Thứ Tư, 13 tháng 11, 2024

Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực kinh tế quan trọng.

 Quan điểm của Đảng về sở hữu và các thành phần kinh tế nói chung, về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân nói riêng có quá trình hình thành và phát triển lâu dài, được bổ sung và hoàn thiện qua mỗi giai đoạn phát triển kinh tế đất nước. Bài viết làm rõ quá trình đổi mới tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế tư nhân, khẳng định tính đúng đắn của các quyết sách của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.

Kinh tế tư nhân, động lực quan trọng của nền kinh tế
Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế _ Ảnh: laodong.vn

1. Quá trình đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế tư nhân

Trước đổi mới, kinh tế tư nhân được coi là đối tượng trực tiếp của chủ trương cải tạo XHCN và hạn chế phát triển. Từ khi đổi mới đến nay, quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân luôn nhất quán và ngày càng được hoàn thiện, góp phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực này. Từ Đại hội VI (tháng 12-1986), nền kinh tế nhiều thành phần đã được thừa nhận chính thức trong văn kiện Đảng. Đại hội VI khẳng định: “Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế... Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch...”(1) và “Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”(2). Như vậy, các thành phần kinh tế phi XHCN được thừa nhận sự tồn tại và hoạt động dưới sự chỉ đạo, dẫn dắt của thành phần kinh tế XHCN. Tuy nhiên lúc này, kinh tế tư nhân nói riêng, các thành phần kinh tế phi XHCN nói chung vẫn được coi là đối tượng phải “cải tạo”, bằng những hình thức và bước đi thích hợp, tránh chủ quan nóng vội: “cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác(3).

Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 15-7-1988 của Bộ Chính trị khóa VI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 5-4-1988 của Bộ Chính trị khóa VI về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đổi mới cơ bản cách thức quản lý hợp tác xã nông nghiệp, tạo động lực cho kinh tế tư nhân trong nông nghiệp hồi phục và phát triển năng động, bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hóa. Đó là bước khởi đầu quan trọng đối với kinh tế tư nhân nước ta, mở đường cho những bước đột phá sau này.

Đại hội VII (năm 1991) đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về việc khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước”(4) và “Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”(5). Đại hội VII cũng khẳng định: “Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm”(6). Như vậy, từ chỗ coi kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế “tàn dư” cần “cải tạo” bằng những bước đi thích hợp, Đại hội VII đã thực sự coi kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung. Do đó, Hội nghị Trung ương 2 khóa VII đã nêu chủ trương: “Bổ sung và sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho tập thể, cá thể và tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm; được tự lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định”(7).

Đại hội VIII (năm 1996) tiếp tục khẳng định: “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh”(8). Đại hội VIII khẳng định, cần đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, đồng thời tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư lâu dài.

Bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân thể hiện trong Văn kiện Đại hội IX (tháng 1-2001), khi Đảng ta khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: “Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm”(9).

Đến Đại hội IX, quan điểm của Đảng ta đã có bước nhìn nhận mới: “Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh liên kết với nhau với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước”(10).

Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (năm 2002) thông qua Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Đây là lần đầu tiên kể từ khi đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương có một nghị quyết chuyên đề về kinh tế tư nhân, trong đó tiếp tục khẳng định: Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Hội nghị Trung ương 5 khóa IX cũng đưa ra những đánh giá xác đáng về đóng góp của kinh tế tư nhân, đó là: đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.

Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) tiếp tục xác định vị trí và định hướng phát triển các thành phần kinh tế chủ yếu. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế đất nước, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Lần đầu tiên, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân được Đảng ta chính thức nêu ra và có quy định cụ thể. Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thảo luận và thông qua “Quy định đảng viên làm kinh tế tư nhân”.

Tại Đại hội X, Đảng có những khẳng định mới về vai trò của kinh tế tư nhân khi coi kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và mang ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời, khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo của công cuộc đổi mới đất nước.

Đại hội XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục xác định phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Có thể thấy, quan niệm coi kinh tế tư nhân là “một trong những động lực của nền kinh tế” trong hai kỳ Đại hội X và XI phản ánh bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta.

Điểm mới của Đại hội XII (tháng 1-2016) so với các kỳ đại hội trước là sự khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát hơn của Đảng về vai trò của kinh tế tư nhân như là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”(11).

Như vậy, vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần từng bước được thừa nhận qua từng giai đoạn, từ chỗ chỉ là thành phần kinh tế cần “cải tạo” bằng những bước đi thích hợp đến chỗ có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được khuyến khích phát triển; từ chỗ là một trong những động lực của nền kinh tế trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế.

Xác định “kinh tế tư nhân là động lực quan trọng” của nền kinh tế chính là nhằm đến vai trò tích cực của thành phần kinh tế này. Đảng ta đã nhận thấy rõ, thành phần kinh tế tư nhân còn nhiều tiềm năng chưa được giải phóng, nhiều nguồn lực chưa được huy động và chưa hoạt động tương xứng với khả năng và nguồn lực trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.

2. Vai trò động lực quan trọng của kinh tế tư nhân

Những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân:

Sau gần 40 năm thực hiện đổi mới, với các chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nước ta có hơn 930.000 doanh nghiệp, trong đó 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 14.400 hợp tác xã và hơn 5 triệu hộ kinh doanh. Đóng góp vào quy mô GDP của khu vực kinh tế tư nhân có xu hướng ngày càng tăng, từ 21,85% năm 2010 lên 24,2% năm 2015 và đạt 27,08% năm 2020, cao nhất trong các loại hình kinh tế. Kinh tế tư nhân từ loại hình kinh tế đóng góp đứng thứ hai, sau kinh tế cá thể đã vươn lên đứng đầu.

Đóng góp vào thu ngân sách Nhà nước của khu vực kinh tế tư nhân liên tục tăng trong giai đoạn 2010-2020: năm 2010 chỉ đạt 70 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,9% tổng thu ngân sách nhà nước; năm 2015 tăng 85%, đạt 129,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,7%; đến năm 2020 đạt 247,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,36% và gấp 3,5 lần năm 2010. Năm 2023, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 46% GDP, tạo ra khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút 85% lực lượng lao động, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội(12).

Nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân đã có những bước tiến quan trọng. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách từng bước được hoàn thiện. Quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của cá nhân và tổ chức được thể chế hóa và được pháp luật bảo vệ. Phương thức quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân được đổi mới phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh; môi trường đầu tư, kinh doanh từng bước được cải thiện, thông thoáng, thuận lợi hơn. Dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội ngày càng được phát huy.

Kinh tế tư nhân đã phát triển trên nhiều phương diện, được tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật và đối xử bình đẳng như các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các yếu tố sản xuất và các loại thị trường; hoạt động đa dạng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực và các vùng, miền; hiệu quả, sức cạnh tranh dần được nâng lên; bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân còn một số hạn chế, yếu kém:

Kinh tế tư nhân chưa phát huy hết vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế; tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Kinh tế tư nhân đa số có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, chủ yếu vẫn là kinh tế hộ kinh doanh; có trình độ công nghệ, trình độ quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh thấp; cơ cấu ngành nghề còn bất hợp lý, thiếu liên kết với nhau và với các thành phần kinh tế khác; năng lực hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của các chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp tư nhân ngừng hoạt động, giải thể và phá sản.

Hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Hiện tượng vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh trong kinh tế tư nhân còn tương đối phổ biến. Tình trạng sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường, không bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; gian lận thương mại… diễn ra nghiêm trọng, phức tạp. Nhiều doanh nghiệp tư nhân không bảo đảm lợi ích của người lao động, báo cáo tài chính không trung thực, nợ quá hạn ngân hàng, nợ bảo hiểm xã hội, trốn thuế và nợ thuế kéo dài.

Xuất hiện một số quan hệ không lành mạnh giữa các doanh nghiệp tư nhân và cơ quan quản lý nhà nước, như can thiệp vào quá trình xây dựng, thực thi chính sách để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành "lợi ích nhóm", gây hậu quả xấu về kinh tế - xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân.

Nhiều quy định của pháp luật về kinh tế tư nhân chưa được thực hiện nghiêm. Môi trường đầu tư kinh doanh, khởi nghiệp còn nhiều hạn chế, tiềm ẩn rủi ro cao và thiếu tính minh bạch. Quyền tự do kinh doanh và quyền tài sản, tiếp cận các cơ hội kinh doanh, nguồn lực xã hội chưa thực sự bình đẳng giữa kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác; còn tồn tại chi phí trung gian, chi phí không chính thức.

Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp; tình trạng thiếu trách nhiệm, lạm dụng chức quyền, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp vẫn còn diễn ra. Sự phân công, phân cấp, phối hợp giữa các bộ, ban, ngành, địa phương trong quản lý, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển còn thiếu chặt chẽ. Hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của kinh tế tư nhân còn thấp.

3. Giải pháp để kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng

Thứ nhất, đổi mới nội dung, phương thức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp đối với kinh tế tư nhân

Bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với khu vực kinh tế tư nhân trên cơ sở phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở.

Các cấp ủy đảng tăng cường chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về chủ trương nhất quán trong phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước; lãnh đạo thực hiện hiệu quả, công khai, minh bạch các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương phát triển đảng trong khu vực kinh tế tư nhân. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết thực hiện các chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế, năng lực kiến tạo phát triển và tổ chức thực hiện chính sách, luật pháp của Nhà nước, qua đó, chống thất thu thuế và xử lý các hành vi vi phạm luật doanh nghiệp, người dân. Xây dựng Nhà nước “kiến tạo” để các loại hình doanh nghiệp phát huy tốt nhất tiềm năng trong một môi trường bình đẳng, công khai và minh bạch.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp trong phát triển kinh tế tư nhân. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, làm tốt vai trò tổ chức đại diện, tích cực phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước để cung cấp thông tin, hỗ trợ liên kết, hợp tác kinh doanh, đào tạo kỹ thuật và tư vấn cho các hội viên.

Thứ hai, hoàn thiện môi trường thể chế, chính sách cho quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Nhận thức sâu sắc được điều kiện quan trọng, mấu chốt để kinh tế tư nhân phát triển là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Đảng đề ra các định hướng cơ bản hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó nhấn mạnh về hoàn thiện thể chế sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất - kinh doanh, hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường.

Hoàn thiện và bảo đảm thực thi minh bạch, hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, phong trào khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; tạo tiền đề hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân sở hữu hỗn hợp, bao gồm cả việc góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước có tiềm lực vững mạnh, đủ sức cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

Bảo đảm các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân phù hợp với cơ chế thị trường và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của kinh tế tư nhân; không biến các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân thành bao cấp, phục vụ “lợi ích nhóm” dưới mọi hình thức.

Hoàn thiện thể chế quản lý tài chính doanh nghiệp và minh bạch thông tin tài chính doanh nghiệp của tư nhân. Phát triển kết cấu hạ tầng kết nối các vùng kinh tế, các ngành kinh tế,… Tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực đất đai, vốn, công nghệ

Thứ ba, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng trước pháp luật

Nhà nước từ vai trò quản lý doanh nghiệp trở thành Nhà nước kiến tạo hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, hoàn thiện thể chế kinh tế theo kịp sự phát triển của thực tiễn, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, nâng cao hiệu quả thực thi chính sách. Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản của các chủ thể kinh tế tư nhân.

Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô, liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác.

Thứ tư, hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động.

Đẩy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo nghề, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu số lượng và chất lượng nhân lực cho phát triển kinh tế tư nhân. Tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo; quy hoạch và phát triển đào tạo theo nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp và thị trường.

Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Khuyến khích, động viên tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, nhất là trong cộng đồng doanh nghiệp. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục kiến thức kinh doanh, khởi nghiệp.

Xây dựng mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại. Để doanh nghiệp phát triển bền vững, cần xây dựng mô hình quản trị hiện đại, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế, tập trung nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

4. Kết luận

Kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, có những đóng góp to lớn hơn trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội. Bước đầu, nước ta đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, từng bước nâng cao trách nhiệm đối với người lao động, cộng đồng, xã hội; đạo đức, văn hóa kinh doanh ngày càng được chú trọng.

Phương thức quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân ngày càng phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Vai trò lãnh đạo của Đảng, hoạt động giám sát, phản biện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động và người sử dụng lao động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đối với khu vực kinh tế tư nhân được nâng lên. Các hiệp hội ngành, nghề thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò cầu nối giữa cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp với các cấp quản lý nhà nước; giúp doanh nghiệp nắm bắt kịp thới các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, ứng dụng khoa học - công nghệ và phát triển thị trường.

NGƯỜI DÂN CẦN BẢO TÀNG QUÂN SỰ HƠN AI HẾT, PHỦ NHẬN CÁC LUẬN ĐIỆU CHO RẰNG XÂY DỰNG BẢO TÀNG LÀ TỐN KÉM

 NGƯỜI DÂN CẦN BẢO TÀNG QUÂN SỰ HƠN AI HẾT, PHỦ NHẬN CÁC LUẬN ĐIỆU CHO RẰNG XÂY DỰNG BẢO TÀNG LÀ TỐN KÉM 


Gần đây, một số đối tượng ra rả rằng xây dựng Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam là “tốn kém, không cần thiết,” rồi xuyên tạc đủ kiểu để hạ thấp ý nghĩa công trình nà. Chúng cho rằng chi phí 2.500 tỷ đồng cho một bảo tàng là lãng phí, không đóng góp gì cho xã hội. Thậm chí, còn cố tình thổi phồng rằng người dân chẳng mấy ai quan tâm đến những nơi như vậy. Nhưng thực tế hoàn toàn ngược lại – ngay trong ngày mở cửa miễn phí đã có tới hàng chục nghìn người chen chân vào, chứng minh rõ sự cần thiết và ý nghĩa của bảo tàng này đối với công chúng.


Nói thật, bảo tàng này đâu phải chỉ trưng bày đồ vật, mà là để giữ lại cả ký ức lịch sử, là nơi ai cũng muốn tới để hiểu về quá khứ. Hơn 150.000 hiện vật, trong đó có 4 bảo vật quốc gia, toàn những thứ thiêng liêng, ai tới cũng muốn một lần tận mắt thấy. Mấy người bảo “lãng phí” chắc chưa thấy cảnh hàng nghìn người chen nhau chỉ để được ngắm từng hiện vật ấy nhỉ? Rõ ràng là cần thiết, không phải chỉ có vài người quan tâm mà đông lắm!


Đầu tư xây dựng bảo tàng không chỉ là lưu giữ mà còn tạo thêm điểm đến cho người dân, đặc biệt là cho thế hệ trẻ hiểu và tự hào về lịch sử đất nước. Cái tháp Chiến thắng cao 45 mét trước sân cũng như một biểu tượng ý nghĩa, vừa đẹp vừa trang nghiêm. 2.500 tỷ là lớn, nhưng nếu để truyền lửa cho nhiều người, cho đất nước, thì giá trị nhận lại còn gấp nhiều lần.

🇻🇳 KHÔNG THỜI GIAN | LUÔN VÌ HAI CHỮ "NHÂN DÂN" ĐỂ HY SINH VÔ ĐIỀU KIỆN

 🇻🇳 KHÔNG THỜI GIAN | LUÔN VÌ HAI CHỮ "NHÂN DÂN" ĐỂ HY SINH VÔ ĐIỀU KIỆN


▫️ “Không thời gian” khai thác câu chuyện người chiến sĩ Bộ đội Cụ Hồ, được chia thành 2 phần “chiến tranh và hòa bình“. Trong khi phần quá khứ khắc họa về cuộc sống chiến đấu của thế hệ cha anh trong chiến tranh vệ quốc với những vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng đầy bi thương do chiến tranh mang lại thì ở câu chuyện hiện tại, các sự kiện, nhân vật bối cảnh được lấy cảm hứng từ những cống hiến thầm lặng của người lính hôm nay, những người lớn lên giữa thời bình, vì hai chữ “nhân dân” thiêng liêng mà sẵn sàng hi sinh những hạnh phúc cá nhân.


▫️ Hai nội dung quá khứ - hiện tại được kể đan xen trong bộ phim, vừa khắc họa rõ nét chân dung của người lính ở mỗi thời kì, đồng thời cũng tạo nên sự soi chiếu, cho thấy sự nối tiếp của truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

“MẠNG XÃ HỘI CÓ TRÁCH NHIỆM RÀ QUÉT, TỰ ĐỘNG GỠ THÔNG TIN XẤU ĐỘC, SAI SỰ THẬT”

 “MẠNG XÃ HỘI CÓ TRÁCH NHIỆM RÀ QUÉT, TỰ ĐỘNG GỠ THÔNG TIN XẤU ĐỘC, SAI SỰ THẬT”


Theo Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, các nền tảng mạng xã hội có không gian riêng, thuê bao riêng với hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ người dùng phải có trách nhiệm rà quét, phát hiện, tự động gỡ bỏ thông tin xấu độc, sai sự thật.


Sáng 12/11, Quốc hội tiến hành phiên chất vấn nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực Thông tin và Truyền thông.


