Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Cuộc xâm lăng tĩnh lặng - Bài 1: “Vũ khí văn hóa”.

 Một cuộc xâm lăng âm thầm, có vẻ tĩnh lặng đang diễn ra nhanh chóng, quyết liệt trên lĩnh vực văn hóa. Nhiều quốc gia “giật mình” bởi sức tàn phá từ các loại “vũ khí văn hóa” đối với an ninh quốc gia, tương lai dân tộc.

Trong bối cảnh hiện nay, câu tuyên ngôn bất hủ của đại văn hào Nga M. Gorki: “Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi: Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy!” chưa mất tính thời sự, là lời cảnh tỉnh, nhắc nhở mỗi quốc gia trước mối họa “xâm lăng văn hóa”.

Cảnh báo về nguy cơ xâm lăng văn hóa, nhà sử học người Israel-Yuval Noah Harari cho rằng, các sản phẩm văn hóa thông qua nhiều con đường khác nhau, nhất là internet, mạng xã hội, đang “là một vùng đất tự do và vô luật làm xói mòn chủ quyền quốc gia, phớt lờ các biên giới, phá hủy quyền riêng tư và đem lại mối đe dọa an ninh toàn cầu có thể nói là đáng sợ nhất”. Các sản phẩm văn hóa một khi trở thành vũ khí trong tay các thế lực muốn xâm lăng thì sự nguy hiểm tăng lên gấp bội.

Lấy văn hóa nước khác để tự đồng hóa mình

Trong kỷ nguyên số, khi sự giao lưu và trao đổi văn hóa trong xu thế toàn cầu hóa kéo theo sự giao thoa, trao đổi, tương tác rất mạnh, văn hóa được xem là vũ khí hữu hiệu khi nó trở thành công cụ, vũ khí mềm, là “củ cà rốt” mà những nước lớn, các thế lực thù địch sử dụng để tiến hành cuộc xâm lăng mềm, xâm lăng bằng văn hóa, nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”. Với mục tiêu đạt tới là đồng hóa văn hóa, tiến tới nô dịch văn hóa và bước cuối cùng là thay đổi văn hóa, suy nghĩ, hành động tại các nước đối tượng mà họ hướng tới.

Nhiều bạn trẻ cho rằng, làm gì có cuộc xâm lăng văn hóa nào, làm gì có chuyện giới trẻ bị đồng hóa văn hóa. Chúng tôi giải trí với trò chơi, phim ảnh, sách báo, mạng xã hội của nước ngoài đều đã được cấp phép; chúng tôi ăn uống các loại bánh trái, hoa quả, thực phẩm của nước ngoài cũng đều được sự cho phép của cơ quan chức năng; quần áo, kiểu tóc của chúng tôi, muốn học theo ai là do sở thích cá nhân... Chúng tôi theo chân các thần tượng nước ngoài là tôi muốn học hỏi để được thành công như họ...

Giải thích về “lý sự” của một số bạn trẻ đang mang suy nghĩ trên, TS Nguyễn Ánh Hồng, nguyên Trưởng khoa Văn hóa và Phát triển, Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho biết: Các bạn trẻ Việt Nam đang sống trong thời đại công nghệ số với tâm lý thích khám phá, thích thể hiện cái tôi cá nhân của mình, thích cái mới và thích sự thay đổi, nhưng lại chưa có đủ độ chín chắn, chưa đủ trải nghiệm, chưa đủ bản lĩnh để có thể phân biệt được đâu là những giá trị tích cực, đâu là giá trị tiêu cực từ bên ngoài đưa vào Việt Nam. Thế nên, một cách vô thức bị tác động, ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa ngoại lai. Các thế lực thù địch đã triệt để khai thác tác động tiêu cực của mạng xã hội, sử dụng nó trở thành một phương tiện thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. 

Thử hỏi, với một quốc gia hơn 100 triệu dân, nếu ai cũng sùng ngoại, sính ngoại như vậy, cũng hành xử như vậy, quốc gia ấy có phải bản sao của một nước khác không? Trong khi tại chính các nước phương Tây, như Mỹ đã đưa ra cảnh báo đỏ sẽ cấm hoạt động đối với mạng xã hội TikTok do nghi ngại vấn đề an ninh quốc gia. Ở Pháp cũng cấm trẻ em dưới 16 tuổi không được tiếp cận mạng xã hội. Một số nước khác thì ban hành những quy định nghiêm khắc đối với việc sử dụng mạng xã hội nếu vi phạm, truyền tải nội dung thông tin không đúng đắn, truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, xúc phạm tôn giáo chính thống, kêu gọi biểu tình, lập hội nhóm bất hợp pháp, trò chơi bạo lực; xuyên tạc lịch sử thông qua các sản phẩm phim ảnh, văn học, sách giáo dục...

Ngẫm lại ở ta, đi đâu cũng gặp cảnh từ anh bán cơm tới chị bán hàng, từ nhà chờ xe buýt cho tới góc khuất một công sở... tay cầm điện thoại mà trên loa phát ra tràn ngập các phim ngắn về tổng tài, kiều nữ, anh hùng; các đoạn video, bài viết dạy dỗ, hướng dẫn “nuôi con kiểu Nhật”, “dạy con theo cách của người Do Thái”, “phong cách thời trang Hàn Quốc”, “truyện tranh Nhật Bản”... hình ảnh khoe tiền, khoe của, ăn uống vô độ, ứng xử bất kính... Rồi cứ đến dịp các ngày lễ của nước ngoài, như Halloween-lễ hội hóa trang; Valentine-ngày lễ tình nhân, lễ Giáng sinh... thì các nam thanh nữ tú lại xúng xính váy áo cũn cỡn, lố lăng, phản cảm “check in”, chờ dịp để khoe mẽ lối sống ảo.

Trong lĩnh vực truyền thông, khán giả truyền hình và những người tham dự các sự kiện mấy năm gần đây, đặc biệt là trên các kênh truyền hình cấp tỉnh chỉ biết thở dài ngao ngán khi chứng kiến tên không ít chương trình giải trí cũng nửa tiếng Việt, nửa tiếng Anh, rồi diễn viên, người dẫn chương trình thì khoe mẽ trình độ ngoại ngữ “nửa Tây, nửa ta” khiến bao người ngao ngán... Thật buồn, khó chịu và cám cảnh, lo ngại cho sự quý giá của tiếng Việt và văn hóa dân tộc.

Sự lai căng đã tới mức phải báo động

Trong cuốn “Internet và sự tác động đến văn hóa Việt Nam”, TS Từ Thị Loan chỉ ra: Sự lai căng văn hóa đang có những tác động tiêu cực đến quan niệm về đạo đức, ý thức đạo đức. Tác động nổi bật nhất về vấn đề này là tư tưởng đề cao các giá trị vật chất trước các giá trị tinh thần, giá trị đạo đức. Những cảnh sống xa hoa, giàu sang trong các bộ phim và MV ca nhạc, những thông tin về cung cách tiêu xài khủng của các đại gia, phong cách ăn mặc sang chảnh của các “sao”, thói ăn chơi thời thượng, “chịu chơi” và “chịu chi” của những người nổi tiếng ở nước ngoài đã tác động không nhỏ đến nhận thức, tư tưởng của cộng đồng cư dân mạng, đặc biệt là giới trẻ. Từ đó hình thành ở họ tư tưởng coi trọng vật chất, coi nhẹ đạo đức, đề cao hình thức, biểu hiện bề ngoài mà không chú trọng đúng mức đến phẩm chất đạo đức, cái đẹp bên trong”.

TS Từ Thị Loan nhận định, những tác động tiêu cực của truyền thông mới cũng góp phần cổ xúy các hành vi vô văn hóa, phản đạo đức, vi phạm các chuẩn mực xã hội, như: Kích động dâm ô, đồi trụy, những biểu hiện suy đồi...

