Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Nhà lãnh đạo xuất sắc trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã có những cống hiến đặc biệt quan trọng trong những quyết định có tính chất bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xứng đáng là nhà chiến lược quân sự tài năng, nhà lãnh đạo xuất sắc trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (tên thật là Nguyễn Vịnh) - một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ cộng sản kiên trung, mẫu mực, nhà lãnh đạo chiến lược, người chỉ đạo thực tiễn tài năng của của Đảng và Quân đội nhân dân Việt Nam, người con ưu tú của dân tộc. Tên tuổi của Đại tướng gắn liền với những mốc son chói lọi, những thời điểm cam go, ác liệt nhất của cách mạng Việt Nam, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng đồng bào, chiến sĩ cả nước và bạn bè quốc tế. Nhân kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bài viết nhằm góp phần làm sáng tỏ phẩm chất, tài năng của một nhà lãnh đạo xuất sắc trên lĩnh vực xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng. Qua đó nghiên cứu, vận dụng, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, phát huy lòng tự hào, tự tôn dân tộc trong các tầng lớp Nhân dân.

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao đổi tình hình chiến sự chiến trường miền Nam (5-7-1967)

Công tác chính trị, tư tưởng là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của công tác xây dựng Đảng và vận động quần chúng, là một bộ phận quan trọng hàng đầu trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta đã khẳng định: “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng… Tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc”; “Toàn Đảng phải tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí, đoàn kết nhất trí mới làm trọn nhiệm vụ của Đảng”. Trong kháng chiến, đồng chí Nguyễn Chí Thanh là một trong những nhà lãnh đạo tiêu biểu thể hiện rõ năng lực lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng để động viên tinh thần cách mạng, sự đồng lòng, đồng sức của Đảng bộ và nhân dân để vượt qua khó khăn, thử thách, giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

BẢO VỆ CHỦ QUYỀN TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 Chủ quyền trên không gian mạng là một bộ phận không thể tách rời của chủ quyền quốc gia và bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng chính là bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc. Bởi vậy, cần phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ hệ thống thông tin, các dữ liệu, tài nguyên số, bảo đảm tính vẹn toàn, bí mật, sẵn sàng của thông tin. Trong thời đại chuyển đổi số mạnh mẽ, xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số, công dân số, nhất là trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, an ninh, không gian mạng đã trở thành môi trường tiến hành tác chiến mạng, tác chiến thông tin, đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khai thác, sử dụng và bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.

Trước hết, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, sự vào cuộc quyết liệt, hiệu quả của các cấp, các ngành để huy động mọi nguồn lực. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, kỹ năng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thường xuyên, liên tục với nội dung và biện pháp phù hợp, hiệu quả. Tổ chức triển khai và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 29-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược an ninh mạng quốc gia.

Hoàn thiện chiến lược bảo vệ chủ quyền trên không gian mạng. Bổ sung, thể chế hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Tiếp tục triển khai việc xác lập và thực thi đầy đủ chủ quyền, lợi ích an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội của Việt Nam trên không gian mạng. Hoàn thiện khung khổ luật pháp quốc gia, ban hành cơ chế, chính sách phù hợp với các quy định quốc tế, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về an toàn thông tin, an ninh mạng. Sẵn sàng ứng phó với các thách thức an ninh mạng; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.

Xác định rõ vai trò, tầm quan trọng của chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng. Tự chủ công nghệ, đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhất là hạ tầng công nghệ, phần cứng, từ hạ tầng lõi đến các thiết bị điện tử cá nhân để hạn chế sự xâm nhập các mã độc, bởi hiện nay chúng ta cơ bản nhập khẩu từ nước ngoài nên độ bảo mật vẫn còn nhiều lỗ hổng. Chủ động “xây” và “chống”, “đấu tranh” và “bảo vệ”, kịp thời phát hiện và đáp trả các mối đe doạ an ninh mạng, gián điệp mạng nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ vững chủ quyền trên không gian mạng.

Tăng cường củng cố và phát triển lực lượng chuyên trách, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao về lĩnh vực công nghệ thông tin, an ninh mạng, bảo đảm tinh thông nghiệp vụ, nhạy bén về chính trị, hiểu biết pháp luật. Hiện đại hoá vũ khí, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu tác chiến mạng và an ninh mạng trong tình hình mới. Huy động sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân; phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng Quân đội, Công an, thông tin-truyền thông và các lực lượng khác, trong đó Quân đội và Công an làm nòng cốt. Tập trung đấu tranh với các đối tượng, như: Các thế lực thù địch, đồng minh, tay sai có âm mưu, hành động sử dụng không gian mạng can thiệp, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa; các tổ chức phản động trong và ngoài nước; lực lượng cơ hội, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có âm mưu, hành động cấu kết với thế lực bên ngoài, sử dụng không gian mạng chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng thực hiện các hoạt động xâm nhập, phá hoại về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.

Trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự, không gian mạng là môi trường tác chiến, cho phép người chỉ huy, người lính sử dụng hệ thống thông tin quản lý, điều hành, điều khiển vũ khí, trinh sát kỹ thuật; sử dụng các hệ thống tự động hoá chỉ huy để tương tác trong các hoạt động tác chiến. Sự ra đời không gian mạng xuất hiện hình thái chiến tranh và lực lượng tác chiến mới, ví như cuộc chiến Nga-Ukraine... đã làm thay đổi học thuyết, tư duy và phương thức tiến hành chiến tranh.

Trên cơ sở công tác quản lý của Nhà nước về các dịch vụ trên không gian mạng, cần tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các ban, bộ, ngành, địa phương để tạo thế trận phòng thủ vững chắc; giám sát, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, phục vụ nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; nâng cao ý thức và năng lực tự bảo vệ của người dân khi tham gia các hoạt động trên không gian mạng, tuân thủ theo quy định của pháp luật.

Tăng cường hợp tác quốc tế để bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái chống phá Việt Nam. Tham gia các công ước quốc tế phù hợp với luật pháp Việt Nam. Phối hợp có hiệu quả trong thực thi các nghị định thư, thoả thuận hợp tác phòng, chống tội phạm.

