Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay

 

Có thể hiểu quá trình hội nhập quốc tế của một đất nước (quốc gia) là sự tham gia vào hệ thống thế giới và trở thành một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới, trước hết là bộ phận cấu thành của “nền kinh tế thế giới”, “nền chính trị thế giới” và “nền văn minh nhân loại”. Sự tham gia ở đây là thông qua các hoạt động tương tác (hợp tác, cạnh tranh và đấu tranh...) với các bộ phận cấu thành khác nhau trong “hệ thống”, bao gồm cả việc gia nhập hay rút khỏi các “phân hệ” khác nhau trong hệ thống. Tất cả các hoạt động này đều là hoạt động có chủ đích, nhằm: 1- Phát triển quốc gia; 2- Khẳng định bản sắc quốc gia; 3- Giành vị thế xứng đáng cho quốc gia trong hệ thống; 4- Tham gia hoàn thiện và phát triển hệ thống...

Cần loại bỏ lối suy nghĩ giản đơn nhưng cũng khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam, rằng “hội nhập quốc tế” là hình thức phát triển cao của “hợp tác quốc tế”. Vấn đề là ở chỗ “hợp tác quốc tế” và “hội nhập quốc tế” là thuộc các lớp khái niệm khác nhau. Hợp tác quốc tế chỉ là một trong nhiều phương thức tương tác giữa các nước với nhau; bên cạnh hợp tác quốc tế còn có cạnh tranh, đấu tranh, liên minh, liên kết, đối đầu, chiến tranh... Điểm cơ bản là ở chỗ, khác với khái niệm “hội nhập quốc tế”, khái niệm “hợp tác quốc tế” không đề cập tới việc cấu thành hệ thống chỉnh thể thế giới.

Để đánh giá thực trạng hội nhập quốc tế của một quốc gia, cần lấy phạm vi, mức độ tham gia và vị thế của quốc gia đó trong các mặt đời sống của cộng đồng quốc tế, trong các hệ thống thế giới làm tiêu chí:

Về chiều “rộng - hẹp”, có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập hẹp, khi quốc gia hội nhập chỉ tham gia một vài lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập tương đối rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia phần lớn các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia tất cả các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế.

Về chiều “nông - sâu”, cũng có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập nông, khi quốc gia hội nhập hầu như không có vị trí, vai trò trong cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập tương đối sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò nhất định trong cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò đáng kể trong cộng đồng quốc tế. Nói theo ngôn ngữ của lý thuyết hệ thống, hội nhập sâu là trường hợp quốc gia hội nhập với tư cách là một bộ phận cấu thành hệ thống, có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành và phát triển “tính trồi” (emergent) của cả hệ thống; còn hội nhập nông là trường hợp quốc gia hội nhập hầu như không có ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển “tính trồi” của cả hệ thống.

Với cách tiếp cận trên, có thể thấy, sau hai thập niên chủ động và tích cực hội nhập quốc tế từ Đại hội IX của Đảng đến nay, Việt Nam từng bước tham gia tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội quốc tế; trở thành thành viên có trách nhiệm, có vị trí, vai trò và ảnh hưởng nhất định trong cộng đồng quốc tế, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... Điều đó có nghĩa là Việt Nam tích cực hội nhập vào chỉnh thể thế giới. Do vậy, để phát triển đất nước trong bối cảnh mới của “toàn cầu hóa” và giai đoạn mới của “hội nhập quốc tế”, cần quan tâm một số vấn đề lớn sau:

Thứ nhất, nhận thức đúng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” để làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ bước phát triển mới của toàn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Thứ hai, Việt Nam hiện tham gia các mặt đời sống chính trị - xã hội quốc tế, tức là đã hội nhập rộng vào chỉnh thể thế giới, nhưng mới chỉ dừng ở mức độ hội nhập tương đối sâu với vị trí, vai trò nhất định trong một số lĩnh vực. Tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới. Tới đây, cần xác định việc giành lấy vị trí, vai trò ngày càng đáng kể trong nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại là nội dung chủ yếu của tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Về kinh tế, cần phấn đấu giành chỗ đứng trong các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; ưu tiên thúc đẩy phát triển nhanh các ngành kinh tế số và công nghiệp 4.0. Cơ hội đang mở ra cho Việt Nam ở thời hậu dịch bệnh COVID-19, không được bỏ lỡ. Muốn thế, cần ưu tiên phát triển các mạng kết nối Việt Nam với thế giới, cả “kết nối cứng” và “kết nối mềm”.

Về chính trị, tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn, nhất là các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong ASEAN. Chủ động tham gia xử lý các vấn đề quốc tế và khu vực. Thể hiện vai trò của Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Về văn hóa - xã hội, cần đẩy mạnh quảng bá lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam với thế giới; bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản thiên nhiên, công viên địa chất, công viên sinh thái, di sản văn hóa thế giới, cả vật thể lẫn phi vật thể; khẳng định các giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, bản sắc Việt Nam; tích cực tham gia sáng tạo các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa học... có tầm ảnh hưởng quốc tế; tham gia xử lý các vấn đề nhân đạo trên trường quốc tế; tham gia đấu tranh với các hiện tượng, hoạt động phi văn hóa, phản văn hóa, chống lại nhân loại... Cần đặc biệt quan tâm việc nhân thêm và phát huy “sức mạnh mềm” của đất nước, cạnh tranh về “sức mạnh mềm” trên trường quốc tế. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các phương tiện truyền thông xã hội ngày càng có vai trò lớn trong quảng bá văn hóa và cả trong “xâm lăng” văn hóa, lan tỏa các giá trị xã hội và cả làm xói mòn các giá trị xã hội, phát huy “sức mạnh mềm” và cả hạn chế “sức mạnh mềm” của các quốc gia, phát triển ổn định xã hội và cả gây bất ổn xã hội... Phương tiện truyền thông xã hội trở thành một hiện tượng văn hóa, một kênh thông tin, một công cụ quản trị. Bên cạnh việc tăng cường quản lý nhà nước đối với các phương tiện truyền thông xã hội, một số nước chủ động sử dụng và phát huy vai trò kênh thông tin, công cụ quản trị của các phương tiện truyền thông này. Việt Nam cần có cách tiếp cận mới đối với các phương tiện truyền thông xã hội, không chỉ dừng ở chỗ coi chúng là đối tượng quản lý.

Thứ ba, khi triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh những vấn đề cần xử lý về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Đơn cử như, trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần luôn điều chỉnh, sửa đổi hệ thống pháp luật trong nước, tuy nhiên, phải có lộ trình, bước đi cẩn trọng, để vừa củng cố độc lập, tự chủ, vừa hội nhập quốc tế thành công. Hay là vấn đề đối phó với nguy cơ lệ thuộc vào thị trường bên ngoài, lệ thuộc kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị...; hoặc vấn đề phải đối phó với sự xâm lăng văn hóa, xử lý hiện tượng giao thoa văn hóa trong hội nhập quốc tế, những mâu thuẫn trong xây dựng con người Việt Nam dưới tác động của trào lưu hình thành công dân toàn cầu, sự xâm nhập của các giá trị xã hội không phù hợp đối với nước ta...