PGS, TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội thì nhận định: Tâm lý sùng ngoại, muốn chứng minh mình tiên phong trong xu hướng khiến giới trẻ Việt Nam tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách dễ dãi. Hơn nữa, sự phát triển và phổ biến các phương tiện truyền thông mới đã khiến cho hiện tượng lai căng văn hóa lan truyền nhanh chóng mà không bị kiểm soát, kích thích và thu hút sự tò mò của giới trẻ. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh cụ thể, một số bạn đã có những biểu hiện lệch lạc trong suy nghĩ, hành vi và lối sống. Việc bắt chước những trào lưu như thần tượng thái quá các ngôi sao; sử dụng ngôn ngữ nước ngoài vô tội vạ... đã gây ra những hậu quả hết sức tai hại, hình thành nên những nhận thức mới, thói quen mới, tạo ra những định hướng giá trị xa lạ với văn hóa truyền thống, có nguy cơ trở thành những bản sao của văn hóa nước ngoài. Điều đó khiến giới trẻ mất phương hướng trong việc xây dựng và hình thành nhân cách con người Việt Nam, không có sự tự tin để hội nhập quốc tế. Nguy hiểm hơn, lai căng văn hóa sẽ khiến văn hóa đất nước nói chung dễ bị phai nhạt, mất sức sống, ảnh hưởng đến sức mạnh chung của quốc gia.

Cuộc xâm lăng mềm xuyên biên giới, xuyên quốc gia

Phải khẳng định, trong thời đại số, mỗi một phút, một giờ lại có hàng vạn thông tin được chia sẻ thông qua mạng xã hội và các kênh giao tiếp văn hóa phi chính thức khác nhau, cho thấy mức độ nhập khẩu văn hóa không kiểm soát lớn như thế nào.

Không phải tự nhiên chỉ một thời gian ngắn mạng xã hội phát triển ở nước ta, không ít người giờ đây chỉ yêu thích các sản phẩm văn hóa từ nước ngoài, biến họ trở nên khác hẳn, sùng ngoại, “đặc sệt” phương Tây, với đặc trưng là thích quan tâm tới bản thân hơn là chia sẻ với cộng đồng; thích kiểu ăn mặc khác lạ, lối sống thực dụng chứ không thích lối sống gia đình theo nếp nhà truyền thống với các giá trị gia đình; tinh thần chia sẻ với xóm làng, cộng đồng. Nguy hại hơn, họ xa rời trách nhiệm với Tổ quốc, họ trốn tránh nghĩa vụ công dân, chỉ biết đòi hỏi quyền lợi, đòi hỏi tự do dân chủ một cách vô độ, tuyệt đối, muốn làm gì thì làm theo kiểu phương Tây.

Những biểu hiện nguy hiểm ấy đang bào mòn chất văn hóa Việt, khiến họ dần quên đi những giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc, quên đi mình là ai. Thật nguy hiểm khi hàng triệu người đang dùng mạng xã hội hay các sản phẩm văn hóa độc hại đang không nhận ra mình dần bị đồng hóa văn hóa theo “kế hoạch” đã được tính toán của các nước lớn; các nước phương Tây thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” và làn sóng xâm lăng văn hóa êm dịu, tĩnh lặng, bất bạo lực.

Không khó để nhận ra, “kế hoạch” của các thế lực này đã thành công một phần nào đó. Nhìn các sản phẩm văn hóa trên các trang mạng xã hội, hay một số trang điện tử, báo điện tử với nội dung đánh vào tâm lý người Việt trẻ, như scandal của văn nghệ sĩ; những cuộc đấu khẩu, chửi rủa, bạo lực; cuộc sống của các ca sĩ, ban nhạc nước ngoài, video clip bói toán, dạy nấu ăn, dạy làm giàu, dạy ứng xử mà cốt truyện, những nhân vật đều thuộc về một quốc gia khác... Tóm lại, từ việc nhỏ nhất cho đến việc lớn, đều bị văn hóa ngoại chi phối.

Các nhà nghiên cứu đã cảnh báo: Không ít giá trị văn hóa Việt Nam đã và đang bị thay đổi trong đời sống hằng ngày ở từng con người, mỗi gia đình. Trong xu thế toàn cầu hóa, nhiều người đã đón nhận những yếu tố văn hóa ngoại lai một cách không chọn lọc, không biết nhận diện, phân tích và bỏ đi những cái xấu, cái không phù hợp. Nhiều người khác thì dễ dãi tiếp thu, vay mượn vốn văn hóa của nước ngoài để giúp mình tưởng như đã đạt tới cột mốc là công dân văn minh toàn cầu; chăm chăm mượn cái của nước khác, người khác mà tưởng rằng đó là tiêu chuẩn của giá trị. Họ không hiểu thế nào là tiếp thu những mặt tích cực; thế nào là bị đồng hóa, bị nô dịch văn hóa.

Như vậy, nhiều người đang tự mình tan ra, dần mất bản sắc văn hóa dân tộc, bị đồng hóa văn hóa từ chính những biểu hiện trong lối sống, lối ứng xử, trong cách tiếp nhận và thay đổi quan niệm về giá trị vật chất, tinh thần họ đang học theo. Nếu “căn bệnh” sùng bái văn hóa ngoại lây lan từ cá nhân sang gia đình, rồi ra cộng đồng và các tầng lớp xã hội thì lúc đó, xã hội đã thực sự bị xâm lăng văn hóa. Nỗi lo xâm lăng văn hóa càng được nhân lên khi internet, mạng xã hội dưới sự trợ giúp của trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn... ngày càng trở nên phổ biến. 

Tỉnh táo trước sự xuyên tạc, chống phá về công tác nhân sự trước thềm đại hội đảng các cấp.

 “Công tác nhân sự là công việc rất quan trọng của mỗi kỳ đại hội Đảng. Công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, là mắt xích trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng, quyết định sự thành bại của cách mạng. Do đó, công tác nhân sự phải được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, thận trọng”. Đó là kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc họp Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng mới đây.

Dựng chuyện, xuyên tạc - câu chuyện "bình cũ rượu mới"

Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 sẽ được tổ chức trong năm 2025. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt là yếu tố, tiền đề hết sức quan trọng để tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng (dự kiến được tổ chức vào tháng 1-2026). 

Trước thềm đại hội đảng các cấp, sự chống phá của các thế lực thù địch càng quyết liệt. Chúng tập trung xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về sự lãnh đạo của Đảng và đặc biệt là về công tác nhân sự đại hội... Đây sẽ là “điểm mấu chốt” để các thế lực thù địch, phần tử phản động câu kết chống phá trên nhiều lĩnh vực, nhất là trên không gian mạng. Chúng triệt để lợi dụng những vấn đề nóng, bức xúc trong xã hội để xuyên tạc, bóp méo nhằm công kích sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, gieo rắc tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong một bộ phận quần chúng nhân dân, tập trung ở những nơi từng gây ra mất an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Tất cả sự chống phá nêu trên đều nhằm tới mục tiêu xuyên tạc, bôi nhọ danh dự, uy tín cán bộ, nhất là cán bộ có khả năng là ứng viên cho cấp ủy khóa mới của các cấp; hạ thấp uy tín và thành quả cách mạng của Đảng và Nhà nước Việt Nam; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguy hại hơn là đã có không ít cán bộ, người dân tin vào những thông tin và luận điệu xuyên tạc ấy.