Đấu tranh và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp trong tiến trình thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Không gian mạng vừa mang lại nhiều cơ hội mới để xây dựng và phát triển đất nước, nhưng cũng tạo ra không ít thách thức chi phối, ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống xã hội. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, quyết tâm thực hiện mạnh mẽ chuyển đổi số để xây dựng Việt Nam hùng cường, giàu mạnh, phát triển.

“… chủ nghĩa đế quốc là như con “ác vàng” đã ngả về tây. Chủ nghĩa xã hội là như mặt trời mới mọc”

Lời khẳng định trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài viết “Ai mạnh hơn?”, đăng trên Báo Nhân dân, số 1368, ra ngày 07 tháng 12 năm 1957.

 Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kẻ thù lại thường xuyên chống phá, xuyên tạc làm cho một bộ phận nhân dân nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa xã hội, hoài nghi về tính hiện thực của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Lời khẳng định của Bác có ý nghĩa sâu sắc, góp phần quan trọng định hướng nhận thức, tư tưởng, xây dựng niềm tin cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Hiện nay, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản. Do vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người và theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.

Hơn 60 năm đã trôi qua, lời khẳng định của Bác vẫn giữ nguyên giá trị,  đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, trong hoàn cảnh mới, Đảng ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, được khẳng định trong Cương lĩnh và văn kiện các đại hội của Đảng, là xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Để góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cán bộ, chiến sĩ toàn quân phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhận thức sâu sắc đối tác và đối tượng của cách mạng, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ sẵn sàng chiến đấu, chất lượng huấn luyện, công tác, xây dựng nếp sống chính quy, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Sưu tầm

“Việc to cũng như việc nhỏ. Đảng và Chính phủ ta đều lo phục vụ lợi ích của nhân dân”

Lời căn dặn trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Cần phải nâng cao chất lượng hàng hóa”, bút danh “T.L”, đăng trên Báo Nhân dân, số 3176, ra ngày 05 tháng 12 năm 1962.

Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang đẩy mạnh thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1961-1965) nhằm không ngừng phát triển kinh tế - xã hội để trở thành hậu phương lớn chi viện cho chiến trường miền Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai ngụy quân, ngụy quyền giành thắng lợi, thống nhất đất nước.

Là người sáng sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, khai sinh ra Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc; Chính phủ là của dân, do dân và vì dân. Do vậy, Đảng và Chính phủ phải tôn chỉ mục đích duy nhất là giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc, giải phóng nhân dân khỏi mọi áp bức, bóc lột, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, phục vụ nhân dân từ việc to cho đến việc nhỏ. Lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo năng lực lãnh đạo của Đảng, điều hành của Chính phủ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ công khai mục đích hoạt động của Đảng ta, của Chính phủ ta trước quốc dân đồng bào và bạn bè quốc tế, thể hiện sâu sắc, đúng đắn tính giai cấp, tính tiền phong, trí tuệ, đạo đức và tính quần chúng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền tự Trung ương đến cơ sở. Đồng thời, đây còn là tư tưởng chỉ đạo để Đảng và Nhà nước ta luôn hành động đúng tôn chỉ, mục đích, gắn bó mật thiết với nhân dân, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp, nhân dân lao động và của dân tộc lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Thấm nhuần lời Bác dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp, mọi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tận trung với Đảng, với Tổ quốc, tận hiếu với nhân dân, không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân; ra sức phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... Cấp ủy, chỉ huy các cấp luôn thấm nhuần và thực hiện đúng điều Bác Hồ kính yêu đã căn dặn: Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt; với bộ đội, cán bộ các cấp luôn thân thiết như người chị, công bình như người anh, hiểu biết như người bạn, đồng cam, cộng khổ, chi ngọt, sẻ bùi với bộ đội trên tình thương yêu đồng chí, lúc thường cũng như lúc ra trận, thực hiện toàn quân một ý chí.

Sưu tầm

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội bằng công tác vận động, tuyên truyền

 

Quốc hội thông qua cử tri, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân, vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đặc biệt là vận động nhân dân thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ nhất, Đảng chú ý lắng nghe ý kiến, tiếng nói của mọi tầng lớp nhân dân. Để đổi mới hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng bằng công tác vận động, tuyên truyền, mỗi đảng viên tham gia Quốc hội phải ra sức rèn luyện đạo đức gắn với học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là về phát huy sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,... để có phương pháp đúng đắn, hiệu quả trong việc vận động, tập hợp quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị.

Thứ hai, đại biểu Quốc hội là cầu nối giữa cử tri và Quốc hội, lắng nghe tiếng nói của cử tri về những vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, tập hợp những ý kiến đó, chuyển tải đến Đảng; đồng thời, tập hợp, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Thứ ba, đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan, hội đồng, các ủy ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội có nhiệm vụ tham vấn minh bạch đối với nhu cầu, ý chí, nguyện vọng chính đáng của nhân dân về các chủ trương, đường lối và chính sách, đánh giá tác động của chính sách, pháp luật trong chương trình pháp luật, đánh giá thực hiện chính sách, tác động chính sách; từ đó, tham mưu với Đảng hoạch định “đúng” và “trúng”, kịp thời những vấn đề phát triển kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh trong bối cảnh mới.

Thứ tư, công tác dân nguyện không chỉ tham mưu thực hiện tốt công tác dân nguyện của Quốc hội, mà còn chủ động tiếp nhận, phân loại và xử lý đơn, thư của công dân, đi sâu phân tích, đánh giá kiến nghị cử tri, đôn đốc các cơ quan giải quyết kiến nghị của cử tri; từng bước khắc phục được tình trạng chuyển đơn, thư qua lại giữa các cơ quan của Quốc hội, thực hiện khẩn trương, hiệu quả hơn việc trả lời và thực hiện kiến nghị của cử tri. Chú trọng nắm bắt tâm tư, ý chí, nguyện vọng của nhân dân về các chủ trương, đường lối, chính sách, thông qua Ủy ban Thường vụ Quốc hội kịp thời chuyển tải đến các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Thứ năm, thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội cần phải ra sức học tập đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thực hiện “nói đi đôi với làm”, trở thành tấm gương sáng trong cơ quan và bên ngoài xã hội; từ đó, tạo uy tín, sức hút tự nhiên đối với các tầng lớp nhân dân trong xã hội.

