Thứ Tư, 13 tháng 11, 2024

Nâng cao “sức đề kháng” và “độ miễn dịch” của cán bộ, đảng viên

 

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã cảnh báo về sự hiện hữu của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang diễn biến hết sức phức tạp và nguy hiểm, là nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Bài học từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô, mà nguyên nhân chủ yếu là do “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ vẫn còn nóng hổi. Đảng ta đã sớm cảnh báo và có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, kiên quyết đấu tranh, phòng, chống với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ra Nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng đối với thứ “giặc nội xâm” này.

Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.

Quá trình này sẽ diễn ra nhanh hơn, nguy hiểm hơn khi nhiễm phải những luận điệu sai trái, những biện pháp dụ dỗ, mua chuộc, kích động của các thế lực thù địch, các đối tượng cơ hội chính trị, các phần tử bất mãn. Đến Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta tiếp tục chỉ rõ: “Bước vào giai đoạn phát triển mới, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp”.

Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là rất lớn, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nếu cán bộ, đảng viên có nhiều hạn chế, yếu kém, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ làm cho nhân dân mất dần niềm tin vào cán bộ, đảng viên, từ đó dẫn đến suy giảm và mất dần niềm tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Điều đó sẽ hạn chế việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Và như vậy, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không chỉ là vấn đề của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức mà là vấn đề hệ trọng của quốc gia, dân tộc, đe dọa tới sự tồn vong của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Để ngăn chặn, đẩy lùi hiệu quả “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”, chúng ta cần nhận diện đúng và có biện pháp đấu tranh kịp thời. Trong đó, cần tập trung làm tốt công tác giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về mức độ nguy hại của “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”, đề cao trách nhiệm trong đấu tranh. Tiếp đó là đề cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu trong rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Bản thân cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện, nâng cao “sức đề kháng” và “độ miễn dịch” trước những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải tăng cường đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần loại trừ những yếu tố nguy cơ đóng vai trò thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tập trung đấu tranh, phản bác các luận điệu, quan điểm sai trái, thù địch bằng những luận cứ khoa học, có sức thuyết phục cao, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, đường lối lãnh đạo của Đảng và thành quả của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, nhận diện đúng, đấu tranh kịp thời với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là biện pháp hết sức quan trọng để khắc phục những hiểm họa khôn lường mà nó gây ra đối với Đảng và chế độ ta. Thực hiện tốt điều này là phương thuốc hữu hiệu để rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ, trực tiếp góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và làm thất bại âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù địch./.

Sự thật về “Hội thánh tin lành đấng Christ Tây Nguyên”

 

“Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên” (gọi tắt là CHPC) là một tổ chức phản động được đối tượng A Ga (FULRO lưu vong ở Mỹ) thành lập vào tháng 9/2020. A Ga đã tích cực liên kết với các tổ chức phản động nước ngoài khác như “Ủy ban cứu trợ người vượt biển” (gọi tắt là BPSOS) của Nguyễn Đình Thắng ở Mỹ, nhóm “Người Thượng đứng lên vì công lý” (gọi tắt là MSFJ) của Y Quynh Bdăp ở Thái Lan nhằm phục vụ cho mưu đồ chính trị của mình. Bề ngoài, “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên” là tổ chức sinh hoạt tôn giáo bình thường như các tổ chức tôn giáo khác với các hoạt động hát thánh ca, cầu nguyện và chia sẻ kinh thánh. Tuy nhiên, mục đích chính của tổ chức này là tập hợp tín đồ người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và số đối tượng phản động người Việt lưu vong, lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá chính quyền, đòi thành lập “nhà nước riêng, tôn giáo riêng” cho người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, thời gian qua đã có một số đối tượng tích cực tham gia vào hoạt động của tổ chức trên với vai trò cốt cán, chủ chốt, chúng tích cực trong việc thực hiện âm mưu, ý đồ phá hoại của CHPC. Đáng chú ý, trong số các đối tượng cầm đầu, Y Krếc Byă (tên thường gọi là Ama Guôn, sinh năm 1978, trú tại Buôn K’nia 2, xã Ea Bar, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk) với chức vụ được các đối tượng phản động bên ngoài tự phong cho là Phó Ban điều hành “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên”. Y Krếc là đối tượng FULRO, đã từng bị xử phạt 8 năm tù giam về “Tội phá hoại chính sách đoàn kết” nhưng ra tù vẫn không chịu tu chí hoàn lương. Từ năm 2012 đến đầu năm 2023, Y Krếc lại nghe theo sự chỉ đạo, kích động, xúi giục của Y Hin và A Ga là hai đối tượng phản động FULRO lưu vong đang ở Mỹ; lôi kéo một số đối tượng khác trong nội địa tiến hành những âm mưu, hoạt động phá hoại chính sách đoàn kết; tham gia, tổ chức hàng trăm buổi họp, tập huấn trực tuyến với các đối tượng FULRO lưu vong bên ngoài để nhận sự chỉ đạo và thu thập những thông tin, hình ảnh, tài liệu một chiều, sai sự thật... Với những việc làm chống lại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ngày 28/3/2024, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã tuyên phạt 13 năm tù giam về tội  “Phá hoại chính sách đoàn kết” đối với bị cáo Y Krếc Byă theo Điều 116, BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017./.

Nhận diện âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để hình thành “Nhà nước Khmer Krôm” ở Tây Nam Bộ

 

Từ lâu, Tây Nam Bộ đã là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Nhưng do tính chất phức tạp của lịch sử nên cho đến nay, vấn đề chủ quyền lãnh thổ vẫn còn có những nhận thức chưa thật đầy đủ; một số thế lực thù địch như: Hội Ái hữu Khmer Campuchia Krôm (AKKK), Hội Sư sãi Khmer Campuchia Krôm, Đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia (CNRP)(1), Phong trào Cứu quốc Campuchia (CNRM)... vẫn ngoan cố lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá Nhà nước Việt Nam, đòi thành lập “Nhà nước Khmer Krôm”. 

Những năm gần đây, một bộ phận người Khmer tại Campuchia đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình trước Đại sứ quán Việt Nam đòi phản đối chính sách đất đai của Việt Nam. Nguyên cớ của những cuộc biểu tình này được cho là bắt nguồn từ phát biểu của Tham tán chính trị Đại sứ quán Việt Nam tại Campuchia Trần Văn Thông (tháng 6-2014): “Miền đất Nam Bộ thuộc về Việt Nam từ lâu trước khi Pháp chuyển giao cho Việt Nam”. Sau đó, khi trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 9-9-2014, Thạch Setha, Chủ tịch Cộng đồng Khmer Krôm ở Campuchia đã nói: “Đất đai Kampuchea Krôm là của chúng tôi, và bị người Pháp giao cho người Việt Nam. Chúng tôi yêu cầu Việt Nam tôn trọng lịch sử, tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, công khai xin lỗi chúng tôi và không can thiệp vào chính trị của các quốc gia khác”. Từ những nhận thức xuyên tạc trên, Thạch Setha muốn phía Việt Nam chính thức công khai xin lỗi người Khmer Krôm và công nhận lịch sử của chúng tôi bằng văn bản và yêu cầu không can thiệp vào việc nội bộ của các quốc gia khác của khối ASEAN. Để gây áp lực cho Việt Nam, Thạch Setha đe dọa: “Nếu như không có phản hồi hay giải quyết gì từ phía Việt Nam, thì đầu tháng 10 này (năm 2014), chúng tôi sẽ có biểu tình lớn để yêu cầu Chính phủ Campuchia tạm cắt đứt quan hệ với Việt Nam cho tới khi nào Việt Nam thừa nhận lịch sử của chúng tôi. Chúng tôi cũng kêu gọi người Campuchia tẩy chay hàng hóa Việt Nam”(2).

Cùng với đó, các tổ chức phản động của người Khmer Nam Bộ lưu vong ở nước ngoài như: CNRM, AKKK, Hội Sư sãi Khmer Campuchia Krôm, Liên hiệp Ủy ban Chủ nghĩa dân tộc (KKK), Hội Bảo vệ nhân quyền Khmer Campuchia Krôm, Mặt trận Giải phóng dân tộc Campuchia Krôm (KKNLF), Ủy ban Dung hòa Khmer Campuchia Krôm (KKKCC), Liên minh Khmer Campuchia. Krôm (KKF), Ủy ban Điều phối Khmer Campuchia Krôm (KKKCC)... cũng liên tục có những hành động chống phá Nhà nước Việt Nam. “Các tổ chức này hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam dưới nhiều hình thức. Chúng tài trợ kinh phí, kích động sư tăng trong nước ly khai khỏi Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đấu tranh đòi thành lập Nhà nước Khmer Krôm tự trị... Ở bên ngoài, hằng năm, chúng tổ chức kỷ niệm ngày chính quyền Pháp chuyển giao lãnh thổ Nam Kỳ cho Việt Nam (ngày 4-6-1949) và gọi đó là ngày “quốc hận”, bịa đặt các vấn đề về nhân quyền người Khmer ở Việt Nam... Ở những mức độ khác nhau, hoạt động của các tổ chức chính trị phản động nói trên đều có tác động đến tâm tư, tình cảm của một bộ phận đồng bào Khmer Nam Bộ”(3).

Đấu tranh với âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để hình thành “Nhà nước Khmer Krôm” ở Tây Nam Bộ

Về dân tộc, căn cứ những di vật, phế tích và các giá trị của nền văn hóa Óc Eo(4) được các thư tịch cổ Trung Hoa ghi chép lại, các nhà khoa học đã đi tới nhận định rằng, Vương quốc Phù Nam đã từng tồn tại từ thế kỷ I đến thế kỷ VII và vấn đề Phù Nam không thể tách rời vấn đề Óc Eo. Hay nói cách khác, việc đồng nhất những di vật thuộc nền văn hóa Óc Eo là di tích văn hóa vật thể của nước Phù Nam là hoàn toàn có cơ sở khoa học. Trong bài viết Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên đất Nam Bộ, Giáo sư Vũ Minh Giang nhận định: “Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng là xác định chủ nhân của văn hóa Óc Eo. Trước đây, người ta thường nói mà không chứng minh rằng chủ nhân nền văn hóa này là tổ tiên của người Khmer. Nhưng dưới ánh sáng của những nghiên cứu mới thì vấn đề không phải như vậy. Trước hết, tất cả những di tích thuộc văn hóa Óc Eo có thể dễ dàng nhận thấy là khác biệt với văn hóa Khmer. Những dấu vết của Chân Lạp trên đất Nam Bộ không thể hiện là sự phát triển liên tục của văn hóa Phù Nam”(5).

Về phong tục tập quán, sử liệu Trung Quốc cũng cho biết, tang lễ và hôn nhân của nước Phù Nam gần giống với Lâm Ấp (tức Champa). Căn cứ vào những ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Hoa thì nước Phù Nam là một quốc gia nằm ở phía Nam của Lâm Ấp, tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay. Các nhà khoa học đã thống nhất nhận định, nước Phù Nam xuất hiện vào khoảng đầu Công nguyên. Trong thời kỳ hưng thịnh, nước Phù Nam phát triển thành một đế chế gồm: Toàn bộ phần phía Nam bán đảo Đông Dương (Nam Bộ Việt Nam, Campuchia, một phần Nam Lào), một phần Thái Lan và bán đảo Malacca, trung tâm vẫn là vùng Nam Bộ Việt Nam. 