Trên internet, mạng xã hội và một số diễn đàn, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội cố tình đưa nhiều thông tin sai lệch, xuyên tạc về đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là tuyên truyền xuyên tạc về công tác chuẩn bị đại hội. Các phần tử xấu tiếp tục dựng chuyện và quy chụp rằng “việc chuẩn bị đại hội như là hoạt động thay cho đại hội, xóa bỏ quyền của các đại biểu dự đại hội”; rằng công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ cốt cán cho Đại hội XIV là Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã “tước đi quyền tự do, dân chủ trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử của các đại biểu dự Đại hội XIV”. Đặc biệt, về vấn đề nhân sự, họ tự dựng lên danh sách lãnh đạo cấp cao... Họ tung hô, ngụy tạo rằng, đại biểu dự Đại hội XIV của Đảng chỉ còn việc “giơ tay biểu quyết” đồng ý mà không thể có ý kiến gì khác...

Tỉnh táo, ngăn chặn sự xuyên tạc, bịa đặt

Để phòng, chống thông tin giả, tin đồn thất thiệt về công tác nhân sự trước đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng có hiệu quả, phải thực hiện tổng hợp nhiều hình thức, biện pháp bao gồm cả phòng và chống trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau ở tất các các cấp, các ngành, từ Trung ương đến các địa phương, trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong bài phát biểu tại phiên họp đầu tiên của Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng diễn ra tại Hà Nội vào ngày 13-3-2024, nói về nội dung “Trách nhiệm của chúng ta”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: Phải xác định công tác chuẩn bị nhân sự là nhiệm vụ quan trọng, là nhiệm vụ “then chốt” của “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển vững mạnh của đất nước; phải bằng mọi biện pháp dứt khoát không đưa vào cơ quan lãnh đạo những người không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn, nhất là những người đã vi phạm hoặc sa sút về phẩm chất, đạo đức, vướng vào tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, hống hách, gia trưởng, nịnh trên nạt dưới; bao che cho tội phạm, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Để những người đó lọt được vào cương vị lãnh đạo là tai họa cho Đảng, là điều kiện cho họ càng hại nước, hại dân nhiều hơn.

Đến nay, công tác chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng đã và đang được thực hiện tích cực, trách nhiệm, bảo đảm tiến độ ở đảng bộ các cấp, cả về nội dung các báo cáo và công tác nhân sự. Đặc biệt, ngày 14-6-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng (Chỉ thị 35). Đây là văn bản hết sức quan trọng, định hướng rõ những quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu, yêu cầu và những nội dung cơ bản chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp để các cấp ủy, tổ chức đảng quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện ở cấp mình; bảo đảm đồng bộ, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.

 Chỉ thị 35 đặt ra 7 yêu cầu đối với công tác chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030, trong đó bổ sung mới 1 yêu cầu nêu rõ chỉ đạo của Bộ Chính trị cần tiếp tục chấn chỉnh, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, công tác chuẩn bị nhân sự. Theo đó, công tác nhân sự cần bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới, sáng tạo và phát triển; bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, cấp ủy các cấp, đề cao vai trò, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu theo quy định; bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cao, thận trọng từng bước, làm đến đâu chắc đến đó; cần có cơ chế, tiêu chí sàng lọc hiệu quả để không bỏ sót những người thật sự có đức, có tài. Quá trình thực hiện phải nắm vững nguyên tắc, đúng quy trình, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong công tác lựa chọn, giới thiệu và bầu cấp ủy các cấp. Cấp ủy nhiệm kỳ 2025-2030 phải đặc biệt coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý; tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới, thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng.

Cụ thể về tiêu chuẩn cấp ủy viên nhiệm kỳ 2025-2030, Chỉ thị 35 và Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh: Một là, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, Nhà nước và của nhân dân; kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Hai là, có phẩm chất đạo đức, lối sống gương mẫu, trong sáng; thực hiện nghiêm quy định của Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, giữ gìn sự đoàn kết nội bộ; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; kê khai tài sản, thu nhập trung thực, minh bạch; không cơ hội, tham vọng quyền lực, cục bộ, bè phái, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”... Không để vợ hoặc chồng, con, người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Ba là, có năng lực cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có tư duy đổi mới, tầm nhìn, phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả; nói đi đôi với làm, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có thành tích, kết quả công tác và “sản phẩm” cụ thể trong địa bàn, lĩnh vực công tác được giao.

Công tác chuẩn bị cho đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng đang được tiến hành một cách khẩn trương nhưng cũng rất chặt chẽ, chu đáo, công phu, bài bản, đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục... được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm, đánh giá cao. Trong đó, thực hiện nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác nhân sự đại hội và quản lý đội ngũ cán bộ... Việc chủ động nhận diện, đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch về công tác nhân sự trước thềm đại hội đảng các cấp là yêu cầu khách quan, là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần vào sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng.

Xây dựng nền văn hóa Việt Nam ngày càng bền vững, tiến bộ, bản sắc, tương xứng với trình độ phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

 Văn hóa là nền tảng tinh thần, động lực và mục tiêu phát triển của nhân loại trong mọi thời kỳ lịch sử. Ở Việt Nam, phát triển nền văn hóa ngày càng tiến bộ, bền vững, tương xứng với trình độ phát triển kinh tế - xã hội là mục tiêu mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng. Trong bối cảnh mới, bên cạnh nhiệm vụ giữ gìn, khai thác, phát huy các giá trị văn hóa, cần chú trọng đầu tư “tương ứng”, “ngang hàng” cho văn hóa trong so sánh với các lĩnh vực khác, góp phần tạo nguồn lực, động lực xây dựng đất nước ngày càng phát triển giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc.

Văn hóa là yếu tố “cốt lõi” trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, có sự hiện diện, tác động đến mọi mặt đời sống xã hội và quyết định con đường phát triển mỗi địa phương, quốc gia - dân tộc; là “những gì tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ”(1). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xác định: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(2). Theo đó, việc giữ gìn, phát huy vai trò của yếu tố văn hóa, sức mạnh con người đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, hội nhập quốc tế là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; định hướng cơ bản để phát triển đất nước bền vững là phải đặt văn hóa ở vị trí nền tảng tinh thần của dân tộc, cội nguồn, động lực sức mạnh nội sinh trong mọi giai đoạn.

Trải qua hàng nghìn năm lao động, sáng tạo, đấu tranh kiên cường để dựng nước và giữ nước, đồng thời tiếp thu thành tựu tinh hoa văn hóa nhân loại, cộng đồng các dân tộc nước ta đã hình thành và gìn giữ một nền văn hóa Việt Nam với những giá trị độc đáo, chứa đựng sự đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc, đặc biệt là truyền thống đoàn kết, giàu lòng yêu nước, chuộng hòa bình, luôn hướng đến sự tiến bộ, văn minh. Những giá trị truyền thống, văn hóa nổi bật được biểu hiện ở ý chí tự lực, tự cường, ý thức cộng đồng gắn kết giữa cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; sự dũng cảm, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống cái xấu, cái ác,... Hiện nay, nền văn hóa dân tộc ta còn có sự gắn kết chặt chẽ giữa ý thức bảo vệ, củng cố nền độc lập dân tộc với định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng, kim chỉ nam của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tất cả cùng hướng tới mục tiêu vì hạnh phúc và sự phát triển con người toàn diện.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích “văn hóa” bao hàm các hoạt động vật chất và tinh thần của con người cùng với các giá trị mà con người sáng tạo ra; chính nhu cầu thực tế đời sống, đòi hỏi từ sự sinh tồn của con người với tư cách chủ thể hoạt động của đời sống xã hội chính là nguồn gốc, động lực sâu xa của văn hóa(3); theo đó, Người luôn đề cao vai trò của văn hóa trong công cuộc kiến thiết đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, đặt ngang hàng với các lĩnh vực, thành tố khác của xã hội, rằng “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”(4). Kế thừa trí tuệ, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa, đồng thời dựa trên kinh nghiệm thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong tác phẩm Đề cương về văn hóa Việt Nam (được viết năm 1943), Đảng ta sớm khẳng định: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”(5), rằng: Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả(6); mặt khác, “Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế”(7). Đến Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Đảng ta đề ra nhiệm vụ cấp thiết: Bổ sung chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc (tháng 11-2021), đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc của Đảng, một nhân cách văn hóa lớn nhấn mạnh, phải khắc phục tư tưởng “duy kinh tế”, chỉ tập trung nguồn lực phát triển kinh tế mà ít quan tâm đến văn hóa; đồng thời, không ngừng “giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, nhân cách con người, nâng cao bản lĩnh và ý thức dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc, làm cho phát triển kinh tế thị trường mà không băng hoại giá trị đạo đức xã hội, “hội nhập mà không hòa tan””(8).