HAIVAN

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội bằng công tác tổ chức cán bộ

 

Đại hội VI của Đảng đánh dấu sự đổi mới trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, trong đó có quan điểm đổi mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Báo cáo chính trị của Đại hội VI chỉ rõ: “Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nêu cao vị trí và vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho các cơ quan dân cử thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo Hiến pháp quy định. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật... Chấn chỉnh bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh, gọn, có đủ năng lực thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể”.

Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã đề cập thêm một nhiệm vụ quan trọng của Quốc hội là quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Nhiệm vụ đặt ra với Quốc hội là kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, đổi mới quy trình ban hành luật. Quốc hội cần làm tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.

Thời gian qua, Đảng đoàn Quốc hội đã thực hiện nhiều quy trình chặt chẽ nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng với Quốc hội và công tác tổ chức cán bộ của Quốc hội. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn những nhiệm kỳ vừa qua, cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội về công tác tổ chức cán bộ như sau:

Một là, trước mỗi kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội, Đảng đoàn Quốc hội xây dựng đề án công phu về các nội dung lớn của cuộc bầu cử, trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương cho ý kiến; đồng thời, triển khai nghiêm túc kết luận của Bộ Chính trị về đề án bầu cử. Tuy nhiên, Đảng không làm thay, cụ thể là không ấn định về cơ cấu đại biểu, không quy định cơ cấu “cứng” phân bổ cho cơ quan, tổ chức. Thời gian qua, hầu hết người giới thiệu ứng cử trong cơ cấu “cứng” là lãnh đạo cơ quan, tổ chức làm cho tỷ lệ đại biểu là nhà khoa học và các giới, các ngành chưa cao, dẫn đến việc tỷ lệ không nhỏ đại biểu Quốc hội “gánh nhiều cơ cấu”. Xu hướng tăng dần đại biểu Quốc hội chuyên trách từ khoảng 5 - 6% tổng số đại biểu Quốc hội đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX lên 25,1% ở Quốc hội khóa XI, khoảng 35 - 40% ở Quốc hội khóa XIII và tăng khoảng 5% ở mỗi nhiệm kỳ tiếp theo là tín hiệu tốt; bởi vì, việc tăng số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách sẽ giúp Quốc hội hoạt động hiệu quả, chất lượng hơn.

Hai là, đổi mới công tác cán bộ, lựa chọn người đủ đức, đủ tài tham gia vào Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nhân sự cấp chiến lược phải chịu trách nhiệm trước Đảng về thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, tức là gắn việc lựa chọn nhân sự cấp chiến lược với thực hiện chính sách; nói cách khác là tích hợp phương thức lãnh đạo bằng công tác cán bộ với phương thức lãnh đạo bằng chính sách. Nhân sự cơ cấu vào các ủy ban của Quốc hội như hiện nay về cơ bản là phù hợp, bảo đảm sự kết nối giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Dân tộc, các ủy ban, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, gồm có 3 cơ quan giúp việc về các lĩnh vực công tác đại biểu, dân nguyện, lập pháp. Đặc biệt, Ban Công tác đại biểu làm tốt công tác tham mưu, việc phục vụ bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân đi vào nền nếp; nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách.

Trong thời gian qua, Đảng đã lãnh đạo Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện tốt nhiệm vụ là cơ quan thường trực của Quốc hội, chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của các cơ quan của Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phân công Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội thẩm tra các dự án luật, nghị quyết và các báo cáo, dự án khác theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; thực hiện các nội dung thuộc chương trình giám sát của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Ba là, cần có cơ chế tăng cường vai trò, sự tham gia của Đảng đoàn Quốc hội và tổ chức đảng ở Thường trực Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội từ sớm, từ xa trong tham mưu với Đảng để quyết định chủ trương, đường lối, chính sách; có quy định về sự phối hợp giữa Đảng đoàn Quốc hội và cơ quan trình nội dung nghị quyết ra Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhằm tạo sự đồng thuận trong hoạt động của Quốc hội. Đề cao vai trò của Bí thư, Phó Bí thư Đảng đoàn Quốc hội và Đảng đoàn Quốc hội chịu trách nhiệm trước Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về kết quả hoạt động của Quốc hội, mở rộng thêm phạm vi đánh giá và cụ thể hóa bằng việc đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách mà Đảng đã hoạch định.

Bốn là, đổi mới phương thức lãnh đạo qua các tổ chức đảng trong Quốc hội, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội đồng Dân tộc và 9 ủy ban (từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII) thông qua các tổ chức đảng tại đây. Hội đồng Dân tộc và các ủy ban có thường trực, gồm chủ tịch/chủ nhiệm, phó chủ tịch/phó chủ nhiệm và ủy viên hoạt động chuyên trách. Cần sớm hoàn thiện tổ chức đảng trong Quốc hội để gắn kết, quản lý chặt chẽ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội, cơ quan của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; quy định rõ vai trò của tổ chức đảng ở Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội trong lãnh đạo cơ quan tương ứng của Quốc hội; có mô hình tổ chức đảng đặc thù trong Quốc hội khi tăng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách.

Năm là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Đoàn đại biểu Quốc hội, tập trung vào các đại biểu Quốc hội chuyên trách, giúp Đoàn đại biểu Quốc hội phát huy được vai trò là cầu nối giữa đại biểu và công dân cử tri, cung cấp thêm nhiều thông tin, dữ liệu minh bạch hơn cho hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, giúp đại biểu Quốc hội thực hiện tốt nhiệm vụ.