Đại biểu Nguyễn Duy Thanh (đoàn Cà Mau) cho biết, trong những năm qua, sự phát triển bùng nổ của mạng xã hội đã kéo theo tình trạng tin giả, tin sai sự thật, tạo ra những hệ lụy tiêu cực, gây bức xúc trong dư luận, lại cạnh tranh khốc liệt với báo chính thống cả về thông tin và doanh thu.


“Với vai trò quản lý nhà nước, Bộ trưởng có phương án như thế nào để quản lý mạng xã hội?”, đại biểu Nguyễn Duy Thanh nêu câu hỏi.


Trả lời vấn đề này, Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, đây là vấn đề không chỉ ở Việt Nam mà mang tính toàn cầu. Trong lần trả lời chất vấn này, Bộ trưởng nói về một số giải pháp mới.


Đầu tiên là việc hoàn thiện thể chế. Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, trước đây chỉ quy định xử lý cá nhân sử dụng mạng xã hội khi đưa thông tin sai sự thật, tin giả. Còn Nghị định 147/NĐ-CP/2024 vừa được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành đã đưa vấn đề xử lý các nền tảng xã hội khi vi phạm pháp luật Việt Nam.


Thứ hai, trước đây hay nghĩ nhiều đến trách nhiệm quản lý nhà nước, nhưng theo Bộ trưởng TT&TT, ở đây có trách nhiệm lớn của các nền tảng mạng xã hội. “Họ có không gian riêng, thuê bao riêng với hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ người dùng, thì họ phải có trách nhiệm rà quét, phát hiện, tự động gỡ bỏ thông tin xấu độc, sai sự thật”, ông Nguyễn Mạnh Hùng cho hay.


Vấn đề thứ ba, theo Bộ trưởng là công tác truyền thông. “Chúng ta sống trong thế giới thực hàng chục nghìn năm vẫn còn có những tồn tại. Không gian mới là không gian số thì mới được 20 năm, mới lạ với tất cả chúng ta”. Bởi vậy, theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, vấn đề truyền thông để người dân có kỹ năng số, biết sử dụng các nền tảng số, có khả năng đề kháng trên không gian số... không chỉ cho chúng ta, mà còn cho thế hệ tương lai, tức các em học sinh.


Ngoài ra, Bộ TT&TT đã thành lập và đưa vào vận hành trung tâm chống tin giả, tin sai sự thật quốc gia để người dân có nơi để phản ánh, đề nghị giúp đỡ.

Muốn giữ vững trận địa, báo chí phải làm khác mạng xã hội

Đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi (đoàn Bến Tre) cho biết, trong giai đoạn bùng nổ thông tin với sự hỗ trợ của các nền tảng mạng xã hội có tính năng chia sẻ cao, thì hiện tượng "người người làm báo, nhà nhà làm báo", làm kênh riêng đưa lên mạng, kèm theo quảng cáo, với nhiều nội dung giật gân, phản cảm, sai sự thật đã gây bức xúc trong dư luận.


“Đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp để chấn chỉnh tình trạng trên, đồng thời có các giải pháp nào nhằm nâng cao vai trò của  báo chí chính thống, cách mạng để làm tốt vai trò định hướng, tuyên truyền?”, đại biểu đoàn Bến Tre nêu câu hỏi.


Trả lời câu hỏi của đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, khi mạng xã hội ra đời, có thể nói đã lấy mất nghề của báo chí. Nghề báo chí trong nhiều trăm năm qua tập trung vào đưa tin, nhưng mạng xã hội hiện nay đưa tin nhanh hơn, mạng xã hội có hàng chục triệu phóng viên mà không phải trả tiền lương, họ ở khắp mọi nơi.


“Báo chí muốn giữ vững trận địa của mình thì phải làm khác mạng xã hội, quay về những giá trị cốt lõi của báo chí, tin xác thực, chính xác, khách quan, có trách nhiệm giải trình, đạo đức nghề nghiệp; thay vì đưa tin thì phân tích đánh giá; thay vì bình luận thì đưa ra giải pháp, thay vì đưa tin thì kể câu chuyện dẫn dắt định hướng xã hội”, Bộ trưởng nói.


Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, trước đây, báo chí trong không gian thực là lực lượng chủ đạo, còn hiện nay lên không gian mạng, thông tin từ báo chí phải định hướng được dòng chảy, đảm bảo chất lượng tin tức, nội dung. Bộ TT&TT, Ban Tuyên giáo Trung ương và Hội Nhà báo Việt Nam đã xác định đây là định hướng chính để xác định lại vị trí, vai trò của báo chí cách mạng.

“Chúng tôi cũng xác định cách tốt nhất để báo chí cạnh tranh với mạng xã hội là làm khác mạng xã hội và quay về với giá trị cốt lõi của mình. Sử dụng công nghệ của mạng xã hội để làm báo và coi mạng xã hội là môi trường để xuất hiện”, Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng nói./.

⚘️⚘️TRÁCH NHIỆM CỦA THANH NIÊN KHI LÊN ĐƯỜNG BẢO VỆ TỔ QUỐC

 ⚘️⚘️TRÁCH NHIỆM CỦA THANH NIÊN KHI LÊN ĐƯỜNG BẢO VỆ TỔ QUỐC⚘️⚘️


          Thanh niên là lực lượng nòng cốt, là tương lai của đất nước. Mỗi khi Tổ Quốc cần, thanh niên Việt Nam luôn là những người tiên phong, sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn, hiểm nguy để bảo vệ bình yên cho quê hương. Lên đường nhập ngũ và cống hiến cho Tổ Quốc không chỉ là nghĩa vụ, mà còn là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi thanh niên.


           Khi thanh niên lên đường bảo vệ Tổ Quốc, trước hết đó là sự thể hiện tinh thần yêu nước. Lòng yêu nước không chỉ là tình yêu với đất đai, non sông mà còn là sự sẵn sàng hy sinh vì sự độc lập, tự do của dân tộc. Thanh niên nhận thức rõ rằng, sự bình yên mà họ đang hưởng thụ là nhờ công lao của các thế hệ đi trước đã hy sinh, đấu tranh. Họ ý thức rõ trách nhiệm của mình để giữ gìn những thành quả đó cho thế hệ tương lai.


           Bên cạnh đó, lên đường bảo vệ Tổ Quốc cũng là cơ hội để thanh niên tôi luyện bản thân. Quá trình rèn luyện trong quân ngũ giúp các bạn trẻ học hỏi thêm nhiều kỹ năng sống, xây dựng phẩm chất kiên cường, ý chí sắt đá và tinh thần đoàn kết. Đó là những điều quý giá, tạo nên bản lĩnh để các bạn có thể vượt qua mọi thử thách trong cuộc sống.


          Trách nhiệm của thanh niên khi lên đường bảo vệ Tổ Quốc còn là trách nhiệm với gia đình và xã hội. Họ không chỉ là niềm tự hào của gia đình mà còn là tấm gương sáng về tinh thần trách nhiệm và lòng dũng cảm cho cộng đồng, cho các thế hệ trẻ noi theo. Những người thanh niên lên đường nhập ngũ đã gác lại những ước mơ riêng, để ưu tiên cho sự bình yên của hàng triệu đồng bào, cho tương lai của đất nước.


          Trách nhiệm của thanh niên khi lên đường bảo vệ Tổ Quốc không dừng lại ở việc hoàn thành nghĩa vụ quân sự, mà còn là trách nhiệm duy trì và phát huy tinh thần yêu nước, sẵn sàng đóng góp cho xã hội sau khi trở về. Họ sẽ là những công dân gương mẫu, tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.


          Thanh niên Việt Nam - những người trẻ với trái tim nóng bỏng, luôn sẵn sàng lên đường khi Tổ Quốc gọi tên. Đây không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm tự hào lớn lao, là tiếng gọi của tình yêu Tổ Quốc trong mỗi con người. Và dù ở bất cứ đâu, bất cứ thời điểm nào, thanh niên vẫn luôn kiên định một lòng, gánh vác trách nhiệm thiêng liêng, vì một Việt Nam hòa bình và hạnh phúc.

THÀNH LẬP QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM - MỘT TẤT YẾU LỊCH SỬ

 THÀNH LẬP QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM - MỘT TẤT YẾU LỊCH SỬ:


Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), Xứ ủy Nam Bộ, từ năm 1957, hoạt động xây dựng lực lượng vũ trang ở miền Nam diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp.


Tháng 1-1959, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc bằng phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang”.


Để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi hoàn toàn, giành lại độc lập toàn vẹn cho dân tộc, thống nhất đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) khẳng định: “Xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang nhân dân là một trong những điều kiện quan trọng của cách mạng nước ta để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược”. Quán triệt chủ trương của Đại hội, tháng 1-1961, Tổng Quân ủy (nay là Quân ủy Trung ương) ra Chỉ thị thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam - một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp chiến đấu trên chiến trường miền Nam.