Thực tế, văn hóa không phải là kết quả thụ động, phụ thuộc hoàn toàn vào kinh tế, cũng “không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(9), bởi xét cho cùng, giữa các yếu tố văn hóa, kinh tế với chính trị luôn có mối quan hệ biện chứng, có tác động qua lại, cụ thể: “Nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia”(10). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặt trọn niềm tin, kỳ vọng vào đội ngũ văn, nghệ sĩ, trí thức bởi họ gánh vác những trọng trách quan trọng trong cuộc kháng chiến, kiến quốc, “xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(11). Đến Đại hội XII, Đảng ta xác định rõ hơn, phải “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân”(12); đặc biệt, nhiệm vụ quan trọng là nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn “...giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(13), trong đó xác định yếu tố kinh tế là cơ sở, bởi “Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”(14).

Cần khẳng định rằng, một xã hội khó có thể ổn định và phát triển bền vững nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ chủ yếu mà bỏ quên, hoặc thậm chí sẵn sàng hy sinh giá trị văn hóa; do đó, phải chú trọng xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn trong sáng tạo, xác lập những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy, lan tỏa những giá trị tốt đẹp, tiềm năng, sức sáng tạo của người dân. Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ, phải thực hiện hiệu quả các giải pháp phù hợp “nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội”(15); quan trọng hơn, hướng đến hiện thực hóa mục tiêu phát triển “con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”(16).

 Phát triển văn hóa Việt Nam trong bối cảnh mới

Đảng và Nhà nước ta xác định: Nếu yếu tố kinh tế đứng độc lập sẽ không thể tạo ra sự phát triển bền vững, ổn định, theo đó, văn hóa dần được thừa nhận là nguồn động lực, “chỉ tiêu mặc định” quan trọng trong quá trình phát triển và một khi văn hóa trì trệ thì sẽ không có bất cứ sự phát triển kinh tế - xã hội nào(17). Dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 94 năm qua, việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đạt được những thành tựu quan trọng, đặc biệt là kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (năm 1986) đến nay: Nhận thức về vai trò của văn hóa trong Đảng và trong nhân dân ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn; nhiều chính sách, chiến lược quảng bá, giới thiệu, tuyên truyền hệ thống giá trị văn hóa Việt Nam đến với bạn bè năm châu được thực hiện hiệu quả, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam, nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế; sáng tạo, làm mới nhiều sản phẩm văn hóa đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới của xã hội; đồng thời, “giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực... Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới”(18).

Cùng với đó, Đảng và Nhà nước nỗ lực xây dựng, kiến tạo môi trường thể chế, chính sách để nâng tầm vị thế văn hóa, tạo thuận lợi cho các ngành công nghiệp văn hóa(19) phát triển, góp phần gia tăng giá trị kinh tế của văn hóa và hiệu quả quảng bá hình ảnh đất nước. Nhìn chung, nguồn tài nguyên văn hóa được khai thác, phát huy, chuyển hóa thành sức mạnh mềm của dân tộc, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như hội nhập quốc tế; các ngành công nghiệp văn hóa có nhiều bước chuyển biến mới, đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước (năm 2021 đạt 3,92% GDP, tính đến hết năm 2022 tăng lên 4,04% GDP)(20). Giai đoạn 2018 - 2022, tốc độ tăng trưởng bình quân về số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa đạt 7,21%/năm, riêng năm 2022 có khoảng 70.321 cơ sở đang hoạt động (bình quân thu hút khoảng từ 1,7 đến 2,3 triệu lao động, tăng 7,44%/năm)(21). Đặc biệt, ngày 8-9-2016, Quyết định số 1755/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” được ban hành, tạo khung chính sách thuận lợi hỗ trợ các ngành công nghiệp văn hóa, tạo sức hút, hấp dẫn thông qua nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ văn hóa; ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam được xác định sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp 7% GDP (năm 2030) và tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam hướng đến những giá trị bản sắc, tiến bộ, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội còn một số vấn đề hiện hữu, như tính thụ động, trì trệ, tác phong thiếu kỷ luật, lạc hậu trong tư duy công việc,...; phai nhạt về lý tưởng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quay lưng lại với giá trị truyền thống của dân tộc, biểu hiện ở việc “Đạo đức, lối sống trong gia đình, học đường, xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, gây bức xúc cho xã hội... Mức hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn khoảng cách lớn”(22)... Thêm vào đó, một số cơ chế, chính sách văn hóa còn chồng chéo, bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn; ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa ở một bộ phận người dân còn mờ nhạt; chưa có nhiều chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả trong giải quyết dứt điểm các vấn đề về biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu - nghèo, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh con người,....

Một trong những nguyên nhân chủ yếu là bởi yếu tố văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước; môi trường văn hóa phải đối mặt với nhiều thách thức, chịu tác động mạnh của yếu tố ngoại lai, đe dọa đến bản sắc văn hóa, thuần phong, mỹ tục; so với các lĩnh vực khác, đầu tư cho lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật chưa tương xứng, còn dàn trải và hiệu quả thấp... Thực tế, thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa nhìn chung vẫn còn khá khiêm tốn, chưa tạo được “sức bật” đủ lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, chính quyền nhận thức chưa đầy đủ nên không chú trọng đúng mức việc phát triển văn hóa; thiếu chỉ đạo quyết liệt trong triển khai xây dựng đời sống, môi trường văn hóa mới lành mạnh; công tác quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật có nơi còn bị xem nhẹ, chậm được đổi mới,... như tổng kết của Đại hội XIII, rằng “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước”(23).

Nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa “ngang hàng” với các lĩnh vực khác theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

Thứ nhất, nghiêm túc quán triệt, triển khai, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa, phục vụ công cuộc phát triển đất nước(24); đặc biệt, cần tiếp tục huy động tổng hợp mọi nguồn lực nhằm tập trung chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, xây dựng đồng bộ thiết chế văn hóa cơ sở, phát triển phong trào văn học, nghệ thuật trong quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, chú trọng “nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(25); đẩy mạnh hoạt động quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa có bản lĩnh, năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, giáo viên, những người trực tiếp làm công tác giáo dục trên phương châm “có giáo dục tốt sẽ có công dân tốt”; thiết lập nền tảng đạo đức, văn hóa vững chắc cho thế hệ trẻ - những người chủ tương lai của đất nước.