Sáu là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng qua tìm kiếm, lựa chọn nhân tài là nhân sự cấp chiến lược vào bộ phận hỗ trợ, tham mưu cho Quốc hội, điển hình như vị trí Tổng Thư ký Quốc hội và tăng cường kỷ cương hành chính, mục tiêu cải cách hành chính đối với Văn phòng Quốc hội.

HAIVAN

“Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân.”

Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài Ba mươi năm hoạt động của Đảng: “…Các tầng lớp tiểu tư sản tuy là sôi nổi, nhưng tư tưởng bế tắc, không có đường ra. Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”, đăng trên Báo Nhân dân, số 2120, ngày 6-1-1960. Bài báo ra đời trong thời điểm Đảng ta tròn 30 tuổi, đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đẩy nhanh hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học lớn tổng kết lịch sử, khẳng định Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng tỏ rõ là lực lượng đại biểu cho trí tuệ, ý chí của giai cấp công nhân, nhân dân Việt Nam: dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam.

Lời của Người là nguồn ánh sáng chiếu rọi khắp mọi miền đất nước, được mọi cán bộ, đảng viên của Đảng trân trọng đón nhận, tạo động lực tinh thần thi đua học tập nâng cao bản lĩnh cách mạng, kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nêu cao chủ nghĩa yêu nước, gắn bó đoàn kết cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Quân đội nhân dân Việt Nam thường xuyên được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện; không ngừng củng cố tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao bản lĩnh chính trị, phát huy truyền thống dân tộc, gắn bó mấu thịt với nhân dân, anh dũng, kiên cường, chiến đấu sáng tạo, cùng toàn dân đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.

Trong tình hình mới, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn thấm nhuần lời Bác năm xưa, thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong Quân đội, giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, bảo đảm cho Quân đội thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, công cụ bạo lực sắc bén, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng.

Sưu tầm

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội bằng các chủ trương, đường lối, chính sách lớn

 

Trong thời gian qua, Quốc hội đã làm tốt nhiệm vụ thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành luật và nghị quyết của Quốc hội. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định nội dung thẩm tra bắt buộc về sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương của Đảng. Đảng đoàn Quốc hội đã phát huy vai trò tích cực, chủ động trong việc lãnh đạo, chỉ đạo đối với các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Các chủ trương, chính sách lớn, phức tạp đều được kịp thời báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị, Ban Bí thư để có phương án giải quyết phù hợp, hiệu quả. Đảng đoàn Quốc hội luôn thực hiện nghiêm túc việc xin ý kiến của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư những định hướng lớn về nội dung các hoạt động của Quốc hội, những vấn đề chủ yếu của một số dự án luật, pháp lệnh quan trọng, có tác động và ảnh hưởng đến tình hình chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, xã hội và đời sống nhân dân.

Quốc hội kịp thời phản ánh với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư những ý kiến, kiến nghị của nhân dân về xây dựng đất nước nhằm góp phần vào việc định hướng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, hoạt động của Đảng đoàn Quốc hội đã có nhiều đổi mới trong việc xin ý kiến Bộ Chính trị. Các nội dung báo cáo xin ý kiến được phân thành nhóm vấn đề, để vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, vừa phát huy dân chủ trong thảo luận của Quốc hội, bao gồm vấn đề cần xin ý kiến chỉ đạo cụ thể, vấn đề báo cáo để Bộ Chính trị nắm thông tin và xin được trình Quốc hội xem xét, thảo luận.

Kế thừa những kết quả trong thời gian qua, trong giai đoạn tiếp theo cần đẩy mạnh đổi mới phương thức lãnh đạo bằng các chủ trương, đường lối, chính sách, cụ thể như sau:

Thứ nhất, tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối chính trị để giúp Đảng lãnh đạo Nhà nước toàn diện, trong đó có lãnh đạo Quốc hội. Với vai trò của mình, Quốc hội có nhiệm vụ thực hiện đường lối chính trị được tuyên ngôn trong Cương lĩnh và những chủ trương lớn của Đảng. Đường lối chính trị được xác định cụ thể trong văn kiện các kỳ đại hội Đảng và cụ thể hóa tại các hội nghị Trung ương bằng các nghị quyết chuyên đề xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chính sách xuất phát từ yêu cầu thực tiễn.

Thứ hai, nâng cao chất lượng thảo luận về các vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, môi trường, quốc phòng - an ninh, ban hành kịp thời nghị quyết; trong đó, xác định rõ các mục tiêu, gợi ý giải pháp và công cụ chính sách phù hợp để Nhà nước thực hiện. Một mặt, Quốc hội là một thành tố trong hệ thống chính trị, có nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu chính sách này; mặt khác, là cơ quan thực hiện quyền lập pháp và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và Nghị quyết của Quốc hội.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội bằng các chủ trương, đường lối, chính sách bảo đảm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, ổn định, công khai, minh bạch, có sức cạnh tranh quốc tế theo yêu cầu, định hướng của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045. Đổi mới phương thức lãnh đạo gắn liền với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để thực hiện các mục tiêu chính sách trong các lĩnh vực, ngành trên cơ sở chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đã được hoạch định.

Đổi mới phương thức lãnh đạo bằng các chủ trương, đường lối, chính sách bảo đảm Đảng không làm thay Nhà nước, trong đó có Quốc hội, trong việc tổ chức thực hiện chính sách trên tất cả các mặt, các lĩnh vực đời sống xã hội; đồng thời, trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách lớn, Đảng lãnh đạo Nhà nước, trong đó có Quốc hội, tiếp tục hoàn thiện các chính sách cụ thể và thực hiện chính sách, đánh giá chính sách qua các chức năng của Quốc hội, như ban hành các nghị quyết, chương trình pháp luật, quyết định những vấn đề quan trọng, giám sát tối cao... Các mục tiêu chính sách cần được đo lường cụ thể bằng các chỉ số, các tiêu chí định lượng để thuận lợi cho việc thực hiện, giám sát đánh giá.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Quốc hội thực hiện chính sách bằng chương trình pháp luật (thông qua các luật) và chương trình giám sát, thực hiện chính sách thông qua các quyết định quan trọng; trong đó, quá trình thực hiện ngân sách Quốc hội cũng là việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, từ việc phân bổ ngân sách, quyết toán ngân sách. Do đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, qua các hoạt động của Quốc hội đều gắn với việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách mà Đảng với tư cách là thành tố cốt lõi lãnh đạo hệ thống chính trị đã hoạch định và xây dựng. Như vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng gắn liền với đổi mới hoạt động của Quốc hội, tạo thành xung lực lớn thúc đẩy quản trị quốc gia hiệu quả, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