Đế chế Phù Nam bắt đầu quá trình suy yếu vào cuối thế kỷ VI. Nhân cơ hội này, vào đầu thế kỷ VII, Chân Lạp - một thuộc quốc của nước Phù Nam, do người Khmer xây dựng, lúc bấy giờ ở vùng trung lưu sông Mê Kông và khu vực phía Bắc Biển Hồ, lấy nông nghiệp là nghề chính để sinh sống, đã đánh chiếm một phần lãnh thổ của nước Phù Nam ở vùng hạ lưu sông Mê Kông - vùng Nam Bộ Việt Nam. 

Như vậy, từ chỗ là một vùng đất thuộc nước Phù Nam, sau năm 627, vùng đất Nam Bộ bị phụ thuộc vào Chân Lạp và được gọi là Thủy Chân Lạp để phân biệt với vùng đất Lục Chân Lạp - vùng đất gốc của nước Chân Lạp. Trên thực tế, việc cai quản vùng Thủy Chân Lạp gặp nhiều khó khăn. Trước hết, với truyền thống quen khai thác các vùng đất cao, dân số ít, người Khmer khi đó không có khả năng tổ chức khai thác vùng đồng bằng rộng lớn mới bồi lấp, còn ngập nước và sình lầy. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên vùng đất gốc - Lục Chân Lạp đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực.

Do chiến tranh và phải tập trung phát triển các trung tâm ở vùng lục địa, sau mấy thế kỷ thuộc Chân Lạp, đến thế kỷ XIII, theo Chu Đạt Quan (1266-1346) - một nhà ngoại giao Trung Quốc dưới thời Nguyên Thành Tông, “vùng đất Nam Bộ vẫn còn là một vùng đất hoang vu với những “bụi rậm của khu rừng thấp... tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi... những cánh đồng bị bỏ hoang phế, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy, hàng trăm hàng ngàn con trâu rừng tụ họp thành từng bầy trong vùng này, tiếp đó là nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm...””(6)

Bắt đầu từ thế kỷ XIV, Chân Lạp phải đối phó với sự bành trướng của các vương triều Xiêm La (Thái Lan) từ phía Tây, đặc biệt là từ sau khi Vương quốc Ayuthaya hình thành. Trong gần một thế kỷ, Chân Lạp liên tiếp phải đối phó với những cuộc tiến công từ phía Xiêm La, có lúc Kinh thành Angkor đã bị quân đội Ayuthaya chiếm đóng. 

Từ thế kỷ XVI, do sự can thiệp của Vương triều Xiêm La, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc và dần bước vào thời kỳ suy vong. Chân Lạp hầu như không quan tâm đến vùng đất còn ngập nước ở phía Đông và trên thực tế đã không đủ sức để quản lý vùng đất này. Trong bối cảnh đó, nhiều cư dân Việt từ vùng đất Thuận Quảng đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang lập làng sinh sống.

Trên cơ sở đơn vị tụ cư trù phú, những trung tâm kinh tế đã phát triển. Năm 1698, Chúa Nguyễn đã cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý vùng đất này và cho lập ra ở đây một đơn vị hành chính lớn gọi là phủ Gia Định. Như vậy, vào cuối thế kỷ XVII, Chúa Nguyễn đã xác lập được quyền lực của mình tại vùng trung tâm của Nam Bộ, khẳng định chủ quyền của người Việt trên vùng đất mà trên thực tế, chính quyền Chân Lạp chưa khi nào thực thi một cách đầy đủ chủ quyền của mình.

Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng diễn ra vào năm 1708, để bảo vệ cư dân vùng đất Hà Tiên lúc đó trước sự tiến công, cướp bóc của người Xiêm La, Mạc Cửu đã xin và được nội thuộc vào triều đình Chúa Nguyễn. 

Năm 1858, Pháp xâm lược Việt Nam. Năm 1862, đại diện của Nhà Nguyễn là Phan Thanh Giản và đại diện của Pháp là Đô đốc Bonard đã ký Hiệp ước Nhượng quyền cai quản ba tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp (còn gọi là Hòa ước Nhâm Tuất (năm 1862)). Tiếp đó, năm 1867, Pháp lại đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Bộ. Năm 1874, triều đình Nhà Nguyễn ký tiếp Hiệp ước Nhượng toàn bộ Nam Kỳ cho Pháp cai quản (còn gọi là Hòa ước Giáp Tuất (năm 1874)). 

Về mặt chính trị, Hòa ước Nhâm Tuất (năm 1862) và Hòa ước Giáp Tuất (năm 1874) được ký dưới sức ép và sự đe dọa vũ lực của quân Pháp, thể hiện sự bất lực của Nhà Nguyễn, nhưng về mặt pháp lý, nhất là ý nghĩa pháp lý quốc tế thì hai hiệp ước này lại là bằng chứng về chủ quyền lãnh thổ không thể tranh cãi của Việt Nam đối với vùng đất Nam Bộ. Pháp không thể ký kết một hiệp ước chia cắt một phần lãnh thổ của một quốc gia nếu quốc gia kết ước không có chủ quyền đối với vùng lãnh thổ đó.

Khi triều đình Nhà Nguyễn buông ngọn cờ lãnh đạo cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thì Nhân dân Việt Nam đã không tiếc xương máu, đồng lòng, chung sức đứng lên đấu tranh chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, cứu nước, bảo vệ vùng đất Nam Bộ. Trước sự lớn mạnh của lực lượng kháng chiến và để đối phó với dư luận quốc tế, từ cuối năm 1947 Chính phủ Pháp đã dựng lên “Quốc gia Việt Nam” (Etat du VietNam) do Bảo Đại đứng đầu. Ngày 8-3-1949, Tổng thống Pháp V.Auriol đã ký với Quốc trưởng Bảo Đại Hiệp ước Élysée, theo đó, Pháp chính thức trả lại Nam Kỳ cho quốc gia Việt Nam và công nhận sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngay sau sự kiện này, một loạt quốc gia phương Tây, trong đó có Anh và Mỹ đã công nhận quốc gia Việt Nam. Phù hợp với luật pháp quốc tế, Hiệp ước Élysée được coi là văn kiện có giá trị pháp lý cho việc thu hồi lại vùng đất Nam Kỳ mà trước đó theo các hòa ước năm 1862 và năm 1874 Triều Nguyễn đã ký nhượng cho Pháp.

Về yêu sách của Chính quyền Campuchia đối với vùng đất Nam Bộ, ngày 8-6-1949, Chính phủ Pháp đã gửi một bức thư cho Quốc vương Norodom Sihanouk, trong đó nêu rõ: ““Về pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán song phương với Campuchia để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ” vì “Nam Kỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước năm 1862 và 1874... chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam... về pháp lý, Pháp có đủ cơ sở để thỏa thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc sửa đổi quy chế chính trị của Nam Kỳ”. Trong bức thư đó Chính phủ Pháp còn khẳng định: “Thực tế lịch sử ngược lại với luận thuyết cho rằng miền Tây Nam Kỳ vẫn còn phụ thuộc triều đình Khmer lúc Pháp tới” và “Hà Tiền đã được đặt dưới quyền tôn chủ của Hoàng đế An Nam từ năm 1715 và kênh nối Hà Tiên với Châu Đốc được đào theo lệnh của các quan An Nam từ nửa thế kỷ trước khi chúng tôi đến””(7) 

Với bức thư trên, Pháp không chỉ thừa nhận một thực tế lịch sử chứng tỏ người chủ thực sự của vùng đất Nam Bộ là Nhà nước Việt Nam mà còn nêu lại một lần nữa cơ sở pháp lý khẳng định vùng đất Nam Bộ là thuộc chủ quyền của Việt Nam từ trước khi Pháp đặt chân đến Nam Kỳ.

Trên lĩnh vực tôn giáo, người Khmer với Phật giáo Nam tông ở khu vực Tây Nam Bộ từ lâu đã bị các thế lực phản động trong và ngoài nước hướng tới với chiêu bài thành lập “Nhà nước Khmer Krôm tự trị”. Chúng lôi kéo đồng bào, các nhà sư sang Campuchia dự ngày lễ “mất đất” (ngày 4-6); mua chuộc, móc nối những người có uy tín trong đồng bào dân tộc. Tính từ năm 2010 đến nay, trong vùng đồng bào Khmer đã hình thành khoảng 6 hội, nhóm trái pháp luật, với lý do bảo tồn văn hóa dân tộc; giúp đỡ chùa chiền, sư sãi gặp khó khăn; thực hiện các nghi lễ tôn giáo theo đúng truyền thống của Phật giáo Nam tông Khmer... Song, thực chất của việc làm đó là nhằm liên kết các sư sãi, tăng sinh có tư tưởng cực đoan thành một khối để bôi nhọ, hạ uy tín những chức sắc, sư sãi có tư tưởng tiến bộ. Theo số liệu báo cáo của các địa phương, hiện nay, có trên 1.000 sư sãi Khmer đi tu học nước ngoài; trong đó, có 66 trường hợp bị tổ chức phản động lưu vong KKK đưa đi huấn luyện, đào tạo để chống phá Việt Nam(8). Chúng tuyên truyền, thông tin sai sự thật về đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào Khmer như: Đồng bào Khmer bị áp bức, không có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo... trên các phương tiện thông tin do chúng lập ra ở nước ngoài (Đài Tiếng nói Kampuchia Krôm (VOKK)...). Một số đài nước ngoài có thái độ thù địch với Việt Nam (như: BBC, RFA, RFI, VOA) đã triệt để sử dụng internet, mạng xã hội để phát tán tài liệu và truyền tải những thông tin xấu, độc, sai sự thật. 

Như vậy, từ những chứng cứ khảo cổ học, lịch sử, văn hóa và thực tiễn cho thấy, vùng đất Nam Bộ là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Lịch sử hình thành vùng đất Nam Bộ thể hiện rõ những luận cứ khoa học, phù hợp với thông lệ quốc tế, chứng minh quá trình xác lập, khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Lịch sử cũng khẳng định công lao to lớn của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vùng đất Nam Bộ suốt từ thế kỷ XVII đến nay. Điều này phù hợp với nguyên tắc tôn trọng nguyên trạng, phù hợp với thông lệ và các công ước quốc tế hiện hành. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ được thể hiện trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn được thể hiện trên thực tiễn ở vùng đất có đông đồng bào Khmer khu vực Tây Nam Bộ./.

Điểm mặt những kẻ “khóc mướn” cho đối tượng Đường Văn Thái

 

Tuần qua, sau khi TAND thành phố Hà Nội mở phiên xét xử sơ thẩm vụ án “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước” quy định tại Điều 117, Bộ luật Hình sự đối với Đường Văn Thái (HĐXX tuyên phạt Thái 12 năm tù giam, quản chế 3 năm), các thế lực thù địch lại giở chiêu trò tung tin xuyên tạc, chống phá, đánh tráo bản chất vụ việc.

HĐXX đánh giá, việc truy tố, xét xử bị cáo theo đúng quy định của pháp luật và bản án dành cho Đường Văn Thái là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, bất chấp thực tế đó, một số tổ chức gắn mác nhân quyền, các tổ chức phản động, cơ hội chính trị lại giở trò kêu oan, khóc mướn cho Đường Văn Thái, cùng với đó là đả kích, bôi nhọ thể chế, đả phá Đảng, Nhà nước ta. Tổ chức Văn bút Hoa Kỳ (PEN American) trong ngày 30/10 vừa qua đòi “tẩy trắng” tội danh, kêu gọi trả tự do cho Đường Văn Thái. PEN America vu cáo bản án dành cho Đường Văn Thái “rõ ràng vi phạm quyền tự do ngôn luận”, cho rằng: “Việc bịt miệng những người bất đồng chính kiến ôn hòa là đi ngược lại các tiêu chuẩn quốc tế”. Đồng thời, tổ chức này còn lớn tiếng ra yêu cầu “chính quyền Việt Nam lật ngược bản án khắc nghiệt này” và đòi trả tự do cho Đường Văn Thái.