Thứ hai, quan tâm đúng mức, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, đặt văn hóa trong mối quan hệ biện chứng, có tác động qua lại với các lĩnh vực khác của đời sống; không ngừng nêu cao giá trị tốt đẹp của gia đình, cộng đồng, truyền thống dân tộc Việt Nam, chú trọng gắn kết các hoạt động văn hóa, giáo dục, hành chính, khoa học - công nghệ, lao động, sản xuất,... với nhiệm vụ xây dựng, bồi đắp thế giới quan, nhân sinh quan đúng đắn, nhân văn trên tinh thần “yêu quê hương đất nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”... Mặt khác, chủ động hội nhập quốc tế, tiếp thu phù hợp, chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc, tuy nhiên cần “nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại”(26); ra sức truyền bá, tạo điều kiện thuận lợi để người dân ở nước ngoài, các tổ chức quốc tế cùng tham gia phát triển văn hóa, quảng bá hình ảnh đẹp của đất nước, con người Việt Nam; tiếp tục nêu cao, khơi dậy tinh thần yêu nước, vươn lên, “ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(27). Cùng với đó, bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; phải nhận thức rằng tăng trưởng kinh tế là điều kiện để nhân dân có nhiều cơ hội, khả năng tiếp cận các giá trị văn hóa, đưa xã hội tiến lên phía trước.

Bảo tồn và trao truyền các giá trị văn hóa cho thế hệ trẻ (Trong ảnh: Lớp học hát dân ca quan họ)_Nguồn: Tư liệu

Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu, triển khai, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ ngăn chặn, xử lý dứt điểm biểu hiện, hành vi xuống cấp về đạo đức, lối sống, góp phần đẩy lùi tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội, đồng thời “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”(28). Chú trọng kiến thiết, tạo lập môi trường và đời sống văn hóa lành mạnh, kiên quyết đấu tranh đẩy lùi việc lợi dụng niềm tin của nhân dân, tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo với âm mưu truyền bá duy tâm thần bí, mê tín dị đoan hòng trục lợi; quyết liệt đấu tranh loại trừ sản phẩm văn hóa độc hại, tư tưởng sai trái, lệch chuẩn, lối sống trái thuần phong mỹ tục, thực dụng, hưởng thụ, nhân cách sống lệch chuẩn,...

Thứ tư, đẩy mạnh công tác bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống, giữ gìn giá trị văn hóa mang tính chất “hồn cốt” của dân tộc; khai thác, phát huy hiệu quả giá trị di sản văn hóa, lịch sử trong phát triển kinh tế thông qua xây dựng “kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế - xã hội”(29). Mặt khác, tập trung “triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam”(30); thúc đẩy hoạt động thương mại hóa sự sáng tạo nghệ thuật, thẩm mỹ thông qua các ngành sản xuất hàng hóa và dịch vụ văn hóa thể hiện tài sản trí tuệ và ý nghĩa biểu tượng(31) trong nhân dân; nâng cao hàm lượng văn hóa của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp, lấy trình độ văn hóa làm cơ sở xây dựng phương thức nâng cao chất lượng tổng thể của nền kinh tế quốc dân, đồng thời là động lực bên trong để nâng cao năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh hơn nữa trong phát triển hoạt động kinh tế văn hóa(32) trên tinh thần “Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa; phát triển những sản phẩm, loại hình văn hóa độc đáo, sáng tạo có sức lan tỏa để quảng bá, giới thiệu ra thế giới”(33),... hướng tới mục tiêu xây dựng công nghiệp văn hóa thành ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phục vụ nhu cầu văn hóa, tinh thần ngày càng đa dạng của nhân dân, đồng thời, nâng cao sức mạnh mềm văn hóa của đất nước(34).

Thứ năm, tiếp tục tăng cường đầu tư cho lĩnh vực văn hóa tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các loại hình nghệ thuật truyền thống tiêu biểu, cần được bảo tồn, phát huy. Nghiên cứu, ban hành, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi về sử dụng đất, tín dụng, thuế và phí đối với cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó khăn. Mặt khác, khuyến khích sự hình thành và hoạt động quỹ đào tạo, khuyến học, phát hiện, bồi dưỡng nhân tài, quảng bá văn học, nghệ thuật, thúc đẩy sự phát triển điện ảnh, xuất bản... Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; nghiêm túc thực hiện công tác giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động tổ chức và quản lý hoạt động văn hóa; đẩy mạnh cơ chế phối hợp trong quản lý nhà nước về văn hóa giữa các ban, bộ, ngành, các tổ chức chính trị  - xã hội, đặc biệt là giữa các cơ quan giáo dục, truyền thông, pháp luật, an ninh./.

VIỆT NAM ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

 


Sau gần 40 năm đổi mới, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc trong bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, quyền dân chủ và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Là một quốc gia đa dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định đồng bào tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của công dân. 


Chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước là tôn trọng và bảo hộ quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân. Những thành tựu của công tác tôn giáo ở Việt Nam thời gian qua được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao là minh chứng sinh động nhất về việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi tầng lớp nhân dân.

NGUY HẠI TỪ CĂN BỆNH “THỜ Ơ, VÔ CẢM,THIẾU TRÁCH NHIỆM HIỆN NAY TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

 

Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Nhìn chung đội ngũ cán bộ, đảng viên đã đề cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; gương mẫu đi đầu, tận tụy với công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao”1. Tuy nhiên, “Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, một số suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… chưa nêu cao ý thức trách nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và nhân dân”2. Trong đó, vẫn còn tình trạng thờ ơ, vô cảm, chưa nêu cao ý thức, trách nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và nhân dân. “Thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm” của một số cán bộ, đảng viên thực sự là một “căn bệnh” rất nguy hại, có biểu hiện đa dạng trên các lĩnh vực đời sống xã hội, như: suy nghĩ hẹp hòi, thái độ dửng dưng, làm ngơ, không quan tâm đến những sự kiện, sự việc diễn ra của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị cũng như trước khó khăn, bức xúc, nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; sống ích kỷ, vun vén cá nhân, kèn cựa, đố kỵ, có những hành vi trái đạo đức, lương tâm của con người; tranh công, đổ lỗi, không trung thực, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, làm việc thì “được chăng hay chớ”, “dân có cần, nhưng quan không vội”, “khó người dễ ta”, hoặc rơi vào tham nhũng, lãng phí, tư duy nhiệm kỳ. Đáng chú ý là, những ngày qua, trước sự vào cuộc quyết liệt của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương, sự chung tay góp sức của cả cộng đồng, với nhiều tấm gương sáng mang đậm “nghĩa đồng bào”, cùng nhau quyết tâm cao nhất sớm đẩy lùi và chiến thắng đại dịch Covid-19, thì một số cán bộ, đảng viên có chức, có quyền vẫn đi du lịch, chơi Golf,… vi phạm nghiêm trọng quy định của Chính phủ về phòng, chống dịch Covid-19, gây hậu quả nghiêm trọng.

SỐNG "TỐT ĐỜI ĐẸP ĐẠO", ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC

 


Phát huy truyền thống sống “tốt đời, đẹp đạo”, đồng bào Công giáo trên cả nước ngày càng khẳng định là một bộ phận không tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, luôn đồng hành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Một mùa Giáng sinh nữa lại sắp về. Những ngày này, tại các xóm đạo trên khắp cả nước một không khí rộn ràng, hân hoan đang lan toả. Các giáo dân tất bật chuẩn bị trang trí các tuyến đường, nhà thờ, hang đá, cây thông Noel, sẵn sàng đón lễ Giáng sinh an lành, ấm áp.


Với trên 7 triệu đồng bào Công giáo Việt Nam đang sinh sống trên mọi miền đất nước, trong những năm qua, cùng với nhân dân cả nước, đồng bào Công giáo đã hưởng ứng và tham gia tích cực các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các tổ chức đoàn thể xã hội và Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam phát động, nhất là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, sống tốt đời, đẹp đạo” do Trung ương Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam phát động.


Báo cáo tổng kết hoạt động của Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc Người Công giáo Việt Nam xây dựng và bảo vệ Tổ quốc lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2023-2028) tháng 10 vừa qua cũng cho thấy, phong trào thi đua yêu nước trong đồng bào Công giáo tiếp tục được duy trì và phát triển cả bề rộng và chiều sâu; xuất hiện ngày càng nhiều mô hình hay, cách làm tốt cùng với nhiều tấm gương điển hình tiên tiến, xuất sắc trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế, giúp nhau xóa đói giảm nghèo.


