Thứ Hai, 6 tháng 1, 2025

Liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa hợp tác xã với nông dân ở trung du và miền núi phía bắc.

 Liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững là yêu cầu khách quan, là tiền đề, điều kiện tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản, từng bước hình thành và góp phần phát triển một nền nông nghiệp sản xuất lớn. Nhận thức được điều này, những năm qua, các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc đã khuyến khích các chủ thể tham gia sản xuất, trong đó có hợp tác xã và nông dân tham gia liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn những hạn chế làm cho liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao giữa hợp tác xã với nông dân trong vùng chưa bền vững. Vì vậy, cần nghiên cứu tìm hiểu để đưa ra giải pháp khắc phục nhằm đẩy mạnh liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững thời gian tới.

Liên kết giữa Hợp tác xã chè Hảo Đạt ở Thái Nguyên được thành lập năm 2016 có 8 thành viên liên kết với hơn 50 hộ nông dân cung cấp chè nguyên liệu_ Ảnh: IT

1. Mở đầu

Trung du và miền núi phía Bắc có diện tích lớn thứ hai cả nước, với 95.184,1 km2, chiếm 28,72% diện tích tự nhiên của cả nước(1), bao gồm 14 tỉnh, đó là: Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình. Là vùng kinh tế - xã hội có vị trí, phía Bắc giáp, Trung Quốc, phía Tây giáp Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào; phía Đông, phía Nam giáp với vùng đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Sự đa dạng của địa hình (đồi núi cao, đồi núi trung bình và thấp, xen kẽ đồng bằng nhỏ hẹp), đa dạng của khí hậu, đất đai đã tạo điều kiện thuận lợi để đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp như: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp; sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới. Tuy nhiên, do địa hình chia cắt, đất đai sản xuất nông nghiệp phân tán, nhỏ lẻ, nguồn nước khó khăn, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nói chung và hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu,... khiến sản xuất nông nghiệp trong vùng không ổn định, năng suất, sức cạnh tranh và hiệu quả thấp. Vì vậy, liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu khách quan, là tiền đề, điều kiện khai thác lợi thế và tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản, từng bước hình thành, phát triển một nền nông nghiệp bền vững.

2. Thực trạng liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa nông dân và hợp tác xã ở trung du và miền núi phía Bắc

Một số kết quả

Số hợp tác xã liên kết với nông dân ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp trong vùng các năm gần đây tăng nhanh: từ 198 hợp tác xã năm 2019 lên 519 (năm 2022)(1) và 693 (năm 2023)(3), tăng 495 hợp tác xã, bình quân tăng 37%/năm. Trong đó, Sơn La và Thái Nguyên là hai địa phương có số lượng hợp tác xã liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững với nông dân không chỉ cao so với toàn vùng mà còn giữ vị trí hàng đầu cả nước (năm 2022 Sơn La có 174 hợp tác xã, Thái Nguyên có 106 hợp tác xã(4)).

Trung du và miền núi phía Bắc cũng là vùng có hợp tác xã nông nghiệp là chủ chuỗi liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững với nông dân cao nhất cả nước. Năm 2023, cả nước có 2.500 hợp tác xã liên kết với nông dân ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp, chiếm 9,86% tổng số hợp tác xã nông nghiệp cả nước thì vùng trung du và miền núi phía Bắc có 693 hợp tác xã, chiếm 12% tổng số hợp tác xã nông nghiệp toàn vùng(5). Có được kết quả trên là do các hợp tác xã nông nghiệp ở trung du và miền núi phía Bắc có quy mô nhỏ nên dễ đồng thuận trong việc ứng dụng công nghệ cao cũng như mở rộng quy mô liên kết so với các hợp tác xã nông nghiệp có quy mô lớn ở các vùng khác(6).

Sự gia tăng nhanh chóng của số hợp tác xã nông nghiệp chủ chuỗi liên kết dẫn đến số hộ nông dân tham gia liên kết cũng tăng lên. Ngoài các hộ nông dân là thành viên, các hộ nông dân ngoài hợp tác xã tham gia liên kết cũng tăng khá nhanh. Cụ thể, số lượng thành viên hợp tác xã tăng từ 9.900 người (năm 2019) lên 25.950 người (năm 2022) và 32.571 người (năm 2023); số hộ nông dân ngoài hợp tác liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững với hợp tác xã cũng tăng từ 7.920 hộ (năm 2019) lên 15.570 hộ (năm 2022) và 1.302.840 hộ (năm 2023)(7).

Các công nghệ cao được chủ chuỗi liên kết là các hợp tác xã sử dụng nhiều nhất trong giai đoạn này là kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, bảo quản (84,6%); công nghệ tin học trong quản lý kinh doanh (40,4%); công nghệ tự động hóa (29,1%); công nghệ sinh học trong nông nghiệp (20,6%); và công nghệ sản xuất vật tư nông nghiệp (9,9%). Điều này được thể hiện ở Bảng dưới đây.

Bảng 1: Công nghệ cao được các mô hình liên kết hợp tác xã
với nông dân sử dụng giai đoạn 2019-2023

Danh mục công nghệ
Tỷ lệ (%)
Công nghệ sinh học trong nông nghiệp
20,6
Kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, bảo quản
84,6
Công nghệ tự động hóa
29,1
Công nghệ sản xuất vật tư nông nghiệp
9,9
Công nghệ tin học trong quản lý kinh doanh
40,4

Nguồn: Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (2023)

Liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa hợp tác xã và nông dân đã giúp giảm chi phí nhờ gia tăng quy mô và giảm giá nguyên liệu đầu vào, bảo vệ môi trường, khắc phục tình trạng ”được mùa mất giá”, sản xuất theo yêu cầu thị trường, gia tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, mang lại lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia và đặc biệt là đã làm thay đổi tập quán canh tác nhỏ lẻ của người nông dân, phát triển kinh tế tập thể và nâng cao giá trị chuỗi nông sản.

Chẳng hạn, liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa Hợp tác xã Nông sản Sơn La với 20 hộ nông dân xã Chiềng Ban, huyện Mai Sơn. Trong liên kết này, Hợp tác xã Nông sản Sơn La đã hướng dẫn các hộ nông dân thành viên và các hộ nông dân liên kết đưa công nghệ màng phủ, công nghệ tưới nước tiết kiệm, quy trình sản xuất nông nghiệp sạch vào sản xuất các loại rau, củ, quả đã đem lại hiệu quả cao. Cụ thể, sản lượng và doanh thu của hợp tác tăng từ 20-30%/năm và nâng cao thu nhập cho thành viên, các hộ nông dân liên kết trên địa bàn cũng như từng bước thay đổi nhận thức của họ(8).

Liên kết giữa Hợp tác xã chè Hảo Đạt ở Thái Nguyên được thành lập năm 2016 có 8 thành viên liên kết với hơn 50 hộ nông dân cung cấp chè nguyên liệu. Tham gia liên kết, các hộ nông dân đã được Hợp tác xã chè Hảo Đạt hướng dẫn áp dụng các tiến bộ kỹ thuật sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP để bảo đảm nguồn nguyên liệu đạt chuẩn chất lượng, tạo ra các sản phẩm chè búp khô an toàn, chất lượng cao. Từ chỗ chỉ có 8 thành viên, đến nay, Hợp tác xã chè Hảo Đạt đã có trên 30 thành viên với vùng nguyên liệu hơn 10 ha, hệ thống nhà xưởng trên 2.000 m2, dây chuyền sản xuất khép kín, được tự động hóa 70%, công suất từ 4,0-4,5 tấn chè búp tươi/ngày. Hằng năm, mô hình này đã cung cấp cho thị trường từ 250-300 tấn chè búp khô an toàn, chất lượng cao, trong đó, sản phẩm chè Móc câu và Đinh xếp hạng OCOP 4 sao; chè Tôm nõn xếp hạng 5 sao. Doanh thu trung bình từ 5-6 tỷ đồng/ năm, lợi nhuận từ 1,5-2 tỷ đồng, tạo việc làm thường xuyên cho 20-30 lao động với mức thu nhập từ 4,5-6 triệu đồng/tháng; và khoảng 30 lao động thời vụ với mức lương thỏa thuận(9).

Liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa Hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà (xã Bản Liền), Lào Cai với 310 hộ nông dân sản xuất, chế biến, tiêu thụ chè Shan tuyết hữu cơ. Trong mô hình liên kết này, hợp tác xã đã mời các nhà khoa học, cơ quan khuyến nông hướng dẫn cho các thành viên và các hộ dân liên kết về kỹ thuật chăm sóc chè hữu cơ, chè sạch đúng tiêu chuẩn do các tổ chức quốc tế quy định, chất lượng sản phẩm đồng đều, đạt tiêu chuẩn an toàn. Nhờ đó, có tới 90% sản phẩm chè Shan tuyết hữu cơ của Hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà đã được xuất khẩu sang các thị trường khó tính ở châu Âu. Bình quân mỗi ha chè mang lại lợi nhuận từ 80-100 triệu đồng/năm, cao hơn nhiều so với các cây trồng truyền thống khác; giá bán cao hơn từ 3-4 lần so với sản xuất chưa liên kết, tạo thu nhập ổn định cho các hộ nông dân đồng bào dân tộc thiểu số tham gia liên kết; góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững(10) và giúp địa phương hình thành vùng sản xuất tập trung.