Cùng với đó, trên trang mạng xã hội của tổ chức Việt Tân, trang mạng Chân Trời Mới Media cũng đăng bài, bình luận để cố xúy, suy tôn Đường Văn Thái như “anh hùng” khi “dám đấu tranh vì công lý, lẽ phải”. Một số hãng truyền thông ở hải ngoại vốn định kiến với Việt Nam như VOA, RFA đăng bài, clip phỏng vấn, dẫn lại những tuyên bố của PEN American để tạo làn sóng phản đối phiên tòa và bản án dành cho bị cáo Đường Văn Thái.              

Có thể thấy, cứ thành thông lệ khi cơ quan chức năng bắt, xử lý một số đối tượng lợi dụng quyền tự do dân chủ, nhân quyền để hoạt động chống phá chế độ, làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Đảng, Nhà nước ta thì các thế lực thù địch, phản động lại đánh tráo bản chất, cho rằng đây là những “bằng chứng vi phạm dân chủ, nhân quyền”! Sau khi cơ quan chức năng truy tố, xét xử và tuyên các bản án đối với bị cáo thì các tổ chức mượn danh nghĩa nhân quyền, các tổ chức, đối tượng phản dộng và số truyền thông hải ngoại lại mở chiến dịch kêu oan, khóc mướn, cổ xúy, tán dương đối tượng phạm tội. Họ tôn vinh kẻ phá hoại đất nước như những “người can đảm”, “người đấu tranh” cho tự do, dân chủ, nhân quyền mà bỏ qua một thực tế là những người đó vi phạm pháp luật Việt Nam, phạm tội gây phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền, lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân.

Thực tế cho thấy, các thế lực thù địch, những tổ chức mượn danh dân chủ, nhân quyền như PEN American phớt lờ những quy định pháp luật, bỏ qua nền thể chế của nước ta để áp đặt tùy tiện cái mà họ gọi là giá trị dân chủ, nhân quyền lên Việt Nam, đòi Việt Nam cần phải thực hiện những yêu cầu phi lý mà họ đưa ra. Điều này trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, trái với các quy định của luật pháp Việt Nam và quốc tế. Đối với trường hợp của PEN American, đây không phải lần đầu tổ chức này có những can thiệp sai trái mà trước đó đã có các trò lố khi đã quyết định trao giải thưởng về tự do viết lách năm 2024 cho Phạm Đoan Trang với lý do hết sức vô lý rằng, Phạm Đoan Trang “viết vì lương tâm”! Trong khi đó, đối tượng này đang chấp hành án phạt tù vì có hành vi chống phá Nhà nước.

Như vậy, chiêu bài dân chủ, nhân quyền được giới khoác áo dân chủ sử dụng bấy lâu vẫn theo cách thức chung là tô hồng kẻ phạm tội, khi đối tượng bị truy tố, xét xử thì vu cáo Việt Nam “áp bức người bất đồng chính kiến”. Khi những đối tượng phải chấp hành bản án theo quy định của pháp luật thì họ tiến hành chiến dịch kêu oan, khóc mướn, “tẩy trắng” tội danh, đòi thả tự do; đồng thời bôi đen thể chế, công kích Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thực chất đó chỉ là màn kịch ngụy tạo, trá hình, vì lợi ích của chính những tổ chức này.

Để hiểu rõ hơn bản chất định kiến, thù địch với Việt Nam của những tổ chức khoác áo dân chủ, nhân quyền, cần thấy rõ hành động sai trái, lạc lối của Đường Văn Thái.

Chân dung phạm pháp của Đường Văn Thái

Đường Văn Thái (tên thật Thái Văn Đường) sinh năm 1982, tại thôn Hà Lâm 3, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội. Giới thiệu về bản thân mình, Đường Văn Thái tự đánh bóng tên tuổi mình như đã từng làm việc tại Vụ Tổ chức – Ủy ban kiểm tra Trung ương Đảng, từng là đảng viên. Song, sự thật là từ năm 2001, Thái tham gia công tác đoàn tại thôn Hà Lâm 3; năm 2004, tham gia công tác Đoàn tại xã Thụy Lâm và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 2009, Thái làm hợp đồng tại Trung tâm quỹ đất huyện Đông Anh – Hà Nội. Năm 2013, Thái thi công chức nhưng không đỗ do năng lực có hạn và xin nghỉ việc.

Từ năm 2016 đến 2017, Thái theo học Thạc sĩ Quản lý đất đai tại Seoul, Hàn Quốc. Trong thời gian này, Thái móc nối với giới tự xưng dân chủ có những hành vi tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước. Được sự mời chào của tổ chức “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam”, năm 2017, Đường Văn Thái chính thức gia nhập tổ chức này – nơi hoạt động của những nhân vật chống đối như Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, linh mục Anton Lê Ngọc Thanh… đội lốt dân chủ, chống phá Nhà nước. Cũng thời gian này, Đường Văn Thái đã khởi tạo và tham gia điều hành nhóm “Lều của đầy tớ” trên mạng xã hội Facebook, thường xuyên đăng tải và phát tán những nội dung thông tin sai trái về lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Vào thời điểm xảy ra sự cố ở Formosa, Đường Văn Thái là một trong những gương mặt nổi cộm, lợi dụng sự cố này để kích động giáo dân gây rối, bạo loạn, kích động người dân mang cá chết ra rải đầy đường, chặn phương tiện đi lại trên quốc lộ.

Cuối năm 2017, Đường Văn Thái trú ngụ tại TP Hồ Chí Minh. Thấy chiêu trò “đánh BOT” của Trương Châu Hữu Danh đang nổi lên lúc bấy giờ, Đường Văn Thái tiếp tục có những bài viết cổ xúy, xuyên tạc. Thái móc nối, trở thành thành viên cốt cán của nhóm “Bạn hữu đường xa”, sau đó lợi dụng nhóm này để thực hiện các hành vi chống phá, bôi nhọ chính quyền. Năm 2019, Đường Văn Thái đã bị cơ quan chức năng mời lên làm việc. Ngay sau đó, vì quá lo sợ, Thái đã lén lút bỏ trốn sang Thái Lan với mong muốn thoát tội và tìm “một mảnh vé định cư nước ngoài”. Thế nhưng trên mạng xã hội, Đường Văn Thái vẫn khẳng định mình vẫn đường đường chính chính ở tại TP Hồ Chí Minh và không sợ bất cứ ai. Tại Thái Lan, Đường Văn Thái gia tăng tần suất đăng, chia sẻ các bài viết có nội dung sai sự thật, bóp méo, xuyên tạc hiện thực khách quan, cố tình “đổi trắng, thay đen” chống phá chế độ, chính quyền nhân dân.

Ngày 30/05/2019, Đường Văn Thái đã được Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn tại Thái Lan (UNHCR) chấp thuận cấp quy chế tị nạn trong vòng 18 tháng. Thái càng ra sức xuyên tạc, công kích, bôi đen nhà nước Việt Nam. Thái sử dụng mạng xã hội để làm dịch vụ “truyền thông bẩn”. Đường Văn Thái sử dụng Facebook và Youtube đăng tải những thông tin, sự kiện nóng trong nước, đặc biệt là các thông tin liên quan đến các doanh nghiệp, doanh nhân; thông tin về đời tư các đồng chí lãnh đạo. Đồng thời, Đường Văn Thái kiếm tiền từ các dịch vụ quảng cáo của Google, biến Youtube thành kênh tuyên truyền và kiếm tiền từ chiêu trò xấu độc.

Sau một thời gian sống ở Thái Lan, Đường Văn Thái bị cơ quan chức năng phát hiện, bắt giữ khi đang tìm cách vượt biên vào Việt Nam qua đường mòn, lối mở ở khu vực biên giới thuộc xã Sơn Kim 1, Hương Sơn, Hà Tĩnh vào ngày 16/4/2023. Có thể thấy những hành vi mà Đường Văn Thái đã thực hiện là lợi dụng quyền tự do ngôn luận, không chỉ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhiều người khác mà còn đe dọa trực tiếp đến sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Vì thế, bản án dành cho Đường Văn Thái là hoàn toàn đúng người, đúng tội và tại phiên tòa, chính Thái đã bày tỏ ăn năn, hối cải, mong muốn nhận được sự khoan hồng của pháp luật.

Không có chuyện “bịt miệng người bất đồng chính kiến”

Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết 271A (III), ngày 10/12/1948 nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”. Song Điều 29 của Tuyên ngôn này chỉ rõ: “Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ. Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra…”.

Với mỗi quốc gia, dân tộc, trong quá trình phát triển, việc kế thừa, vận dụng, tuân thủ các giá trị của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền có sự khác nhau nhất định, do chi phối bởi đặc thù về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Song có một điểm chung bắt buộc là các quyền tự do ấy phải trong khuôn khổ pháp luật, không thể có tự do, dân chủ quá trớn. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã nỗ lực xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia, trong đó tích cực nội luật hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người; bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật qui định”. Hay như trong các luật được ban hành như Luật Tiếp cận thông tin (năm 2013), Luật Báo chí (năm 2016), Luật An ninh mạng (năm 2018)..., quyền tự do ngôn luận luôn được tôn trọng và bảo đảm.

Có thể hiểu rằng, tự do ngôn luận là tự do phát biểu ý kiến của mình, bàn bạc một công việc chung; là quyền của công dân được tham gia bàn bạc, thảo luận, đóng góp ý kiến vào những vấn đề chung của xã hội. Nhưng tự do ngôn luận không phải thích nói gì thì nói, thích viết gì thì viết. Viết và nói phải mang tính chất xây dựng, không thể vì lợi ích cá nhân mà xâm hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc, xâm phạm đến quyền, lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân, không thể giống cái cách như Đường Văn Thái đã làm.

Lợi dụng quyền tự do dân chủ, nhân quyền đi ngược lại giá trị chung của cộng đồng xã hội đều phải nghiêm trị theo quy định của pháp luật. Mọi chiêu trò kêu oan, khóc mướn, “tẩy trắng” tội danh cho tội phạm như cái cách mà các tổ chức mượn danh dân chủ, nhân quyền và các thế lực thù địch, phản động đã làm là can thiệp sai trái vào công việc nội bộ của Việt Nam, là trái với những nguyên tắc chung của thông lệ, luật pháp quốc tế, cần phải đấu tranh, bác bỏ./.

Những kẻ bao che, dung túng cho tội phạm khủng bố

 

Những ngày gần đây, trên các trang thông tin, mạng xã hội của các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng chống đối loan tin, ngày 9/10/2024, một số tổ chức nhân quyền quốc tế tổ chức cuộc họp báo tại câu lạc bộ phóng viên nước ngoài ở Thái Lan (FCCT) để đề cập về phán quyết dẫn độ đối với đối tượng khủng bố Y Quynh Bdap của Toà án Hình sự Bangkok.

Đây không phải là lần đầu các tổ chức trên can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam cũng như “tẩy trắng” cho các đối tượng liên quan đến hoạt động khủng bố. Bằng cách xuyên tạc bản chất vụ việc theo hướng hoàn toàn khác, thậm chí tới mức hoang đường, họ vu cáo đây là những màn kịch được chính quyền dựng lên để thực hiện “đàn áp dân tộc, tôn giáo” và hành vi khủng bố chỉ là sự phản kháng.