Đồng bào Công giáo chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh của đất nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.


Đặc biệt, đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào Công giáo ngày càng được chăm lo, bản sắc văn hóa của dân tộc được giữ gìn và phát huy. Nhiều hoạt động đền ơn, đáp nghĩa được triển khai thực hiện, có ý nghĩa giáo dục, nhân văn sâu sắc. Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục đào tạo, dạy nghề và giải quyết việc làm ngày càng có nhiều kết quả thiết thực. Đối tượng chính sách, hộ nghèo được Nhà nước và xã hội chăm lo tích cực với tinh thần “Không để ai bị bỏ lại phía sau”. An sinh xã hội được bảo đảm. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Chính trị - xã hội ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của đồng bào Công giáo.


Với truyền thống sống tốt đời, đẹp đạo, đồng bào Công giáo Việt Nam ngày càng khẳng định là một bộ phận không tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; luôn đồng hành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước.


Không chỉ là đồng bào Công giáo, với các tôn giáo, tín ngưỡng khác cũng vậy. Việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là chủ trương, chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện thông qua Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.


Cùng với Hiến pháp năm 2013, việc thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 cũng như Chính phủ đã ban hành Nghị định và các văn bản pháp luật khác đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc, đảm bảo tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân.


Gần đây nhất, Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023, Hội nghị lần thứ tám ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, khi đưa ra các nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu đã nêu rõ: Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ sống "tốt đời, đẹp đạo", đồng hành cùng dân tộc, tích cực tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chính quyền các cấp phát động. Bảo đảm để các tổ chức tôn giáo hoạt động bình đẳng theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận.


Trong nỗ lực chung ấy, mọi hành vi xuyên tạc, bóp méo, lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại sự nghiệp đổi mới đất nước đều bị nghiêm cấm. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016 cũng đã quy định rõ các hành vi bị nghiêm cấm như: Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường. Việc chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi cũng sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.


Tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là nhu cầu chính đáng của người dân, được Nhà nước bảo hộ. Các tôn giáo đều chung sống hài hòa, đoàn kết, không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo. Việc quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ giải quyết các nhu cầu chính đáng của quần chúng tín đồ trong hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh; tôn trọng, khuyến khích phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo sẽ góp phần không nhỏ cho sự nghiệp chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.


HSV

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN VÀ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 

Nội dung cơ bản của tư tưởng nhà nước pháp quyền là: nhà nước mà trong đó mọi chủ thể (kể cả các cơ quan nhà nước) đều phải nghiêm chỉnh phục tùng pháp luật, một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những  giá trị cao cả nhất  của xã hội,  của con người. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền, đã có từ lâu đời trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên, nhà nước và pháp luật đều là công cụ thống trị  của một giai cấp đối với toàn xã hội, do vậy tư tưởng nhà nước pháp quyền trong các chế độ xã hội không thể giống nhau. Do vậy, tìm hiểu tư tưởng nhà nước pháp quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, giúp chúng ta quán triệt tư tưởng của Đảng, góp sức mình biến tư tưởng  của Đảng thành hiện thực. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà  tệ tham nhũng, quan liêu đang trở thành quốc nạn, thì tư tưởng nhà nước pháp quyền  của Đảng là cơ sở lý luận để xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, xứng đáng là nhà nước  của dân, do dân, vì dân.

MỖI CHÚNG TA HÃY LÀ MỘT CHIẾN SĨ TRÊN KGM

  


Ngày nay, trước sự tác động toàn diện, mạnh mẽ, không gian mạng đã trở thành một không gian xã hội mới, nơi con người có thể thực hiện các hành vi giao tiếp, sáng tạo, lao động, sản xuất, tiêu dùng, học tập và vui chơi giải trí mà không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Tuy nhiên, cùng với những lợi ích to lớn, không gian mạng đang tạo ra các nguy cơ và thách thức đối với an ninh quốc gia, an ninh con người và trật tự, an toàn xã hội. Việt Nam là một trong 20 nước có số người sử dụng Internet cao nhất thế giới nên đây chính là điều thuận lợi mà các thế lực thù địch thường lợi dụng để tiến hành các âm mưu, thủ đoạn chống phá nước ta trên không gian mạng.


Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, đối tượng cơ hội chính trị ngày càng chống phá quyết liệt hơn, toàn diện hơn. 


Chúng đã có điều chỉnh cả lực lượng công khai và lực lượng bí mật, với phương thức hoạt động mới là lợi dụng các vấn đề an sinh xã hội để tổ chức các hoạt động công kích, hòng làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào chế độ; gây mất đoàn kết chia rẽ lực lượng công an, quân đội; bác bỏ, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang… Đây là những vấn đề khiến mỗi chúng ta không thể chủ quan. Lực lượng nòng cốt đấu tranh với các thế lực thù địch, phản động đến nay cơ bản đã rõ thì công tác đấu tranh, phản bác trên không gian mạng cần mạnh mẽ, quyết liệt hơn trong thời gian tới, để bảo vệ nền tảng tư tưởng, chính trị của Đảng.


Để hành động quyết liệt, chủ động tiến công ngoài các lực lượng chức năng của Đảng, Nhà nước thì mỗi người dân chúng ta cũng đề cao cảnh giác đồng thời tích cực chủ động, mỗi người dân là một chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng./.


QĐND

LỢI DỤNG VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT ĐỂ XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ ĐẤT NƯỚC

 


Văn học, nghệ thuật là một trong những nguồn lực to lớn, trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Nhận thấy sức mạnh to lớn đó, thời gian qua, các thế lực thù địch không ngừng dùng mọi thủ đoạn để lợi dụng, biến văn học, nghệ thuật thành công cụ đắc lực nhằm chống phá Đảng, Nhà nước. Thực trạng này đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên cảnh giác, tỉnh táo nhận diện để có biện pháp ngăn chặn kịp thời.

THẤT BẠI LÀ MẸ THÀNH CÔNG


Ở đời ai thành công mà chưa từng thất bại, ai nên khôn mà không dại một vài lần. Mỗi lần vấp ngã hãy xem như một bài học quý giá, phải trải qua đủ mọi cung bậc cảm xúc, nếm đủ hương vị cuộc đời thì ta mới có thể khôn lớn trưởng thành được. 


Con người ta chỉ hơn nhau về mặt ý chí và nghị lực. Có nhiều người suy sụp tinh thần sau khi gặp thất bại, đánh mất bản thân sau khi bị tình phụ, cũng có nhiều người thất bại rất nhiều lần nhưng họ vẫn miệt mài làm lại, để rồi trở thành người thành công. 


Muốn gặt gái thành quả phải trải qua tháng năm rèn giũa và không ngừng cố gắng,. Cho  dù không thành công thì cũng không thể nào bi đát được, khi đã nỗ lực  hết mình thì không có điều gì làm ta hối tiếc.

Phòng, chống “diễn biến hòa bình”: Giáo dục truyền thống phải bắt đầu từ thế hệ trẻ

 

 

Ông Minh, một thương binh đã tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, hàng ngày ông vẫn vui vẻ với con cháu. Hôm nay, sau bữa cơm tối, ông bần thần ngồi ngoài sân, bà Hà - vợ ông đi tới, vừa kéo ghế vừa hỏi:

NHẬN DIỆN NHỮNG THÔNG TIN VÀ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TRÊN LĨNH VỰC QP - AN


Những thông tin và luận điệu xuyên tạc liên quan đến lĩnh vực quốc phòng – an ninh được hiểu là những nội dung thông tin, luận điệu vu khống, không đúng sự thật về tình hình quốc phòng – an ninh của đất nước. Đó là những thông tin không có căn cứ khoa học, hoặc là những thông tin dựa trên những sự kiện quốc phòng – an ninh có thật, đã và đang diễn ra nhưng được lập luận theo lối xảo trá, đánh lận con đen, đổi trắng, thay đen, theo chủ định xuyên tạc, sai bản chất, hướng người nghe, đọc đến những suy diễn tiêu cực, thúc dục người tiếp nhận thông tin tiến hành các hoạt động biểu tình, chống phá, gây rối, gây bạo loạn, làm mất trật tự an ninh, an toàn xã hội.