Thứ tư, Việt Nam cần chủ động và tích cực tham gia vào việc đổi mới, cải tổ, cải cách hay thiết lập các định chế toàn cầu và khu vực; đóng góp nhiều hơn vào xây dựng “luật chơi”, coi đây là lợi ích quan trọng của quốc gia.

Thứ năm, trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh ngày càng nhiều những tranh chấp. Ngoài những cơ chế quốc tế phổ biến, thế giới còn có những cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế mang tính khu biệt, chuyên ngành mà ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Do đó, vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập là nâng cao năng lực phòng, chống, xử lý, giải quyết những tranh chấp quốc tế, gắn với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên sâu về các lĩnh vực này.

HAIVAN

Thực tiễn về “toàn cầu hóa” hiện nay

 

Những năm gần đây, ở Việt Nam, cũng như trên thế giới, có ý kiến cho rằng, “toàn cầu hóa” đang chững lại; thậm chí có ý kiến đề cập đến “phi toàn cầu hóa”. Luồng ý kiến này nhấn mạnh đến xu hướng gia tăng hoạt động bảo hộ ở nhiều nước trên thế giới, đến cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc và những tranh chấp về thương mại giữa các trung tâm kinh tế lớn của thế giới, đến việc Mỹ đe dọa rút và đã rút khỏi một vài định chế quốc tế... Do vậy, câu hỏi đặt ra hiện nay là phải chăng toàn cầu hóa đang chững lại? Việc trả lời câu hỏi này là một trong những cơ sở căn bản để Đại hội XIII của Đảng hoạch định đường lối phát triển đất nước trong những năm tiếp theo.

Xét về bản chất, “toàn cầu hóa” là quá trình hình thành nên “cái toàn cầu”, phân biệt với “cái khu vực” (chỉ liên quan đến những khu vực địa - kinh tế - chính trị nhất định trên thế giới), “cái phe, khối” (chỉ liên quan đến các tập hợp lực lượng trên thế giới), “cái quốc gia - dân tộc” (chỉ liên quan đến từng đất nước). Xã hội loài người ngày nay, với nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại, cho thấy toàn cầu hóa đã tiến rất xa và sâu rộng; đồng thời, khẳng định “toàn cầu hóa” thực sự là một xu thế khách quan, không thể đảo ngược. Điều rõ ràng là, dù còn rất nhiều hạn chế, khiếm khuyết hay khuyết tật... trong cả ba hệ thống lớn nói trên, nhưng nhu cầu phát triển nội tại, tự thân của xã hội loài người chính là gốc rễ quy định xu thế toàn cầu hóa. Điều đáng chú ý là tiến trình toàn cầu hóa không diễn ra một cách tuyến tính, mà có những bước nhảy vọt, gắn với các cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất xã hội loài người. Có thể khẳng định rằng, trong thời gian tới, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) bùng nổ, nhất định sẽ có bước nhảy vọt mới trong tiến trình toàn cầu hóa, toàn cầu hóa hoàn toàn không chững lại.

Sự gia tăng các hoạt động bảo hộ trong những năm gần đây không đồng nghĩa với việc chia cắt thị trường thế giới thành những thị trường quốc gia hay phe, khối biệt lập, không làm đứt đoạn các dòng đầu tư xuyên quốc gia, không làm mất đi các vấn đề toàn cầu nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế thế giới mà việc giải quyết chúng đòi hỏi phải tăng cường hợp tác và những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế. Có chăng, chủ nghĩa bảo hộ chỉ đặt ra những “trở ngại” mới về thuế quan và phi thuế quan cho lưu thông hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, mà những trở ngại này luôn tồn tại trong tiến trình toàn cầu hóa. Những số liệu thống kê của thế giới về thương mại và đầu tư cho thấy rất rõ rằng, bất chấp sự gia tăng của các hoạt động bảo hộ trong những năm gần đây, thương mại thế giới và đầu tư quốc tế vẫn tăng lên.

Việc hình thành “cái toàn cầu” trong quá trình toàn cầu hóa kéo theo việc ra đời các định chế toàn cầu, như Liên hợp quốc và các tổ chức thuộc Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)... Các định chế này không phải là “nhất thành, bất biến”, cơ chế hoạt động của chúng phải luôn cần đổi mới, cập nhật cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của “cái toàn cầu”. Đây là sự thích nghi, bảo đảm sức sống, nâng cao tính hiệu quả của các định chế quốc tế, chứ không phải và càng không thể ngăn cản tiến trình toàn cầu hóa. Bước phát triển mới của toàn cầu hóa gắn với sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tất yếu kéo theo những đổi mới, cải tổ, cải cách các định chế toàn cầu hiện có và có thể ra đời những định chế quản trị toàn cầu mới.

HAIVAN

Nhận thức về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” của Đảng ta


Trước Đại hội IX năm 2001, văn kiện của Đảng chỉ nói đến “quốc tế hóa”, chưa đề cập tới “toàn cầu hóa”. Từ Đại hội IX của Đảng, Việt Nam đề cập đến “toàn cầu hóa kinh tế”. Khi đó, Báo cáo chính trị Đại hội IX nhận định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”. Qua hai nhiệm kỳ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh tới “toàn cầu hóa kinh tế”. Đến Đại hội XI của Đảng (năm 2011), Việt Nam chuyển từ nhận thức về “toàn cầu hóa kinh tế” sang nhận thức về “toàn cầu hóa”. Báo cáo chính trị Đại hội XI nhận định: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”. Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tiếp tục khẳng định: “Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh”. Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh: “Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang phải đối mặt với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc...”.

Cùng với nhận thức về toàn cầu hóa, Việt Nam từng bước tiến hành hội nhập quốc tế. Đại hội IX của Đảng đã đề ra chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiến thêm một bước trong nhận thức và hành động hội nhập quốc tế; đề ra chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Đến Đại hội XI của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh đến hội nhập quốc tế: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định 8 phương hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó phương hướng thứ năm là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Cương lĩnh đặt ra yêu cầu: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “Về hội nhập quốc tế”. Một trong những nhiệm vụ tổng quát mà Đại hội XII của Đảng đề ra là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”. Đại hội XII đề ra chủ trương: “Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước… Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác”. Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng đưa ra định hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, trong đó “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt NamĐa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn”.

Như vậy, từ Đại hội IX của Đảng đến nay, quan điểm của Đảng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” ngày càng đầy đủ và đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Từ nhận thức về “quốc tế hóa” đã phát triển thành nhận thức về “toàn cầu hóa kinh tế” và đi đến nhận thức về “toàn cầu hóa”. Trên cơ sở thực tiễn về “toàn cầu hóa”, Đảng và Nhà nước ta đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” và ngày nay là chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, “nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế”, “đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác”.

HAIVAN

Nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; phản bác các quan điểm sai trái, phản động.

 

Các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kích động, lôi kéo, tập hợp lực lượng chống Đảng, Nhà nước ta. Chúng ra sức tán dương, cổ xúy về “giá trị vĩnh hằng” của chủ nghĩa tư bản; xuyên tạc, hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xuyên tạc đường lối đổi mới của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, bịa đặt, vu cáo, nói xấu, thổi phồng hạn chế, khuyết điểm, gieo rắc hoài nghi, bi quan, kích động, chia rẽ nội bộ… làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng dao động, giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng, “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị; thậm chí có người đã “tự chuyển hóa”, phụ họa, lan truyền, tán phát thông tin sai trái...