Hoạt động “tẩy trắng” thông tin về vụ khủng bố

Đã hơn một năm trôi qua nhưng nhiều người dân ở huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk vẫn chưa hết bàng hoàng khi nhớ lại vụ tấn công ngày 11/6/2023 xảy ra tại hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur khiến 9 người thiệt mạng, nhiều người bị thương, phá hủy tài sản của Nhà nước và nhân dân. Qua quá trình điều tra, cơ quan chức năng xác định đây là hành động khủng bố có tổ chức đã được các đối tượng lên kế hoạch từ trước và có sự chuẩn bị kỹ càng, thực hiện hành vi manh động và man rợ.

Y Quynh Bdap là đối tượng từ lâu đã có nhiều hoạt động kích động, gây rối tại Việt Nam trước khi qua Thái Lan để tị nạn nhằm trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Đây cũng là đối tượng thành lập tổ chức “Người Thượng vì công lý” và lên kế hoạch tổ chức nhiều hoạt động khủng bố tại Tây Nguyên. Cụ thể, Y Quynh Bdap đã lên kế hoạch từ năm 2017, thông qua việc móc nối, lôi kéo, tuyển mộ lực lượng, chỉ đạo thực hiện vụ tấn công.

Trong quá trình điều tra, chính những đối tượng trực tiếp tham gia vụ tấn công đã khai nhận vai trò của Y Quynh Bdap trong việc chỉ đạo và xúi giục họ thực hiện các hành vi tàn bạo. Hwuen Êban, một trong những kẻ cầm đầu vụ khủng bố và Y Krong Phok, đối tượng tham gia vụ tấn công khủng bố khai nhận từ năm 2017, 2018, Y Quynh Bdap đã giao nhiệm vụ cho họ phải đi tuyên truyền, lôi kéo để tuyển mộ người, chuẩn bị vũ khí cho việc tiến hành khủng bố.

Rõ ràng, với hàng loạt các hành vi như tấn công vào trụ sở chính quyền, đập phá, đốt cháy, gặp bất kỳ ai là bắn, thể hiện qua lời kể của các nhân chứng cũng như lời khai của các đối tượng đã cho thấy rất rõ bản chất tàn ác của những kẻ khủng bố. Sau vụ khủng bố tại Đắk Lắk, họ bôi nhọ chính quyền, cán bộ, kích động người dân bằng cách xuyên tạc bản chất vụ việc theo hướng hoàn toàn khác, thậm chí tới mức hoang đường, xuyên tạc rằng đây là những màn kịch được chính quyền dựng lên để thực hiện đàn áp dân tộc, tôn giáo.

Tuy nhiên, với bản chất chống phá, trên trang mạng xã hội của tổ chức khủng bố Việt Tân, Chân trời mới media, các hãng truyền thông hải ngoại thiếu thiện chí liên tục đưa thông tin xuyên tạc nhằm “tẩy trắng” cho đối tượng khủng bố Y Quynh Bdap như: “Các nhóm nhân quyền kêu gọi chính quyền Thái Lan không thi hành việc dẫn độ nhà hoạt động Y Quynh Bdap về Việt Nam sau khi ông bị tòa Hình sự Bangkok ra phán quyết dẫn độ theo yêu cầu của Hà Nội”; “Các tổ chức quốc tế thất vọng vì Thái Lan dẫn độ Y Quynh Bdap về Việt Nam”…

Trang tin VOA tiếng Việt đưa thông tin về việc ngày 9/10/2024, trước khi Thái Lan được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2025-2027, giới hoạt động nhân quyền kêu gọi chính quyền nước này không dẫn độ ông Y Quynh Bdap về Việt Nam theo yêu cầu của Hà Nội, còn nếu làm ngược lại sẽ đánh mất lòng tin tại diễn đàn thế giới.

Mới đây, đồng loạt các trang VOA Tiếng Việt, RFI, RFA đều đưa tin một số tổ chức nhân quyền quốc tế đã tổ chức cuộc họp báo tại Câu lạc bộ phóng viên nước ngoài ở Thái Lan (FCCT) để đề cập về phán quyết dẫn độ đối với đối tượng khủng bố Y Quynh của Toà án Hình sự Bangkok… Qua đó, có thể thấy sự ảo tưởng của các tổ chức trên khi can thiệp vào hoạt động tư pháp của các nước nhằm đưa ra yêu cầu, đòi hỏi sai trái, làm cho người đọc hiểu sai về bản chất vụ việc cũng như “tẩy trắng” hành vi khủng bố cho đối tượng trên.

Từ những hành động trên đã lật tẩy âm mưu cơ bản, lâu dài của các đối tượng chống đối trong và ngoài nước đối với vùng đất Tây Nguyên là xuyên tạc, vu cáo Việt Nam đàn áp quyền của người dân tộc thiểu số; tuyên truyền, lôi kéo, kích động đồng bào các dân tộc đòi ly khai, tự trị, thành lập cái gọi là “Nhà nước Đê-ga”, tách Tây Nguyên ra khỏi đại gia đình các dân tộc và chủ quyền lãnh thổ Việt Nam; biến địa bàn Tây Nguyên thành khu vực mất ổn định, vùng tự trị, tiến tới thành lập “nhà nước độc lập”. Luận điệu mà các thế lực thù địch liên tục sử dụng để kích động người dân Tây Nguyên là: Tuyên truyền “đất Tây Nguyên là của người Thượng”, “người Kinh lấy đất của đồng bào trên chính quê hương của mình”…

Đây không chỉ là luận điệu cố tình phủ nhận chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước mà còn nhằm chia rẽ mối đoàn kết giữa người Kinh với người dân tộc thiểu số, tạo ra các vụ đòi đất, biểu tình, bạo loạn, ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đồng thời các tổ chức trên còn triệt để xuyên tạc để hình thành và khoét sâu mâu thuẫn giữa người Kinh với người Thượng, lợi dụng một số cán bộ địa phương có sai lầm, khuyết điểm để kích động đồng bào tụ tập đấu tranh, gây rối, biểu tình. Lợi dụng và xoáy sâu vào vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, đất đai, xem đây là những “ngòi nổ” để kích động tư tưởng “bài Kinh” ly khai, tự trị.

Trên phương diện quốc tế, các tổ chức quốc tế tự xưng nhân quyền, các tổ chức phản động lưu vong và các đối tượng xấu triệt để lợi dụng Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị để tuyên truyền xuyên tạc. Lợi dụng các diễn đàn quốc tế vu cáo Việt Nam “đàn áp, diệt chủng người dân tộc ở Tây Nguyên”, kêu gọi nước ngoài can thiệp, gây sức ép ngoại giao với Việt Nam. Đồng thời, tạo hiệu ứng Domino nhằm kích động, lừa gạt sự nhẹ dạ, cả tin của đồng bào dân tộc thiểu số ở những khu vực khác hình thành nhiều “điểm nóng xung đột”, gây mất ổn định chính trị, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ việc hình thành các điểm nóng trong nước, tạo cơ sở cho các đối tượng kêu gọi sự can thiệp từ bên ngoài vào tình hình nội bộ của Việt Nam và làm suy giảm uy tín của Việt Nam với các nước và cộng đồng quốc tế.

Lực lượng chức năng bắt giữ các đối tượng gây ra vụ khủng bố ở Đắk Lắk.

Bao che, dung túng cho tội phạm khủng bố là vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế

Tội phạm khủng bố trong vài thập niên gần đây đã trở thành vấn đề quốc tế, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định và phát triển của cả thế giới. Đây là nguy cơ đe dọa an ninh phi truyền thống, có khả năng lan truyền rộng rãi, được hình thành bởi rất nhiều nguyên nhân: Từ chủ nghĩa cực đoan tôn giáo, cực đoan về dân tộc, sắc tộc, đến đói nghèo, bệnh tật, bất bình đẳng, phân hóa, xung đột xã hội hay tranh giành quyền lực, tranh giành địa chính trị và các nguồn tài nguyên. Khủng bố còn có thể là hệ quả quá trình thực thi chính sách quản lý xã hội thiếu sáng suốt, gây chia rẽ các nhóm xã hội ở các quốc gia và cũng có thể bắt nguồn từ chiến tranh.

Tội phạm khủng bố là một thách thức an ninh đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Đến nay, Liên Hợp quốc đã thông qua 16 điều ước đa phương về chống khủng bố (công ước, nghị định thư). Trong đó, có Công ước quốc tế về chống tài trợ khủng bố ngày 9/12/1999; nghị quyết số 1373 ngày 28/9/2001 về chống khủng bố và tài trợ khủng bố và nhiều quy định khác. Trong đó quy định nêu rõ: Các quốc gia phải có nghĩa vụ phòng ngừa ngăn chặn hoạt động khủng bố và tài trợ cho hoạt động khủng bố; nghiêm cấm bất kỳ cá nhân, tổ chức nào trong lãnh thổ của họ nỗ lực thực hiện tạo điều kiện về tài chính hoặc tham gia chỉ đạo, tiến hành các hành động khủng bố. Các quốc gia tham gia có nghĩa vụ: Bảo đảm rằng bất cứ người nào tham gia vào việc tài trợ, lập kế hoạch, chuẩn bị, gây ra các hành động khủng bố hoặc hỗ trợ các hành động khủng bố phải bị đưa ra xét xử…

Ngày 22/6/2023, tại trụ sở Liên hợp quốc ở New York, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã tổ chức thảo luận và thông qua văn kiện rà soát lần thứ 8 việc thực hiện chiến lược chống khủng bố. Nghị quyết tái khẳng định chiến lược cùng 4 trụ cột, tầm quan trọng của việc thực hiện cân bằng và kết hợp tất cả trụ cột. Tham dự và phát biểu tại phiên họp, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc khẳng định, việc thông qua văn kiện thể hiện thông điệp thống nhất và mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế, không chấp nhận chủ nghĩa khủng bố dưới bất cứ hình thức nào.

Đối với vụ việc xảy ra tại tỉnh Đắk Lắk ngày 11/6/2023, Đại sứ Đặng Hoàng Giang nhấn mạnh, đây là hành vi khủng bố có tổ chức nhằm vào trụ sở cơ quan nhà nước, sát hại cán bộ và dân thường. Các tổ chức, cá nhân trực tiếp thực hiện hoặc đứng sau sẽ bị xử lý tương xứng với mức độ vi phạm. Đồng thời tái khẳng định lập trường của Việt Nam, phù hợp với các văn kiện của Liên hợp quốc có liên quan, lên án mạnh mẽ chủ nghĩa khủng bố dưới mọi hình thức, do bất kỳ ai thực hiện, xảy ra ở đâu và vì bất kỳ mục đích gì.

Nhà nước Việt Nam ta luôn tôn trọng luật pháp quốc tế về phòng, chống khủng bố, tích cực hỗ trợ các nước trong công tác phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh với các tổ chức tội phạm khủng bố quốc tế, bảo vệ các quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân nhưng cũng kiên quyết trừng trị những đối tượng lợi dụng quyền tự do dân chủ để tiến hành các hoạt động khủng bố, xâm hại, đi ngược lại lợi ích của người dân, lợi ích quốc gia của Việt Nam.

Trong cuộc gặp gỡ báo chí tại Hà Nội ngày 24/7/2023, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper nêu rõ: “Tôi xin khẳng định rằng, Mỹ không chấp nhận những gì đã xảy ra tại Đăk Lăk, cũng như phản đối bạo lực dưới mọi hình thức. Chúng tôi xin gửi lời chia buồn đến gia đình những người bị hại, đồng thời lên án bằng những ngôn từ mạnh mẽ nhất với việc sử dụng bạo lực để đạt mục đích”.