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và những yêu cầu lịch sử.

 Đảng ta xác định, từ Đại hội XIV trở đi, đất nước ta sẽ chính thức bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Theo đó, kỷ nguyên mới đòi hỏi phải tạo chuyển biến căn bản về nhận thức, hành động của toàn Đảng, toàn xã hội trong việc giữ gìn, nuôi dưỡng, sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. Đặc biệt, kỷ nguyên mới đòi hỏi phải phát huy cao nhất tinh thần, ý chí, sức mạnh của nhân dân - Chủ thể đóng vai trò trung tâm của sự nghiệp kiến tạo kỷ nguyên mới.

Kỷ nguyên mới và những yêu cầu lịch sử

Kỷ nguyên mới là khoảng thời gian đất nước, dân tộc phải vươn lên mãnh liệt, phấn đấu thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược, tạo sự phát triển vượt bậc ở một tầm cao mới, trình độ mới, chất lượng mới, xác lập vị thế quốc gia trên trường quốc tế, tạo nền tảng cho bước phát triển đột phá kế tiếp. Kỷ nguyên tiếp nối kỷ nguyên tạo thành lịch sử phát triển liên tục, từ thấp đến cao, ngày càng hoàn thiện của một quốc gia, dân tộc.

Gần 95 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhìn tổng quát, dân tộc Việt Nam đã trải qua hai kỷ nguyên vẻ vang. Kỷ nguyên thứ nhất là Kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930 - 1975), khởi đầu từ năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dẫn đến thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và những chiến công vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược (1946 - 1975) cùng những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 1954 - 1975. Kỷ nguyên thứ hai là Kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới, phát triển (1975 - 2025), mở đầu bằng thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, thu non sông về một mối, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội năm 1975, tạo tiền đề vững chắc để đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành công cuộc đổi mới bắt đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986, tạo bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên các lĩnh vực. Và bây giờ, Việt Nam bước vào kỷ nguyên thứ ba, Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc mà thời điểm mở đầu là Đại hội lần thứ XIV của Đảng, ghi dấu ấn 40 năm đổi mới (1986 - 2026).

Mỗi kỷ nguyên đều xuất hiện một cách khách quan những yêu cầu lịch sử đòi hỏi quốc gia, dân tộc phải đáp ứng tốt nhất để thực hiện thành công mục tiêu chiến lược đã xác định.

Trong Kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930 - 1975)mục tiêu sống còn của Việt Nam là phải xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, trở thành một quốc gia độc lập, tiến lên xây dựng chế độ xã hội mới. Mục tiêu chiến lược đó đặt ra yêu cầu phải tập hợp rộng rãi nhất, phát huy mạnh mẽ nhất sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, đập tan ách thống trị của đế quốc, phong kiến, giành và giữ độc lập, tự do; xây dựng những tiền đề ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, dân tộc Việt Nam đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, giải quyết thành công yêu cầu lịch sử và hoàn thành xuất sắc mục tiêu chiến lược.

Trong Kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới, phát triển (1975 - 2025), mục tiêu hàng đầu của Việt Nam là phải chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, thoát ra khỏi tình trạng một nước nghèo, kém phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân, xác lập vị thế quốc tế xứng đáng. Mục tiêu chiến lược đó đặt ra yêu cầu lịch sử phải đổi mới toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập quốc tế. Sau gần 50 năm đất nước thống nhất, 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã thực hiện thắng lợi các yêu cầu lịch sử, đổi mới thành công, vượt thoát khỏi tình trạng một nước nghèo, kém phát triển, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới, cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế mới.

Chính những thành tựu lịch sử đạt được qua hai kỷ nguyên đấu tranh, lao động sáng tạo bền bỉ đã tạo tiền đề, nền tảng vững chắc để Việt Nam bước vào kỷ nguyên thứ ba: Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, khởi đầu từ Đại hội lần thứ XIV của Đảng. Đây “là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao”(1). Mục tiêu của kỷ nguyên thứ ba là sự tích hợp ở tầm cao mới, trình độ mới những mục tiêu của hai kỷ nguyên trước, phản ánh sự phát triển về chất của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, của sự vận động biện chứng độc lập - tự do - hạnh phúc. Kỷ nguyên mới đặt ra những yêu cầu lịch sử đặc biệt, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần nhận thức sâu sắc, quyết tâm, quyết liệt hành động để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Một số yêu cầu lịch sử trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Thứ nhất, nói một cách khái quát, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là kỷ nguyên đột phá, phát triển tăng tốc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đưa quốc gia, dân tộc lên một tầm cao mới, tiến cùng thời đại.

Yêu cầu bao trùm trong kiến tạo kỷ nguyên mới là phải tiến hành đồng thời, thắng lợi một quá trình “đột phá kép”Một mặt, phải đột phá đi thẳng vào hiện đại, vào những lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ số, mà Việt Nam có lợi thế; vào quản trị quốc gia hiện đại trên nền tảng chính phủ số, xã hội số, công dân số, tạo sự phát triển vượt bậc về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Mặt khác, phải đột phá trong việc giải quyết triệt để những điểm nghẽn, những yếu kém, hạn chế, những khó khăn đang kìm hãm, cản trở sự phát triển của đất nước. Hai quá trình đột phá này cần phải được tiến hành song song, đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau, trong đó đi tắt, đón đầu, đi thẳng vào hiện đại là cơ bản, có ý nghĩa quyết định; khắc phục, giải quyết những yếu kém, bất cập là cấp bách, quan trọng.

Triết lý của quá trình đột phá kép này, như Tổng Bí thư Tô Lâm xác định, chính là “tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh”(2). Triết lý chính trị khoa học này được Đảng ta đúc kết từ bài học kinh nghiệm quý báu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và vận dụng thành công trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam - bài học chủ động tạo thời cơ, nhận thức đúng thời cơ, kiên quyết chớp thời cơ; đánh giá đúng nguy cơ, kiên quyết đẩy lùi nguy cơ, thách thức, chuyển hóa nguy cơ thành thời cơ, giành thắng lợi. Kỷ nguyên mới yêu cầu Đảng ta tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo hơn nữa, hiệu quả hơn nữa bài học kinh nghiệm quý giá này để tạo sự phát triển đột phá của đất nước.

Thứ hai, yêu cầu có ý nghĩa đột phá khẩu trong kiến tạo kỷ nguyên mới là đột phá về tư duy, nhận thức.

Bước vào kỷ nguyên thống nhất, đổi mới, phát triển (1975 - 2025), Đảng ta bắt đầu bằng đổi mới tư duy, nhận thức lại một cách đúng đắn hơn, khoa học hơn quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đột phá lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với những nhận thức rất mới mẻ mà trước đổi mới còn hoàn toàn xa lạ. Chính đột phá tư duy lý luận đã khai mở con đường đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, tạo ra những thành tựu vĩ đại.