Một số hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh một số kết quả ban đầu đạt được như trên, liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa hợp tác xã với nông dân tại các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc vẫn còn một số hạn chế:

Thứ nhất, tỷ lệ hợp tác xã và nông dân trong vùng tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững còn thấp. Mặc dù số hợp tác xã và nông dân tham gia liên kết tăng nhanh qua các năm, cao hơn so với tỷ lệ chung toàn quốc, song còn thấp. Năm 2023, chỉ có 12% hợp tác xã và gần 7% số hộ nông dân tham gia liên kết. Vì vậy, sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao còn chưa tương xứng với lợi thế tự nhiên các tỉnh trong vùng.

Thứ hai, tình trạng phá bỏ hợp đồng liên kết giữa hợp tác xã với nông dân vẫn xảy ra. Mặc dù liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa hợp tác xã với nông dân trong vùng các năm qua đã được quan tâm, song tình trạng các hộ nông dân không phải thành viên hợp tác xã sẵn sàng bỏ ngang hợp đồng khi giá bán nông sản trên thị trường cao hơn vẫn xảy ra; tình trạng hợp tác xã không thu mua sản phẩm của hộ nông dân liên kết ngoài thành viên khi giá nông sản xuống thấp vẫn còn. Trong đó, có trên 60% là nông dân bỏ ngang, trên 30% hợp tác xã không thực hiện đúng hợp đồng.

Thứ ba, phần lớn công nghệ được các mô hình liên kết giữa hợp tác xã với nông dân trong vùng ứng dụng vào nông nghiệp là kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, bảo quản, tiếp đến là công nghệ thông tin trong quản lý kinh doanh nông nghiệp, công nghệ sinh học trong lai tạo giống mới, còn các công nghệ hiện đại như chuỗi khối,... ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp còn rất ít.

Những hạn chế trên xuất phát từ các nguyên nhân cơ bản dưới đây:

Một là, nhận thức của nông dân và phần lớn hợp tác xã trong vùng về liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững còn thấp, chưa đầy đủ. Hầu hết nông dân, hợp tác xã trong vùng chưa nhận thức được vai trò, lợi ích, sự cần thiết phải liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, tâm lý e ngại, thiếu niềm tin vào mô hình hợp tác xã kiểu cũ vẫn còn trong tiềm thức nông dân, tâm lý e ngại nông dân bỏ ngang hợp đồng khiến cho tỷ lệ nông dân và hợp tác xã tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao còn ít, chưa khai thác được tiềm năng, lợi thế của các chủ thể này vào phát triển nông nghiệp.

Hai là, năng lực nội sinh của hợp tác xã nông nghiệp và trình độ nông dân trong vùng còn thấp. Phần lớn các hợp tác xã nông nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ, vốn tự có ít, năng lực quản trị yếu, trang thiết bị lạc hậu nên các hợp tác xã mới chủ yếu cung ứng dịch vụ đầu vào; Trình độ chuyên môn, năng lực quản lý các hợp tác xã còn yếu, phần lớn chưa qua đào tạo, chủ yếu điều hành dựa trên kinh nghiệm. Bên cạnh đó, phần lớn nông dân trong vùng là đồng bào dân tộc thiểu số chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Đến nay, gần 93% lao động nông nghiệp trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo. Năng lực đầu tư, tiếp nhận, chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp thấp nên tỷ lệ hợp tác xã cũng như nông dân tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững còn ít.

Ba là, hệ thống kết cấu hạ tầng, phục vụ sản xuất nông nghiệp của các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc còn lạc hậu, chưa đồng bộ, là “nút thắt” trong phát triển kinh tế nói chung, liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững nói riêng. Hệ thống giao thông, thủy lợi,... ở các tỉnh trong vùng tuy đã được đầu tư, song chưa đồng bộ; hệ thống kho vận, logistic, chợ đầu mối nông sản, hệ thống chế biến nông sản, trung tâm xúc tiến thương mại mới manh nha, nhất là hệ thống đường giao thông còn hạn chế là lực cản hợp tác xã, nông dân tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững.

Bốn là, việc tiếp cận vốn vay ưu đãi khó khăn. Liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp đòi hỏi kinh phí đầu tư lớn quay vòng vốn chậm. Bởi vì, ngoài nguồn vốn xây dựng hạ tầng, nâng cao năng lực tiếp nhận, chuyển giao, các hợp tác xã phải đầu tư trang thiết bị, công nghệ cũng như tiếp cận thị trường. Trong khi đó, hầu hết các hợp tác xã, hộ nông dân tham gia liên kết ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp các tỉnh trong vùng khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi. Nguyên nhân là thủ tục rườm rà, một số quy định chưa phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương như phải xây dựng được dự án phù hợp với chương trình, phải có tài sản thế chấp...

Năm là, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao còn hạn hẹp, phân tán. Đến nay, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao chủ yếu ở một số khu vực trung tâm, một số nơi có mức sống cao, còn phần lớn người tiêu dùng vẫn sử dụng sản phẩm nông nghiệp sản xuất truyền thống. Trong khi đó, phần lớn các hợp tác xã chưa đủ sức tiếp cận thị trường tiêu thụ ở ngoài nước. Như vậy, tín hiệu thị trường chưa đủ mạnh để thu hút hợp tác xã, nông dân liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, chưa là động lực để hợp tác xã, nông dân chuyển từ sản xuất truyền thống sang tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Thứ sáu, cơ chế, chính sách về liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp chưa được thực hiện hiệu quả. Mặc dù cả Trung ương và các tỉnh trong vùng đã có chủ trương, chính sách khuyến khích liên kết, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, song chưa được triển khai đầy đủ trong thực tiễn. Chẳng hạn, chính sách hỗ trợ vốn vay; dự báo, thông tin thị trường; hỗ trợ nâng cao năng lực các hợp tác xã; quảng bá thương hiệu, phát triển hạ tầng, bảo hiểm nông nghiệp... Một số chính sách còn bất cập chưa phù hợp với thực tiễn, ví dụ, chính sách hỗ trợ vốn vay nhưng có hạn mức thấp, thời gian ngắn trong khi chi phí đầu tư cao, thời gian thu hồi vốn dài; chế tài liên kết còn lỏng lẻo...

3. Một số giải pháp

Một lànâng cao nhận thức của nông dân, hợp tác xã về sự cần thiết phải liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững

Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn các tỉnh trong vùng cần phối hợp với các sở thông tin và truyền thông đẩy mạnh công tác tuyên truyền về vai trò, lợi ích của liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp tại địa phương trên các phương tiện thông tin đại chúng; trong các lớp bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo nghề. Bên cạnh đó, giới thiệu các mô hình đã thành công trong liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp trong tỉnh, các tỉnh trong vùng và cả nước. Từ nhận thức rõ vai trò, lợi ích liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững, nông dân, hợp tác xã chủ động xây dựng kế hoạch và thực hiện liên kết. Từ đó, hình thành nên các vùng, khu nông nghiệp công nghệ cao. Bên cạnh đó, tuyên truyền để xóa bỏ những “định kiến” về hợp tác xã kiểu cũ và hiểu đúng về bản chất, giá trị “hợp tác xã kiểu mới”, giúp cho mọi người hiểu và yên tâm khi liên kết.

Hai là, nâng cao năng lực nội sinh của các hợp tác xã và nâng cao trình độ nông dân các tỉnh trong vùng

Các địa phương trong vùng cần tổ chức các khóa bồi dưỡng, đào tạo kiến thức về thị trường, hội nhập, marketting và khuyến khích đội ngũ giám đốc, quản lý hợp tác xã tự học tập nâng cao trình độ; tạo điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã thuê đất, mở rộng sản xuất, tiếp cận được vốn vay ưu đãi, mua sắm trang thiết bị phục vụ quản lý, kinh doanh, hỗ trợ tiếp cận thị trường trong nước và xuất khẩu; đào tạo, bồi dưỡng. Bên cạnh đó, đào tạo nghề nông, nâng cao ý thức thực hiện hợp đồng liên kết cho nông dân; tăng cường vai trò của các trung tâm khuyến nông, tổ chức tập huấn kỹ thuật, nghiệp vụ cho cán bộ, cộng tác viên khuyến nông và nông dân. Lồng ghép các chương trình đào tạo dài hạn, ngắn hạn và tập huấn chuyển giao công nghệ. Quá trình đào tạo cần diễn ra liên tục, có kế thừa để đáp ứng yêu cầu của nông dân, hợp tác xã, từng bước tiếp cận với công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.

Ba làđầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nói chung và kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp công nghệ cao

Bên cạnh nguồn vốn từ trung ương trong các chương trình, dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nội vùng, liên vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp Bộ Giao thông vận tải xây dựng cơ chế thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư hệ thống đường giao thông các tuyến mới kết nối các tỉnh trong vùng và với các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Đối với những đường liên thôn, liên xã, liên bản, đường lên các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung giao cho chính quyền cấp huyện quản lý, cấp phép xây dựng và quản lý, kinh phí lấy từ vốn ngân sách kết hợp với các chương trình dự án xây dựng nông thôn mới và đóng góp của nhân dân. Xây dựng mới và củng cố hệ thống điện, thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp xây dựng hệ thống kho vận, logistic, chợ đầu mối nông sản, hệ thống chế biến nông sản, hệ thống trung tâm xúc tiến thương mại.

Bốn là, tạo điều kiện để hợp tác xã, nông dân tham gia liên kết tiếp cận nguồn vốn ưu đãi thuận lợi

Ủy ban nhân dân các tỉnh trong vùng chỉ đạo các ngân hàng Thương mại, các tổ chức tín dụng trên địa bàn công khai quy trình, thủ tục để tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp vay được nguồn vốn ưu đãi. Theo đó, cán bộ tín dụng phải hướng dẫn cách thức xây dựng dự án một cách cụ thể, dễ hiểu cho các hợp tác xã, nông dân tham gia liên kết ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp. Bên cạnh đó, có thể thay tài sản thế chấp bằng diện tích đất liên kết hoặc các trang thiết bị công nghệ của hợp tác xã tham gia liên kết. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh tham mưu UBND các tỉnh có cơ chế ưu đãi đặc biệt đối với những chủ chuỗi là hợp tác xã liên kết đưa công nghệ hiện đại vào sản xuất, kinh doanh nông nghiệp tại địa phương.