Ngày 31/7/2024, báo Bangkok Post dẫn lời ông Chai Wacharonke, Phát ngôn viên của Chính phủ Thái Lan khẳng định, Chính phủ Thái Lan sẽ không can thiệp vào tiến trình tố tụng liên quan đến đối tượng Y Quynh Bdap. Đây là câu trả lời rõ ràng trước những đòi hỏi phi lý của các tổ chức nhân danh nhân quyền, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài, các đối tượng chống đối bất chấp luật pháp quốc tế, đe dọa an ninh quốc gia, khu vực về việc trả tự do cho đối tượng khủng bố Y Quynh Bdap sẽ không bao giờ được chấp nhận.

Khi cả thế giới đều lên án hành vi khủng bố thì không có lý do gì các tổ chức quốc tế mang danh nghĩa nhân quyền, các tổ chức, cá nhân khác lại có hành động ủng hộ cũng như can thiệp, bao che cho đối tượng khủng bố. Vì vậy, việc phối hợp trong dẫn độ đối tượng khủng bố đang lẩn trốn ở nước ngoài của Việt Nam được thực hiện theo các công ước quốc tế, nghị quyết của Liên hợp quốc về chống khủng bố và Việt Nam và các quốc gia trên tham gia, ký kết.

Cho nên, các tổ chức quốc tế mang danh nghĩa nhân quyền cần chấm dứt ngay các hành động lợi dụng tự do, dân chủ, nhân quyền để đi ngược lại với luật pháp quốc tế và Việt Nam, hành động cản trở đó đã và đang trở thành hành vi đồng loã, bảo trợ cho các đối tượng khủng bố. Công lý phải được thực thi, kẻ phạm tội phải bị trừng trị thích đáng, không một tổ chức, cá nhân nào có quyền bao che, “tẩy trắng” cho các đối tượng khủng bố./.

Nhận diện bản chất phản động của “Liên minh người Mông vì công lý”


Là người dân tộc Mông sinh ra, lớn lên ở Việt Nam, thời gian qua, được sự hậu thuẫn của những cá nhân, tổ chức phản động, Vàng Chỉnh Mình đã lập ra cái gọi là “Liên minh người Mông vì công lý” để tiến hành các hoạt động xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Vàng Chỉnh Mình - kẻ phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc

Vàng Chỉnh Mình hay còn có tên gọi khác là Vàng Chẩn Mìn, sinh năm 1975, là người dân tộc Mông, sinh ra và lớn lên tại thôn Khờ Chà Ván, xã Chí Cà, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang. Từ năm 1995, Vàng Chỉnh Mình cùng gia đình di cư đến thôn Nậm Nhừ 3, xã Chà Cang, huyện Mường Lay, tỉnh Lai Châu cũ (nay là xã Nậm Nhừ, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên).

Trong thời gian này, Vàng Chỉnh Mình đã tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền, phát triển đạo trái pháp luật và bị Công an tỉnh Điện Biên bắt và xử lý hành chính nhiều lần vì có các hoạt động gây phức tạp tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn. Trong cuộc sống thường ngày, Vàng Chỉnh Mình đã có hành vi quan hệ bất chính với một phụ nữ đã có chồng, bị bắt quả tang và sau đó hai bên gia đình tổ chức kiểm điểm, bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại. 

Một số tài khoản mạng xã hội mà các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong người dân tộc Mông ở nước ngoài sử dụng để tán phát các hoạt động tuyên truyền lập “Nhà nước Mông”.

Năm 2005, Vàng Chỉnh Mình từ tỉnh Điện Biên đã trốn sang Lào, sau đó sang Thái Lan và được tổ chức “Cao ủy Liên hợp quốc về tị nạn – UNHCR” đưa sang Mỹ định cư theo diện tị nạn. Trong thời gian này, Vàng Chỉnh Mình đã nhiều lần nhập cảnh vào Việt Nam để móc nối, chỉ đạo cho số đối tượng chống đối ở trong nước tại các địa bàn Cao Bằng, Điện Biên, Lào Cai và triệt để lợi dụng các trang mạng xã hội như Zalo, Facebook, Youtube, Viber... để tuyên truyền, chống phá. Vàng Chỉnh Mình còn trực tiếp về khu vực giáp biên giới các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Hà Giang để móc nối, lôi kéo số theo đạo Tin Lành là người dân tộc thiểu số đưa ra nước ngoài nhằm huấn luyện đấu tranh “bất bạo động” dưới danh nghĩa tập huấn tôn giáo do tổ chức “Ủy ban cứu trợ người vượt biển – BPSOS” tổ chức tại Thái Lan, Philippines, Đông Timor.

Vàng Chỉnh Mình còn tuyên truyền cho rằng, tổ chức “Ủy ban cứu trợ người vượt biển – BPSOS” là tổ chức bảo vệ quyền lợi của người Mông Việt Nam tị nạn tại Thái Lan và kêu gọi người Mông xuất cảnh ra nước ngoài tham gia các hoạt động tôn giáo. Vàng Chỉnh Mình đã hứa hẹn sẽ đưa người Mông theo đạo bị đàn áp sang Thái Lan, Philippines để tiếp xúc với quốc tế, Bộ Ngoại giao các nước, ai muốn sang Thái Lan, sang Mỹ sẽ được sung sướng như Vàng Chỉnh Mình, nếu ai muốn đi thì Mình sẽ giúp đỡ.

Vàng Chỉnh Mình còn nhiều lần trả lời phỏng vấn Đài Tiếng nói Hoa Kỳ - VOA, gặp gỡ các nghị sĩ, dân biểu Hoa Kỳ kêu gọi đưa Việt Nam trở lại danh sách “Các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo – CPC”, đòi “tự do tôn giáo” và “quyền con người” và kêu gọi Nhà nước Việt Nam trả tự do cho số đối tượng mà chúng gọi là “tù nhân lương tâm”.

Để thực hiện âm mưu chống phá Việt Nam, Vàng Chỉnh Mình đã lập nhiều tài khoản website, email, Youtube, Facebook để thường xuyên đăng tải, chia sẻ các bài viết, hình ảnh, video clip có nội dung vu cáo chính quyền Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia phản đối các dự thảo Luật như: Luật An ninh mạng, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo hay đề nghị Mỹ can thiệp gây sức ép để Việt Nam sửa đổi Điều 116 (Tội phá hoại chính sách đoàn kết) và Điều 331 (Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân) trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

 Cùng với đó, Vàng Chỉnh Mình đã lôi kéo người Mông theo đạo Tin Lành ở trong nước sang Thái Lan để tham gia các lớp tập huấn về cái gọi là “xã hội dân sự”, trả lời phỏng vấn và cho rằng đó là các “nhân chứng sống” để vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo. Vàng Chỉnh Mình cùng Nguyễn Đình Thắng và một số đối tượng khác đã thông qua các phần mềm ứng dụng trực tuyến để tham gia huấn luyện, đào tạo cho số đối tượng chống đối trong nước về cách thức đối phó khi bị chính quyền, lực lượng Công an phát hiện về các vi phạm pháp luật liên quan đến dân tộc, tôn giáo. Chúng đã tiến hành vận động Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn và chính phủ các nước thân Mỹ nhằm chấp thuận cho một số người dân tộc thiểu số theo đạo Tin Lành, chủ yếu là người Mông có hoạt động vi phạm pháp luật mà chúng cho rằng họ là những người “dám công khai chống Việt Nam về dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo” hiện đang ở Thái Lan đến định cư theo diện tị nạn.

Về cái gọi là “Liên minh người Mông vì công lý” (HUJ)

“Liên minh người Mông vì công lý” – “Hmong United For Jutice - HUJ” là tổ chức được đối tượng Vàng Chỉnh Mình thành lập vào năm 2016 nhằm tập hợp những trường hợp là người dân tộc Mông ở Việt Nam có các hoạt động chống phá chính quyền ở bên ngoài. Vàng Chỉnh Mình cùng Lý A Chà, Giàng A Da và một số đối tượng khác đã nhiều lần tổ chức ra mắt tổ chức trên dưới các khẩu hiệu cho rằng “Hmong United For Jutice” là tổ chức của những người hoạt động, đấu tranh về dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo cho người Mông Việt Nam. Vàng Chỉnh Mình cùng các đối tượng trong “Hmong United For Jutice” đã thành lập một số trang Web, YouTube như: “Hmong United for Justice”, “Hmong Human Rights Coalition”, “Against Religion Oppression”, “Xaivcialis CMA”, các trang facebook cá nhân có tên “Kev Vaam Meej”, “Ntsuab Zoov”, “Johnny Huy”… để tuyên truyền, xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo.

 Trên các trang mạng xã hội này, Vàng Chỉnh Mình cùng số đối tượng cầm đầu trong cái gọi là “Hmong United For Jutice” đã tuyên truyền xuyên tạc chống phá chế độ, đi ngược lại với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền với những luận điệu cho rằng “Người Mông, đặc biệt là người Mông theo đạo tại Việt Nam bị phân biệt đối xử; bị cướp đất, cướp rừng, bao vây, cô lập, sách nhiễu, bức hại, thực hiện chế độ diệt chủng, coi người Mông là mối đe dọa nguy hiểm tại khu vực các tỉnh phía Bắc”… Thậm chí, trên các trang mạng xã hội này, Vàng Chỉnh Mình và đồng bọn còn phủ nhận phong tục tập quán truyền thống của người Mông, hướng dẫn người Mông theo đạo cách đối phó với chính quyền, lực lượng Công an khi bị gọi hỏi, làm việc; lôi kéo và hướng dẫn đồng bào dân tộc cách thu thập thông tin, cách làm báo cáo phản ánh việc cấp ủy, chính quyền đàn áp tôn giáo, dân tộc gửi cho Vàng Chỉnh Mình và cộng đồng người Mông ở hải ngoại để gửi lên các Thượng nghị sĩ và Bộ Ngoại giao Mỹ, từ đó gây sức ép đối với Việt Nam. Vàng Chỉnh Mình cho rằng người Mông ở Việt Nam hãy đồng lòng chung tay đấu tranh đòi quyền lợi, đòi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; cùng nhau lập “con đường riêng” tham gia tổ chức “Liên minh người Mông vì công lý – Hmong United For Jutice”.