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị hiện nay, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm và hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 20-10-2018, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác, nắm vững âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; xác định các chủ trương, giải pháp cụ thể, khả thi đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp, ngành, tổ chức, các lực lượng tạo thành sức mạnh tổng hợp đấu tranh làm thất bại hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Định kỳ tổ chức thông tin thời sự về tình hình trong nước và quốc tế cho cán bộ, đảng viên. Sử dụng hệ thống thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục lý luận chính trị, các thiết chế văn hóa và thông qua mạng internet... kịp thời phổ biến, tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, tuyên truyền, giảng dạy lý luận chính trị. Tập trung tạo nguồn xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, đội ngũ cán bộ kế cận, phát hiện những cán bộ trẻ có năng khiếu, tư chất và có trình độ tư duy lý luận để đào tạo, bồi dưỡng. Chú trọng phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của các viện nghiên cứu, các học viện, nhà trường, đặc biệt là đội ngũ cán bộ khoa học trong đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, sử dụng internet và các phương tiện truyền thông xã hội; hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, sử dụng các giải pháp kỹ thuật cần thiết để phòng ngừa, nhận diện, phát hiện, ngăn chặn, xử lý gỡ bỏ thông tin xấu độc trên không gian mạng. “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng phí, không có vùng cấm, không có ngoại lệ’.

HAIVAN

Tăng cường kiểm tra, giám sát, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

 

Cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quyết định, quy định của Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, các quy định của Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên và những điều đảng viên không được làm... “Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc, nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng”.

 Kết hợp chặt chẽ công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp trên đối với cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới, kiên quyết sàng lọc, đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với giám sát, thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan bảo vệ pháp luật, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên… Kiên quyết xử lý kịp thời tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định của Đảng; nhất là đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật phát ngôn, làm lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, tung tin thất thiệt, lan truyền tài liệu trái phép hoặc tán phát đơn, thư nặc danh, mạo danh có nội dung sai sự thật, mang tính vu khống, nói xấu, xuyên tạc, kích động gây chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ...

HAIVAN

Làm tốt công tác rà soát chính trị nội bộ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

 

Những năm qua, công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đạt nhiều kết quả, góp phần quan trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội... Tuy nhiên, công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn không ít hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp thường xuyên tiến hành rà soát tình hình chính trị nội bộ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp xử lý đối với những cán bộ, đảng viên có vấn đề về chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước về kết nạp đảng viên, về cán bộ và công tác cán bộ... Người được xem xét, kết nạp vào Đảng; người làm việc trong hệ thống chính trị được cử đi đào tạo ở nước ngoài, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý, giới thiệu để bầu vào cấp ủy, bầu đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và tuyển dụng, bố trí làm việc ở cơ quan, bộ phận, vị trí trọng yếu phải được cấp ủy có thẩm quyền kết luận chính trị. Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm nguyên tắc, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ; về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Thực hiện tốt việc xem xét, kết luận tiêu chuẩn chính trị cán bộ trong từng nội dung công tác cán bộ theo phân cấp quản lý cán bộ. Tiếp tục rà soát cán bộ đang giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở và cán bộ trong diện quy hoạch chuẩn bị kế cận, kế tiếp các chức danh lãnh đạo, quản lý của cơ quan Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, các tổ chức chính trị - xã hội. Chú ý những vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, tội phạm hình sự; liên quan đến suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng; liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng; vấn đề liên quan hồ sơ, lý lịch và liên quan đến yếu tố nước ngoài.

Tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên ra nước ngoài công tác, học tập và quan hệ với tổ chức, cá nhân người nước ngoài. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và đang công tác trong cơ quan, bộ phận trọng yếu, cơ mật phải thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước khi ra nước ngoài công tác, học tập, du lịch, thăm thân, chữa bệnh...; quy định về cán bộ, đảng viên có quan hệ hôn nhân với người nước ngoài, có con kết hôn với người nước ngoài; quy định về kỷ luật phát ngôn, cung cấp, trao đổi thông tin với tổ chức, cá nhân người nước ngoài... Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm, trong trường hợp cần thiết phải điều chuyển, bố trí công tác khác cho phù hợp... Thực hiện nghiêm quy định về việc cán bộ, đảng viên không được ra nước ngoài nếu đang trong thời gian xem xét kỷ luật, đang bị điều tra về hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm tư cách đảng viên hoặc có vấn đề liên quan đến chính trị hiện nay nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền kết luận. Thực hiện tốt công tác quản lý và có biện pháp bảo vệ cán bộ, đảng viên, lưu học sinh có liên quan đến yếu tố nước ngoài, hiện đang công tác, học tập, nghiên cứu, lao động ở nước ngoài, không để các thế lực thù địch, các cơ quan đặc biệt nước ngoài móc nối, lôi kéo, kích động hoạt động chống Đảng, Nhà nước...

Thường xuyên rà soát, kiểm tra tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành các quy định về chế độ bảo mật, quản lý chặt chẽ thông tin, tài liệu, giữ gìn bí mật của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang. Không để lộ, lọt thông tin, tài liệu bí mật quốc gia và ngăn chặn các hoạt động thu thập thông tin bí mật của các cơ quan đặc biệt nước ngoài…

HAIVAN

Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị và ý thức “tự bảo vệ” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

 


Đây là vấn đề cơ bản, giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay nói chung và công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng nói riêng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của internet, các phương tiện truyền thông xã hội và những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng những sơ hở, yếu kém của đội ngũ cán bộ, đảng viên để tuyên truyền, kích động chống phá Đảng, Nhà nước ta bằng những chiêu thức, thủ đoạn mới vô cùng thâm độc, nham hiểm. Trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, một số cán bộ, đảng viên đã có biểu hiện dao động, hoài nghi, gây phân rã tư tưởng, bất đồng thuận trong nội bộ Đảng, trong xã hội. Do đó, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; bảo vệ sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng hiện nay. Phương châm tiến hành công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng là “tích cực chủ động, phòng ngừa, lấy phòng ngừa là chính”.

Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc; bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan, lý tưởng cách mạng, niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Khẳng định Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ cơ sở lý luận, thực tiễn chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, củng cố, tăng cường niềm tin khoa học vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, tăng cường sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong toàn Đảng, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân và sự đồng thuận về chính trị, tinh thần trong toàn xã hội. Nâng cao “sức đề kháng”, khả năng “tự bảo vệ” của cán bộ, đảng viên trước những tác động từ mặt trái kinh tế thị trường, các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch...