Ngày 15-2-1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được chính thức tuyên bố thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tư lệnh, của Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền; được sự chi viện đắc lực, kịp thời của hậu phương miền Bắc, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nhanh chóng trưởng thành, lớn mạnh, lập nên những chiến công xuất sắc, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành sứ mệnh lịch sử giao phó.


Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, công lao đóng góp của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã khẳng định tầm nhìn chiến lược, quyết định đúng đắn, sáng tạo của Đảng về tổ chức, sử dụng lực lượng vũ trang trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng; là kết tinh của tinh thần chiến đấu mưu trí, dũng cảm, ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ; là sự đóng góp, đùm bọc của đồng bào trên mọi miền đất nước; sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế.


Sự kiện thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thể hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên lý Chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng; là nét đặc sắc của nghệ thuật sử dụng lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử, đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Về danh nghĩa, đây là đội quân do Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lập ra, có tên gọi, màu cờ, sắc áo riêng, nhưng thực chất là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, hoạt động trên chiến trường miền Nam.


Đây chính là sự sáng tạo của Đảng trong tổ chức và sử dụng lực lượng vũ trang cách mạng, bởi việc thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã hóa giải được quy định “lực lượng quân sự chính quy phải tiến hành tập kết” của Hiệp định Geneva. Vậy nên, về mặt pháp lý, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có vị thế tương đối độc lập với Quân đội nhân dân Việt Nam. Song về thực chất, đây là lực lượng nòng cốt của các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, chịu sự lãnh đạo tối cao từ trên xuống của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Bộ Quốc phòng - Bộ Tổng Tư lệnh, Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy Miền - Bộ Tư lệnh Miền. Nhiệm vụ của đội quân này được thể hiện rõ ràng trên tên gọi “Giải phóng miền Nam Việt Nam”. Tên gọi này đã nhận được sự đồng tình ủng hộ từ các lực lượng hòa bình, độc lập, dân chủ trên thế giới, tăng thêm sức mạnh từ hậu phương quốc tế để tiến hành chống đế quốc Mỹ xâm lược.


Với tên gọi “Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam”, chúng ta đã tập hợp được các lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam, nhanh chóng phát triển về quy mô, tổ chức, chỉ huy thống nhất, tạo nên sức mạnh làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành đấu tranh vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tạo nên nét đặc sắc về sử dụng lực lượng vũ trang trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Quá trình xây dựng, trưởng thành, chiến đấu giành chiến thắng, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam càng khẳng định sự sáng tạo tài tình của Đảng. Đó cũng chính là yếu tố quan trọng để Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam lập nên những chiến công chói lọi, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà.


Quán triệt sâu sắc đường lối cách mạng của Đảng, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nhanh chóng phát triển với ba lực lượng: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Trong đó, chú trọng phát triển bộ đội chủ lực cả về biên chế, tổ chức và vũ khí, trang bị. Từ 5 trung đoàn của năm đầu tiên thành lập, bộ đội chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nhanh chóng phát triển, được trang bị hiện đại, có hỏa lực mạnh, sức cơ động cao, từ tiến hành các trận đánh quy mô nhỏ và vừa trong những năm đầu thành lập, tiến lên lên hình thành các sư đoàn đứng chân ở các vị trí chiến lược. Cùng với đó là sự phát triển rộng khắp của các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân, du kích, là cơ sở để Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đẩy mạnh tác chiến tập trung, kết hợp với tác chiến rộng khắp quy mô vừa và nhỏ của lực lượng dân quân du kích, tạo nên phương pháp tác chiến tổng hợp để thắng ngay trận đầu, giành thắng lợi từng bước, tiến tới làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Từ những chiến thắng đầu tiên như Vạn Tường, Plei Me năm 1965... khẳng định khả năng đánh được Mỹ, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phát triển thế tiến công giành thắng lợi trong hai mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967, tạo tiền đề để Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.


Để hỗ trợ cho phái đoàn đàm phán, hiện thực chủ trương “vừa đánh, vừa đàm” của Đảng, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã vượt qua tổn thất, mất mát, hy sinh, phát huy tinh thần quyết chiến quyết thắng, chủ động mở nhiều chiến dịch phản công và tiến công địch, giành những thắng lợi quan trọng như: Bu Prăng - Đức Lập, Phước Bình - Bù Đốp, Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào; Chiến dịch Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, Nguyễn Huệ,...; đánh bại các cuộc hành quân “Toàn thắng 1-71”, “Quang Trung 4”, “Lam Sơn 720”, “Quyết Thắng 20” của quân đội Sài Gòn, góp phần xoay chuyển cục diện chiến trường, cùng với thắng lợi của chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972 đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút quân về nước.


Để đi đến thắng lợi hoàn toàn, vượt qua rất nhiều khó khăn của những ngày đầu thi hành Hiệp định Paris, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đập tan âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền và quân đội Sài Gòn; tập trung phát triển lực lượng, hình thành nên những quân đoàn chủ lực, liên tiếp mở và giành thắng lợi ở các chiến dịch: Đường số 2 Bà Rịa - Long Khánh; Đường số 7 Bến Cát - Rạch Bắp; Nông Sơn - Thượng Đức; La Sơn - Mộ Tàu; Đường 14 - Phước Long... tạo thêm thế và lực để phát triển thế tiến công, thực hiện thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Những chiến công đó là kết tinh của tinh thần bất khuất, gan dạ, ý chí chiến đấu kiên cường, để lại những nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự.


Những dấu ấn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đi vào lịch sử chiến tranh cách mạng như những bản hùng ca, tô thắm thêm truyền thống đấu tranh anh dũng chống giặc ngoại xâm của dân tộc, khẳng định vị trí, vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại./.

BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUÂN SỰ RA MẮT TRÊN NÊN TẢNG SỐ

 BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUÂN SỰ RA MẮT TRÊN NÊN TẢNG SỐ


Bảo tàng Lịch sử Quân sự được đưa lên nền tảng số, giúp người dân ở xa có thể trải nghiệm online.

Trong đó, người dùng có thể chọn các khu vực muốn xem từ cổng vào cho tới các khu vực trưng bày và sử dụng chuột hoặc màn hình cảm ứng để xoay 360 độ. Ở mỗi khu vực, các mũi tên chỉ hướng sẽ xuất hiện để người dùng chọn hướng tham quan, tương tự trải nghiệm khi đi tham quan bảo tàng thực.


Người dùng cũng có thể bấm vào hiện vật để xem thông tin chú giải. Theo nhóm phát triển, họ đã tái hiện được khoảng 50 vị trí trong bảo tàng, cùng hơn 700 hiện vật. Ngoài ra, điểm đặc biệt khi đưa lên nền tảng số là các vị trí cũng như hiện vật được liệt kê dưới dạng danh sách, để người dùng có thể truy cập nhanh khu vực muốn tham quan.


Dự án Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam có quy mô lớn với tổng vốn đầu tư 2.500 tỷ đồng, trải rộng trên 74ha. Điểm nhấn kiến trúc là Tháp Chiến thắng cao 45m, tượng trưng cho năm 1945 - năm đất nước giành độc lập. Bảo tàng không chỉ trưng bày lịch sử chiến tranh mà còn tạo không gian trải nghiệm về cuộc đấu tranh của Quân đội nhân dân Việt Nam.

NHÀ NƯỚC ĐÊ GA CHỈ LÀ SỰ HOANG ĐƯỜNG

 NHÀ NƯỚC ĐÊ GA CHỈ LÀ SỰ HOANG ĐƯỜNG


Có hay không Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam? Tuyên bố thành lập Nhà nước này do ai thực hiện và ý đồ của họ là gì? Câu trả lời xét từ cơ sở lý luận về chính trị, pháp lý và từ chính thực tiễn lịch sử của dân tộc Việt Nam đã khẳng định, tuyên bố Nhà nước Đê Ga cho người dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên chỉ là sự hoang đường.  


Sau khi vụ việc tấn công vào trụ sở Ủy ban nhân dân hai xã Ea Tiêu, Ea Ktuh, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, đến nay, 100 nghi phạm đã bị lực lượng chức năng bắt giữ. Qua quy trình xét xử, ngày 20/01/2024, tại thành phố Buôn Ma Thuột, Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói trên đã tuyên án đối với 100 bị cáo về tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”, “khủng bố”, “tổ chức cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép”, “che dấu tội phạm”.