Gần đây, trong khi cả hệ thống chính trị và toàn xã hội chung tay góp sức, vào cuộc quyết liệt để ứng cứu, khắc phục hậu quả của cơn bão số 3, tổ chức “Liên minh người Mông vì công lý” đã nhân danh mục tiêu “bảo vệ quyền lợi cho người dân tộc Mông” để gây ảnh hưởng, bành trướng lực lượng, lôi kéo người ủng hộ mà cái đích là thực hiện hành vi chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam khi cho rằng: “Bão lũ là do cán bộ chặt phá hết rừng”; “tiền quyên góp ủng hộ đồng bào bị sạt lở sẽ chảy vào túi quan”; “chỉ có lập “Nhà nước Mông”, lúc đó mới có nhiều ruộng, nương, không có làm cũng có ăn”…

Âm mưu công khai chống phá Việt Nam trên các sự kiện, hội nghị quốc tế

Vàng Chỉnh Mình cùng các đối tượng chống phá Nhà nước đã nhiều lần trực tiếp tham gia các sự kiện, hội nghị quốc tế do Liên hợp quốc chủ trì, Việt Nam là thành viên với tư cách là khách mời hoặc “nhân chứng sống” để chất vấn, đối thoại với đoàn Việt Nam về tình hình người Mông trong nước. Tại phiên kiểm điểm tình hình thực hiện Công ước về chống mọi hình thức phân biệt chủng tộc của Việt Nam trước Ủy ban theo dõi công ước của Liên hợp quốc tại Geneva, Thụy Sĩ và Hội nghị cấp Bộ trưởng các quốc gia về tự do tôn giáo được tổ chức tại Praha, Cộng hòa Séc, Vàng Chỉnh Mình cùng các đối tượng đã tổ chức tuyên truyền, tán phát, livestream trên các trang mạng với các nội dung chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, cho rằng: “Việt Nam không thực hiện đúng các cam kết với Liên hợp quốc, đại diện Việt Nam báo cáo không trung thực, không đúng với câu hỏi của Liên hợp quốc về cải thiện tình hình tôn giáo, cũng như chống mọi hình thức phân biệt chủng tộc”; “người dân tộc thiểu số ở Việt Nam vẫn bị phân biệt đối xử, bị chính quyền quản chế khiến không phát triển được, yêu cầu quốc tế can thiệp bằng hình thức khảo sát, phỏng vấn thực tế vùng đồng bào dân tộc Mông tại Việt Nam, nhất là người Mông tại các tỉnh Tây Nguyên”.  Đồng thời, đối tượng còn bình luận, công kích mang tính xúc phạm đối với cá nhân đồng chí Y Thông, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, Trưởng đoàn đại diện Việt Nam tại Ủy ban Công ước CERD.

Gần đây, ngay sau khi đoàn đại biểu Việt Nam do Thứ trưởng Ngoại giao Đỗ Hùng Việt dẫn đầu tham gia phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc tại trụ sở Liên hợp quốc tại Genevea (Thụy Sĩ) vào ngày 7/5/2024, Vàng Chỉnh Mình, Nguyễn Văn Đài (là đối tượng cầm đầu của “Hội Anh em dân chủ”, đã từng bị TAND TP Hà Nội tuyên phạt 15 năm tù về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”) cùng số đối tượng trong tổ chức Việt Tân đã tổ chức livestream trên các trang mạng xã hội để tuyên truyền xuyên tạc. Các đối tượng cho rằng “tình trạng nhân quyền ở Việt Nam ngày càng tệ đi và lần này cũng như vậy, sau buổi báo cáo này tình trạng nhân quyền vẫn không thể cải thiện được”... Đây là những luận điệu quen thuộc của Vàng Chỉnh Mình, Nguyễn Văn Đài cùng số đối tượng chống đối nhằm tuyên truyền xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam, đồng thời chống phá Đảng, Nhà nước ta, hạ thấp uy tín, vai trò của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc./.

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

THIẾU TƯỚNG HOÀNG SÂM - NGƯỜI ĐỘI TRƯỞNG MƯU LƯỢC, QUYẾT ĐOÁN

 Thiếu tướng Hoàng Sâm tên thật là Trần Văn Kỳ - là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người cộng sản kiên trung, mẫu mực, người con ưu tú của dân tộc ta. Qua nhiều cương vị lãnh đạo, chỉ huy, chiến đấu và công tác, ông luôn tập trung tinh thần, trí tuệ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân giao phó.

Thiếu tướng Hoàng Sâm là “một cán bộ chính trị, quân sự song toàn, có đạo đức, có tài năng, một đảng viên ưu tú của Đảng Lao động Việt Nam, một cán bộ chỉ huy giỏi của Quân đội ta” thời đại Hồ Chí Minh. Ông là người được Bác đặt cho bí danh này và cũng được Bác chọn lựa, chỉ định làm Đội trưởng Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.

Mưu lược, tài chỉ huy vô cùng khéo léo, quyết đoán của ông khi còn làm Đội trưởng Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã được thực tiễn lịch sử khẳng định, không thể phủ nhận.

Thứ nhất, dẫn đầu và chỉ huy một đội quân 34 người, kể cả ông trong điều kiện thiếu thốn về vũ khí trang bị, đạn dược ít, khó khăn về lương thực, thực phẩm; lại hầu như chưa được huấn luyện bài bản về kỹ chiến thuật chiến đấu; chỉ sau hai ngày thành lập mà liên tiếp giành được thắng lợi trong hai trận Phai Khắt, Nà Ngần trước một đội quân được huấn luyện bài bản hơn, đông hơn, được vũ khí trang bị tốt hơn do những viên sĩ quan Pháp của quân đội nhà nghề trực tiếp chỉ huy.

Quân ta đã thắng địch bằng mưu trí, chứ không hoàn toàn dựa vào sức mạnh của vũ khí, đạn dược. Trong điều kiện thực lực quân ta chưa mạnh, vũ khí, đạn dược ít, lại phải đối mặt đánh với đội quân được huấn luyện bài bản, vũ khí trang bị hơn gấp bội mà giành được thắng lợi. Tiếp đó, dưới sự chỉ huy tài tình, khéo léo của ông, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân không chỉ duy trì, bảo tồn được thực lực mà còn không ngừng phát triển, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Xứng đáng “là đội quân đàn anh… Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam” đúng như kỳ vọng của Lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Vũ khí ngày đầu thành lập, Đội chỉ có 2 khẩu súng thập, 17 khẩu súng trường, 14 khẩu súng kíp. Ngoài ra, có 1 khẩu súng tiểu liên Mỹ Sub Machine-gun, 150 viên đạn, 6 quả bom lửa, 1 hộp bom nổ chậm, 5.000 đồng Đông Dương.

Điều kiện con người, vật chất chỉ có vậy; trong khi Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh là “Ra quân trận đầu nhất định phải thắng”, nên áp lực của “thành công” phụ thuộc vào tài chọn phương án tác chiến phù hợp với khả năng và sát tình thế. Ông cùng lãnh đạo Đội chọn tập kích là hình thức tác chiến chính vào hai đồn Phai Khắt, Nà Ngần. Tuy nhiên, nhấn mạnh phải thật bí mật, bất ngờ.

Mưu trí của Ban Chỉ huy Đội là sử dụng trinh sát đồn Phai Khắt - một thiếu niên tên Hồng chỉ mới 12 tuổi, lợi dụng công việc mang bánh, rượu cho tên đồn trưởng, tránh cho tên đồn trưởng và đội quân đồn Phai Khắt không nghi ngờ, mất cảnh giác để nắm sát tình hình địch, ra báo cáo đúng, kịp thời với Ban Chỉ huy đội. Tài cải trang, nghi binh lừa địch của Đội cũng đạt tới nghệ thuật. Toàn Đội cải trang thành lính dõng và một số lính tập mang theo Giấy đi tuần giả do đồng chí Võ Nguyên Giáp đánh máy bên Tòa soạn báo Việt Nam Độc lập chia thành ba toán xâm nhập đồn địch trót lọt, không gặp bất cứ trở ngại nào. Giấy này có dấu giả, chữ ký khéo bắt chước tới mức, quân địch không hề nghi ngờ gì.

Tuy nhiên, để bảo đảm yếu tố bí mật và thành công cho trận đánh đồn Nà Ngần, sự linh hoạt trong công tác cải trang đã được chỉ huy Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đổi khác nhanh chóng. Ba du kích quân đóng giả người Dao bị quân du kích bắt được, trói giải lên đồn. Khi quân ta bằng giấy giả lọt được vào đồn trót lọt thì tên quản khố đỏ đã dậy sớm ngồi vào bàn làm việc, bị bắt đầu hàng, nhưng y sử dụng súng ngắn kháng cự lại và bị đồng chí Thu Sơn dùng tiểu liên tiêu diệt, bốn tên lính kháng cự cũng bị quân ta tiêu diệt bằng sáu viên đạn súng trường. Phương thức tác chiến của Đội khi đánh đồn Nà Ngần vẫn là cải trang thành lính địch đi tuần, tập kích bất ngờ, binh vận, dụ hàng, chỉ diệt địch khi cần. Nếu ở Phai Khắt, quân ta chỉ bất ngờ nổ súng diệt viên sĩ quan đồn trưởng Pháp, thì ở Nà Ngần, tình thế đã buộc quân ta phải nổ súng diệt một tên sĩ quan và bốn lính kháng cự. Trận đánh đồn Nà Ngần diễn ra vẻn vẹn trong dăm phút. Toàn Đội rút lui an toàn. Hàng binh địch xin trở về quê hương làm ăn được trợ cấp lộ phí.

Nhờ mưu trí tổ chức trinh sát mục tiêu và cải trang lừa địch hiệu quả; công tác chuẩn bị khoa học, chu đáo, chặt chẽ đã tạo cho Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân thế tiến công địch hoàn toàn bất ngờ để đột nhập đồn, diệt địch, thu vũ khí. Tiểu đội trưởng Thu Sơn mặc bộ kaki lính tập, xách tiểu liên đi đầu, đưa “giấy đi tuần”. Một tiểu đội đi theo tiến thẳng vào kho súng. Tiểu đội khác nhanh chóng tỏa ra bao vây đồn Phai Khắt. Đồng chí Thu Sơn hô tiếng Pháp “Rátsămmăng” (tập hợp). 17 lính và 1 cai tập hợp lại. Các chiến sĩ Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân chĩa súng, buộc địch đầu hàng. Trong lúc đó, tên đồn trưởng Pháp đang trên đường Nguyên Bình - Phai Khắt về đồn, bị một chiến sĩ ta nổ súng tiêu diệt. Sau khi thu chiến lợi phẩm, động viên nhân dân, Đội tổ chức rút lui an toàn. Toàn đội đã thực hiện đúng căn dặn của Lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với Đội khi tiễn đồng chí Võ Nguyên Giáp trở về tổng Hoàng Hoa Thám để thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân: “Phải nhớ bí mật: Ta ở Đông, địch tưởng là ở Tây. Lai vô ảnh, khứ vô hình”.

Hai chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần đã biểu hiện rõ nét tinh thần “Quyết chiến, quyết thắng”; mưu lược, tài chỉ huy vô cùng khéo léo, quyết đoán của Đội trưởng Hoàng Sâm; lòng yêu nước và dũng khí toàn thể đội viên Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân; mở đầu truyền thống đánh chắc thắng, đánh thắng trận đầu của Quân đội ta; góp phần thực hiện được phương châm “Lấy chiến thắng để tuyên truyền vũ trang. Lấy tuyên truyền vũ trang để giành chiến thắng mới” như Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ thị.

Thứ hai, Chỉ đạo, chỉ huy Đội Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân không chỉ bảo tồn được thực lực mà còn không ngừng phát triển, cùng với các đội vũ trang cách mạng khác hợp nhất trở thành Việt Nam Giải phóng quân.

Sau những trận thắng đầu tiên đó, thực dân Pháp tiếp theo là phát xít Nhật đã thực thi trăm phương ngàn kế nhằm tiêu diệt đội quân chủ lực này, nhưng đội quân chủ lực này được đồng bào các dân tộc chở che, giúp đỡ; sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng; sự dẫn dắt, chỉ huy tài ba của Đội trưởng Hoàng Sâm tiếp tục trụ vững và không ngừng phát triển. Lực lượng Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân không còn chỉ là vài trung đội, đại đội mà đã phát triển thành nhiều đại đội.

Cuối tháng 4 năm 1945, các đơn vị Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã giải phóng hầu hết các xã, châu, huyện ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang. Ngày 20 tháng 4 năm 1945, cánh Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân gặp Cứu quốc quân ở Bảo Lạc, Thất Khê xuống cùng đánh chiếm Văn Mịch. Ngày 1 tháng 5, tiếp tục giải phóng Bằng Mạc. Cánh quân của Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân trên đường tiến từ Bảo Lạc về Thất Khê đã tước được hàng nghìn khẩu súng (có cả súng cối, súng máy, đại bác) và rất nhiều lừa, ngựa của các đoàn quân Pháp nối nhau chạy qua biên giới Việt - Trung.

Có những bộ phận quân Pháp ngoan cố chống cự đã bị Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đánh bại, tước toàn bộ vũ khí như ở Trà Lĩnh, Mã Phục (Cao Bằng). Tiến đến đâu, các đội quân đều phối hợp với cơ sở cứu quốc địa phương tước vũ khí lính dõng, thu bằng, triện của bọn tổng lý, trừng trị bọn việt gian đầu sỏ, thành lập chính quyền nhân dân, củng cố và phát triển các hội cứu quốc, xây dựng các đội tự vệ chiến đấu và du kích để bảo vệ chính quyền cách mạng mới được thành lập.

Trước tình thế cách mạng chín muồi, ngày 15 tháng 4 năm 1945, Hội nghị quân sự Bắc Kỳ tại huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang do đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng chủ trì, quyết định thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân cùng các tổ chức vũ trang khác, thành lập Việt Nam Giải phóng quân để cùng nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Ngày 15 tháng 5 năm 1945, tại Định Biên Thượng, Chợ Chu, Thái Nguyên, Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được hợp nhất với các đơn vị Cứu quốc quân thành đội chủ lực của Việt Nam Giải phóng quân. Lực lượng lên tới 13 đại đội. Ở một số tỉnh, huyện cũng tổ chức nhiều trung đội, đại đội Giải phóng quân khác. Đó là một đội ngũ vũ trang được rèn luyện trong lò lửa đấu tranh cách mạng. Hầu hết đội viên Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã trở thành những cán bộ chỉ huy tài ba của Quân đội ta sau này.

Như vậy, do yêu cầu của bối cảnh, điều kiện cách mạng đã chín muồi, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập theo Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Và dưới sự chỉ huy mưu lược, tài ba, quyết đoán của Đội trưởng Hoàng Sâm. Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã không ngừng phát triển, khẳng định vị thế của đội quân chủ lực đầu tiên và hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của Trung ương Đảng và nhân dân giao phó. Tháng 1 năm 1948, Đội trưởng Hoàng Sâm khi đó giữ chức vụ Khu trưởng Chiến khu II đã được phong hàm Thiếu tướng ngay đợt đầu tiên phong tướng của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

 

TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM NÓI VỀ VIỆC PHỔ CẬP TIẾNG ANH

 Đề cập tới việc phổ cập tiếng Anh trong giáo dục, Tổng Bí thư Tô Lâm nêu quan điểm: "Nếu thầy không có tiếng Anh, làm sao học sinh có tiếng Anh được? Thầy dạy toán cũng phải có tiếng Anh chứ không phải chỉ giáo viên ngoại ngữ. Thầy dạy văn cũng phải như thế. Phải tiếp cận và hội nhập như thế...".

Giáo viên hội nhập thế nào?

Sáng 9/11, Quốc hội thảo luận ở tổ về dự án Luật Nhà giáo, phát biểu tại tổ Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, dự luật trước hết phải xác định vai trò rất quan trọng của giáo dục đào tạo, trong đó người thầy là chủ thể, trung tâm, đồng thời phải giải quyết mối quan hệ tương quan giữa thầy và trò.

Theo Tổng Bí thư, chính sách rất quan trọng của Nhà nước ta là phổ cập giáo dục, các cháu đến tuổi đi học phải được đến trường, tiến dần từ phổ cập tiểu học đến phổ cập trung học. “Nếu tiến lên nữa thì Nhà nước phải nuôi, tiến tới bỏ học phí, nuôi ăn các cháu trong tuổi đi học. Tiến bộ là phải ở mức độ như vậy” – Tổng Bí thư bày tỏ.

Tổng Bí thư Tô Lâm cho rằng, để thực hiện được yêu cầu đó thì không thể để xảy ra tình trạng thiếu thầy cô, thiếu trường lớp được, vì “có thầy là phải có trò”. Điều kiện đất nước ta hiện nay đã tương đối thuận lợi để thực hiện mục tiêu này vì căn cứ vào dữ liệu dân cư hiện nay, có thể biết được một năm có bao nhiêu trẻ em đến độ tuổi đi học. Từ dữ liệu đó, cơ quan quản lý Nhà nước phải chủ động chuẩn bị giáo viên, trường lớp… để cho các cháu đi học.

“Cái gì thiếu thì phải giải quyết. Đã có trò, có thầy thì phải có trường. Không thể quy hoạch, quản lý thế nào mà không có trường được. Đây là vấn đề rất thời sự”, Tổng Bí thư nói.

Cũng theo Tổng Bí thư, dự luật cần phải xác định vai trò của người thầy trong nghiên cứu khoa học; vai trò của người thầy trong hội nhập với giáo dục quốc tế và các chính sách liên quan.

Tổng Bí thư đặt vấn đề, đất nước hội nhập, giáo dục đào tạo hội nhập thế nào, giáo viên hội nhập thế nào? Nếu không nói tới chuyện đó thì rất khó khăn. Như vừa rồi, chúng ta tuyên bố phổ cập tiếng Anh trong giáo dục. Vậy thầy phải có trình độ tiếng Anh thế nào? Thầy ở đây có quy định là người nước ngoài không? Người nước ngoài vào giảng dạy có chấp hành Luật Nhà giáo của Việt Nam không?

“Những vấn đề này phải có chính sách cụ thể. Nếu thầy không có tiếng Anh, làm sao học sinh có tiếng Anh được? Thầy dạy toán cũng phải có tiếng Anh chứ không phải chỉ giáo viên ngoại ngữ. Thầy dạy văn cũng phải như thế. Phải tiếp cận và hội nhập như thế. Đấy là cấp học phổ thông. Mình phải tính toán, thể hiện chính sách vào đây”, Tổng Bí thư lưu ý.

Cần chính sách cho môi trường giáo dục đặc biệt

Đề cập đến vấn đề giảng dạy trong môi trường đặc biệt, Tổng Bí thư nêu ví dụ với người thầy trong trường trại giam, có những cái rất đặc biệt, hay như ở khu vực miền núi, cũng phải được coi là môi trường đặc biệt.

Khi công tác ở đó, thầy phải dỗ dành các cháu đến trường, nuôi các cháu đi học, động viên, thầy phải hy sinh... Vậy có chính sách gì trong môi trường đặc biệt này? Đi miền núi thấy khó khăn. Các cháu cách trường 20 - 30 km, làm sao đi hàng ngày đến trường được? Chỗ ở nội trú cũng khó khăn. Rồi cô giáo đi lên miền núi giảng dạy, cả tuổi thanh xuân ở đấy thế nào?...

“Môi trường như thế, bây giờ có nhà công vụ cho thầy giáo không? Những chỗ rất đặc biệt, phải có chính sách cụ thể, nhưng vẫn phải bao quát những trường hợp đặc biệt như vậy” - Tổng Bí thư nêu rõ.

Nhấn mạnh đội ngũ nhà giáo rất chờ đón Luật Nhà giáo được ban hành, Tổng Bí thư lưu ý, việc xây dựng dự án luật này phải làm sao để người thầy thực sự đón nhận với một sự phấn khởi, thực sự là tôn vinh, thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho người thầy.

 

LUẬN ĐIỆU MỚI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH XUYÊN TẠC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA VIỆT NAM

 Trong bối cảnh hiện nay, khi công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ và mạng xã hội trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống xã hội, không ít thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị đã lợi dụng không gian mạng để phát tán những luận điệu sai trái, nhằm xuyên tạc sự thật, phá hoại lòng tin của nhân dân vào các tổ chức và chính quyền. Một trong những vấn đề mà họ thường xuyên lợi dụng là chính sách nghĩa vụ quân sự ở Việt Nam.

Thực tế, các thế lực thù địch và những kẻ phản động trên mạng xã hội đã rêu rao những thông tin sai lệch như: "Trong khi các nước phát triển quan tâm đào tạo thanh niên lập nghiệp, Việt Nam lại bắt ép người dân đi nghĩa vụ quân sự ", "Hãy để thanh niên lập nghiệp, làm giàu, đừng bắt đi nghĩa vụ quân sự ", hay thậm chí là "Chỉ con nhà nghèo mới bị bắt đi nghĩa vụ". Những luận điệu này không chỉ bóp méo sự thật mà còn gây hoang mang trong dư luận, khiến nhiều người hiểu sai về chính sách nghĩa vụ quân sự của Việt Nam.

Tuy nhiên, sự thật là, trên thế giới, nhiều quốc gia vẫn duy trì nghĩa vụ quân sự bắt buộc. Những quốc gia này có thể kể đến như Hàn Quốc, Thụy Sĩ, Israel, hay Singapore, nơi mà thanh niên phải thực hiện nghĩa vụ quân sự không phân biệt gia đình giàu nghèo, và không có bất kỳ sự miễn trừ nào, kể cả với những người nổi tiếng. Việt Nam, cũng như nhiều quốc gia khác, thực hiện nghĩa vụ quân sự là một trách nhiệm quan trọng trong việc bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia và bảo vệ sự ổn định của xã hội.

Nguy hiểm hơn, một số thế lực thù địch và các nhóm phản động không chỉ dừng lại ở việc phát tán những thông tin sai lệch mà còn sử dụng chiêu trò cắt ghép, dàn dựng hình ảnh, video để xuyên tạc về hoạt động của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Họ đăng tải những cảnh bạo lực, quân phiệt của quân đội nước ngoài và gán ghép cho Việt Nam, từ đó làm méo mó hình ảnh, đạo đức và tác phong của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Những hành động này không chỉ vi phạm đạo đức mà còn có mục đích gây sự hoài nghi trong lòng dân đối với lực lượng vũ trang, nhằm làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan bảo vệ Tổ quốc.

Một trong những âm mưu sâu xa của các thế lực thù địch là tạo ra sự phân tâm, hoang mang trong lòng xã hội, đặc biệt là đối với thanh niên và các gia đình có người thân chuẩn bị nhập ngũ. Họ muốn gây ra sự dao động trong tư tưởng, khiến công dân và gia đình họ không còn niềm tin vào nghĩa vụ quân sự, từ đó dẫn đến sự "tự diễn biến", trốn tránh nghĩa vụ, thậm chí phản kháng và chống đối việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Đây chính là một phần trong chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch nhằm phá hoại sự ổn định của đất nước, tạo cơ hội cho họ thực hiện các hoạt động gây mất an ninh chính trị, trật tự xã hội, và kích động hành động bạo loạn.

Để đối phó với tình hình này, chúng ta cần phải nâng cao nhận thức của cộng đồng, đặc biệt là giới trẻ, về ý nghĩa và tầm quan trọng của nghĩa vụ quân sự đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Các cơ quan chức năng cũng cần kiên quyết xử lý các hành vi xuyên tạc, phát tán thông tin sai lệch, đặc biệt là trên mạng xã hội. Bên cạnh đó, mỗi người dân cũng cần phải tỉnh táo, nhận thức rõ ràng và không để mình bị lôi kéo vào các luận điệu sai trái, thiếu căn cứ.

Chúng ta cần phải đoàn kết, chung sức bảo vệ nền tảng chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đồng thời đấu tranh kiên quyết với các hành động xuyên tạc, phá hoại từ các thế lực thù địch. Đây chính là trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc, vì một xã hội ổn định, hòa bình và phát triển.