Năm là, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, bền vững ở vùng trung du và miền núi phía Bắc

Đối với thị trường trong nước, các địa phương trong vùng cần đẩy mạnh quảng bá sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, bền vững trên địa bàn đến người tiêu dùng cả nước thông qua các siêu thị, quầy hàng chất lượng cao, hội chợ triển lãm, hội nghị, hội thảo. Bên cạnh đó, đẩy mạnh phối hợp, liên kết giữa các địa phương trong vùng và ngoài vùng trong sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm chủ lực chất lượng cao từng địa phương. Đối với thị trường xuất khẩu, chính quyền các địa phương phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương, các bộ ngành có liên quan đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu các sản phẩm nông sản chất lượng cao, chủ lực cho từng giai đoạn, từng khu vực thị trường mục tiêu.

Sáu làthực hiện các chính sách khuyến khích liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong thực tiễn, tránh tình trạng chính sách thì có nhưng không thực hiện hiệu quả.

Cung cấp thông tin dự báo cung cầu sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao; thực hiện bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm công nghệ cao, hỗ trợ các chủ thể liên kết tham gia bảo hiểm nông nghiệp; khuyến khích liên kết theo hợp đồng và thực hiện nghiêm chế tài khi vi phạm hợp đồng; hoàn thiện và thực hiện cơ chế khuyến khích, tôn vinh các doanh nghiệp, hộ nông dân thực hiện nghiêm túc chế tài liên kết.

Những đổi mới và quyết sách của Quốc hội trước kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

 Với tinh thần đổi mới, khí thế mới và quyết tâm mới, cùng với nỗ lực của Chính phủ, thời gian qua, Quốc hội đã quyết sách nhiều vấn đề quan trọng của đất nước, trong đó có nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực và thực tiễn đang đòi hỏi cấp thiết. Qua đó, tạo tiền đề về mọi mặt, góp phần quan trọng hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Trải qua gần 80 năm ra đời và phát triển, trưởng thành, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay thực sự là thành quả, biểu tượng cao quý của độc lập dân tộc, thống nhất đất nước - nơi hội tụ, lan tỏa ý chí, niềm tin và sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, ở mỗi giai đoạn cách mạng và từng nhiệm kỳ, Quốc hội Việt Nam không ngừng hoàn thiện về tổ chức và phát triển lớn mạnh; tăng cường đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, hoàn thành tốt sứ mệnh lịch sử, nhiệm vụ cách mạng được Đảng, nhân dân và cử tri tin tưởng giao phó. Quốc hội ngày càng khẳng định vững chắc vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt nhân dân thực hiện các quyền lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Từ khi ra đời đến nay, Quốc hội đã xây dựng, ban hành 05 bản Hiến pháp1 - những đạo luật cơ bản nhất của Nhà nước - thể hiện sự kết tinh ý chí, nguyện vọng, trí tuệ và sự sáng tạo của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các bản Hiến pháp ra đời đã tạo lập nền tảng chính trị, pháp lý cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước trong các giai đoạn lịch sử gần tám thập niên qua. Điều đó đã được Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Trong thành tựu chung của đất nước, có đóng góp rất quan trọng của Quốc hội nói chung, Quốc hội khóa XV nói riêng. Trong thời gian qua, hoạt động của Quốc hội đã có nhiều đổi mới, thực chất và hiệu quả hơn. Quốc hội ngày càng phát huy vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”2.

Đặc biệt, trên cơ sở kế thừa, phát huy những ưu điểm, bài học kinh nghiệm của Quốc hội trong lịch sử, nhất là của các nhiệm kỳ gần đây, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XV (từ ngày 21/10/2024 đến ngày 30/11/2024) - kỳ họp mang tính lịch sử, đã tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khắc phục các điểm nghẽn; quyết sách nhiều vấn đề khó, phức tạp, nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài trong nhiều năm, thậm chí nhiều nhiệm kỳ, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực và thực tiễn đang đòi hỏi cấp thiết; khơi thông nguồn lực, tập trung cao độ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Đồng thời, thảo luận, quyết định nhiều dự án tầm chiến lược, tạo tiền đề về mọi mặt, góp phần quan trọng hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Hoạt động của Quốc hội đã thể hiện nổi bật sự đổi mới về nhận thức, cách thức tiến hành và các hoạt động, lan tỏa mạnh mẽ tinh thần của Hội nghị Trung ương 10 (khóa XIII) ở mọi khâu, mọi bước và có những quyết đáp đúng đắn, kịp thời, đúng với tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9/11/2022 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:

Đổi mới về nhận thức, nâng cao hiệu quả các hoạt động của Quốc hội. Với tinh thần đổi mới toàn diện, lắng nghe ý kiến của các chuyên gia, nhà quản lý, doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là qua thực tiễn hoạt động, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có những đổi mới, nhất là đổi mới về nhận thức ngay từ khâu chuẩn bị cho kỳ họp để rà soát và thống nhất các nội dung cần báo cáo, trình Quốc hội xem xét, quyết định theo đúng thẩm quyền. Cùng với đó là những đổi mới trong công tác phối hợp giữa cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan chủ trì thẩm tra trong quá trình xây dựng các dự án luật, dự thảo nghị quyết trên tinh thần “đồng hành thực chất, tranh luận đến cùng, tôn trọng lắng nghe, lý lẽ dân chủ, nhưng phải đi đến phương án thống nhất tối ưu”.

Các dự thảo báo cáo, tờ trình, luật, nghị quyết được gửi kịp thời vừa giúp các đại biểu Quốc hội nghiên cứu, chuẩn bị ý kiến trước, vừa rút ngắn thời gian trình bày những tờ trình, báo cáo tại hội trường, dành thời gian để các đại biểu Quốc hội thảo luận và đại diện các cơ quan có liên quan phát biểu, giải trình, làm rõ những vấn đề đại biểu quan tâm. Đồng thời, Quốc hội cũng đổi mới hoạt động tại kỳ họp theo hướng giảm thời gian thảo luận tại hội trường, tăng thời gian thảo luận tại tổ để bảo đảm nhiều đại biểu Quốc hội được phát biểu ý kiến, trao đổi, thảo luận dân chủ và khách quan. Đặc biệt, ngay sau khi diễn ra các phiên thảo luận tổ, cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan chủ trì thẩm tra chủ động phối hợp, báo cáo giải trình sơ bộ, với tinh thần “dù một ý kiến đóng góp cũng phải được nghiên cứu, tiếp thu, giải trình thấu đáo, khẩn trương, kịp thời”.

Đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp. Đây là chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Quốc hội; là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các kỳ họp. Những năm qua, Quốc hội đã không ngừng đổi mới, nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, chủ động, kịp thời thể chế hóa các chủ trương của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp, bám sát yêu cầu của thực tiễn, phản ánh chân thực ý chí, nguyện vọng của cử tri và nhân dân. Vì thế, ở mỗi nhiệm kỳ, Quốc hội tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc lập pháp, ban hành khối lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật, góp phần quan trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ bản bao phủ rộng khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội, đáp ứng kịp thời yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng.

Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV, công tác lập pháp là một trong những trọng tâm ưu tiên để tập trung khắc phục, tháo gỡ nhanh và khơi thông ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực; trong đó, thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Quốc hội đã thảo luận, biểu quyết thông qua 18 luật và 21 nghị quyết, trong đó có 4 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật với tỷ lệ tán thành cao. Đồng thời, cho ý kiến lần đầu đối với 10 dự án luật khác. Đây đều là những dự án luật, dự thảo nghị quyết được cử tri, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp rất quan tâm, theo dõi. Trong đó có những dự thảo luật, dự thảo nghị quyết được Quốc hội xem xét, thông qua theo quy trình, thủ tục rút gọn tại một kỳ họp với nhiều quy định mới không những được đánh giá là chính sách đột phá, nhằm không chỉ kịp thời tháo gỡ ngay những khó khăn cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư công, thúc đẩy tăng trưởng, mà còn có tầm nhìn dài hạn, tạo cơ sở pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, như: quản lý và sử dụng dữ liệu, phát triển công nghiệp công nghệ số, chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao, phát triển điện hạt nhân và điện gió ngoài khơi,… thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, bắt kịp xu thế của thời đại, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới của dân tộc.

Quá trình tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện đối với các dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội xem xét, thông qua và các dự án luật trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu cho thấy, công tác lập pháp đã bám sát và hiện thực hóa tinh thần: chuyển đổi mạnh tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. Theo đó, các quy định của pháp luật do Quốc hội ban hành mang tính ổn định, có giá trị lâu dài. Luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc, đúng tầm và ngắn gọn, súc tích. Trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, các cơ quan đã chủ động rà soát, thống nhất cao về việc lược bỏ khỏi dự thảo luật những quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ, các bộ và cơ quan khác; không luật hóa các nội dung thông tư, nghị định. Đối với những vấn đề cụ thể còn đang trong quá trình vận động, chưa ổn định thì luật chỉ quy định khung và giao cho Chính phủ quy định chi tiết, đảm bảo linh hoạt trong điều hành, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Chính vì vậy, sau quá trình tiếp thu, chỉnh lý và hoàn thiện, số lượng các chương, điều, khoản trong các dự thảo luật đã giảm đáng kể so với bản dự thảo ban đầu do Chính phủ trình.