Đến nay, tình hình địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng và khu vực Tây Nguyên nói chung đã yên bình trở lại. Tuy nhiên, dư luận vẫn đang băn khoăn trả lời câu hỏi: “Tại sao các đối tượng tham gia tấn công vào trụ sở Ủy ban nhân dân hai xã Ea Tiêu, Ea Ktuh, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk lại manh động, liều lĩnh và hành xử vô nhân tính đến vậy?”. Thực tế đấu tranh với các đối tượng cầm đầu và các nghi phạm tham gia vụ tấn công nói trên cho thấy, hầu hết các nghi phạm tham gia do bị dụ dỗ, mua chuộc, kích động bằng lời hứa về viễn cảnh sung sướng nếu thực hiện theo sự chỉ đạo của những kẻ cầm đầu. Qua đấu tranh với những kẻ cầm đầu vụ tấn công nói trên, trên cơ sở kết quả của phiên toà xét xử ngày 20/01/2024 ở Đắk Lắk, họ đều thừa nhận hành vi phạm tội và chịu sự chỉ đạo của lực lượng phản động ở nước ngoài.


Trở lại với câu hỏi: Có hay không Nhà nước Đê Ga độc lập ở khu vực Tây Nguyên của nước Việt Nam? Câu trả lời hết sức rõ ràng là quan điểm về Nhà nước Đê Ga độc lập theo tuyên bố của Ksor Kơk và các lực lượng phản động núp dưới vỏ bọc “Tin lành Đê ga” không có cơ sở lý luận, cơ sở chính trị, pháp lý, cơ sở thực tiễn và đi ngược lại với ý chí, nguyện vọng của dân tộc Việt Nam.


Lý luận về nhà nước và pháp luật, nhất là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật đều nhất quán cho rằng, nhà nước là một tổ chức chính trị của xã hội, công cụ cơ bản của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp; nhà nước ra đời trong quá trình phân công lao động xã hội và gắn với cương vực lãnh thổ quản lý. Do đó, tương ứng với các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, là các hình thức nhà nước khác nhau và nhà nước tồn tại, hoạt động trên cơ sở bộ máy nhà nước để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại; nhiệm vụ của nhà nước là quản lý, điều hành toàn bộ mọi hoạt động trong đời sống xã hội bằng hệ thống pháp luật.


Đối chiếu với lý luận về nhà nước và pháp luật, chúng ta thấy rằng, việc tuyên bố thành lập Nhà nước Đê Ga độc lập năm 1999 của Ksor Kơk, cũng như tuyên truyền của tổ chức “Tin lành Đê Ga” không có sơ sở lý luận khoa học. Do vậy, quan điểm của Ksor Kơk và của tổ chức “Tin lành Đê Ga” về Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số chỉ là lời tuyên bố suông, vì Nhà nước này không hề có bộ máy hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội, không có cương vực lãnh thổ để quản lý, nên rõ ràng đây chỉ là nhà nước dựa trên ý tưởng phi thực tế, không có tư cách pháp nhân thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại; chỉ nhằm phục vụ cho ý đồ cá nhân của Ksor Kơk và lực lượng phản động Fulro núp dưới vỏ bọc tổ chức “Tin lành Đê Ga” mà thôi, chứ không vì lợi ích cho đa số đồng bào dân tộc thiểu số.  


Về mặt chính trị, ý tưởng về Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số chỉ là ý chí viển vông của một số phần tử được hậu thuẫn bởi Fulro, không được đa số nhân dân trên địa bàn Tây Nguyên đồng tình và ủng hộ. Bên cạnh đó, Nhà nước Đê Ga cũng không có tổ chức bộ máy đại diện cho quyền lực của giai cấp nắm quyền trong đời sống xã hội, không có đường hướng chính trị rõ ràng trong vận hành và dĩ nhiên không được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Thực tiễn cho thấy, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm của chính trị, đây là quyền lực phải được đa số quần chúng thừa nhận. Điều này được Nguyễn Minh Đoan và các cộng sự khẳng định: “Quyền lực nhà nước là một loại quyền lực công trong xã hội, do nhà nước, các cơ quan nhà nước nắm giữ và thực hiện, gắn liền với chủ quyền quốc gia, có tác động đối với tất cả tổ chức và cư dân trong đất nước trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội trên cơ sở các quy định của pháp luật”[1].


Về mặt pháp lý, một nhà nước hoạt động trên thực tế phải có hệ thống pháp luật để quản lý, điều hành xã hội, trong đó Hiến pháp là đạo luật gốc, hiến định toàn bộ thể chế, thiết chế cơ bản của bộ máy nhà nước và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Song, lời tuyên bố suông về Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số hoàn toàn không có cơ sở pháp lý để tồn tại, chứ chưa nói đến sự phát triển. Do đó, nhà nước theo tuyên bố của Ksor Kơk và tuyên truyền của tổ chức “Tin lành Đê Ga” chỉ là ý chí cá nhân thuộc về thiểu số, không hề có căn cứ pháp lý nào cho sự tồn tại trên thực tế.  


Mùa Xuân năm 1930, dưới sự chỉ đạo, tổ chức của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Sự kiện này đã mở ra chương mới trong lịch sử dân tộc, chính thức chấm dứt sự bế tắc, khủng hoảng về đường lối cứu nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Ngay sau đó, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời gắn với vai trò kiệt xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á – một Nhà nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.


Trải qua quá trình cách mạng vô cùng gian khổ nhưng anh dũng, bất khuất, từ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, quốc gia dân tộc Việt Nam là thống nhất không phân chia, là Tổ quốc chung của 54 dân tộc anh em. Điều này, được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: “nước Việt Nam là một khối thống nhất về mặt dân tộc, lịch sử và kinh tế, và không một lực lượng nào trên thế giới có thể chia cắt nổi Việt Nam”[2] và “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai chia cắt được”[3].


Thực tiễn còn cho thấy, xây dựng một quốc gia dân tộc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay. Quan điểm này của Đảng đã được thể chế hóa vào Hiến pháp, từ bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc năm 1946, đến bản lần thứ 5 là Hiến pháp năm 2013. Các bản hiến pháp của nước ta đều khẳng định, nước Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Điều thứ 2, Hiến pháp năm 1946 hiến định: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”[4]; Điều 1, Hiến pháp năm 1959 quy định: “Đất nước Việt Nam là một khối Bắc Nam thống nhất không thể chia cắt”[5]; Điều 1, Hiến pháp năm 1980 ghi rõ: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo”[6]; Điều 1, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời”[7]; Điều 1, Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”[8].


Theo đó, việc xây dựng một quốc gia dân tộc Việt Nam độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là lý tưởng, ý chí, nguyện vọng xuyên suốt tiến trình lịch sử của dân tộc.  Như vậy, tuyên bố thành lập Nhà nước Đê Ga độc lập cho người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên của Ksor Kơk và lực lượng phản động Fulro núp dưới tổ chức “Tin lành Đê Ga”, là hoàn toàn phi lý, ảo tưởng, không có cơ sở khoa học, cơ sở chính trị, pháp lý và hoàn toàn bị thực tiễn lịch sử phủ nhận. Đó chỉ là lời tuyên bố hoang đường của Ksor Kơk dưới sự hậu thuẫn của tổ chức phản động ở hải ngoại, đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc Việt Nam, làm phương hại đến mối đoàn kết, thống nhất trong cộng đồng các dân tộc, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Chúng ta cần nhận diện đầy đủ, qua đó lên án, đấu tranh loại bỏ, nhằm mang lại cuộc sống trong yên bình, hạnh phúc cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, góp phần xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc./.

HIỆN VẬT CHIẾN THẮNG: NGÂN HÀNG MÁU CHIẾN TRƯỜNG

 HIỆN VẬT CHIẾN THẮNG: NGÂN HÀNG MÁU CHIẾN TRƯỜNG 


Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam đang lưu giữ hiện vật là bản danh sách những cán bộ, chiến sĩ của Binh trạm 12, Đoàn 559 hiến máu cho Đội điều trị 14 của Binh trạm cứu chữa thương binh trên chiến trường.


Đội điều trị 14 thành lập năm 1966, chốt tại miền Tây Quảng Bình. Tuy tên là Đội điều trị nhưng thực tế Đội làm nhiệm vụ như một bệnh viện khu vực. Có những thời điểm địch đánh phá ác liệt, Đội phải vừa điều trị, vừa cấp cứu hàng trăm người. Trong điều kiện khó khăn, gian khổ, bên cạnh những thiếu thốn về cơ sở vật chất, Đội còn gặp khó khăn về nguồn máu, phương tiện lấy máu phục vụ phẫu thuật, cứu chữa thương binh... 