Thời gian qua, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, như giảm nghèo, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển bền vững, phòng, chống tham nhũng, ứng phó với biến đổi khí hậu, tự chủ và xã hội hóa cung ứng dịch vụ công, giáo dục - y tế, phòng, chống đại dịch COVID-19,... đều gắn với chương trình pháp luật và quyết định những vấn đề quan trọng, như quyết định ngân sách, quyết định đầu tư công phục hồi kinh tế - xã hội sau đại dịch COVID-19. Yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, bảo đảm tiến độ ban hành luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo lập khung khổ pháp lý để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, định hướng đến năm 2045.

Thứ ba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn liền trách nhiệm kiểm tra, giám sát đánh giá việc thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách. Nhà nước, trong đó có Quốc hội, thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách thông qua chương trình pháp luật, thông qua các luật, bảo đảm hiệu lực các luật và hệ thống pháp luật, sự tuân thủ pháp luật thông qua hoạt động giám sát, căn cứ vào các mục tiêu chính sách của từng lĩnh vực, từng ngành với các chỉ tiêu, tiêu chí cụ thể.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng Đảng kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện các chính sách, tác động chính sách (sau thực hiện), thông qua sơ kết, tổng kết các nghị quyết được ban hành vào giữa nhiệm kỳ hoặc kết thúc nhiệm kỳ của Nhà nước, Quốc hội, để bảo đảm việc kiểm tra, giám sát đánh giá kết quả thực hiện, tác động của các chủ trương, chính sách một cách đầy đủ nhất.   

Thứ tư, nâng cao chất lượng hoạch định chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm tăng cường chất lượng phân tích chính sách, tham vấn chính sách, bảo đảm các mục tiêu chính sách phù hợp, đồng thuận đối với Nhà nước, nhất là Quốc hội với cộng đồng xã hội. Mấu chốt của việc đổi mới ở đây là, trên cơ sở đường lối chính trị thể hiện trong Cương lĩnh, các nghị quyết được ban hành “đúng” và “trúng”, nhất là các nghị quyết chuyên đề, tạo sự đồng thuận trong cả hệ thống chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho Quốc hội tổ chức thực hiện. 

Thứ năm, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để tạo sự chủ động, sáng tạo trong hoạt động của Quốc hội, nhất là hoạt động lập pháp đối với một số chủ trương, đường lối, chính sách mà Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị quyết định khung để Quốc hội thảo luận, quyết định cụ thể trong phạm vi chủ trương của Đảng; đồng thời, giúp Bộ Chính trị kịp thời điều chỉnh các nội dung chỉ đạo của Đảng đối với vấn đề quan trọng, mà qua thảo luận tại Quốc hội còn có ý kiến khác nhau. Với từng nhiệm kỳ Quốc hội, Đảng có định hướng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cho cả nhiệm kỳ.

HAIVAN

Quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội

 

Quan điểm, nguyên tắc:

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo Cương lĩnh và các quan điểm, chủ trương của Đảng về tổ chức, hoạt động của Quốc hội; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà Hiến pháp, pháp luật quy định.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần đi đôi với đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và đặt trong tổng thể yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị theo phương châm thực hiện từng bước, có lộ trình hợp lý, phù hợp.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng tuân thủ nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đổi mới trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới phù hợp với đặc điểm, điều kiện thực tiễn của Việt Nam và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng; bảo đảm phát triển bền vững trong tương lai.

Mục tiêu:

Mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là nhằm xây dựng Quốc hội vì nhân dân, thực sự đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, phát huy dân chủ, pháp quyền, khoa học, tăng tính chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045; cụ thể là:

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để thực hiện hiệu quả hơn nữa chức năng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, vừa bảo đảm phát huy vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, vừa bảo đảm dân chủ trong hoạt động của Quốc hội. Tăng tính chuyên nghiệp, phát huy dân chủ, tính pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong khuôn khổ Hiến pháp; xác định rõ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội theo hướng rành mạch, chủ động, trách nhiệm, chuyên sâu, chuyên nghiệp, tăng tính nghiên cứu khoa học, nhạy bén, bao quát được hiệu lực hoạt động, đề xuất được sáng kiến nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội. Chất lượng hoạt động lập pháp được nâng cao, đổi mới quy trình, đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thực chất hơn; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát. Tăng tính công khai, minh bạch, bảo đảm thực hiện chức năng đại diện của nhân dân; đổi mới hình thức hoạt động của Quốc hội; xây dựng Quốc hội điện tử. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực và cơ chế bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm các nguyên tắc pháp quyền trong hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện bộ máy giúp việc khoa học, chủ động, chuyên nghiệp, chuyên sâu.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm xây dựng Quốc hội khoa học, hiện đại, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch, dân chủ, hướng tới hoạt động thường xuyên, thực sự vì nhân dân, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; thực hiện đầy đủ, chuyên nghiệp chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước; hoàn thiện công tác tổ chức bộ máy và nhân sự cấp cao của các cơ quan nhà nước, hiến định vị trí, vai trò của Hội đồng bầu cử quốc gia, của cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Phát huy vị trí, vai trò trung tâm của đại biểu Quốc hội; xây dựng hệ thống pháp luật khoa học, đồng bộ, thống nhất, ổn định, khả thi, công khai, minh bạch, thúc đẩy sáng tạo, bền vững, ứng phó kịp thời trước những chuyển biến nhanh của thực tiễn và hội nhập quốc tế sâu rộng, bảo đảm giữ vững quốc phòng - an ninh trong điều kiện mới.