Đáng chú ý, việc xây dựng và trình Quốc hội thông qua dự thảo Luật Đầu tư công (sửa đổi) cũng như “một luật sửa bốn luật” trong lĩnh vực đầu tư và “một luật sửa chín luật” trong lĩnh vực tài chính, ngân sách,… là ví dụ điển hình cho việc đổi mới công tác xây dựng pháp luật theo hướng “chuyển từ tư duy quản lý sang khơi thông nguồn lực” với tinh thần đột phá, cải cách, phân cấp, phân quyền theo phương châm: “Địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ giữ vai trò kiến tạo, tăng cường hoàn thiện thể chế và kiểm tra, giám sát; bảo đảm “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ kết quả”; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tránh tạo cơ chế “xin - cho”; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể trong các quy định pháp luật do Quốc hội ban hành; công việc giao cơ quan nào, cấp nào làm tốt nhất thì giao cơ quan đó, cấp đó làm.

Trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và Luật Phòng không nhân dân, với tỷ lệ tán thành cao, thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội đối với việc xây dựng đội ngũ sĩ quan vững mạnh làm nòng cốt xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý khẳng định vai trò quan trọng của phòng không nhân dân trong phòng ngừa, xử lý có hiệu quả các tình huống về quốc phòng, an ninh trên không, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Quốc hội xem xét, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, tạo tiền đề để đất nước vươn mình trong thời gian tới. Nhằm tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, tạo đột phá để hoàn thiện cơ sở hạ tầng, phát huy tối đa nguồn lực, kiến tạo không gian phát triển mới, Quốc hội đã thảo luận và thông qua với tỷ lệ tán thành cao các nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và một số vấn đề khác liên quan đến các dự án trọng điểm của quốc gia, v.v. Đặc biệt, việc Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam ngay sau khi Ban Chấp hành Trung ương thống nhất chủ trương đầu tư toàn tuyến đối với Dự án, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới là minh chứng rõ ràng cho tư duy đổi mới trong phát triển hạ tầng quốc gia, không tiếp cận đơn lẻ, cục bộ, mà được hoạch định trên góc nhìn tổng thể, dài hạn, chiến lược, kết hợp hài hòa giữa các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường, quốc phòng, an ninh. Đây không chỉ là một công trình giao thông quan trọng quốc gia, mà còn là biểu tượng của khát vọng, tinh thần đổi mới và hành động quyết liệt, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức để mở ra cơ hội lớn cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Quốc hội cũng đã thảo luận, thông qua nhiều cơ chế, chính sách để giải quyết kịp thời các vấn đề quốc kế dân sinh, tháo gỡ nhanh nhất các khó khăn, “điểm nghẽn” liên quan đến cơ chế, chính sách, các dự án, đất đai, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, giải phóng các nguồn lực, hỗ trợ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn, như: Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi) quy định từng bước liên thông, thông tuyến trong khám chữa bệnh bảo hiểm y tế; giảm thuế giá trị gia tăng; Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035; Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2030, v.v. Nhằm lan tỏa tinh thần của Trung ương, Quốc hội cho phép sử dụng nguồn cắt giảm, tiết kiệm 5% chi thường xuyên năm 2024 của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương để hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Quốc hội đã đồng thuận cao với chủ trương xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, mang tính thời đại, như: phát triển hạ tầng năng lượng quốc gia (khởi động lại việc đầu tư dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận,…), ứng dụng thành quả của trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh,... nhằm tạo bước đột phá mạnh mẽ cho sự phát triển của đất nước những năm tiếp theo trong kỷ nguyên mới.

Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội được thực hiện tốt hơn. Hoạt động giám sát của Quốc hội ngày càng thực chất, hiệu quả, không chỉ nhằm mục đích đưa pháp luật vào cuộc sống, bảo đảm cho luật pháp được thi hành nghiêm và thống nhất, mà còn đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội đã kịp thời chấn chỉnh các sai sót, hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành và địa phương; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến thực sự trong thực tiễn.

Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp, nhất là kỳ họp thứ 8 đã có sự đổi mới và thành công với những cam kết mạnh mẽ trong chỉ đạo, quản lý, điều hành của Chính phủ. Sau chất vấn, Quốc hội đã thông qua nghị quyết với những yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể đối với Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan nhằm tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc giám sát thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát. Đồng thời, tập trung nghiên cứu, xác định rõ phương pháp, lựa chọn các hình thức giám sát phù hợp với thực tiễn, như: giám sát từ cơ sở, giám sát đột xuất,… kết hợp giám sát của Quốc hội với Hội đồng nhân dân; kế thừa kết quả giám sát, kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Trong đó, quán triệt quan điểm giám sát là để tăng hiệu quả thực chất của việc thực hiện chính sách, pháp luật, tránh trùng lặp với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác; không để ảnh hưởng, cản trở đến hoạt động bình thường của các cơ quan, đơn vị.

Cùng với đó, Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng về nhân sự cấp cao của đất nước và sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 - 2025 là cơ sở quan trọng để các địa phương trong cả nước sớm ổn định tổ chức bộ máy, tiến hành thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, thể hiện tinh thần đổi mới, hiệu quả cao trong quá trình làm việc của Quốc hội.

Hiện nay toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta với tinh thần mới, khí thế mới, niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đó là kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Để đạt được mục tiêu đó, ưu tiên hàng đầu là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao. Theo đó, đất nước đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần giải quyết. Nhân dân đang mong chờ và kỳ vọng vào những quyết sách của Đảng, Nhà nước và Quốc hội. Để đáp ứng những đòi hỏi đó, trong thời gian tới, Quốc hội tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, gương mẫu, đi đầu, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động theo phương châm “Trung ương làm gương - Địa phương hưởng ứng”; chú trọng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, tập trung triển khai thực hiện đồng bộ và hiệu quả các quyết sách của Quốc hội thời gian qua, nhất là tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XV. Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các cấp, các ngành, các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội cần tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời các luật, nghị quyết đã được thông qua; khẩn trương quán triệt tinh thần đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật có hiệu quả, tạo hiệu ứng lan toả tích cực trong hệ thống chính trị và toàn dân.

Hai là, chủ động phối hợp chuẩn bị nội dung, chương trình kỳ họp thứ 9 và thứ 10 của Quốc hội khóa XV; tích cực chuẩn bị tổng kết toàn quốc hoạt động của Hội đồng nhân dân, đoàn đại biểu Quốc hội năm 2024; chú trọng việc lan tỏa, sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy và trách nhiệm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Ba là, quán triệt sâu sắc và triển khai khẩn trương yêu cầu cấp bách của công tác sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước trong kỷ nguyên mới; gắn chặt công tác tư tưởng với công tác tổ chức, cán bộ và chính sách; tập trung nâng cao ý thức, trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên, người lao động, trước hết là sự nêu gương của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức; trong đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội, coi đây là một trong những yếu tố then chốt của then chốt để đổi mới hoạt động của Quốc hội.

Đảng đoàn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập Ban Chỉ đạo, xây dựng kế hoạch, họp bàn phân công cụ thể; Quốc hội và các đại biểu Quốc hội cần thống nhất cao và gương mẫu, đi đầu. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quan hệ giữa các cơ quan, nhất là các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ, bảo đảm chặt chẽ, hài hòa trong quy trình quản trị quốc gia. Sắp xếp, kiện toàn Hội đồng dân tộc, các ủy ban, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Bên cạnh đó, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội theo chức năng, nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu, rà soát các luật, pháp lệnh, nghị quyết có liên quan đến tổ chức, hoạt động của Quốc hội nói riêng và của cả hệ thống chính trị nói chung để chủ động đề xuất trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới, sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, đảm bảo chủ trương của Đảng được triển khai nhanh nhất khi được Trung ương thống nhất thông qua.

Bốn là, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội tiếp tục quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; trong đó, xác định bốn giải pháp trọng tâm gồm: nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên với tư duy làm việc khoa học, quản lý thời gian hiệu quả, hình thành trách nhiệm đạo đức xã hội gắn với thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật; hoàn thiện thể chế phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm; giải quyết triệt để các nguyên nhân dẫn đến tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; xây dựng văn hóa tiết kiệm, coi thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, hằng ngày của mỗi cá nhân, tổ chức.

Năm là, xây dựng và triển khai kế hoạch tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Dự kiến cơ cấu, thành phần, nhân sự cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI; chỉ đạo triển khai công tác chuẩn bị cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031 thành công tốt đẹp.

Quán triệt, thực hiện tốt ba nhiệm vụ lớn mà Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 10 (khóa XIII) xác định: đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị; tăng tốc, bứt phá để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng; chuẩn bị tốt các điều kiện để tổ chức thành công Đại hội XIV, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Với vai trò và chức năng của mình, tiếp nối và phát huy những kết quả của kỳ họp thứ 8, Quốc hội cần “Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động, bảo đảm thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp”3 cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu đã đề ra, vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.

 

ÂM MƯU XÉT LẠI, PHỦ NHẬN NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, cách mạng xã hội chủ nghĩa đã đem lại thắng lợi to lớn của phong trào cách mạng thế giới. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, CNXH từ một học thuyết trở thành một chế độ chính trị - xã hội tồn tại đến ngày nay đã minh chứng cho giá trị và sức sống mãnh liệt, trường tồn và vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin trong sự phát triển của lịch sử nhân loại.