HAIVAN

Nhận diện những trò lố của Việt Tân trong dịp kỷ niệm Ngày Nhân quyền thế giới

Một trong những tổ chức thường xuyên đưa ra các trò lố dịp kỷ niệm Ngày Nhân quyền thế giới để thực hiện các hành động chống phá Việt Nam là Việt Tân. Những hoạt động của tổ chức này dưới vỏ bọc bảo vệ nhân quyền, dân chủ song thực chất là nhằm mục tiêu gây rối an ninh trật tự, phá hoại sự ổn định đất nước, tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Hằng năm, Ngày Nhân quyền thế giới 10/12 được tổ chức với nhiều quy mô khác nhau tại khắp nơi trên thế giới, là dịp để kỷ niệm việc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền vào ngày 10/12/1948. Đây là một trong những sự kiện quan trọng của Liên hợp quốc nhằm công nhận và bảo vệ quyền con người mà không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, giới tính, địa giới hay địa vị xã hội. Thế nhưng, đi ngược mục đích, ý nghĩa tốt đẹp ấy, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị lại có những chiêu trò lợi dụng vấn đề nhân quyền để chống phá Việt Nam. Theo đó, có thể nhận diện trò lố của Việt Tân qua những điểm sau:

Thứ nhất, Việt Tân tiến hành các cuộc biểu tình tại một số quốc gia như Na Uy, Đức, Úc, Canada… để vu cáo Việt Nam “đàn áp nhân quyền”. Trong các cuộc biểu tình, Việt Tân đã đưa ra những biểu ngữ sai sự thật về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Tổ chức này đưa thông tin sai trái rằng, “dưới chế độ độc tài, người dân Việt Nam không có dân chủ, tự do” và cho rằng chính quyền Việt Nam đang thực hiện những hành vi đàn áp đối với những người bất đồng chính kiến; miệt thị, xuyên tạc Việt Nam “bịt miệng” quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận.

Thứ hai, tổ chức livestream bình luận về nhân quyền Việt Nam. Một trong những chiêu trò quen thuộc của Việt Tân trong dịp này được sử dụng các nền tảng mạng xã hội để tiến hành phát trực tiếp, bình luận về vấn đề dân chủ, nhân quyền; sử dụng các kênh truyền thông trực tuyến như Facebook, YouTube và các nền tảng mạng xã hội khác để phát sóng các chương trình bình luận, đánh giá về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Những buổi phát trực tiếp này thường có sự tham gia, dẫn dắt bởi các đối tượng phản động, thù địch với Việt Nam núp dưới vỏ bọc với tên gọi hết sức mĩ miều như “nhà dân chủ”, “người đấu tranh vì công lý”, “luật sư nhân quyền”…

Thứ ba, tổ chức ra cái gọi là “giải thưởng nhân quyền”. Kể từ năm 2018, Việt Tân đã rêu rao cái gọi là “Giải thưởng Nhân quyền Lê Đình Lượng” để cổ xúy, tán dương cho những cá vi phạm pháp luật Việt Nam. Năm nay trên trang Facebook, Việt Tân đưa ra bài viết với tiêu đề rất mĩ miều “Giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng 2024 công lý cho dân tộc, công bằng cho mọi người”, nhằm “chống phân biệt đối xử và thúc đẩy bình đẳng trong xã hội”, để “xiển dương tinh thần đấu tranh cho dân sinh dân quyền của nhà hoạt động Lê Đình Lượng”. Cá nhân được Việt Tân xướng tên là Y Krếc Byă, thuộc “Hội Thánh Tin Lành Đấng Christ Tây Nguyên”.

Thứ tư, một trong những luận điệu phổ biến mà Việt Tân và các tổ chức phản động khác thường xuyên sử dụng trong dịp kỷ niệm Ngày Nhân quyền thế giới là kêu gọi sự tự do, dân chủ theo kiểu phương Tây, kêu gọi các chính phủ, tổ chức phi chính phủ sử dụng nhân quyền như một công cụ để can thiệp công việc nội bộ của Việt Nam.

Như vậy, với những âm mưu, thủ đoạn trên, Việt Tân bên cạnh xuyên tạc, phủ nhận thành tựu nhân quyền của Việt Nam còn đánh tráo bản chất, làm méo mó giá trị dân chủ, nhân quyền; dẫn dắt mọi người đến những thông tin sai trái, tiêu cực; từ đó, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, hệ thống chính trị; hạ bệ vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đây là chiêu trò quen thuộc của Việt Tân mượn vấn đề nhân quyền để chống phá Việt Nam. Mỗi năm, Việt Tân lại biến tấu, diễn những trò lố nhằm thu hút sự theo dõi của dư luận trong và ngoài nước, thực chất là vì lợi ích của tổ chức này, hoàn toàn trái ngược với lợi ích quốc gia – dân tộc. Trong đó việc trao cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng” là một ví dụ. “Giải thưởng nhân quyền” vốn là một danh hiệu được trao cho những cá nhân, tổ chức có những đóng góp, cống hiến quan trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên toàn cầu. Tuy nhiên, trường hợp “Giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng” mà Việt Tân đưa ra không mang ý nghĩa như vậy, không mang lại giá trị nhân quyền trên thực tế.

Nhìn vào bản danh sách trao giải trong những năm qua có thể thấy những cá nhân được Việt Tân tôn vinh đều là đối tượng có hành vi chống phá chính quyền và những đối tượng này thường xuyên có mối quan hệ mật thiết với các tổ chức phản động ở nước ngoài, những tổ chức nhân quyền có thái độ thù địch với Việt Nam. Trường hợp Y Krếc Byă thuộc “Hội Thánh Tin Lành Đấng Christ Tây Nguyên” cũng là một trong số đó. Mặt khác, tổ chức đứng ra phát động và trao giải - tổ chức Việt Tân không có tư cách pháp lý để trao giải thưởng nhân quyền, vì bản thân tổ chức này đã bị Bộ Công an Việt Nam đưa vào danh sách các tổ chức khủng bố vào ngày 4/10/2016.

Những thành tựu trên các lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân là hết sức cụ thể, sinh động, cùng với đó là uy tín, vị thế đất nước ngày càng nâng cao trên trường quốc tế. Đó là những minh chứng rõ ràng phản bác các âm mưu, thủ đoạn chống phá, các luận điệu sai trái, xuyên tạc của của các thế lực thù địch, phản động.

Sưu tầm

Phòng, chống âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc

Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc luôn đóng một vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng, là vấn đề chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Song với dã tâm chống phá đất nước ta, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc... các tổ chức, hội nhóm phản động đã không ngừng xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là vấn đề dân tộc.

Chỉ tính riêng tại Mỹ, thống kê sơ bộ cho thấy có trên 160 tổ chức, hội nhóm người H’Mông, tiêu biểu trong số đó là tổ chức “Phát triển quốc gia H’Mông”, “Mặt trận giải phóng thống nhất người H’Mông”…Không chỉ kêu gọi, kích động từ bên ngoài, các đối tượng phản động còn cử người trà trộn vào cộng đồng người dân tộc thiểu số, trực tiếp chỉ đạo, điều hành các vụ tấn công, khủng bố, âm mưu lật đổ chính quyền khiến dư luận vô cùng phẫn nộ. Thực chất mục đích của các tổ chức này là tập hợp phe phái, xây dựng lực lượng, vận động, kêu gọi người chống lại chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, gấy mất đoàn kết dân tộc, làm giảm uy tín của Đảng trước Nhân dân, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, nhờ sự vào cuộc kịp thời, quyết liệt của cơ quan chức năng, sự cảnh giác, hợp tác của người dân, những năm qua các hoạt động chống phá lợi dụng chính sách dân tộc để chống phá chế độ đã được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, được người dân đồng tình, ủng hộ và đánh giá cao; trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số được bảo đảm và ngày càng khởi sắc.