Trong cái khó, ló sáng kiến, đồng chí Ma Thị Thu, người dân tộc Tày, nhân viên Đội điều trị 14 đã dùng dây ni lông ống truyền (đường kính 0,5cm) và kim tiêm làm thành dây lấy máu. Đồng thời, để khắc phục nhược điểm máu đông đặc trong quá trình lấy máu, đồng chí Thu cắt ngắn ống dây dẫn xuống còn 29,5cm, sử dụng kim tiêm to; đề nghị trang bị lò sưởi cho phòng lấy máu... nhờ vậy, chỉ cần một lần chọc kim là có thể lấy được 100-200ml máu (trước phải 5-7 lần chọc kim, gây đau đớn cho người hiến máu).


Cùng với đó, Đội điều trị 14 còn phát động phong trào xung phong tình nguyện hiến máu trong toàn Đội để cấp cứu thương binh. Khâm phục trước tấm lòng của các thầy thuốc Đội điều trị 14, cán bộ, chiến sĩ Binh trạm cũng hăng hái đăng ký tham gia hiến máu. Phong trào đã tạo nên một ngân hàng máu sống, góp phần cứu chữa nhiều thương binh. Thông tin của cán bộ, chiến sĩ tham gia hiến máu đều được Đội điều trị 14 lưu lại trong bản danh sách cán bộ, chiến sĩ của Binh trạm 12, Đoàn 559... Với tinh thần ngày đêm lao động quên mình, phục vụ thương binh, bệnh binh, Đội điều trị 14 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba; Huân chương Chiến công hạng Nhì./.

“MÙI CỎ CHÁY” - KHI SỰ KỶ LUẬT, LÝ TƯỞNG VÀ SỰ SẴN SÀNG HY SINH KẾT HỢP

 “MÙI CỎ CHÁY” - KHI SỰ KỶ LUẬT, LÝ TƯỞNG VÀ SỰ SẴN SÀNG HY SINH KẾT HỢP 


“Mùi Cỏ Cháy” không chỉ là một bộ phim, mà còn là một bản anh hùng ca về tuổi trẻ, lòng dũng cảm và sự hy sinh. Bộ phim đã khắc họa một cách chân thực và xúc động 81 ngày đêm chiến đấu ác liệt tại thành cổ Quảng Trị, nơi được mệnh danh là “cối xay thịt người”


Qua từng nhân vật Hoàng, Thành, Thăng, Long - những sinh viên đã tạm gác bút để xung phong ra trận, chúng ta thấy được sự chuyển mình từ tuổi trẻ tươi đẹp sang những chiến binh dũng cảm. Họ không chỉ chiến đấu với kẻ thù mà còn với chính nỗi sợ hãi, mất mát và sự tàn khốc của chiến tranh.


Những cảnh phim như đoàn quân lội sông trong đêm tối, bom đạn rơi xuống như mưa, hay hình ảnh Long - người chiến sĩ trẻ tuổi, chết đi trong vòng tay bạn bè, để lại sau lưng một nấm mồ nhỏ bên bờ sông Thạch Hãn, đã khiến trái tim chúng mình không khỏi thắt lại.


Nhưng “Mùi Cỏ Cháy” không chỉ có bom đạn mà còn có câu chuyện về tình bạn, tình yêu và những kỷ niệm đẹp, những khoảnh khắc ngây ngô. Từ tiếng đàn guitar vang lên trong đêm trước trận đánh, cho đến chiếc khăn tay và cái kẹp tóc được trao trong giây phút chia ly, tất cả đều để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng mỗi người.


Bộ phim cũng là một lời nhắc nhở về lịch sử, về những hy sinh thầm lặng mà thế hệ trước đã trải qua để chúng ta có được hòa bình như ngày hôm nay. “Mùi Cỏ Cháy” không chỉ là một tác phẩm điện ảnh, mà còn là một bài học lịch sử, một nén hương lòng tri ân đến các anh hùng liệt sĩ. ❤️


Khi xem “Mùi Cỏ Cháy”, bạn sẽ cảm nhận được sức mạnh của tinh thần Việt Nam,  những bài học lịch sử vànhững giá trị cao đẹp mà chúng ta nên gìn giữ.

CẢNH GIÁC VỚI CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC TRONG DỊP KỶ NIỆM NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11

 CẢNH GIÁC VỚI CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC TRONG DỊP KỶ NIỆM NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11


Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11 chính là ngày thể hiện đạo lý cao cả, thiêng liêng ngàn năm của Dân tộc Việt nam đó là “Uống nước nhớ nguồn”; “tôn sư trọng đạo”. Đây là ngày hội quan trọng nhằm tôn vinh nghề dạy học, tôn vinh các nhà giáo; những người làm công tác giáo dục; đồng thời thể hiện sự quan tâm của toàn xã hội đối với"những kĩ sư tâm hồn", biểu thị truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam ta. Tuy nhiên một số đối tượng đã lợi dụng dịp lễ này để tuyên truyền xuyên tạc đường lối chủ trương của Đảng và nhà nước, làm lệch lạc ý nghĩa tốt đẹp của ngày Hiến chương Nhà giáo Việt Nam.


Thứ nhất, xuyên tạc lịch sử, ý nghĩa Ngày Nhà giáo Việt Nam


Các đối tượng phủ nhận ngày 20/11 hàng năm là “Ngày quốc tế hiến chương các nhà giáo” cho rằng đây là sự kiện do các nước xã hội chủ nghĩa hoặc lãnh tụ của Đảng Cộng sản tổ chức. Họ lập luận rằng “Ngày Nhà Giáo Thế Giới” do UNESCO quy định là ngày 5 tháng 10 và được tuyên bố lần đầu vào năm 1994, trong khi Việt Nam là nước duy nhất chọn ngày do tổ chức Cộng Sản quốc tế ấn định. Sự thật là gì?


Vào tháng 8/1957, Hội nghị quốc tế các nhà giáo tại Warszawa (Ba Lan) đã thông qua Hiến chương các nhà giáo và lựa chọn ngày 20/11 hàng năm làm “Ngày quốc tế hiến chương các nhà giáo”. Ngày 26/9/1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định số 167/HĐBT, tuyên bố ngày 20/11 hàng năm là Ngày Nhà giáo Việt Nam. Từ đó, ngày này trở thành Ngày truyền thống của ngành giáo dục, tôn vinh những người làm công tác giáo dục. Điều này phản ánh quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò của nhà giáo trong sự nghiệp đào tạo thế hệ mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, một dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến và có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo. Ngày 20/11 cũng là dịp để các thế hệ học sinh tri ân công ơn của thầy cô, ghi nhớ và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các nhà giáo.


Thứ hai, xuyên tạc nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở nước ta


Chúng cho rằng: “Dưới chế độ Cộng sản thì khác. Các hội chuyên nghiệp được lập ra không phải là để hoạt động, phát triển, tương thân tương trợ giữa những người cùng nghề nghiệp mà để cho đảng dễ kiểm soát. Hội Nhà Giáo cũng trong cùng số phận và được chỉ đạo chặt chẽ từ trên cấp trung ương đến từng trường học, từng tổ giảng dạy. Tinh thần “Tôn sư trọng đạo”, “kỹ sư tâm hồn” chỉ là những mỹ từ làm mát lòng các thầy cô”. Đây là luận điệu xuyên tạc nền giáo dục xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng ở nước ta.


Nhìn lại lịch sử, mỗi chế độ xã hội đều có nền giáo dục tương ứng, phục vụ giai cấp lãnh đạo và lợi ích xã hội. Nếu nền giáo dục không đáp ứng những yêu cầu này thì sẽ không thể tồn tại và phát triển. Không thể có nền giáo dục ở chế độ phong kiến mà không phục vụ lợi ích của các “triều đình”, hay nền giáo dục ở chế độ tư bản chủ nghĩa không phục vụ giai cấp tư sản. Chẳng có chính quyền nào khuyến khích tư tưởng và hành động muốn xây dựng nền giáo dục đứng ngoài chính trị hoặc lật đổ giai cấp cầm quyền. Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, gắn liền với chế độ xã hội chủ nghĩa. Luận điệu cho rằng cần xóa bỏ nền giáo dục xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sự hoang tưởng, không hiểu gì về giáo dục và chính trị.


Những luận điệu xuyên tạc về lịch sử, ý nghĩa Ngày Nhà giáo Việt Nam và phủ nhận nền giáo dục xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta cần nhận diện và đấu tranh bác bỏ./.

Giúp dân ứng phó với triều cường, sạt lở


Từ giữa tháng 10-2024 đến nay, trên địa bàn huyện Nhà Bè liên tục xuất hiện nhiều đợt triều cường đạt đỉnh, khiến nhiều khu dân cư và các tuyến đường: Lê Văn Lương, Nguyễn Bình, Huỳnh Tấn Phát... bị ngập sâu, mức ngập phổ biến từ 0,3m đến 0,6m.