Tuy vậy, sau sự kiện CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực phản cách mạng tìm mọi cách để chống lại chủ nghĩa Mác - Lênin, cản trở sự thâm nhập và lan rộng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Những thế lực đòi xét lại, đòi bác bỏ nhiều vấn đề lý luận trong quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin như lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhà nước và cách mạng xã hội...

Nhiều nhà tư tưởng tư sản đưa ra những thuật ngữ mới như: “Xã hội siêu công nghiệp”, “các nhà hợp nhất”, “phương tiện hợp nhất”, “siêu đấu tranh”, “ý thức hệ toàn cầu”... của Alvin Toffler, phái Frankfurt, “chủ nghĩa Mác mới” ở các nước phương Tây. Họ cho rằng, ngày nay không còn đấu tranh giai cấp, không còn chuyên chính vô sản, chỉ còn sự hợp tác, thống nhất, sự tương trợ thuần túy lẫn nhau...

Từ quan điểm của “Quyết định luận kỹ thuật”, thuyết “Hội tụ” đến “Làn sóng thứ ba” đều nhằm gián tiếp phủ nhận phương pháp tiếp cận lịch sử bằng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của triết học Mác, phủ nhận những mâu thuẫn, xung đột truyền thống, nhất là mâu thuẫn giai cấp, qua đó cũng phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Samuel P.Huntington (chuyên gia nghiên cứu chính trị Mỹ) cho rằng, các cuộc xung đột trong lịch sử là do sự xung đột giữa các nền văn minh với nhau...

Mặc dù quan điểm này của Huntington cũng cung cấp thêm một cái nhìn đa diện về xung đột, nhưng nguồn gốc sâu xa của các cuộc xung đột trên thế giới gần đây hoàn toàn không phải do sự khác biệt về văn hóa, văn minh, càng không phải là sự khác biệt về tôn giáo. Nguồn gốc thực sự của các cuộc xung đột lớn đó là vấn đề lợi ích (cả kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh...). Quan điểm này nhằm bác bỏ lý luận mâu thuẫn giai cấp, cách mạng xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin.


ĐẤU TRANH PHẢN BÁC NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam, các thế lực thù địch luôn xác định đường lối, chính sách quốc phòng của Việt Nam là một trong những nội dung chủ yếu cần phải tập trung công kích, chống phá; từ đó, từng bước xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, “phi chính trị hóa quân đội”, làm cho quân đội xa rời mục tiêu, lý tưởng, không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ. Thời gian qua, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, phủ nhận ý nghĩa nhân văn và tinh thần quốc tế cao cả của Quân đội Nhân dân (QĐND) Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc (LHQ). Chúng cho rằng, Nhà nước Việt Nam cử lực lượng quân đội tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ để “nhằm tìm cách đánh bóng mình”, “Nhà nước không lo bảo vệ chủ quyền lại lo làm những việc vô bổ”, “Chính phủ đưa QĐND tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của LHQ là tham gia liên minh quân sự, đi xâm lược, chiếm đóng nước khác”,... Với những luận điệu đó, mục đích của chúng là nhằm xuyên tạc đường lối, chính sách quốc phòng của Việt Nam, chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước Việt Nam trên trường quốc tế. Qua việc Nhà nước ta cử lực lượng QĐND tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ, chúng lợi dụng sự kiện này tuyên truyền nhằm xuyên tạc đường lối, chính sách quốc phòng của Việt Nam. Qua đó, hòng bôi nhọ hình ảnh của quân đội ta, làm xói mòn niềm tin của nhân dân. Nhằm thực hiện ý đồ trên, các thế lực thù địch đã thông qua Internet, mạng xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc, nhất là vào thời điểm trong nước diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng.

Trước những thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc về hoạt động tham gia gìn giữ hòa bình của LHQ của QĐND Việt Nam trong thời gian tới, cần tập trung tuyên truyền một số nội dung sau:

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu và hiệu quả của công tác vận động, tuyên truyền làm cho cán bộ, đảng viên, quân nhân và người dân, kiều bào ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế nhận thức đúng đắn, đầy đủ về đường lối, chính sách quốc phòng của Việt Nam nói chung, vị trí, vai trò của hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ của QĐND Việt Nam trong đường lối đối ngoại quốc phòng của Việt Nam nói riêng; những thành tựu mà QĐND Việt Nam đã đạt khi tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ. Đặc biệt, cần vận động, tuyên truyền làm cho cán bộ, đảng viên và người dân nâng cao tinh thần cảnh giác, có khả năng nhận diện và “miễn dịch” đối với các thông tin xấu, độc, xuyên tạc về đường lối, chính sách quốc phòng của Việt Nam. Công tác đấu tranh phòng, chống hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch luôn phải đặt dưới sự lãnh, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Cuộc đấu tranh này phải được triển khai sâu, rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với nội dung phong phú, phù hợp với từng đối tượng. Trong đó, cần huy động sự đồng lòng ủng hộ, tham gia của các nhân sĩ, trí thức, các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại quốc phòng, tăng cường hợp tác quốc tế với các quốc gia, các tổ chức quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng nhằm kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Đấu tranh phản bác với những quan điểm sai trái, thù địch nhằm bảo vệ đường lối đối ngoại quốc phòng và hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ của quân đội ta là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, quyết liệt. Dù có khó khăn, lâu dài phức tạp nhưng tin tưởng rằng, dưới sự lãnh, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, với quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này, qua đó nâng cao vị thế và uy tín của đất nước, khẳng định một Việt Nam yêu chuộng hòa bình, sẵn sàng làm bạn với tất cả quốc gia trên thế giới./.


Đấu tranh phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” kích động “ly khai, tự trị” dân tộc

 Thời gian qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa”(1) bằng nhiều luận điệu để tuyên truyền kích động đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đòi quyền “tự trị”, hướng đến “ly khai” (?!). Những luận điệu tinh vi và nguy hiểm này cần được nhận diện rõ nhằm kiên quyết đấu tranh phản bác, góp phần bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn đánh tráo khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền của người bản địa”

Khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” và “quyền của người bản địa” tuy có quan hệ nhưng rất khác nhau về nội hàm, đặc biệt là ý nghĩa chính trị. Trên bình diện quốc tế, “quyền dân tộc tự quyết” là việc một quốc gia - dân tộc có quyền tự chủ đối với vận mệnh của dân tộc mình, quyền quyết định về thể chế chính trị và con đường phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội...  

Trong khi đó, “quyền của người bản địa” là quyền của các dân tộc thiểu số (DTTS) hoặc nhóm sắc tộc, chủ yếu là những quyền về văn hóa - xã hội của một bộ phận dân cư trong lòng một quốc gia - dân tộc có chủ quyền. Khái niệm quyền của người DTTS được chính thức ghi nhận tại Điều 27 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR 1966): “Ở những quốc gia tồn tại các nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ, những người thuộc các nhóm thiểu số đó sẽ không bị từ chối quyền, trong cộng đồng với các thành viên khác trong nhóm của họ, được hưởng nền văn hóa của họ, tuyên xưng và thực hành tôn giáo của họ, hoặc sử dụng ngôn ngữ riêng của họ”(2). Như vậy, khi nói đến “quyền của người bản địa” thì chủ yếu là những quyền thuộc nhóm quyền kinh tế, văn hóa - xã hội.

Pháp luật quốc tế không công nhận một DTTS ở một quốc gia được ly khai, thành lập một quốc gia độc lập với quốc gia được quốc tế công nhận mà họ là công dân trong quốc gia đó. Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa, được thông qua theo Nghị quyết số 1514 (XV), ngày 1-4-1960, của Đại Hội đồng Liên hợp quốc khẳng định: Bất kỳ cố gắng nào nhằm gây phá vỡ toàn bộ hay một phần sự thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của một đất nước là trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc. Tại Điều 46, Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa (năm 2007) cũng ghi rõ: Không một điểm nào trong Tuyên ngôn này được giải thích để hàm ý cho bất kỳ nhà nước, dân tộc, nhóm người hay người nào có quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hoặc thực hiện bất kỳ hành vi nào trái với Hiến chương Liên hợp quốc hoặc được giải thích để ủy quyền hay khuyến khích bất kỳ hành vi nào làm chia cắt hay suy yếu toàn bộ hay một phần sự thống nhất về lãnh thổ hay đoàn kết về chính trị của các nhà nước độc lập và có chủ quyền.

Như vậy, “quyền tự quyết” của dân tộc, sắc tộc nào đó trong một quốc gia - dân tộc có chủ quyền không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ “quyền dân tộc tự quyết”, không được xâm phạm quyền của cả quốc gia - dân tộc. Những đòi hỏi về “quyền tự quyết” được cho là dựa trên Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa là cách hiểu sai lệch, trái với Hiến chương Liên hợp quốc và pháp luật quốc tế về quyền con người. 

Thuật ngữ “dân tộc bản địa” xuất hiện cùng với quá trình tìm kiếm thị trường, truyền bá tôn giáo và xâm lược thuộc địa từ khoảng thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX của các nước tư bản châu Âu đối với các quốc gia ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh. Theo đó, những người đã sinh sống lâu đời trên vùng đất bị xâm chiếm - họ coi mình là “người bản địa”. Trong lịch sử hình thành các quốc gia - dân tộc, nhất là sau mỗi cuộc chiến tranh xâm lược, quá trình di dân từ “chính quốc” đến thuộc địa đã hình thành những quốc gia - dân tộc mới. Ngay từ khi mới hình thành, ở các quốc gia này vẫn luôn tồn tại hai nhóm xã hội: Nhóm người di cư và nhóm người bản xứ. Những nhóm xã hội này thường vẫn muốn duy trì phong tục, tập quán, ngôn ngữ, lối sống riêng của mình. Ở những quốc gia này, khái niệm “người bản địa” vẫn tồn tại và có ý nghĩa nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm “người bản địa” được mọi người thống nhất và thừa nhận. Vì vậy, hiện nay, nhiều chủ thể (quốc gia, tộc người, nhóm xã hội) buộc phải thừa nhận “người bản địa” là một khái niệm “mở”, theo nghĩa: Một nhóm xã hội, một dân tộc nào đó có thể tự nhận hoặc phủ nhận mình là “người bản địa” nếu quan niệm đó phù hợp với lợi ích của họ. Mặt khác, một nhà nước, một chính phủ hoàn toàn có quyền thừa nhận hoặc phủ nhận một nhóm, một bộ phận dân cư, một dân tộc, sắc tộc nào đó là “người bản địa”, nếu điều ấy phù hợp với lợi ích của quốc gia - dân tộc họ.