Thực tiễn lịch sử đã cho thấy, trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước đã cho thấy với sự gắn kết keo sơn, tinh thần tương thân tương ái của các dân tộc anh em, cho nên dù ở thời kỳ nào, đứng trước bất cứ thử thách khó khăn nào thì cộng đồng các dân tộc Việt Nam cũng là một khối đoàn kết, thống nhất, tạo nên sức mạnh để chiến thắng mọi kẻ thù, vượt qua mọi thử thách. Trong Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi), nhấn mạnh: “Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam”. Đồng thời, tại Điều 5 của Hiến pháp chỉ rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc…”.

          Không chỉ được quy định trong Hiến pháp, nguyên tắc về bình đẳng và không phân biệt chủng tộc liên quan đến thành phần dân tộc đã được cụ thể hóa trong các luật, văn bản dưới luật khác có liên quan và được triển khai thực hiện trong thực tiễn, thông qua nhiều chính sách, chương trình quốc gia tạo sự thống nhất, đồng bộ. Số liệu thống kê cho thấy, cùng với Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành và 97 luật, bộ luật, với gần 300 điều có liên quan đến công tác dân tộc; có 188 chính sách thực hiện tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi đang còn hiệu lực do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành, trong đó có 136 chính sách dân tộc; Ủy ban Dân tộc chủ trì, chỉ đạo 25 chính sách; các bộ, ngành khác chủ trì, chỉ đạo 111 chính sách.

          Vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc luôn đóng một vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Song với dã tâm chống phá đất nước ta, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, triệt để sử dụng kế sách “bẻ từng chiếc đũa”, đó là chia rẽ người Kinh với đồng bào người dân tộc thiểu số, nhen lên tư tưởng “bài Kinh” trong cộng đồng người dân tộc thiểu số, với mong muốn làm cho đất nước bị suy yếu từ bên trong, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo ý đồ của chúng.

          Chính quyền các cấp cũng như các cơ quan chức năng, tổ chức chính trị xã hội cần làm tốt hơn nữa công tác dân tộc, nâng cao chất lượng sống về mọi mặt cho người dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thường xuyên lắng nghe, kịp thời phát hiện những vấn đề khúc mắc để tìm cách tháo gỡ; đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách đến với đồng bào bằng những hình thức phù hợp, hiệu quả. Đối với người dân, cần tin tưởng vào đường lối của Đảng, cảnh giác để không bị lôi kéo vào các hoạt động bất hợp pháp, làm tổn hại đến khối đoàn kết dân tộc và sự phát triển ổn định của xã hội.

Sưu tầm

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn thăm, chúc Tết gia đình các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước

 

Ngày 5-1, tại Hà Nội, nhân dịp đầu năm mới 2025 và chuẩn bị đón Tết cổ truyền Ất Tỵ, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã tới thăm gia đình và thắp hương tưởng nhớ cố Tổng Bí thư Trường Chinh, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cố Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo; thăm, chúc Tết nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.

Thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã thắp hương, tưởng nhớ cố Tổng Bí thư Trường Chinh, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và cố Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo.

Trò chuyện với gia đình cố Tổng Bí thư Trường Chinh, gia đình cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và gia đình cố Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn bày tỏ tri ân sâu sắc trước những đóng góp to lớn của các đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

Cố Tổng Bí thư Trường Chinh là nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, người học trò xuất sắc và là một trong những đồng chí chiến đấu, gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với 81 năm tuổi đời, 63 năm hoạt động cách mạng liên tục, tên tuổi và sự nghiệp của đồng chí gắn liền với những thắng lợi lớn lao, vẻ vang của cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong các thời điểm có tính chất bước ngoặt, khúc quanh lớn của lịch sử. Trong đó, cống hiến đặc biệt của cố Tổng Bí thư Trường Chinh chính là đã đặt nền móng cho công cuộc Đổi mới. Bằng lý luận, phương pháp luận, nghiên cứu thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm, đồng chí đã cùng với Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng hình thành tư duy đổi mới và xác lập đường lối Đổi mới toàn diện tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Đến nay, sau gần 40 năm Đổi mới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi, thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo dựng cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, hiện thân đầy đủ phẩm chất, tài năng, bản lĩnh, trí tuệ của thế hệ lãnh đạo Việt Nam thời kỳ đổi mới. Với trọng trách là nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng và trước đó là Chủ tịch Quốc hội khóa XI, XII, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn gắn bó với Quốc hội, hiểu rõ về tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội. Đồng chí luôn nhắc nhở các đại biểu phải dành thời gian thỏa đáng cho hoạt động của Quốc hội, phải có kiến thức chuyên sâu, có sự am hiểu sâu sắc về Quốc hội để có những ý kiến đóng góp, phản biện sắc sảo; mỗi đại biểu đập nhịp đập của cuộc sống, của trái tim nhân dân thì nhất định hoạt động của Quốc hội sẽ sinh động và hiệu quả.

Cố Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo là nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đồng chí đã để lại dấu ấn sâu sắc trong đổi mới tổ chức và hoạt động, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh, đặc biệt là sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới.

* Thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến thăm, chúc Tết nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cảm ơn nguyên Tổng Bí thư và nguyên Chủ tịch Quốc hội đã luôn quan tâm, theo dõi, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết cho hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội thời gian qua. Chủ tịch Quốc hội chúc nguyên Tổng Bí thư, nguyên Chủ tịch Quốc hội và gia đình một năm mới mạnh khỏe, nhiều niềm vui mới và thành công mới.

Nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cảm ơn tình cảm, sự quan tâm sâu sắc của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và Ủy ban Thường vụ Quốc hội; cho biết luôn theo dõi hoạt động của Quốc hội và hết sức vui mừng trước những thành tựu toàn diện trên mọi mặt hoạt động của Quốc hội thời gian qua; đánh giá cao việc Quốc hội đã không ngừng đổi mới cách làm việc, xem xét, quyết định nhiều vấn đề hệ trọng, kịp thời tháo gỡ khó khăn, khơi thông nguồn lực, giải quyết các “điểm nghẽn”, tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng tin tưởng, với những kết quả đã đạt được, với tinh thần luôn đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên hết và trước hết, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, Quốc hội sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu mới, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trân trọng cảm ơn những đánh giá của nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đối với hoạt động của Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội cho biết, kế thừa, phát huy những ưu điểm, bài học kinh nghiệm của các nhiệm kỳ trước đây, lắng nghe ý kiến của các chuyên gia, nhà quản lý, của doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là qua thực tiễn hoạt động, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới, Quốc hội đã luôn chủ động, không ngừng đổi mới, đồng hành chặt chẽ, phối hợp hiệu quả, "đồng tâm hiệp lực" với Chính phủ để kịp thời giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, tháo gỡ nhanh các điểm nghẽn, khơi thông nguồn lực để đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tư duy và phương thức tiến hành công tác lập pháp cũng được đổi mới sâu sắc theo hướng: Luật ngắn gọn, rõ ràng; tăng cường phân cấp, phân quyền, cải cách hành chính; chuyển mạnh từ thiên về quản lý sang kết hợp hài hòa giữa quản lý có hiệu quả với kiến tạo phát triển, khuyến khích đổi mới sáng tạo, kiên quyết từ bỏ tư duy "không quản được thì cấm"…

Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội sẽ tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, đổi mới, bứt phá, chú trọng các nhiệm vụ trọng tâm; nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2025, các chương trình, kế hoạch nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, góp phần tạo nền tảng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Chủ tịch Quốc hội mong nguyên Tổng Bí thư và nguyên Chủ tịch Quốc hội tiếp tục đóng góp ý kiến để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội trong thời gian tới.