Triều cường thường xuất hiện từ 16 giờ đến 19 giờ, ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt, đi lại của người dân, nhất là học sinh lúc tan trường. Ban CHQS huyện Nhà Bè đã tổ chức lực lượng dân quân ứng trực tại các điểm ngập kịp thời hỗ trợ người dân và các em học sinh.

Địa bàn huyện Nhà Bè trũng thấp, có nhiều sông, kênh, rạch cùng hệ thống đê, cầu, cống...; là một trong những khu vực trọng điểm của TP Hồ Chí Minh bị ảnh hưởng nặng từ các đợt triều cường. Ghi nhận từ đầu năm 2024 đến nay, trên địa bàn huyện xảy ra 9 đợt triều cường lớn, làm nhiều tuyến đường, khu dân cư bị ngập sâu.

Giúp dân ứng phó với triều cường, sạt lở

Lực lượng dân quân huyện Nhà Bè hỗ trợ nhân dân di chuyển qua tuyến đường ngập do triều cường. 

Triều cường không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt, giao thông của người dân mà còn có nguy cơ gây tràn, vỡ bờ bao tại nhiều điểm xung yếu ở các khu vực dân cư, khu nuôi trồng thủy sản. Dự báo từ nay đến Tết Nguyên đán là thời điểm sẽ xuất hiện nhiều đợt triều cường đạt đỉnh, vượt mức báo động 3. Trên cơ sở nghiên cứu, dự báo, đánh giá đúng tình hình, Ban CHQS huyện Nhà Bè đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương kiện toàn ban chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn; phân công rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của từng thành viên, đơn vị, đồng thời xây dựng quy chế làm việc cụ thể. Thực hiện phương châm “4 tại chỗ”, các đơn vị, địa phương chủ động chuẩn bị lực lượng, phương tiện, vật chất, phương án tại chỗ sát từng địa bàn.

Xác định vai trò là lực lượng nòng cốt trong phòng, chống thiên tai, Ban CHQS huyện Nhà Bè đã chủ động xây dựng, huấn luyện lực lượng nòng cốt với quân số hơn 200 cán bộ, chiến sĩ, nhân viên cùng nhiều phương tiện, bảo đảm ứng phó nhanh, hiệu quả với tình huống địa bàn ngập sâu trên diện rộng. Đơn vị đã tổ chức tập huấn, huấn luyện, luyện tập cho hàng nghìn lượt cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân về phương pháp chằng chống, gia cố nhà cửa; phương pháp, kỹ năng cứu hộ, cứu nạn và tham mưu cho UBND huyện xây dựng phương án sơ tán, di dời, bảo đảm lương thực, thực phẩm, nước uống, thuốc chữa bệnh và bảo đảm sản xuất, đời sống của người dân.

Ban CHQS huyện còn phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức khảo sát, phát hiện 16/35 điểm, vị trí bờ sông, kênh, rạch có nguy cơ sạt lở cao, trong đó có 5 điểm nguy hiểm và 4 vị trí đặc biệt nguy hiểm. Trên cơ sở khảo sát, đơn vị kịp thời phối hợp huy động cán bộ, chiến sĩ và các lực lượng tổ chức gia cố, xây dựng kè chống sạt lở và tham mưu triển khai xây dựng những dự án, công trình ứng phó với thiên tai, góp phần giảm thiểu thiệt hại, bảo đảm an toàn cuộc sống của người dân.

 

Anh em song sinh mê binh nghiệp

 

Hai anh em song sinh Trần Đức Tiến và Trần Đức Dũng (sinh năm 2006, quê ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) có nhiều điểm giống nhau về ngoại hình, cùng sở thích, tính cách và niềm đam mê học tập. Đặc biệt, hai em cùng chung khát khao được khoác lên mình màu xanh áo lính.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, ông bà của Tiến, Dũng từng tham gia, phục vụ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống đó đã gieo mầm và vun đắp ước mơ trở thành quân nhân ở hai em. Xác định rõ mục tiêu phấn đấu, Tiến và Dũng luôn miệt mài đèn sách, trau dồi bản thân. Có những ngày, hai anh em vừa cặm cụi học tập đến tận đêm khuya vừa động viên lẫn nhau. Tiến chia sẻ: "Học tập với em đã trở thành niềm đam mê. Khi thầy cô giảng trên lớp, em tập trung lắng nghe, ghi chép; về nhà ôn lại thật kỹ nội dung đã học; ngoài ra, em còn tìm tòi, học hỏi thêm từ các sách tham khảo và trên internet”. Sự cố gắng đã đem lại những trái ngọt. Trong Kỳ thi THPT quốc gia năm 2024, với tổ hợp thi khối C00, Trần Đức Tiến đạt 28,13 điểm; Trần Đức Dũng đạt 27,9 điểm.

Anh em song sinh mê binh nghiệp

Hai anh em Trần Đức Tiến (bên trái) và Trần Đức Dũng cùng trao đổi kiến thức chuyên môn. 

Niềm vui vỡ òa khi cả hai anh em cùng trúng tuyển vào Trường Sĩ quan Chính trị, ước mơ cháy bỏng ngày nào nay đã trở thành hiện thực. Ngày nhập học, vượt qua quãng đường dài từ Quảng Trị ra Hà Nội, giây phút đầu tiên đặt chân đến Trường Sĩ quan Chính trị, trong lòng Tiến, Dũng trào dâng bao cảm xúc. Cánh cổng trường khang trang, hiện đại mở ra, đón chào hai em và hơn 700 bạn trúng tuyển khác.

Tiến và Dũng được biên chế vào Đại đội 1, Tiểu đoàn 1 của nhà trường. Cũng như các học viên khác, hai em nhận được sự đón chào ấm áp, sự quan tâm, động viên, giúp đỡ ân cần từ đội ngũ cán bộ các cấp của nhà trường. Tuy thời gian nhập học chưa dài, vẫn còn nhiều bỡ ngỡ với môi trường mới nhưng Tiến và Dũng luôn quyết tâm, nỗ lực để nhanh chóng bắt nhịp được với các chế độ nền nếp, quy định của đơn vị và cố gắng, phấn đấu đạt được kết quả cao nhất trong quá trình học tập, rèn luyện. Thượng tá Vũ Anh Tuấn, Chính trị viên Tiểu đoàn 1 chia sẻ: “Trong mỗi hoạt động, Tiến và Dũng đều hỗ trợ nhau, cùng trao đổi kinh nghiệm. Hai anh em có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, lối sống giản dị, chan hòa với đồng đội; nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc; đồng thời tích cực học tập và rèn luyện”.

Một chân trời mới, một hành trình mới với nhiều khó khăn, vất vả vẫn còn phía trước, nhưng tin tưởng rằng, bằng niềm đam mê, khát khao cống hiến của bản thân, cùng sự giúp đỡ tận tình của thầy cô, đồng chí, đồng đội, Trần Đức Tiến và Trần Đức Dũng sẽ cố gắng rèn luyện để ngày càng trưởng thành hơn, viết tiếp những trang sử vàng của quê hương, đất nước.

 

 

Tưng bừng ngày hội văn hóa quân dân ở thành phố Lai Châu

Trong hai ngày 9 và 10-11, tại nhà văn hóa bản Gia Khâu 1, xã Sùng Phài, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu diễn ra Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc và văn hóa quân dân năm 2024.

Đến dự có đồng chí Tống Thanh Bình, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy Lai Châu; đại diện Bộ CHQS tỉnh Lai Châu; đại biểu các ban, ngành, đoàn thể địa phương cùng đông đảo đồng bào, chiến sĩ trên địa bàn.

Tưng bừng ngày hội văn hóa quân dân ở thành phố Lai Châu

Đồng chí Tống Thanh Bình, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy Lai Châu trao quà tặng nhân dân bản Gia Khâu 1.

Bản Gia Khâu 1, xã Sùng Phài, thành phố Lai Châu có diện tích trên 1.000 ha với 120 hộ/554 khẩu, đa phần là đồng bào dân tộc Mông (chiếm 98%). Trong những năm gần đây, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở bản Gia Khâu 1 phát triển tốt. Năm 2024, bản Gia Khâu 1 có 123/125 hộ đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa”, chiếm 98,4%.

Tưng bừng ngày hội văn hóa quân dân ở thành phố Lai Châu

Lãnh đạo Trung đoàn 880, Bộ CHQS tỉnh Lai Châu trao quà tặng bản Gia Khâu 1. 