Ở Việt Nam, thuật ngữ “dân tộc bản địa” gắn liền với thời kỳ nước ta bị đô hộ, xâm lược. Thời kỳ Pháp thuộc, tên nước Việt Nam bị xóa trên bản đồ thế giới, bị chia cắt thành ba kỳ trong xứ Đông Dương thuộc Pháp; thuật ngữ “người bản xứ” (hoặc “người bản địa”) được dùng để chỉ tất cả các cộng đồng dân tộc Việt Nam. Khi ấy, tất cả người dân nước ta không phân biệt dân tộc, tôn giáo đều bị gọi tên An-nam-mít (Annammit). Như vậy là, khái niệm “người bản địa” chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ khi nước ta trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân và nó chỉ tồn tại với chế độ đó(3). Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, người dân Việt Nam làm chủ đất nước của mình, không còn là “dân bản địa” hay “người bản xứ” nữa. “Ngày nay, khi đất nước độc lập, thống nhất, Nhà nước Việt Nam là của dân, do dân, vì dân với chính sách đại đoàn kết dân tộc, thì khái niệm “người bản địa” và “quyền của người bản địa” đã lùi về quá khứ. Thay vào đó là “quyền công dân” - quyền của tất cả mọi người Việt Nam”(4). Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Điều 6) khẳng định: Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa. Đây là sự thật lịch sử không ai có thể bác bỏ!

Để “chứng minh bằng thực tiễn” cái gọi là “quyền tự trị của người bản địa” nhằm kích động “ly khai”, đòi “tự trị” dân tộc, các đối tượng còn cho rằng trong lịch sử Việt Nam, chính quyền đương đại đã từng thừa nhận “quyền” này và cho thành lập các “khu tự trị”, như “Hoàng triều cương thổ” hay Khu Tự trị Việt Bắc.

Trước hết, phải nhận thức rằng, không thể đặt ra so sánh giữa cái gọi là “Hoàng triều cương thổ” và Khu tự trị Việt Bắc, bởi bối cảnh ra đời, ý nghĩa và “sứ mạng” lịch sử, chính trị, xã hội của những thể chế, đơn vị hành chính này khác nhau. Tuy nhiên, có điểm chung là các thể chế đó chỉ hiện diện ở giai đoạn nhất định và quan trọng hơn, mặc dù có “cơ chế tự trị” nhưng chính quyền trung ương lúc bấy giờ luôn có các quy định để kiểm soát, quản lý chặt chẽ. Sau khi thực dân Pháp thất bại tại Việt Nam, ngày 10-8-1954, quy chế “Hoàng triều cương thổ” bị xóa bỏ. Do đó, “Hoàng triều cương thổ là chính sách “một quốc gia trong lòng một quốc gia” - một âm mưu chính trị thâm độc mới của chủ nghĩa thực dân Pháp tại Tây Nguyên, nhằm chia rẽ, gây tị hiềm lâu dài giữa dân tộc Kinh với các DTTS khác, ngăn cản đồng bào các dân tộc Việt Nam chung tay xây dựng đất nước, ngăn chặn việc người Kinh lên Tây Nguyên sinh cơ lập nghiệp. Chính sách trên đã gặp phải sự chống đối quyết liệt của nhân dân Việt Nam bởi nó đi ngược lại ý nguyện thống nhất của toàn dân tộc”(5).

Đối với Khu tự trị Việt Bắc, ngày 1-7-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 268-SL thành lập Khu tự trị Việt Bắc. Điều 1 Sắc lệnh nêu rõ: “Để tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc và tạo điều kiện cho các dân tộc ở Việt Bắc tiến bộ mau chóng về mọi mặt, nay lập Khu tự trị Việt Bắc”(6). Tiếp đó, ngày 10-8-1956, Bác Hồ gửi thư căn dặn đồng bào Khu tự trị Việt Bắc và một lần nữa khẳng định: “Mục đích lập Khu tự trị là để làm cho các dân tộc anh em toàn khu cùng nhau tự quản lý công việc của mình, phát huy khả năng của mình, tiến bộ mau chóng về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...”(7). Trong Quy định thành lập, Khu tự trị Việt Bắc được thực hiện một số quyền tự trị về chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, những đặc quyền này luôn có sự ràng buộc bởi các quy định mang tính nguyên tắc, như: “Khu tự trị Việt Bắc là một bộ phận của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính quyền Khu tự trị là một cấp chính quyền địa phương, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chính phủ trung ương. Chính quyền và nhân dân Khu tự trị đều tuân theo đường lối, chính sách và pháp luật chung của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà quản lý những việc trong Khu tự trị” (Điều 3). Về quyền tự trị chính trị: “Chính quyền Khu tự trị được quyền quy định những luật lệ riêng”, nhưng phải “Dựa trên luật pháp chung của Nhà nước và căn cứ vào tình hình đặc biệt ở địa phương”, đồng thời “Những luật lệ riêng này sau khi được Chính phủ Trung ương chuẩn y mới thi hành” (Điều 8). Hay về quân sự: “Chính quyền Khu tự trị được tổ chức bộ đội địa phương, dân quân và công an Khu tự trị, để bảo vệ an toàn của Khu tự trị và giữ gìn trật tự trong Khu”; tuy nhiên, “Bộ đội địa phương và dân quân trong Khu tự trị là những bộ phận trong quân đội nhân dân Việt Nam, thuộc quyền chỉ huy tối cao của Bộ Quốc phòng Tổng Tư lệnh. Công an Khu tự trị là một bộ phận trong tổ chức công an toàn quốc thuộc quyền chỉ đạo chung của Bộ Công an” (Điều 9). Sau giải phóng miền Nam, đất nước thống nhất, ngày 27-12-1975, Khu tự trị Việt Bắc giải thể (cùng với Khu tự trị Tây Bắc); đồng thời, những quy định trong Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959 về cấp khu tự trị cũng được bãi bỏ theo Quyết định của Quốc hội khóa V, tại Kỳ họp thứ 2.

Như vậy, lịch sử đã chứng minh, ở Việt Nam, xu hướng chủ đạo, hợp quy luật là hòa hợp, thống nhất dân tộc; đoàn kết, tương trợ nhau giữa các dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Sự hình thành, tồn tại, thống nhất và phát triển của quốc gia gắn liền với sự tồn tại và phát triển trong sự đa dạng và phong phú của các dân tộc. Và thực tế lịch sử này một lần nữa khẳng định: Không thể có nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia! “Quyền tự quyết” của dân tộc, sắc tộc nào đó trong một quốc gia - dân tộc có chủ quyền không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ “quyền dân tộc tự quyết”!

Đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định quan điểm nhất quán về vấn đề dân tộc: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển...”(8) và để thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc, Đảng ta xác định: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào DTTS. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các DTTS phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng DTTS. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(9).

Với quan điểm đó, việc thực hiện chính sách dân tộc đã đạt được thành tựu nổi bật, đem lại những hiệu quả tích cực về đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các DTTS ở nước ta. Từ năm 2003 đến năm 2020, Nhà nước đã tập trung bố trí đầu tư, hỗ trợ kinh phí nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, với tổng kinh phí theo các giai đoạn ngày càng tăng (gấp 4 lần: từ 250.000 tỷ đồng, năm 2003 lên 998.000 tỷ đồng, năm 2020), ưu tiên lĩnh vực kinh tế và đầu tư xây dựng cơ bản. Theo đó, đến nay, 100% số huyện có đường đến trung tâm huyện; 98,4% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 100% số xã và 97,2% số thôn, bản có điện lưới quốc gia; 93,9% số hộ gia đình được sử dụng điện; 100% số xã có trường tiểu học và trung học cơ sở; 99,7% số xã có trường mầm non; 99,3% số xã có trạm y tế; 65,8% số xã và 76,7% số thôn có nhà văn hóa/nhà sinh hoạt cộng đồng(10). Báo cáo Kết quả thực hiện công tác dân tộc năm 2023 cũng cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo DTTS còn khoảng 17,82% (giảm 3,2%), đạt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao(11)

Bên cạnh đó, đồng bào các DTTS thực hiện quyền dân chủ trong việc tham gia hệ thống chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở ngày càng tăng. Đến hết năm 2019, có 605.582 đảng viên là người DTTS, chiếm 11,98% tổng số đảng viên cả nước. Kết quả bầu nhân sự cấp ủy tại 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2020 - 2025, có 389 người DTTS là cấp ủy viên (đạt 11,68%, cao hơn nhiệm kỳ trước 0,72%). Tại Đại hội XIII của Đảng, có 13 Ủy viên Trung ương là người DTTS(12). Số lượng đại biểu Quốc hội là người DTTS trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội vừa qua đều tăng, Quốc hội khóa XV (2021 - 2026) có 89 đại biểu là người DTTS (chiếm 17,83%, cao hơn tỷ lệ người DTTS trên tổng số dân là 14,35%). Cả nước hiện có 68.781 biên chế là người DTTS (chiếm 11,68% tổng biên chế toàn quốc); công chức, viên chức người DTTS được ưu tiên trong quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng và bổ nhiệm vào hệ thống cơ quan nhà nước(13)

Những thành tựu này là minh chứng sống động cho tính đúng đắn, hiệu quả về quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta và không ai có thể phủ nhận. Chính vì vậy, thời gian qua, mặc dù đời sống của đồng bào các DTTS vẫn còn khó khăn, nhưng đại đa số đồng bào các DTTS luôn đoàn kết một lòng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước, tích cực tham gia các phong trào cách mạng, bảo vệ an ninh, trật tự. Thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận lòng dân được củng cố, tăng cường, góp phần ổn định, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS.