 

Lễ trao Giải Diên Hồng - Giải báo chí toàn quốc về Quốc hội và Hội đồng nhân dân lần thứ ba

 Tối 5-1, Lễ Tổng kết và trao Giải Báo chí toàn quốc về Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Giải Diên Hồng) lần thứ ba năm 2025 đã được tổ chức tại Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt - Xô, Hà Nội. Đây là sự kiện quan trọng, rất có ý nghĩa chào mừng kỷ niệm 79 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam (6-1-1946 / 6-1-2025).

* Báo Quân đội nhân dân đoạt hai giải

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn dự và phát biểu chỉ đạo tại Lễ trao giải.

Tham dự buổi lễ có các đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị: Nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng; nguyên Phó chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng.

Cùng dự có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân; Phó thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà; Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định; Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải; Phó chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cùng các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND, UBND một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các trưởng đoàn, phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố trong cả nước; đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương...

Giải Diên Hồng lần thứ ba do Văn phòng Quốc hội chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội, Hội Nhà báo Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức.

 

Thay mặt lãnh đạo Ðảng, Nhà nước, phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh, phát huy kết quả qua 2 lần tổ chức, năm nay, Ban Tổ chức giải đã tiếp nhận được những tác phẩm báo chí với sự tìm tòi mới mẻ, sáng tạo, hấp dẫn, thuyết phục, được độc giả đón nhận và Hội đồng chấm giải đánh giá cao. Nhiều bài viết đã nêu bật được những nỗ lực, quyết tâm đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động, kết quả quan trọng, khá toàn diện trên các mặt công tác của Quốc hội trong năm 2024.

Đặc biệt, có nhiều bài viết phân tích sâu sắc về những đổi mới công tác lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, chuyển tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển với tinh thần đột phá, cải cách, phân cấp, phân quyền triệt để, giao quyền chủ động, đảm bảo linh hoạt trong điều hành của Chính phủ trong bối cảnh tình hình thực tiễn thay đổi liên tục, đáp ứng nhanh nhất, hiệu quả nhất, cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và chăm lo tốt hơn đời sống của nhân dân.

Hướng tới kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng; 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu; 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; 80 năm Ngày thành lập Nước; 80 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam; 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội tin tưởng rằng, các nhà báo tiếp tục phát huy lòng yêu nghề với tâm sáng, bút sắc, trí bền, đồng hành cùng Quốc hội, chuyển tải kịp thời hoạt động của Quốc hội cả về công tác lập pháp, giám sát tối cao, và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Cùng với đó, các nhà báo tiếp tục tìm tòi, phát hiện những bất cập, vướng mắc trong quá trình xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật; những vấn đề cấp bách của người dân, doanh nghiệp để phản ánh tới Quốc hội, Hội đồng nhân dân, có giải pháp tháo gỡ, giải quyết kịp thời; giúp cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả, xứng đáng với sự tin cậy của cử tri và nhân dân cả nước.

Chủ tịch Quốc hội lưu ý, báo chí cần lan tỏa mạnh mẽ tinh thần tích cực, khát vọng, quyết tâm mới, khí thế mới trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhất là những thông điệp của Tổng Bí thư Tô Lâm, cũng là chủ trương lãnh đạo của Đảng về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, như một lời hiệu triệu, thúc giục tinh thần hành động, đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; về đổi mới mô hình tổ chức tổng thể của cả hệ thống chính trị với mức độ, quy mô của một cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy cán bộ; thông điệp về phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số với quyết tâm nhất định phải phổ cập chuyển đổi số trong toàn dân; thông điệp về cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, không chỉ vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của bản thân, gia đình, xã hội mà còn vì trách nhiệm với thế hệ tương lai.

Chủ tịch Quốc hội biểu dương, cảm ơn Ban Tuyên giáo Trung ương; Bộ Thông tin và Truyền thông; Hội Nhà báo Việt Nam; Đài Truyền hình Việt Nam; các thành viên Hội đồng chấm Giải; các đơn vị tự nguyện đồng hành; Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố, nhất là Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội; các cơ quan báo chí, cán bộ, phóng viên, biên tập viên, người làm báo trong cả nước đã tích cực tham gia để có được một mùa giải thành công.

Từ 4.079 tác phẩm dự thi của 163 cơ quan báo chí, Ban Tổ chức đã lựa chọn 83 tác phẩm xuất sắc nhất để trao giải, với 8 giải A, 15 giải B, 20 giải C, 40 giải khuyến khích.  

 

Ai mới là kẻ gây “nghẽn”?

Xuyên tạc, bịa đặt thông tin nhằm phủ nhận vai trò và hạ thấp uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là chiêu trò mới nhưng vẫn được các thế lực thù địch sử dụng bởi chúng coi đây là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để xóa bỏ thành quả cách mạng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, hướng Việt Nam đi theo ý đồ của chúng.

Bất chấp những xuyên tạc đầy ác ý, lịch sử là nhân chứng hùng hồn nhất về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Trước năm 1930 khi chưa có Đảng, đất nước ta chìm đắm dưới ách thống trị, áp bức hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân Pháp và hàng trăm năm của chế độ phong kiến thối nát. Biết bao cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra nhưng kết cục đều thất bại do thiếu một đường lối chính trị đúng đắn soi đường. Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang. Đảng lãnh đạo toàn dân đứng lên giành lại chính quyền, mở đầu là cách mạng Tháng Tám thành công, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt làm hai miền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới đất nước. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây, cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai khắc nghiệt gây ra, Việt Nam đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của các tầng lớp nhân dân  không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Những thành tựu này là bằng chứng rõ ràng nhất chỉ ra rằng Đảng Cộng sản Việt Nam chính là người cởi bỏ nhiều “nút nghẽn” tạo nên mọi thành công của cách mạng Việt nam, mang lại hòa bình ấm no cho dân tộc Việt Nam. Còn những kẻ chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, đi ngược lại lợi ích của quốc gia dân tộc Việt Nam mới là “nút nghẽn” cần xóa bỏ.

Sưu tầm

Ông Trump lên án chiến tranh Việt Nam, nói lẽ ra Mỹ không nên tham chiến

Mấy hôm vừa qua, vô tình tôi đã tìm được một bài viết rất hay của tác giả Bình An đăng trên Tuổi trẻ online ngày 06/6/2019. Có lẽ sau khi đọc xong bài viết này chúng ta càng thấy được tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của những kẻ phản quốc.

Bài viết với tựa đề: “Ông Trump lên án chiến tranh Việt Nam, nói lẽ ra Mỹ không nên tham chiến” cụ thể như sau:

" Tổng thống Trump nói ông không hối tiếc về việc đã tránh phải phục vụ quân ngũ trong chiến tranh Việt Nam (kháng chiến chống Mỹ) vì ông không phải là ‘người hâm mộ’ của cuộc chiến bị nhiều người trên thế giới phản đối này.