HAIVAN

Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội

 

Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương pháp, cách thức, quy chế, quy định, quy trình, phong cách, lề lối làm việc mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo, nhằm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối, các nghị quyết của Đảng, để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ phương thức lãnh đạo của Đảng, tập trung vào các nội dung chính là: Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ; Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội được triển khai, tổ chức nghiên cứu trên cơ sở các nội dung nêu trên. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đồng thời các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Thông qua luật và nghị quyết, Quốc hội thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Đại hội XIII của Đảng xác định nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị... Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao”.

Đại hội XIII của Đảng đề ra yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, đặt trong tổng thể nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện Chương trình công tác toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Hội nghị Trung ương 6 đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” và Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17-11-2022, “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới”, trong đó đề ra các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong sự đổi mới tổng thể tổ chức bộ máy nhà nước.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định trong việc định hướng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Thực tiễn những năm qua cho thấy, vai trò lãnh đạo của Đảng với Quốc hội trong thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng ngày càng rõ ràng, hạn chế sự chồng lấn, bao biện, làm thay. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội thể hiện ở việc xác định đúng vai trò, vị trí của Quốc hội, đề ra định hướng cơ bản, phát huy dân chủ, tăng cường vai trò chủ động, sáng tạo và tạo điều kiện thuận lợi để Quốc hội hoàn thành tốt nhiệm vụ.

HAIVAN

Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước để tăng cường kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh

 

Để phát huy những tác động tích cực, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của phát triển KTTT đối với quốc phòng, an ninh, kết hợp hài hòa và bảo đảm thực hiện thành công hai mục tiêu chiến lược xây dựng đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, cần có một hệ thống các quan điểm, giải pháp đồng bộ. Trong đó, giải pháp đặc biệt quan trọng là hoàn thiện công tác quản lý nhà nước.

Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với nền KTTT, đáp ứng yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, cần xuất phát từ quan điểm chủ đạo của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trong Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị và được hoàn thiện qua các kỳ đại hội Đảng, nhất là Đại hội XIII của Đảng.

Đồng thời, cần quán triệt một số quan điểm sau:

Một là, Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và các văn kiện đại hội Đảng nêu bật nguyên tắc: Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh. Đây là nguyên tắc cơ bản, quy định chức năng lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, từ việc xây dựng, hoạch định đ­ường lối, chủ trương chiến lược về quốc phòng, an ninh đến tổ chức thực hiện.

Hai là, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia có mối quan hệ biện chứng, tác động, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Đây là quan điểm xuyên suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhất là trong bối cảnh, tình hình mới. Đảng ta tiếp tục khẳng định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Trong đó, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh để tạo môi trường, tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; ngược lại, mỗi thành quả của nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ tạo điều kiện vững chắc cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước.

Ba là, hệ thống pháp luật, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh phải đồng bộ, hiệu quả. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật. Vì vậy, Nhà nước cần phải có một hệ thống pháp luật, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và pháp luật, chính sách về quốc phòng, an ninh đồng bộ; được tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống.

Bốn là, thực hiện nhất quán chính sách quốc phòng, an ninh mang tính chất hòa bình, tự vệ. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình. Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng vũ trang và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân.

Trên cơ sở quán triệt quan điểm chủ đạo và các quan điểm nêu trên, trong thời gian tới, để tăng cường kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, hoàn thiện công tác quản lý nhà nước cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nền kinh tế, ngành, địa phương gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh một cách phù hợp. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Xử lý kỷ luật nghiêm cán bộ, công chức vi phạm, không hoàn thành nhiệm vụ trong tham mưu, hoạch định chính sách phát triển kinh tế làm nguy hại đến tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước.

Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật về KTTT, bảo đảm kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng có liên quan đến kết hợp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đều phải được thể chế hoá thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật một cách đồng bộ, thống nhất để quản lý và tổ chức thực hiện hiệu lực, hiệu quả trong cả nước. Cơ chế, chính sách bảo đảm kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh cần được xây dựng theo quan điểm quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Việc phân bổ ngân sách đầu tư cho kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh theo hướng tập trung cho những mục tiêu chủ yếu, những công trình có tính lưỡng dụng cao đáp ứng cả cho phát triển kinh tế  - xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh, cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư có các đề tài khoa học, các dự án công nghệ có ý nghĩa lưỡng dụng cao, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ ba, hoàn thiện chiến lược tổng thể kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới. Muốn kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong suốt quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước một cách cơ bản và thống nhất trên phạm vi cả nước và từng địa phương, phải tiếp tục hoàn thiện chiến lược tổng thể quốc gia, các quy hoạch và kế hoạch về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Đây cần được coi là một trong những căn cứ quan trọng hàng đầu để lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động quản lý nhà nước hiệu lực, hiệu quả. Trong hoàn thiện chiến lược tổng thể, quy hoạch, kế hoạch về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong thời kỳ mới, phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương từ khâu khảo sát, đánh giá các nguồn lực (cả bên trong và bên ngoài), trên cơ sở đó, xác định mục tiêu, phương hướng phát triển và đề ra các giải pháp chính sách, như: Chính sách khai thác các nguồn lực; chính sách đầu tư và phân bổ đầu tư; chính sách điều động nhân lực, bố trí dân cư; chính sách ưu đãi khoa học và công nghệ lưỡng dụng.

Thứ tư, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền các cấp trong kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh. Trước hết, mỗi ngành, mỗi cấp phải làm đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và Nghị định số 119/2004/NĐ-CP của Chính phủ; đồng thời, nghiên cứu xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định này cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện mới (sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ; sự xuất hiện của các vấn đề quốc phòng, an ninh phi truyền thống). Xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt các quy hoạch, kế hoạch kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ở ngành, địa phương, cơ sở. Đổi mới phương pháp quản lý, điều hành của chính quyền các cấp từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch đến công tác nắm tình hình, thu thập xử lý thông tin, định hướng hoạt động, tổ chức hướng dẫn và thanh tra, kiểm tra ở mọi khâu, mọi bước của quá trình thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị, xã hội.