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc diễn ra song hành với kỷ nguyên số, kỷ nguyên của đổi mới sáng tạo mà tiếng nói chung của nhân loại là “không có gì là không thể”. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp theo đang và sẽ làm đảo lộn phương cách suy nghĩ, sản xuất, sinh hoạt của các quốc gia, cộng đồng và của mỗi con người. Một lần nữa, thực tiễn lại đòi hỏi và tạo điều kiện để chúng ta đổi mới mạnh mẽ về tư duy, nhận thức. Trên cơ sở kế thừa những tư duy khoa học đã tích lũy được qua 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta cần cởi mở, chăm chú, mạnh dạn tiếp thu những tư duy mới, những xu hướng phát triển mới của nhân loại với phương châm tiến kịp, tiến cùng thời đại. Cần có những đột phá lý luận với cách tiếp cận mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về lộ trình và bước đi; về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với cuộc cách mạng số, kỷ nguyên số; về hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc trong kỷ nguyên mới…; trên cơ sở đó, đột phá trong định hướng phát triển các lĩnh vực quan trọng của đất nước, đặc biệt là phát triển đột phá về khoa học - công nghệ, về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút, phát huy nhân tài; về phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam; về quản trị quốc gia; về hiện đại hóa quốc phòng, an ninh, nâng tầm đối ngoại, ngoại giao… Chúng ta kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng trên tinh thần không ngừng sáng tạo; không chủ quan, duy ý chí, nhưng kiên quyết không để chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ kìm trói tư duy, nhận thức của chúng ta. “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(3). Đây thực sự là một cuộc cách mạng - cuộc cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân là chân lý(4). Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thống nhất nhận thức, quyết tâm đổi mới tư duy, lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động, chúng ta nhất định sẽ tạo ra bước phát triển chưa từng có cho dân tộc ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, kỷ nguyên mới yêu cầu phải tạo đột phá trong huy động, sử dụng tối ưu các nguồn lực còn rất tiềm tàng của đất nước.

Việt Nam ta tài nguyên phong phú, các nguồn lực trong dân còn rất dồi dào, các nguồn lực từ bên ngoài theo các dòng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo chính sách đối ngoại, hội nhập đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta là rất lớn; nhân dân Việt Nam cần cù, sáng tạo; con người Việt Nam yêu nước, thông minh; nguồn lực vô hình tiềm ẩn trong lợi thế địa chính trị, địa kinh tế của đất nước là vô giá. Chính những nguồn lực to lớn này góp phần quan trọng tạo nên thành tựu vĩ đại của công cuộc đổi mới thời gian qua.

Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn chỉ ra rằng, về vấn đề này, chúng ta còn nhiều khuyết điểm, bất cập. Do những hạn chế của hệ thống thể chế; năng lực lãnh đạo, quản lý và phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên; nhận thức chưa đến nơi của một bộ phận nhân dân…, nhiều nguồn lực của đất nước còn bị thất thoát, phí phạm, sử dụng kém hiệu quả; năng lực, trí tuệ của con người Việt Nam chưa được khởi phát đúng tầm; lợi thế của đất nước chưa được phát huy tương xứng. Kỷ nguyên mới đòi hỏi phải tạo chuyển biến căn bản về nhận thức, hành động của toàn Đảng, toàn xã hội trong việc giữ gìn, nuôi dưỡng, sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. Từng đồng tiền, bát gạo; từng mét vuông đất rừng, ngư trường, biên cương; từng vỉa quặng; từng giờ, từng ngày lao động và khả năng của mỗi con người… cần phải được quý trọng, bồi đắp, khai phóng để tạo thành của cải vật chất. Tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát, cần kiệm xây dựng đất nước phải trở thành quốc sách; thành nhiệm vụ chính trị của các tổ chức đảng, hệ thống chính trị; thành ý thức, tình cảm, việc làm tự giác của mỗi người Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Thứ tư, kỷ nguyên mới yêu cầu phải phát huy đến mức cao nhất các động lực phát triển đất nước, đặc biệt là tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, khát vọng sáng tạo và cống hiến của toàn dân, của con người Việt Nam.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam gần 95 năm qua đã chứng minh hùng hồn, trong những bước phát triển nhảy vọt của cách mạng, chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết, tinh thần đấu tranh, lao động, sáng tạo của nhân dân, của con người Việt Nam là nguồn gốc của mọi thắng lợi.

Kỷ nguyên mới với những mục tiêu lịch sử đòi hỏi khách quan phải phát huy đến mức cao nhất tinh thần, ý chí, sức mạnh của nhân dân - chủ thể đóng vai trò trung tâm của sự nghiệp kiến tạo kỷ nguyên mới. Cần chuyển hóa chủ trương, quyết sách, ý chí của Đảng thành nhận thức, thành cảm hứng hành động, sáng tạo của toàn dân, của mỗi người Việt Nam, khởi nguồn từ việc củng cố, bồi đắp niềm tin của nhân dân theo nguyên lý: có niềm tin của nhân dân là có tất cả; mất niềm tin của nhân dân là mất tất cả. Niềm tin của nhân dân được bồi đắp, nhân lên từ nhận thức đúng đắn về con đường phát triển của dân tộc do Đảng dẫn đường, chỉ lối; từ sự tôn trọng của Đảng, hệ thống chính trị đối với vai trò làm chủ, quyền làm chủ thật sự của nhân dân; từ những thành quả thực tiễn của đất nước đem lại những lợi ích thiết thực có thể đo đếm được cho mỗi gia đình, mỗi con người Việt Nam; từ những tấm gương trong sạch, trong sáng, tận tụy phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nguyên lý: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ; mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân; cần lấy hạnh phúc, sự hài lòng của nhân dân làm tiêu chí đánh giá cán bộ, đảng viên… mà Đại hội XIII của Đảng đã đúc kết cần phải tiếp tục được thể chế hóa, cụ thể hóa và thực thi nghiêm túc trong thực tiễn.

Thứ năm, kỷ nguyên mới đặt ra yêu cầu hàng đầu là nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng Đảng thật sự là đạo đức, văn minh, thật sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, của thời đại.

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là chân lý được đúc kết qua lịch sử vẻ vang gần một thế kỷ của Đảng, của dân tộc ta. Là người khởi xướng, lãnh đạo công cuộc kiến tạo kỷ nguyên mới, Đảng ta gánh trên vai sứ mệnh vinh quang, trọng trách nặng nề. Nhân dân đặt niềm tin và kỳ vọng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện: Bản lĩnh về chính trị, thống nhất về tư tưởng, cao về văn hóa, đẹp về đạo đức, khoa học về tổ chức, tiêu biểu về cán bộ, xứng đáng là “người cầm lái vĩ đại” đưa dân tộc đi đến phồn vinh, hạnh phúc. Nhân dân mong muốn và hy vọng cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, đặc biệt cán bộ cấp chiến lược, thực sự có đức, có tài, biết lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, có năng lực thiết kế, truyền cảm hứng và làm gương để nhân dân noi theo trên cuộc hành trình dựng xây kỷ nguyên mới.

Sẽ có rất nhiều việc phải làm, phải làm quyết liệt nhưng vững chắc để có được một hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, của hệ thống chính trị tinh gọn, thống nhất, hợp lý, đồng bộ, thông suốt, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc kết nối - tương tác - chia sẻ, có khả năng thích ứng cao với thời cuộc luôn thay đổi; để có được một đội ngũ cán bộ, đảng viên liêm khiết, mẫu mực, tiêu biểu hết lòng vì Đảng, vì Dân. Đây thực sự là một cuộc cách mạng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Chỉ còn một năm nữa là Đại hội XIV của Đảng sẽ được tổ chức. Phải bắt đầu ngay từ bây giờ, phải vào cuộc tích cực, quyết liệt ngay từ bây giờ, tạo những chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, về hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, mà nòng cốt là toàn hệ thống chính trị, chuẩn bị tâm thế, khí thế, quyết tâm mới, để đến Đại hội XIV của Đảng, chúng ta triệu người như một đồng lòng, tự tin tuyên bố: Việt Nam chính thức bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.