Tôi nói thẳng cho anh biết tôi chưa bao giờ là người hâm mộ cuộc chiến đó cả. Tôi nghĩ đó là cuộc chiến tồi tệ và nó ở rất xa" - Tổng thống Mỹ Donald Trump trả lời nhà báo Anh Piers Morgan trên kênh truyền hình ITV, phát sóng ngày 5-6. 

Ông Trump trả lời phỏng vấn khi đang có mặt tại Anh và chuẩn bị dự lễ kỷ niệm 75 năm ngày thực hiện cuộc đổ bộ của quân đồng minh vào bãi biển Normandy (hay được biết tới là D-Day) để đẩy lùi quân phát xít Đức trong Thế chiến 2.

"Vào thời điểm đó, không ai nghe về đất nước này nhưng thật sự ngày hôm nay họ (Việt Nam) đang sống rất tốt. Về thương mại, họ là những nhà đàm phán giỏi và là những doanh nhân tuyệt vời" - ông Trump nói trong cuộc phỏng vấn.

Nhà lãnh đạo Mỹ khẳng định: "Đây chả giống như chuyện tôi chiến đấu chống Đức quốc xã, đánh nhau với Hitler. Tôi giống nhiều người khi đó. Lúc đó tôi không xuống đường biểu tình và nói rằng sẽ sang Canada sống… Cuộc chiến đó không phải là thứ mà chúng ta (Mỹ) lẽ ra nên tham gia".

Khi được nhà báo Piers Morgan hỏi tiếp liệu ông Trump có muốn phục vụ quân ngũ trong một cuộc chiến khác hay không, Tổng thống Trump trả lời sẽ thật "vinh dự" cho ông làm thế.

Tuy nhiên, về vấn đề không đi lính trước đây, ông Trump cho biết ông đã tăng tiền cho quân đội Mỹ như một cách đền bù và rằng "chúng ta đang tái xây dựng quân đội ở một cấp độ chưa từng thấy trước đây".

Theo hãng tin AFP, ông Trump tốt nghiệp Trường tài chính Wharton vào năm 1968. Tuy nhiên, ngay sau khi rời khỏi trường, ông được bác sĩ chẩn đoán bị gai xương gót chân và được miễn thi hành quân dịch. Trước đó, ông được miễn phục vụ quân ngũ 4 lần vì còn đang đi học.”

Thông qua bài viết này chúng ta có thể thấy rằng ngay cả một cựu Tổng thống Mỹ còn công nhận cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc. Nhưng những kẻ “ba sọc” – phản quốc lại cố tình xuyên tạc tính chất của cuộc chiến tranh chính nghĩa này. Chúng còn thường xuyên sử dụng các âm mưu, thủ đoạn bẩn thỉu để hòng “khôi phục” lại chính quyền phản động – “ngụy quyền”. Do đó, mỗi người dân Việt Nam cần hết sức tỉnh táo trước những âm mưu, thủ đoạn của những kẻ phản động này. Đồng thời, luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, không để kẻ xấu lợi dụng gây tổn hại đến danh dự, uy tín của Tổ quốc.

Sưu tầm

NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN ĐÒI PHI CHÍNH TRỊ HÓA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Trong mọi giai đoạn của cách mạng, lực lượng vũ trang có vai trò đặc biệt quan trọng, do đó họ luôn là mục tiêu của các thế lực thù địch hướng tới chống phá. Một trong những âm mưu của kẻ địch là tăng cường cổ xúy vấn đề phi chính trị hóa lực lượng Quân đội và Công an.

Đây chính là chiêu bài quen thuộc mà các thế lực thù địch, phản động thường áp đặt, tạo tiền đề cơ bản thực hiện ý đồ gây bạo loạn, lật đổ. Đối với Việt Nam, mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam. Chúng xác định, muốn Đảng suy yếu vai trò lãnh đạo thì cần phải tước bỏ sức mạnh của Đảng, tước bỏ công cụ chuyên chính của Đảng, đó chính là lực lượng Công an và Quân đội.
Do đó, trong giai đoạn hiện nay, chúng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền chống phá, trong đó tìm cách lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế, xã hội, công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng… để tuyên truyền xuyên tạc, thực hiện âm mưu phi chính trị hóa lực lượng vũ trang.
Thực chất hoạt động này là nhằm vô hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Công an và Quân đội, làm cho hai lực lượng trọng yếu này không còn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, Đảng ta đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, xây dựng Công an, Quân đội ngày càng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại thì các thế lực thù địch, số chống đối chính trị càng ráo riết tìm mọi cách thúc đẩy ý đồ đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt.
Cụ thể:
Các đối tượng thù địch, phản động thông qua các phương tiện truyền thông, mạng xã hội tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng, làm suy giảm lòng tin, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của lực lượng vũ trang bằng cách triệt để khai thác những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ, ngụy tạo chứng cứ, bồi bút xuyên tạc, “tát bùn sang ao” nhằm bôi nhọ truyền thống, bản chất cách mạng lực lượng vũ trang. Kích thích, cổ xúy những xu hướng tư tưởng sai trái, những hành vi phi đạo đức, lối sống lệch chuẩn, xa hoa, lãng phí trong chiến sĩ trẻ lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là thủ đoạn phổ biến nhằm tập trung phá hoại bản chất, truyền thống, những giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp của Quân đội, Công an, làm cơ sở cho việc thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hướng tới làm biến chất lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngay từ bên trong.
Các thế lực thù địch lợi dụng xu thế toàn cầu hóa để tăng cường tuyên truyền, tác động tư tưởng, đạo đức, tư duy, lối sống lệch chuẩn vào đời sống tinh thần của lực lượng vũ trang nhân dân, đẩy mạnh “cuộc xâm lăng về văn hóa” vào nhận thức của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Thông qua các mối quan hệ hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật, phòng, chống khủng bố, buôn người… để truyền bá, thâm nhập quan điểm dân chủ tư sản kết hợp mua chuộc bằng lợi ích vật chất, đẩy mạnh tuyên truyền lối sống thực dụng, làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng, biến chất về chính trị. Thủ đoạn này được các thế lực thù địch triệt để khai thác dưới nhiều hình thức, vỏ bọc khác nhau.
Thời gian gần đây, để đánh lạc hướng, các thế lực thù địch thông qua “tâm thư”, “thư ngỏ”, “kiến nghị” đòi “duy trì tính trung lập về chính trị” nhưng thực chất là đòi phi chính trị hóa lực lượng Quân đội và Công an. Chúng cho rằng hai lực lượng này cần phải thực hiện “tính trung lập về chính trị”, tức là “đứng ngoài chính trị”, “không can dự” vào các cuộc đấu tranh của các lực lượng chính trị”; “là con em của nhân dân, các lực lượng vũ trang được nhân dân nuôi dưỡng thì chỉ vì nhân dân là đủ”. Chúng ngụy biện rằng, Quân đội có nhiệm vụ hiến định là quốc phòng, tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào thực hiện nhiệm vụ phục vụ, bảo vệ Đảng; vu cáo việc Công an thực hiện một số nhiệm vụ như cưỡng chế giải phóng mặt bằng là “đàn áp dân”, “đối đầu với dân”…
Việc nêu ra quan điểm “tính trung lập về chính trị” của Quân đội và Công an đã cho thấy mục đích, bản chất phi khoa học, phi thực tiễn khi cố tình lèo lái việc “trung lập về chính trị” là đứng ngoài các lực lượng, đảng phái, các hoạt động chính trị, không tham gia đấu tranh chính trị... Qua đó hướng lái bản chất chính trị của các lực lượng vũ trang nhân dân sang lập trường, bản chất chính trị khác. Như vậy, thuật ngữ có sự thay đổi nhưng âm mưu, ý đồ không thay đổi, “trung lập hóa về chính trị” chỉ là một cách diễn đạt khác của phi chính trị hóa lực lượng vũ trang nhằm tước bỏ công cụ chuyên chính trọng yếu, tin cậy, tuyệt đối trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Thực tế trên cho thấy âm mưu, hoạt động phi chính trị hóa lực lượng vũ trang là vô cùng nguy hiểm, có thể dẫn tới sự vô hiệu hóa công cụ chuyên chính của Đảng, tước bỏ sức mạnh quan trọng nhất để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cũng như chế độ XHCN tại Việt Nam. Những luận điệu tuyên truyền đòi phi chính trị hóa càng trở nên nguy hiểm hơn khi núp dưới nhiều danh nghĩa, vỏ bọc khác nhau trong thế giới toàn cầu hóa và được sự “hà hơi” “thổi sức” của khoa học công nghệ, các tiện ích của mạng internet, các nền tảng mạng xã hội như facebook, youtober, tiktok…
Việc nhận diện âm mưu, thủ đoạn đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang Việt Nam và triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái này là vấn đề quan trọng. Cần nhận thức rõ, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được rời bỏ nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp lực lượng vũ trang. Chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ lực lượng vũ trang trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, qua đó nâng cao ý thức cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch về mưu đồ đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên trong lực lượng vũ trang nhận thức đầy đủ, sâu sắc về bản chất chính trị của các lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là vấn đề cốt lõi, trọng tâm hàng đầu trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, tạo nền tảng vững chắc đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang.
Để ngăn chặn những tác động, chuyển hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế cần có biện pháp bảo vệ cán bộ, chiến sĩ, không để bị tác động, lôi kéo. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, điều lệnh Công an nhân dân; có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Coi trọng xây dựng tổ chức đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức, cán bộ và đạo đức. Đề cao tính tổ chức, tính kỷ luật và thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát, nhận xét, đánh giá cán bộ; làm tốt công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, chiến dịch.
Lực lượng Công an, Quân đội tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, kiến thức, năng lực toàn diện, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, truyền thống vẻ vang của lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng. Vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc bản chất chính trị của lực lượng vũ trang nhân dân. Đặc biệt, lực lượng Công an, Quân đội tiên phong, đi trước, mở đường trong việc tinh gọn bộ máy, hiện đại hóa, giúp cho lực lượng không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững chủ quyền lãnh thổ mà còn góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong sự nghiệp chung của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên “vươn mình của dân tộc” như tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm.