Thứ năm, đổi mới, nâng cao chất lượng bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh cho công chức, đặc biệt là công chức lãnh đạo quản lý các cấp. Căn cứ vào đối tượng bồi dưỡng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để chọn lựa nội dung, chương trình bồi dưỡng cho phù hợp và thiết thực nhằm nâng cao cả kiến thức, kinh nghiệm và năng lực thực tiễn sát với cương vị đảm nhiệm với từng loại đối tượng cán bộ. Kết hợp bồi dưỡng kiến thức lý luận với thực hành thông qua các cuộc diễn tập thực nghiệm, thực tế ở các bộ, ngành, địa phương, cơ sở để nâng cao hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ và của toàn dân, toàn quân về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.

Thứ sáu, củng cố, kiện toàn và phát huy vai trò tham mưu của cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh các cấp. Cần nghiên cứu, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh nói chung và về kết hợp phát triển kinh tế gắn với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh nói riêng. Kết hợp giữa chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức với chăm lo bồi dưỡng, nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ chuyên trách làm công tác tham mưu về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

HAIVAN

Thực trạng quản lý nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh

 

Từ yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, thời gian qua, công tác quản lý nhà nước đạt được những kết quả khá toàn diện.

Trong xây dựng thể chế, Nhà nước đã ban hành hệ thống thể chế phát triển KTTT, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để giải phóng năng lực sản xuất trong xã hội, khai thác tiềm năng đất nước đi đôi với thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài, giúp nền kinh tế có những chuyển biến hết sức to lớn. Tăng trưởng GDP trung bình hằng năm của nước ta giai đoạn 2016 - 2019 đạt trên dưới 7%, mức cao trên thế giới. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng được phát triển. Đây là những điều kiện thuận lợi để Đảng, Nhà nước đầu tư toàn diện cho lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt, từ phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại đến con người nhằm củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước.

Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội và bộ máy quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh ở Trung ương và địa phương được kiện toàn với các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm đối với công tác quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Quốc phòng và Luật An ninh quốc gia, trong đó, xác định rõ nhiệm vụ: Tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước về quốc phòng trong thời bình và thời chiến theo nhiệm vụ được giao; thực hiện việc kết hợp chặt chẽ quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng trong xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch của bộ, ngành, lĩnh vực được giao phụ trách; bảo vệ an ninh trong các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia.

Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trung và dài hạn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội luôn được nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện trong mối quan hệ với chiến lược quốc phòng, an ninh. Đây là bước tiến quan trọng, thể chế hóa một cách đồng bộ các quan điểm của Đảng, nhất là những tư duy, quan điểm mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc bằng các văn bản quy phạm pháp luật - cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đồng thời, cũng là căn cứ để chỉ đạo các cấp, các ngành, các lực lượng và địa phương triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Trong hoàn thiện các chính sách phân phối thu nhập, lĩnh vực văn hóa - xã hội, Nhà nước chủ động giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; hạn chế một phần sự phân hóa giàu nghèo cũng như khoảng cách về mức sống và cơ hội phát triển giữa các vùng, miền, các dân tộc, giữa nông thôn và thành thị. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và gia đình họ được đặc biệt quan tâm để cán bộ, chiến sĩ yên tâm phục vụ và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Cơ chế, chính sách phát triển khoa học - công nghệ và môi trường không chỉ nhằm nâng cao trình độ công nghệ, cải thiện năng suất lao động mà còn ưu tiên cho các mục tiêu hiện đại hóa nhanh chóng lực lượng quân đội và công an, đặc biệt là trình độ phòng vệ quốc gia trước các nguy cơ an ninh truyền thống và phi truyền thống (chiến tranh mạng, vũ khí sinh học, hóa học, ô nhiễm môi trường...).

Trong triển khai các chính sách hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước chủ động đưa nền KTTT mà Việt Nam xây dựng trở thành một bộ phận hữu cơ của nền KTTT thế giới, “kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại”, “hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới”, tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực chung của thế giới để phát triển. Các chính sách hội nhập quốc tế, mở rộng thị trường để, một mặt, phát triển nhanh và bền vững kinh tế của đất nước; mặt khác, tạo sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cường gắn bó lợi ích kinh tế, quan hệ ngoại giao hữu nghị giữa nước ta với các nước trên thế giới, góp phần hình thành trật tự thế giới mới theo xu hướng bảo đảm an ninh, hòa bình chung cho phát triển, bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, trên cơ sở quan hệ hợp tác về đầu tư và thương mại, có chính sách lựa chọn các đối tác hợp tác về quốc phòng, an ninh để tăng cường vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ quốc phòng, an ninh hiện đại và đào tạo nhân lực, phục vụ hiện đại hóa các lực lượng vũ trang.

Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trong chiến lược phát triển kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch định mục tiêu phát triển quốc gia, trong huy động nguồn lực, trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp chiến lược. Tuy nhiên, một số chính sách vẫn chưa xác định cụ thể các giải pháp để tổ chức thực hiện. Vì vậy, một số quy hoạch, kế hoạch, dự án kinh tế, một số khu kinh tế, khu công nghiệp được bố trí ở các địa bàn không bảo đảm yêu cầu của chiến lược quốc phòng, an ninh. Mặt khác, khi xây dựng các quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế, các cơ quan ở Trung ương và địa phương dành sự quan tâm chủ yếu đến phương diện lợi ích kinh tế, chưa xem xét đầy đủ tác động của các dự án đó đến vấn đề bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Nguyên nhân của hạn chế này xuất phát từ việc cán bộ, công chức một số cơ quan Trung ương và địa phương chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc kết hợp nhiệm vụ phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh; không nắm vững các yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh trong xây dựng một số dự án đầu tư. Còn các cơ quan có trách nhiệm phối hợp thẩm tra, thẩm định các dự án đầu tư do thiếu trách nhiệm, không đủ năng lực, hoặc do cả hai nguyên nhân trên, không phát hiện được những nguy cơ tiềm ẩn trong các dự án đầu tư đó đối với quốc phòng, an ninh. Không loại trừ khả năng, vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, hoặc bị mua chuộc, mà cơ quan hoặc công chức chủ trì xây dựng, thẩm định dự án, công chức có thẩm quyền phê duyệt, tổ chức thực hiện dự án đã cố tình bỏ qua các nguy cơ tác động tiêu cực của dự án đối với quốc phòng, an ninh đất nước.

Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc xây dựng thể chế, chính sách, các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngành, lĩnh vực gắn với quốc phòng, an ninh chưa chặt chẽ. Cơ quan quản lý nhà nước ở nhiều địa phương chỉ tập trung nỗ lực để kinh tế địa phương tăng trưởng, tăng nguồn thu mà chưa thật sự chú trọng đến vấn đề quốc phòng, an ninh.

HAIVAN

Kinh tế thị trường đối với quốc phòng, an ninh

 

Quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN có tác động hai mặt đến việc củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước. Về tác động tích cực:

Thứ nhất, tiềm lực quốc phòng, an ninh của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển kinh tế của quốc gia đó. Kinh tế phát triển tạo nền tảng vật chất, kỹ thuật, công nghệ và nhân lực cho quốc phòng, an ninh. Khi kinh tế phát triển, nguồn vốn tích lũy, nguồn thu ngân sách không ngừng được tăng lên chính là điều kiện để phát triển đất nước về mọi mặt. Từ đó, góp phần củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Kinh tế phát triển gắn với đổi mới kỹ thuật, công nghệ là cơ sở để đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong công nghiệp quốc phòng, sản xuất ra các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật phục vụ quốc phòng, an ninh. Kinh tế phát triển cũng là cơ sở để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tăng cường cho các lực lượng vũ trang.

Thứ hai, phát triển KTTT góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, từ đó củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường ổn định xã hội và tiềm lực quốc phòng, an ninh. Khi cuộc sống về mọi mặt của người dân được nâng cao, tiến bộ, công bằng, dân chủ được tăng cường thì người dân, các lực lượng xã hội yên tâm, tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vững vàng trước sự lôi kéo, xúi bẩy, kích động của các thế lực thù địch. Cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có cơ hội phát triển toàn diện của nhân dân là nền tảng chính trị vững chắc để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh.

Thứ ba, KTTT phát triển khơi thông các tiềm lực kinh tế, tác động đến việc tăng cường sức mạnh của lực lượng quân đội và công an cả về vật chất và tinh thần. Về vật chất, kinh tế phát triển, đời sống của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và gia đình họ sẽ được cải thiện và nâng cao, là cơ sở để nâng cao năng lực thể chất và trí tuệ mọi mặt của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Về tinh thần, kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân, trong đó có gia đình cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang được cải thiện, giúp cán bộ, chiến sĩ yên tâm phục vụ quân đội, công an; đồng thời, tạo cơ hội để họ tập trung vào công tác huấn luyện, rèn luyện, học tập nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, đủ kiến thức và kỹ năng làm chủ các phương tiện, vũ khí, khí tài hiện đại, nâng cao sự sẵn sàng, khả năng chiến đấu và chiến thắng.

Thứ tư, KTTT gắn với việc mở cửa, hội nhập quốc tế thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước thông qua phát huy các lợi thế, tạo tiền đề vật chất cho tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Đồng thời, mở cửa, hội nhập quốc tế tạo sự hiểu biết, sự gắn kết và ràng buộc lẫn nhau về lợi ích kinh tế, đầu tư, thương mại, hạn chế nguy cơ chiến tranh. Bên cạnh đó, xu hướng hội nhập quốc tế đặt ra khả năng và yêu cầu khách quan liên kết các quốc gia trong các thể chế khu vực và toàn cầu. Chủ động hội nhập quốc tế theo yêu cầu phát triển của KTTT, sự tham gia có trách nhiệm vào hoạt động của các tổ chức quốc tế, bên cạnh mở rộng quan hệ kinh tế và ngoại giao song phương, còn góp phần củng cố thế và lực của đất nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sự phát triển KTTT cũng có những tác động tiêu cực đến tiềm lực quốc phòng, an ninh đất nước, cụ thể:

Một là, phát triển KTTT dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội. Đây là một tất yếu do có sự hoạt động và phát huy tác dụng của các quy luật kinh tế khách quan. Sự phân hóa giàu nghèo làm phát sinh những biểu hiện tiêu cực, bất mãn - cơ hội, điều kiện để các thế lực thù địch, tội phạm có thể lợi dụng để dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc, kích động người dân gây tình huống phức tạp về an ninh, trật tự xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm ảnh hưởng xấu tới việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.

Hai là, phát triển KTTT tác động đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Kinh tế thị trường tạo điều kiện cho mọi cá nhân trong xã hội làm giàu hợp pháp và đang có nhiều người, bằng tài năng, sức lực và nguồn lực của mình trở nên giàu có. Nhưng cũng có không ít cá nhân làm giàu bất chính và một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng vị trí công tác có hành vi tham nhũng, nhận hối lộ, có nhiều tài sản bất hợp pháp. Điều này tác động đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý, đạo đức của mỗi con người trong đó có cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, đặc biệt là đối với những người có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Ba là, đầu tư và thương mại quốc tế bên cạnh những kết quả tích cực mang lại cho nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực tới lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Thông qua con đường hợp tác đầu tư, thương mại, các thế lực thù địch, phản động có thể lợi dụng để thâm nhập vào trong nước, móc nối với các nhân vật bất mãn, phản động, tổ chức các hoạt động chống phá. Cũng thông qua hoạt động đầu tư, thương mại, các thế lực thù địch tìm cách mua chuộc, khống chế cán bộ, công chức trong các cơ quan trọng yếu của Đảng và Nhà nước để cung cấp cho chúng các thông tin liên quan đến quốc phòng, an ninh, phục vụ âm mưu phá hoại, lật đổ. Thông qua đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa, nghệ thuật... để truyền bá tư tưởng, văn hóa độc hại, thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình.

HAIVAN