 

THÔNG ĐIỆP CỦA TỔNG BÍ THƯ VỀ CUỘC CÁCH MẠNG TINH GỌN BỘ MÁY

 "Tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng", thực hiện những thay đổi có tính cách mạng để hướng đến một hệ thống chính trị "tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả" là những thông điệp nổi bật trong các bài viết, bài phát biểu gần đây của Tổng Bí thư Tô Lâm.

Các nội dung này đã nhận được nhiều sự chú ý, bàn luận tích cực, và kỳ vọng về những bước tiến đột phá liên quan đến đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong thời gian tới.

Khái niệm "hệ thống chính trị" chính thức được sử dụng ở nước ta từ Hội nghị trung ương lần thứ 6, khóa VI. Tuy nhiên, ba cấu phần tạo nên hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thì đã hình thành và hoạt động từ năm 1945.

Những đổi mới về thể chế, trọng tâm là đổi mới công tác tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là một trong những điều kiện cơ bản, quyết định đạt được những thành tựu vĩ đại sau 40 năm đổi mới đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó thì các thành tố bộ phận, cơ chế vận hành, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị đã và đang bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, trong khi các điều kiện của đất nước đã có nhiều thay đổi.

Trong bài viết gần đây, Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ: "tổ chức bộ máy hệ thống chính trị nước ta tuy đã được đổi mới ở một số bộ phận, nhưng cơ bản vẫn theo mô hình được thiết kế từ hàng chục năm trước, nhiều vấn đề không còn phù hợp với điều kiện mới là trái với quy luật phát triển; tạo ra tâm lý nói không đi đôi với làm".

Cụ thể hơn, hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay vẫn còn quá cồng kềnh, nhiều tầng, nấc, nhiều đầu mối. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, quan hệ công tác giữa nhiều cơ quan, bộ phận chưa thật rõ ràng, còn trùng lắp, chồng chéo, có cấp không rõ địa vị pháp lý; đơn vị trực thuộc có tư cách pháp nhân tăng, gia tăng. Tình trạng này dẫn đến nhiều hậu quả, cả trước mắt và lâu dài.

Hậu quả dễ thấy nhất là tình trạng vất vả, tốn nhiều thời gian của người dân và doanh nghiệp mỗi khi phải thực hiện các quy định quản lý của Nhà nước. Tiếp đến là sự tốn kém ngân sách để bảo đảm hoạt động cho cả bộ máy, hiện tại việc trả lương và chi thường xuyên hàng năm chiếm đến 70% ngân sách. Sự chồng chéo, không rõ trách nhiệm và thẩm quyền cũng dẫn đến nguy cơ gây phiền nhiễu, đùn đẩy trách nhiệm, hoặc nghiêm trọng hơn là tình trạng lấn sân, "bao biện làm thay", cản trở, thậm chí vô hiệu hóa lẫn nhau giữa các đơn vị.

Tất cả những biểu hiện nêu trên đều ảnh hưởng không tốt đến hiệu lực, hiệu quả, khả năng linh hoạt đáp ứng nhu cầu, sự chủ động, sáng tạo, cũng như sức mạnh tổng thể của hệ thống chính trị. Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, nếu không quyết liệt thực hiện những sự thay đổi có tính cách mạng thì những hạn chế của hệ thống chính trị có thể cản trở sự phát triển của đất nước.

Do đó, để đất nước có thêm động lực trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển vươn mình của dân tộc thì một trong những vấn đề quan trọng nhất là cần quyết liệt hiện đại hóa hệ thống chính trị theo phương châm như Tổng Bí thư đã đề ra là "Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả", đáp ứng các tiêu chí quản trị quốc gia hiện đại trong thế kỷ 21. Đó phải là những thay đổi mạnh mẽ trên quy mô tổng thể để có thể tạo ra những chuyển biến rõ rệt so với hiện nay về chất lượng hoạt động của cả hệ thống chính trị.

Cụ thể hơn, những kết quả từ sự thay đổi liên quan đến hệ thống chính trị phải thể hiện ra thành sự cải thiện tích cực trên một số tiêu chí căn bản như hiệu lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước, khả năng tập hợp, đoàn kết xã hội của Mặt trận tổ quốc, năng lực đại diện của các tổ chức chính trị - xã hội…

Năm 2017, Ban chấp hành trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, sắp xếp bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng gia tăng hiệu lực, hiệu quả. Kể từ đó, tiến trình tinh gọn bộ máy theo hướng thu hẹp các đầu mối, giảm tầng, nấc, giảm biên chế… đã được thực hiện trên toàn quốc, và đến nay cũng đã đạt những kết quả rõ rệt. Tuy nhiên, những kết quả về tinh gọn bộ máy và giảm biên chế là chưa đáp ứng yêu cầu đề ra và mong muốn của chúng ta.

Cũng có nghĩa, để thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, thì chúng ta phải sớm triển khai một nhiệm vụ đã được đề ra trong Nghị quyết 18-NQ/TƯ, đó là: đến năm 2030, hoàn thành việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể của nước ta trong giai đoạn mới.

Về lý thuyết, mô hình tổng thể của hệ thống chính trị trước hết giúp chúng ta nhận biết được những đặc điểm khái quát nhất về hệ thống bộ máy tổ chức, thẩm quyền cùng chức năng, nhiệm vụ của mỗi chủ thể, cơ chế hoạt động cũng như nguyên tắc vận hành của cả hệ thống. Cùng với đó là những quy định cụ thể để điều chỉnh mọi hành động của các chủ thể, cũng như các mối quan hệ, cả theo chiều ngang và chiều dọc, giữa các thành tố tạo nên hệ thống chính trị.

Ở bất cứ quốc gia nào thì mô hình tổng thể về hệ thống chính trị tất yếu cũng cần phải dựa vào và phản ánh hệ giá trị được đề cao và theo đuổi bởi cả cộng đồng xã hội. Chính sự khác biệt về hệ giá trị tạo ra sự khác biệt về hệ thống chính trị giữa các quốc gia. Hệ thống chính trị trước hết là biểu hiện vật chất của hệ giá trị chính trị - xã hội. Đến lượt nó, hệ thống chính trị cũng chính là phương tiện then chốt nhất, tập hợp các chủ thể quan trọng nhất trong cấu trúc quản trị quốc gia, đảm nhiệm vai trò quyết định trong tiến trình hiện thực hóa các giá trị nêu trên.

Ở nước ta, việc thiết kế mô hình tổng thể cho hệ thống chính trị trước hết phải bám sát, phản ánh hệ giá trị xã hội chủ nghĩa và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tiếp đó, khả năng vận hành ổn định, bền vững và phát huy vai trò của hệ thống chính trị cũng phụ thuộc vào khả năng tích hợp các giá trị mới, được đề cao bởi các lực lượng xã hội.

Vấn đề căn cốt thứ hai cần quan tâm khi thiết kế mô hình hệ thống chính trị là bộ máy tổ chức, các cơ quan, đơn vị từ trung ương đến các địa phương. Yêu cầu đặt ra là tinh gọn về quy mô đầu mối, tránh chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, cùng với đó là phân cấp, phân quyền rõ ràng. Song hành với thiết kế bộ máy tổ chức, việc xử lý mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước cũng chính là một vấn đề đặc biệt quan trọng. Theo đó, các quy định thể chế không chỉ phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng mà còn phải giảm thiểu nguy cơ lấn sân, bao biện làm thay vai trò quản lý của Nhà nước.

Kinh nghiệm xây dựng mô hình tổng thể về hệ thống chính trị từ nhiều quốc gia, điển hình như nước Mỹ sau khi giành được độc lập, hay Nhật Bản và Hàn Quốc từ sau thế chiến thứ 2 cho thấy vai trò quyết định của các nhà lãnh đạo chính trị cũng như các trí thức xuất sắc nhất của đất nước. Nói cách khác, những mô hình hệ thống chính trị thành công là sản phẩm của sự kết hợp giữa quyết tâm, tầm nhìn, tư tưởng tiến bộ và trí tuệ của các nhà lãnh đạo chính trị và các trí thức tinh anh.

Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị sẽ là một trong những động lực quan trọng nhất đưa đất nước ta tiến nhanh, tiến mạnh vào kỷ nguyên mới.

 

TRUY TRÁCH NHIỆM NỀN TẢNG XÃ HỘI ĐỂ CHẶN TIN GIẢ

 Chất vấn Bộ trưởng Bộ TT-TT, nhiều đại biểu đề cập tình trạng bùng nổ tin giả, quảng cáo sai sự thật. Việc này đã và đang tác động tiêu cực đến người dân, gây bức xúc dư luận, cần có giải pháp để xử lý và ngăn chặn.

Bộ trưởng TT-TT Nguyễn Mạnh Hùng cho hay, tin giả, tin sai sự thật không chỉ là vấn đề của VN mà mang tính toàn cầu. Giải pháp đầu tiên phải là hoàn thiện thể chế. Trước đây, các quy định chỉ tập trung xử lý những cá nhân sử dụng mạng xã hội khi đưa thông tin sai sự thật, tin giả; còn tới đây, một nghị định mới đã được ban hành, sẽ xử lý đối với cả nền tảng xã hội khi vi phạm luật pháp.

Vẫn theo ông Hùng, bấy lâu nay chúng ta nghĩ nhiều đến trách nhiệm quản lý của Nhà nước nhưng thực ra trách nhiệm lớn phải là của các nền tảng xã hội. "Họ có không gian riêng, họ có thuê bao riêng mà không chỉ là số ít, hàng chục triệu, hàng trăm triệu hoặc hàng tỉ người dùng. Họ phải có trách nhiệm rà quét, phát hiện, tự động gỡ bỏ các thông tin sai sự thật và thông tin xấu, độc", Bộ trưởng Bộ TT-TT nhấn mạnh.

Người đứng đầu Bộ TT-TT cũng cho rằng, các nền tảng xuyên biên giới, kể cả chưa có đại diện tại VN, khi làm ăn kinh doanh tại VN là phải tuân thủ luật pháp VN. "Nếu không tuân thủ là chúng ta có đủ năng lực để dừng toàn bộ hoạt động", ông Hùng nói và khẳng định "phải nhà nào nhà nấy quản phần của mình thì không gian mạng mới lành mạnh được".

Tham gia trả lời thêm về nội dung trên, đại tướng Lương Tam Quang, Bộ trưởng Bộ Công an, nói hậu quả của tin giả, tin sai sự thật là khôn lường, trở thành mối đe dọa lớn tới an ninh, trật tự, kinh tế - xã hội, thậm chí đe dọa đến chủ quyền quốc gia và an ninh toàn cầu. "Có những thông tin gây thiệt hại vốn hóa nhiều nghìn tỉ đồng", ông Quang dẫn chứng.

Để ngăn chặn, đại tướng Lương Tam Quang cho rằng phải nắm tình hình, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật gây mất an ninh trật tự trên không gian mạng và mạng xã hội. Theo quy định hiện nay, hành vi đưa tin giả, tin sai sự thật có thể bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự, thế nhưng mức xử phạt hành chính là chưa đủ sức răn đe, chỉ từ 5 - 10 triệu đồng.

Quy định pháp luật cũng thiếu khung định lượng cụ thể để xác định hành vi vi phạm là hành chính hay hình sự. Ví dụ như hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác đến mức độ nào là nghiêm trọng, trong khi chỉ cần bịa đặt, lan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác thì đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm. "Chúng tôi kiến nghị có thể không cần xem xét hậu quả xảy ra đối với những hành vi này, để đủ sức răn đe", Bộ trưởng Bộ Công an cho hay.