Để đấu tranh với âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc cũng như phản bác luận điệu lợi dụng vấn đề “quyền của người bản địa” để kích động “ly khai”, “tự trị”, thời gian tới, cần chú trọng một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào DTTS trong tình hình mới. Xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị.

Hai là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước đến mọi cán bộ, đảng viên và người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS. Quá trình tuyên truyền, giáo dục cần lồng ghép nội dung phản bác các luận điệu lợi dụng, xuyên tạc vấn đề “quyền của người bản địa” giúp đồng bào hiểu rõ bản chất. Chú trọng kiện toàn, củng cố hệ thống chính trị cơ sở; làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng, bố trí hợp lý cơ cấu cán bộ DTTS vào các chức danh chủ chốt; phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào DTTS; phân công cán bộ có hiểu biết về phong tục, tập quán, tiếng nói, chữ viết của đồng bào về công tác ở vùng DTTS.

Ba là, phát huy mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS một cách bền vững. Tập trung giải quyết hiệu quả những vấn đề bức thiết về đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách; nâng cao hiệu quả các chương trình, dự án; tăng cường hợp tác quốc tế, đa dạng hóa và xã hội hóa nguồn lực để đầu tư phát triển vùng đồng bào DTTS; thúc đẩy đào tạo nghề, tạo việc làm, có chính sách ưu đãi đối với các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh của đồng bào DTTS.

Bốn là, quan tâm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân vững chắc ở vùng đồng bào DTTS; chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết mâu thuẫn ngay từ cơ sở, không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh, trật tự, đặc biệt ở các địa bàn trọng điểm, khu vực biên giới.

Năm là, tích cực đấu tranh ngoại giao trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, nhất là các vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo. Chủ động truyền thông để dư luận quốc tế hiểu rõ các thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam. Tiếp tục thúc đẩy cải cách tư pháp, củng cố thể chế, chính sách, pháp luật về quyền con người phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên./.

 

 

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và những yêu cầu lịch sử

 Đảng ta xác định, từ Đại hội XIV trở đi, đất nước ta sẽ chính thức bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Theo đó, kỷ nguyên mới đòi hỏi phải tạo chuyển biến căn bản về nhận thức, hành động của toàn Đảng, toàn xã hội trong việc giữ gìn, nuôi dưỡng, sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. Đặc biệt, kỷ nguyên mới đòi hỏi phải phát huy cao nhất tinh thần, ý chí, sức mạnh của nhân dân - Chủ thể đóng vai trò trung tâm của sự nghiệp kiến tạo kỷ nguyên mới.

Kỷ nguyên mới và những yêu cầu lịch sử

Kỷ nguyên mới là khoảng thời gian đất nước, dân tộc phải vươn lên mãnh liệt, phấn đấu thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược, tạo sự phát triển vượt bậc ở một tầm cao mới, trình độ mới, chất lượng mới, xác lập vị thế quốc gia trên trường quốc tế, tạo nền tảng cho bước phát triển đột phá kế tiếp. Kỷ nguyên tiếp nối kỷ nguyên tạo thành lịch sử phát triển liên tục, từ thấp đến cao, ngày càng hoàn thiện của một quốc gia, dân tộc.

Gần 95 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhìn tổng quát, dân tộc Việt Nam đã trải qua hai kỷ nguyên vẻ vang. Kỷ nguyên thứ nhất là Kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930 - 1975), khởi đầu từ năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dẫn đến thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và những chiến công vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược (1946 - 1975) cùng những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 1954 - 1975. Kỷ nguyên thứ hai là Kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới, phát triển (1975 - 2025), mở đầu bằng thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, thu non sông về một mối, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội năm 1975, tạo tiền đề vững chắc để đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành công cuộc đổi mới bắt đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986, tạo bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên các lĩnh vực. Và bây giờ, Việt Nam bước vào kỷ nguyên thứ ba, Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc mà thời điểm mở đầu là Đại hội lần thứ XIV của Đảng, ghi dấu ấn 40 năm đổi mới (1986 - 2026).

Mỗi kỷ nguyên đều xuất hiện một cách khách quan những yêu cầu lịch sử đòi hỏi quốc gia, dân tộc phải đáp ứng tốt nhất để thực hiện thành công mục tiêu chiến lược đã xác định.

Trong Kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930 - 1975), mục tiêu sống còn của Việt Nam là phải xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, trở thành một quốc gia độc lập, tiến lên xây dựng chế độ xã hội mới. Mục tiêu chiến lược đó đặt ra yêu cầu phải tập hợp rộng rãi nhất, phát huy mạnh mẽ nhất sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, đập tan ách thống trị của đế quốc, phong kiến, giành và giữ độc lập, tự do; xây dựng những tiền đề ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, dân tộc Việt Nam đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, giải quyết thành công yêu cầu lịch sử và hoàn thành xuất sắc mục tiêu chiến lược.

Trong Kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới, phát triển (1975 - 2025), mục tiêu hàng đầu của Việt Nam là phải chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, thoát ra khỏi tình trạng một nước nghèo, kém phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân, xác lập vị thế quốc tế xứng đáng. Mục tiêu chiến lược đó đặt ra yêu cầu lịch sử phải đổi mới toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập quốc tế. Sau gần 50 năm đất nước thống nhất, 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã thực hiện thắng lợi các yêu cầu lịch sử, đổi mới thành công, vượt thoát khỏi tình trạng một nước nghèo, kém phát triển, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới, cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế mới.

Chính những thành tựu lịch sử đạt được qua hai kỷ nguyên đấu tranh, lao động sáng tạo bền bỉ đã tạo tiền đề, nền tảng vững chắc để Việt Nam bước vào kỷ nguyên thứ ba: Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, khởi đầu từ Đại hội lần thứ XIV của Đảng. Đây “là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao”(1). Mục tiêu của kỷ nguyên thứ ba là sự tích hợp ở tầm cao mới, trình độ mới những mục tiêu của hai kỷ nguyên trước, phản ánh sự phát triển về chất của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, của sự vận động biện chứng độc lập - tự do - hạnh phúc. Kỷ nguyên mới đặt ra những yêu cầu lịch sử đặc biệt, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần nhận thức sâu sắc, quyết tâm, quyết liệt hành động để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Một số yêu cầu lịch sử trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Thứ nhất, nói một cách khái quát, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là kỷ nguyên đột phá, phát triển tăng tốc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đưa quốc gia, dân tộc lên một tầm cao mới, tiến cùng thời đại.

Yêu cầu bao trùm trong kiến tạo kỷ nguyên mới là phải tiến hành đồng thời, thắng lợi một quá trình “đột phá kép”. Một mặt, phải đột phá đi thẳng vào hiện đại, vào những lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ số, mà Việt Nam có lợi thế; vào quản trị quốc gia hiện đại trên nền tảng chính phủ số, xã hội số, công dân số, tạo sự phát triển vượt bậc về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Mặt khác, phải đột phá trong việc giải quyết triệt để những điểm nghẽn, những yếu kém, hạn chế, những khó khăn đang kìm hãm, cản trở sự phát triển của đất nước. Hai quá trình đột phá này cần phải được tiến hành song song, đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau, trong đó đi tắt, đón đầu, đi thẳng vào hiện đại là cơ bản, có ý nghĩa quyết định; khắc phục, giải quyết những yếu kém, bất cập là cấp bách, quan trọng.

Triết lý của quá trình đột phá kép này, như Tổng Bí thư Tô Lâm xác định, chính là “tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh”(2). Triết lý chính trị khoa học này được Đảng ta đúc kết từ bài học kinh nghiệm quý báu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và vận dụng thành công trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam - bài học chủ động tạo thời cơ, nhận thức đúng thời cơ, kiên quyết chớp thời cơ; đánh giá đúng nguy cơ, kiên quyết đẩy lùi nguy cơ, thách thức, chuyển hóa nguy cơ thành thời cơ, giành thắng lợi. Kỷ nguyên mới yêu cầu Đảng ta tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo hơn nữa, hiệu quả hơn nữa bài học kinh nghiệm quý giá này để tạo sự phát triển đột phá của đất nước.

Thứ hai, yêu cầu có ý nghĩa đột phá khẩu trong kiến tạo kỷ nguyên mới là đột phá về tư duy, nhận thức.

Bước vào kỷ nguyên thống nhất, đổi mới, phát triển (1975 - 2025), Đảng ta bắt đầu bằng đổi mới tư duy, nhận thức lại một cách đúng đắn hơn, khoa học hơn quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đột phá lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với những nhận thức rất mới mẻ mà trước đổi mới còn hoàn toàn xa lạ. Chính đột phá tư duy lý luận đã khai mở con đường đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, tạo ra những thành tựu vĩ đại.

