa hội nhập nhằm tìm kiếm cơ hội đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ văn hóa, gia tăng lợi nhuận. Quá trình đó sẽ khiến cho nhiều sản phẩm, loại hình dịch vụ văn hóa từ nhiều quốc gia có cơ hội du nhập ồ ạt vào Việt Nam. Trong số đó nguy cơ có cả những sản phẩm, dịch vụ văn hóa nước ngoài chứa đựng những nội dung dung tục, bạo lực, cổ xúy cho lối sống thực dụng, đề cao vật chất tầm thường, coi đồng tiền là trên hết,… không phù hợp chuẩn mực văn hóa truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Tuy nhiên, những sản phẩm phản văn hóa ấy lại đánh vào tâm lý tò mò, hiếu kỳ, thích mới lạ của một bộ phận công chúng, nhất là giới trẻ, dần hình thành tâm lý sùng ngoại, sính ngoại, xem thường, bỏ quên văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó còn có cả tình trạng đáng lo ngại là một số cá nhân, hầu hết là người trẻ có xu hướng đua đòi, bắt chước làm theo, biến tấu những sản phẩm, dịch vụ văn hóa truyền thống thành các sản phẩm lai căng dị hợm, lố lăng để cho... vui, cho “ngầu”, để được nổi tiếng!
Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động đã khai thác, lợi dụng tiến trình phát triển công nghiệp văn hóa của nước ta để thực hiện tham vọng chính trị đen tối: Từ đổi màu văn hóa để tiến tới đổi màu, thay đổi chế độ chính trị.
Theo đó, các đối tượng thường mượn các sự kiện văn hóa, các chương trình hợp tác văn hóa, hay thông qua các tour du lịch văn hóa, các sản phẩm, dịch vụ văn hóa để truyền bá các sản phẩm văn hóa độc hại, làm băng hoại, nhuốm bẩn văn hóa dân tộc. Tăng cường đánh bóng, lăng xê, ca ngợi văn hóa phương Tây, coi đó là chuẩn mực văn hóa tiến bộ, văn minh của nhân loại. Từ đó cổ xúy công chúng chạy theo giá trị văn hóa tự do phương Tây, xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp văn hóa dân tộc, xúi bẩy người dân rời xa, xóa bỏ nền văn hóa cổ hủ, mất tự do, dân chủ ở Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động còn tăng cường tài trợ, cổ vũ, “xúc tiến” hòng mưu đồ đẩy nhanh quá trình đổi màu, xóa sổ văn hóa Việt Nam. Kích động dân chúng đòi phát triển văn hóa tự do phi chính trị, độc lập với chính trị, không chấp nhận đường hướng, chủ trương, đường lối sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với văn hóa...
Đặc biệt, chúng lợi dụng những kẽ hở, hạn chế của công tác quản lý trong quá trình phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta để sản xuất, phát tán các sản phẩm, dịch vụ phản văn hóa, xuyên tạc, bóp méo lịch sử, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Hoặc núp bóng các hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ văn hóa để thực hiện âm mưu phá hoại ổn định chính trị và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam… Như việc tìm cách tung ra hàng loạt các sản phẩm, dịch vụ văn hóa trá hình để truyền bá văn hóa nước ngoài phản động, chống phá Đảng, Nhà nước; in ấn, lồng ghép tinh vi các nội dung xuyên tạc trắng trợn lịch sử mưu đồ “viết lại lịch sử”, “hạ bệ thần tượng”, “nói nhiều sẽ tin”…; vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trong các sản phẩm, ấn phẩm văn hóa như phim ảnh, sách, truyện, bản đồ, quà tặng du lịch,…
Như vậy, có thể thấy, mưu đồ và nhiều nguy cơ hòng đổi màu văn hóa dân tộc đang hiện hữu và sẽ ngày càng trở nên thách thức, nghiêm trọng hơn trong quá trình nước ta đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa.
Do đó, chúng ta cần đề cao cảnh giác và tăng cường các biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa, phòng chống. Đồng thời chủ động, tích cực khai thác hiệu quả giá trị kinh tế của văn hóa để thúc đẩy tiến trình phát triển bền vững của đất nước. Quyết không đánh đổi, hy sinh văn hóa lấy kinh tế đơn thuần. Đẩy mạnh đổi mới để phát triển công nghiệp văn hóa, góp phần đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc nhưng phải cảnh giác, đề phòng, không để bị đổi màu, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, bởi “Văn hoá là hồn cốt của dân tộc, văn hóa còn thì dân tộc còn”./.
St