Các “nhà dân chủ rởm” lại giở trò “mèo khóc chuột”

Vừa qua, ngày 30/10/2024, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử sơ thẩm vụ án "làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước" quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình sự đối với Đường Văn Thái. Bản án 12 năm tù giam là hoàn toàn xác đáng và thể hiện sự nghiêm minh của Pháp luật Việt Nam. Và ngay tại phiên tòa, bị cáo Thái đã tỏ rõ sự ăn năn, hối cải cùng mong muốn được hưởng sự khoan hồng của Pháp luật.

Tuy nhiên dưới sự tô vẽ tài tình củ hội “dân chủ cuội” thì Thái bỗng nhiên trở thành một nhân vật chính nghĩa đấu tranh cho dân chủ, nhà hoạt động vì cộng đồng. Tuy nhiên, sự thật chỉ có một, đó là Đường Văn Thái chỉ là con tốt thì được đẩy lên phía trước làm công cụ để hội phản động múa bút mà thôi. Ngay cả với Đường Văn Thái thì việc chống phá, phát tán tuyên truyền những thông tin sai sự thật cũng không phải vì mục đích cao cả nào hết mà là cái cần câu cơm cho bản thân vì Thái được trả tiền và hứa hẹn quyền lợi để làm như vậy.

Thái sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, đã từng làm cán bộ Đoàn thanh niên và từng công tác trong một cơ quan Nhà nước, nhưng sau khi thi không đỗ công chức, hắn đã nảy sinh bất mãn và bắt đầu có những tư tưởng lệch lạc. Chính lúc này, các đám phản động đã làm các việc mà chúng giỏi nhất là đánh hơi, lựa chọn và lôi kéo cũng như tẩy não những người có tư tưởng chống đối chính quyền để làm việc cho chúng. Sau đó, Thái bỏ trốn sang Thái Lan và tiếp tục công cuộc chống phá chính quyền, trong một lần vượt biên trốn về nước, Thái đã bị Công án Hà Tĩnh tóm gọn. Vậy là các nhà phản động lại ra rả cho rằng cơ qua chức năng “bắt cóc” Đường Văn Thái.

Khi Thái sợ khám, các đối tượng ở bên ngoài lại móc nối với nhau rồi bịa đặt việc Thái tuyệt thực ở trong từ để phản đối chính quyền. Nhưng thực tế lại như cái tát vỗ mặt vào đám “dân chủ cuội” khi đứng trước vành móng ngựa, Thái trông còn béo tốt, da dẻ hồng hào hơn trước khi bị bắt. Có vẻ nhưng việc đấu tranh chống phá Nhà nước gian nan hơn Thái nghĩ và khi vào trong tù được Nhà nước nuôi cơm, không phải lo miếng cơm manh áo, không phải nhọc lòng nghĩ xem nên chống phá như thế nào đã khiến Thái ăn ngon hơn, ngủ kỹ hơn. Còn hội phản động lưu vong ở bên ngoài thì tiếp tục sáng tác bịa đặt những câu chuyện hoang đường giống như họ đã có mặt trong nhà tù và chứng kiến mọi việc vậy. Và để phông bạt, khuếch trương thanh thế, chúng liên tục kêu gọi các tổ chức phi chính phủ lên tiếng, gây sức ép với chính quyền về cái gọi là “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do ngôn luận”… Thực chất, các tổ chức này được lập ra cũng với mục đích kêu gọi tài trợ để chống phá các quốc gia có thể chế chính trị hoặc lợi ích đối lập với các nước tư bản trong đó có Việt Nam.

Về phía chính quyền Việt Nam, chúng ta vẫn kiên định với đường lối độc lập, tự chủ trong tất cả mọi mặt, đặc biệt là vấn đề quốc phòng an ninh. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và Pháp luật của Việt Nam đều không qua mắt được các lực lương chức năng của nước ta, cho dù các đối tượng có được hậu thuẫn như thế nào, có trốn ở bất cứ đâu thì trước sau gì cũng đều sa lưới Pháp luật. Và mặc cho các đối tượng phản động lưu vong tha hồ “mèo khóc chuột” hay gây sức ép thì kẻ vi phạm vẫn bị trừng trị thích đáng.

Sưu tầm