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc diễn ra song hành với kỷ nguyên số, kỷ nguyên của đổi mới sáng tạo mà tiếng nói chung của nhân loại là “không có gì là không thể”. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp theo đang và sẽ làm đảo lộn phương cách suy nghĩ, sản xuất, sinh hoạt của các quốc gia, cộng đồng và của mỗi con người. Một lần nữa, thực tiễn lại đòi hỏi và tạo điều kiện để chúng ta đổi mới mạnh mẽ về tư duy, nhận thức. Trên cơ sở kế thừa những tư duy khoa học đã tích lũy được qua 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta cần cởi mở, chăm chú, mạnh dạn tiếp thu những tư duy mới, những xu hướng phát triển mới của nhân loại với phương châm tiến kịp, tiến cùng thời đại. Cần có những đột phá lý luận với cách tiếp cận mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về lộ trình và bước đi; về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với cuộc cách mạng số, kỷ nguyên số; về hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc trong kỷ nguyên mới…; trên cơ sở đó, đột phá trong định hướng phát triển các lĩnh vực quan trọng của đất nước, đặc biệt là phát triển đột phá về khoa học - công nghệ, về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút, phát huy nhân tài; về phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam; về quản trị quốc gia; về hiện đại hóa quốc phòng, an ninh, nâng tầm đối ngoại, ngoại giao… Chúng ta kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng trên tinh thần không ngừng sáng tạo; không chủ quan, duy ý chí, nhưng kiên quyết không để chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ kìm trói tư duy, nhận thức của chúng ta. “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(3). Đây thực sự là một cuộc cách mạng - cuộc cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân là chân lý(4). Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thống nhất nhận thức, quyết tâm đổi mới tư duy, lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động, chúng ta nhất định sẽ tạo ra bước phát triển chưa từng có cho dân tộc ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, kỷ nguyên mới yêu cầu phải tạo đột phá trong huy động, sử dụng tối ưu các nguồn lực còn rất tiềm tàng của đất nước.

Việt Nam ta tài nguyên phong phú, các nguồn lực trong dân còn rất dồi dào, các nguồn lực từ bên ngoài theo các dòng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo chính sách đối ngoại, hội nhập đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta là rất lớn; nhân dân Việt Nam cần cù, sáng tạo; con người Việt Nam yêu nước, thông minh; nguồn lực vô hình tiềm ẩn trong lợi thế địa chính trị, địa kinh tế của đất nước là vô giá. Chính những nguồn lực to lớn này góp phần quan trọng tạo nên thành tựu vĩ đại của công cuộc đổi mới thời gian qua.

Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn chỉ ra rằng, về vấn đề này, chúng ta còn nhiều khuyết điểm, bất cập. Do những hạn chế của hệ thống thể chế; năng lực lãnh đạo, quản lý và phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên; nhận thức chưa đến nơi của một bộ phận nhân dân…, nhiều nguồn lực của đất nước còn bị thất thoát, phí phạm, sử dụng kém hiệu quả; năng lực, trí tuệ của con người Việt Nam chưa được khởi phát đúng tầm; lợi thế của đất nước chưa được phát huy tương xứng. Kỷ nguyên mới đòi hỏi phải tạo chuyển biến căn bản về nhận thức, hành động của toàn Đảng, toàn xã hội trong việc giữ gìn, nuôi dưỡng, sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. Từng đồng tiền, bát gạo; từng mét vuông đất rừng, ngư trường, biên cương; từng vỉa quặng; từng giờ, từng ngày lao động và khả năng của mỗi con người… cần phải được quý trọng, bồi đắp, khai phóng để tạo thành của cải vật chất. Tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát, cần kiệm xây dựng đất nước phải trở thành quốc sách; thành nhiệm vụ chính trị của các tổ chức đảng, hệ thống chính trị; thành ý thức, tình cảm, việc làm tự giác của mỗi người Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

 

Thứ tư, kỷ nguyên mới yêu cầu phải phát huy đến mức cao nhất các động lực phát triển đất nước, đặc biệt là tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, khát vọng sáng tạo và cống hiến của toàn dân, của con người Việt Nam.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam gần 95 năm qua đã chứng minh hùng hồn, trong những bước phát triển nhảy vọt của cách mạng, chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết, tinh thần đấu tranh, lao động, sáng tạo của nhân dân, của con người Việt Nam là nguồn gốc của mọi thắng lợi.

Kỷ nguyên mới với những mục tiêu lịch sử đòi hỏi khách quan phải phát huy đến mức cao nhất tinh thần, ý chí, sức mạnh của nhân dân - chủ thể đóng vai trò trung tâm của sự nghiệp kiến tạo kỷ nguyên mới. Cần chuyển hóa chủ trương, quyết sách, ý chí của Đảng thành nhận thức, thành cảm hứng hành động, sáng tạo của toàn dân, của mỗi người Việt Nam, khởi nguồn từ việc củng cố, bồi đắp niềm tin của nhân dân theo nguyên lý: có niềm tin của nhân dân là có tất cả; mất niềm tin của nhân dân là mất tất cả. Niềm tin của nhân dân được bồi đắp, nhân lên từ nhận thức đúng đắn về con đường phát triển của dân tộc do Đảng dẫn đường, chỉ lối; từ sự tôn trọng của Đảng, hệ thống chính trị đối với vai trò làm chủ, quyền làm chủ thật sự của nhân dân; từ những thành quả thực tiễn của đất nước đem lại những lợi ích thiết thực có thể đo đếm được cho mỗi gia đình, mỗi con người Việt Nam; từ những tấm gương trong sạch, trong sáng, tận tụy phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nguyên lý: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ; mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân; cần lấy hạnh phúc, sự hài lòng của nhân dân làm tiêu chí đánh giá cán bộ, đảng viên… mà Đại hội XIII của Đảng đã đúc kết cần phải tiếp tục được thể chế hóa, cụ thể hóa và thực thi nghiêm túc trong thực tiễn.

Thứ năm, kỷ nguyên mới đặt ra yêu cầu hàng đầu là nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng Đảng thật sự là đạo đức, văn minh, thật sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, của thời đại.

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là chân lý được đúc kết qua lịch sử vẻ vang gần một thế kỷ của Đảng, của dân tộc ta. Là người khởi xướng, lãnh đạo công cuộc kiến tạo kỷ nguyên mới, Đảng ta gánh trên vai sứ mệnh vinh quang, trọng trách nặng nề. Nhân dân đặt niềm tin và kỳ vọng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện: Bản lĩnh về chính trị, thống nhất về tư tưởng, cao về văn hóa, đẹp về đạo đức, khoa học về tổ chức, tiêu biểu về cán bộ, xứng đáng là “người cầm lái vĩ đại” đưa dân tộc đi đến phồn vinh, hạnh phúc. Nhân dân mong muốn và hy vọng cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, đặc biệt cán bộ cấp chiến lược, thực sự có đức, có tài, biết lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, có năng lực thiết kế, truyền cảm hứng và làm gương để nhân dân noi theo trên cuộc hành trình dựng xây kỷ nguyên mới.

Sẽ có rất nhiều việc phải làm, phải làm quyết liệt nhưng vững chắc để có được một hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, của hệ thống chính trị tinh gọn, thống nhất, hợp lý, đồng bộ, thông suốt, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc kết nối - tương tác - chia sẻ, có khả năng thích ứng cao với thời cuộc luôn thay đổi; để có được một đội ngũ cán bộ, đảng viên liêm khiết, mẫu mực, tiêu biểu hết lòng vì Đảng, vì Dân. Đây thực sự là một cuộc cách mạng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Chỉ còn một năm nữa là Đại hội XIV của Đảng sẽ được tổ chức. Phải bắt đầu ngay từ bây giờ, phải vào cuộc tích cực, quyết liệt ngay từ bây giờ, tạo những chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, về hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, mà nòng cốt là toàn hệ thống chính trị, chuẩn bị tâm thế, khí thế, quyết tâm mới, để đến Đại hội XIV của Đảng, chúng ta triệu người như một đồng lòng, tự tin tuyên bố: Việt Nam chính thức bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

 

LỜI BÁC DẠY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 06 THÁNG 01 NĂM 1960!

     “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đảng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”!

       Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài Ba mươi năm hoạt động của Đảng: “...Các tầng lớp tiểu tư sản tuy là sôi nổi, nhưng tư tưởng bế tắc, không có đường ra. Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vổ sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”, đăng trên Báo Nhân dân, số 2120, ngày 6-1-1960; trong bối cảnh Đảng ta tròn 30 tuổi, đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đẩy nhanh hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

       Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học lớn tổng kết lịch sử, khẳng định Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng tỏ rõ là lực lượng đại biểu cho trí tuệ, ý chí của giai cấp công nhân, nhân dân Việt Nam: dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam.

      Lời của Người là nguồn ánh sáng chiếu rọi khắp mọi miền đất nước, được mọi cán bộ, đảng viên của Đảng trân trọng đón nhận, tạo động lực tinh thần thi đua học tập nâng cao bản lĩnh cách mạng, kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nêu cao chủ nghĩa yêu nước, gắn bó đoàn kết cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

      Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Quân đội nhân dân Việt Nam thường xuyên được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện; không ngừng củng cố tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao bản lĩnh chính trị, phát huy truyền thống dân tộc, gắn bó mấu thịt với nhân dân, anh dũng, kiên cường, chiến đấu sáng tạo, cùng toàn dân đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.

       Trong tình hình mới, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn thấm nhuần lời Bác năm xưa, thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong Quân đội, giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, bảo đảm cho Quân đội thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, công cụ bạo lực sắc bén, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng./.
Môi trường ST.