Trong khuôn khổ ngày hội, đồng bào bản Gia Khâu 1 và cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 880, Bộ CHQS tỉnh Lai Châu sôi nổi tham các trò chơi dân gian, như: Kéo co, đẩy gậy, tù lu, bắn nỏ, biểu diễn văn hóa văn nghệ...

Tưng bừng ngày hội văn hóa quân dân ở thành phố Lai Châu

Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 880 tham gia kéo co trong ngày hội đại đoàn kết.

Phát biểu tại ngày hội, đồng chí Tống Thanh Bình, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy Lai Châu ghi nhận, biểu dương những kết quả bản Gia Khâu 1 cũng như xã Sùng Phài đã đạt được trong thời gian qua. Đồng thời đề nghị đồng bào các dân tộc trong xã tiếp tục thực hiện hiệu quả Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước, giúp nhau phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững; không ngừng phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nêu cao ý chí, khát vọng, tinh thần thi đua sáng tạo trong lao động, sản xuất.

Cùng với đó, tham gia tích cực vào phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương; huy động tối đa nguồn lực, quyết tâm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu nghị quyết đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra.

Dịp này, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Lai Châu, Bộ CHQS tỉnh Lai Châu và Trung đoàn 880 đã trao nhiều phần quà ý nghĩa tặng nhân dân bản Gia Khâu 1, xã Sùng Phài, thành phố Lai Châu. 

 

Nhân cách văn hóa và danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ hội tụ các giá trị chân, thiện, mỹ

 

Chân, thiện, mỹ là giá trị quan trọng trong hệ giá trị của cá nhân cũng như quốc gia, dân tộc; là giá trị phổ quát lý tưởng của toàn nhân loại. Đối với Quân đội ta, giá trị chân, thiện, mỹ không phải tự nhiên mà có, nó được hình thành, phát triển trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và trao truyền qua các thế hệ thông qua những việc làm tốt đẹp, những hành động anh hùng, những hy sinh cao cả của tập thể, cá nhân, từ đó vun đắp, trở thành những chuẩn mực hằng ngày của cán bộ, chiến sĩ.

Bộ đội Cụ Hồ luôn thấm nhuần các giá trị chân, thiện, mỹ  

Giá trị chân, thiện, mỹ ở mỗi thời đại, giai đoạn lịch sử khác nhau thì biểu hiện khác nhau. Trong xã hội có giai cấp thì giá trị chân, thiện, mỹ cũng mang tính giai cấp sâu sắc. Trong thời đại ngày nay, chân, thiện, mỹ theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta là phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử.

Hệ thống giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ là sự kết tinh những chuẩn mực con người mới theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta; có sự thống nhất giữa tính phổ quát của nhân cách con người mới và tính đặc thù của nhân cách quân nhân.

“Chân” có nghĩa là chân lý, tính đúng đắn của tri thức. Trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, “chân” được biểu hiện ở sự thấm nhuần, kiên định với những chân lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; có niềm tin sâu sắc vào mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng cao cả đó.

Thực tiễn lịch sử chứng minh, trong suốt những năm tháng kháng chiến đã có nhiều tấm gương anh dũng xả thân vì nước, vì dân. Đầu những năm 90 của thế kỷ 20, khi mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta vẫn luôn tin tưởng tuyệt đối vào tính đúng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Ngày nay, khi tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, các thế lực thù địch ra sức chống phá, nhưng Quân đội ta vẫn luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

“Thiện” có nghĩa là tốt, trái nghĩa với ác. Trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, “thiện” được biểu hiện ở sự đoàn kết, thống nhất nội bộ, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng đội như anh em ruột thịt, luôn đồng cam cộng khổ; lắng nghe, tôn trọng, giúp đỡ, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; có tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, chí nghĩa, chí tình.

Lịch sử 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta, cái thiện trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ được thể hiện sâu sắc ở tinh thần đoàn kết một lòng với nhân dân, kiên cường chiến đấu đánh đuổi kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc, đưa cả nước đi lên CNXH. Không những vậy, Quân đội ta đã làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh đất nước, vì thế người dân Campuchia thân thương gọi bộ đội Việt Nam là “đội quân nhà Phật”. Trong thời bình có rất nhiều tấm gương cán bộ, chiến sĩ xả thân giúp đỡ nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; cùng chung sức, đồng lòng với nhân dân trong công cuộc giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

“Mỹ” là cái đẹp, bao gồm cả vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp nội tâm của mỗi con người. Cái đẹp trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ là hệ giá trị văn hóa-chính trị-đạo đức tốt đẹp, phản ánh bản chất, truyền thống của Quân đội, biểu hiện ở đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, chân thành, lạc quan, nói đi đôi với làm, luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân, không thỏa mãn với thành tích, không chùn bước trước khó khăn, thử thách; có văn hóa, tri thức khoa học kỹ thuật quân sự, năng lực, phương pháp, tác phong công tác khoa học, nghiêm túc, trách nhiệm cao; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung; gương mẫu chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội; có thể chất, sức khỏe bền bỉ, dẻo dai, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta là lịch sử hình thành, phát triển giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, làm phong phú thêm giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Hướng tới giá trị chân, thiện, mỹ là quá trình “gạn đục khơi trong”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, góp phần xây dựng nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, tạo động lực, động viên, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ tu dưỡng, rèn luyện hoàn thiện nhân cách người quân nhân cách mạng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Tiếp tục hoàn thiện giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ

Trong giai đoạn cách mạng mới, tiếp tục xây dựng, bổ sung, phát triển giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ là vấn đề cần thiết, góp phần xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và tô đẹp, tỏa sáng hình ảnh, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân.

Trước hết, chú trọng làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động hướng tới giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ.

Giáo dục chính trị tư tưởng là nhiệm vụ quan trọng, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, bồi đắp, củng cố giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ. Tập trung nâng cao nhận thức cho mỗi quân nhân về vai trò, ý nghĩa, giá trị và nội dung biểu hiện của các giá trị chân, thiện, mỹ, qua đó nêu cao trách nhiệm, tự giác phấn đấu hoàn thiện các giá trị tốt đẹp ấy.

Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tập trung giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kỷ luật Quân đội; nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và bản chất cách mạng của Quân đội, hệ giá trị chuẩn mực Bộ đội Cụ Hồ để khơi dậy lòng tự hào, tinh thần trách nhiệm, ý chí quyết tâm cao của cán bộ, chiến sĩ trong học tập, rèn luyện theo giá trị chân, thiện, mỹ.

Hai là, cụ thể hóa các giá trị chân, thiện, mỹ thành các tiêu chí phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị.

Trải qua các cuộc kháng chiến, giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ được kết tinh, thể hiện rõ nét qua lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".

Trong giai đoạn hiện nay, giá trị ấy tiếp tục được phát huy, cụ thể hóa thành các chuẩn mực Bộ đội Cụ Hồ được xác định trong Chỉ thị số 855-CT/QUTW ngày 12-8-2019 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ" và Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương "Về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới".

Các chuẩn mực đó mang tính phổ quát, là chuẩn mực chung đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đội. Các cơ quan, đơn vị căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể hóa thành các tiêu chí để mỗi quân nhân học tập, rèn luyện, phấn đấu làm theo, đồng thời là thước đo để đánh giá mức độ hoàn thiện các giá trị chân, thiện, mỹ của mỗi quân nhân.

Ba là, phát huy vai trò của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong rèn luyện, phấn đấu hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ.

Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tự đánh giá đúng bản thân; đối chiếu với giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, trên cơ sở đó tiếp tục rèn luyện, phấn đấu, hoàn thiện bản thân, loại bỏ cái sai, cái xấu, cái không phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ Quân đội và đơn vị trong thời kỳ mới.

Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục; có tinh thần tự nguyện, tự giác cao để việc hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ trở thành nhu cầu, việc làm thường xuyên hằng ngày; trong mọi điều kiện, hoàn cảnh luôn giữ vững và nêu gương sáng về nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ.

Bốn là, xây dựng môi trường văn hóa quân sự tốt đẹp để góp phần hình thành, phát triển các giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ.

 Giá trị chân, thiện, mỹ chỉ thực sự được dung nạp, bồi đắp, lan tỏa và trở thành giá trị bền vững trong một môi trường văn hóa quân sự tốt đẹp, đồng thời môi trường ấy cũng là tấm khiên ngăn chặn, loại bỏ cái sai, cái xấu trong mỗi cá nhân, tập thể. Vì vậy, các cơ quan, đơn vị cần thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; đề cao tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể; kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch và những tiêu cực, lạc hậu; đề cao trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp để tạo sức lan tỏa mạnh mẽ các giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa và danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ.