Thứ Hai, 6 tháng 1, 2025

Những điểm tựa của dân tộc Việt Nam cho sự phát triển ổn định, bền vững trong kỷ nguyên mới.

 Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã hình thành nên những điểm tựa vô cùng quý báu, đặc sắc cho quá trình phát triển đất nước, đặc biệt trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Bài viết phân tích các điểm tựa của dân tộc và đề xuất phương hướng giữ gìn và phát huy những điểm tựa này trong quá trình phát triển đất nước.

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - Tạp chí Xây dựng Đảng
Đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam_ Ảnh: xaydungdang.org.vn

1. Mở đầu

Trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn và gửi gắm một thông điệp lịch sử, chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc, mang tầm triết lý để cổ vũ, động viên, khích lệ toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nêu cao ý chí quyết tâm xây dựng đất nước sánh vai cường quốc năm châu. Người chỉ rõ: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(1). Trong hành trình dựng xây, kiến thiết đất nước phồn vinh, hạnh phúc luôn chứa đựng những khó khăn, trắc trở; vì vậy, những điểm tựa của dân tộc Việt Nam có ý nghĩa quan trọng để chúng ta vượt qua, chiến thắng những thách thức, bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.

2. Điểm tựa - nguồn sức mạnh to lớn định hình bước đi đúng đắn, phù hợp của dân tộc Việt Nam

Theo Từ điển Việt, “điểm tựa” là một danh từ, nơi làm chỗ dựa chính (thí dụ như điểm tựa của đòn bẩy) cho hoạt động nào đó. Theo nghĩa này có thể hiểu “điểm tựa” là nơi mà mỗi người dựa vào, tìm đến để bảo đảm cho sự bình yên, ấm no, hạnh phúc trong cuộc sống, công việc. “Điểm tựa” giúp cho mỗi người thêm vững tin vào cuộc sống, nhất là khi gặp hoạn nạn, khó khăn, thất bại; sự giúp đỡ, chia sẽ, động viên, cảm thông kịp thời là nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần to lớn để con người vượt qua hiện tại, hướng về tương lai.

Những điểm tựa của dân tộc Việt Nam được bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha; từ yêu cầu của nền nông nghiệp trồng lúa nước đã khởi nguồn cho sự hình thành, phát triển của những điểm tựa, mang tính giá trị truyền thống. Giáo sư Trần Văn Giàu đã khẳng định: “Giá trị truyền thống là một sức mạnh không thể xem thường. Huy động các giá trị để làm cách mạng và kháng chiến hiện đại là huy động sức mạnh của hàng mấy mươi thế kỷ, là mấy mươi thế kỷ ông cha cổ vũ và trợ chiến cho con cháu hoàn thành sự nghiệp dân tộc”(2).

Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nói lên 6 điểm tựa của dân tộc Việt Nam: 1) Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong nhân dân, đoàn kết trong nước và đoàn kết quốc tế; 2) Có Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh lãnh đạo; 3) Truyền thống lịch sử - văn hóa hào hùng, văn minh, văn hiến của dân tộc, tinh thần tương thân, tương ái, “thương người như thể thương thân”…; 4) Có nhân dân cội nguồn sức mạnh của dân tộc; 5) Có Quân đội và Công an sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; 6) Dân tộc có tinh thần tự lực, tự cường, luôn tự mình vượt qua mọi khó khăn, gian khổ(3). Các “Điểm tựa Việt Nam” là sự hội tụ tinh hoa, khí chất của con người Việt Nam được kết tinh từ truyền thống nghìn năm văn hiến, anh hùng của dân tộc, là nguồn sức mạnh nội sinh bảo đảm cho sự trường tồn và phát triển bền vững của đất nước. Dù trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, sáu “Điểm tựa Việt Nam” vẫn luôn tiềm tàng, hiện hữu ở mọi lúc, mọi nơi, nhất là vào thời điểm lịch sử có tính chất bước ngoặt, cần phải huy động, dồn sức lực, vật lực, lại bừng sáng lên nghĩa tình đồng bào, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc - nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, điểm tựa vững chắc nhất của đất nước

Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Câu nói rất giản dị, mộc mạc, nhưng chứa đựng những quan điểm, tư tưởng về vị trí, vai trò, nội dung và phương thức đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của nhân dân ta đến thắng lợi cuối cùng. Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được truyền từ thế hệ này sang thế khác, trở thành niềm tin, lẽ sống, phương châm hành động của mỗi con người trong thực tiễn xã hội.

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, nhờ có đoàn kết rộng rãi trong toàn xã hội, mà Đảng, Nhà nước ta đã khơi dậy ý chí, khát vọng to lớn của các tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành thắng lợi”(4). Do đó, bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, chúng ta phải luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau, không chỉ ở một khu vực, địa bàn cụ thể mà còn ở phạm vi cả nước. Những lúc hoạn nạn, khó khăn, tinh thần đại đoàn kết của dân tộc lại được khơi dậy, phát huy một cách cao độ, là chìa khóa vạn năng để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là một khối thống nhất về ý chí và hành động cách mạng.

Thực hiện lời căn dặn của Hồ Chí Minh “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(5), trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta trung thành, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết vào thực tiễn, khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(6).

Đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, tiếp tục là nguồn sức mạnh nội sinh, điểm tựa vững chắc để Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiến vào kỷ nguyên mới. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Thực tiễn đã cho chúng ta bài học thật sâu sắc, rằng bất cứ công việc gì, dù lớn hay nhỏ, muốn thực hiện thành công, nhất thiết phải có sự đoàn kết, có sự đồng tâm, hiệp lực, nội bộ nhất trí, toàn dân đồng thuận”(7).

Hai là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố hàng đầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hóa, chính trị của nhân dân”(8). Hơn 94 năm qua, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, sự nghiệp đấu tranh cho mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần củng cố, giữ vững niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta đã khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(9). Đảng đã vạch ra quan điểm, đường lối phát triển kinh tế - xã hội, lãnh đạo Nhà nước thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nội dung đã xác định trong các kỳ đại hội.

Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng đã không ngừng đổi mới về phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển của đất nước. Ở đâu có nhân dân, ở đó có sự lãnh đạo của Đảng, chính điều này đã tạo nên sức mạnh, trở thành điểm tựa vững chắc để nhân dân tin tưởng, hy vọng vào sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”(10). Vì thế, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là yếu tố quyết định sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng; định hướng, dẫn dắt toàn dân và toàn quân vững bước đi lên CNXH, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Ba là, truyền thống lịch sử - văn hóa hào hùng, văn minh, văn hiến, điểm tựa để dân tộc vượt qua khó khăn, thử thách, vững tin vào tương lai

Truyền thống lịch sử - văn hóa, văn minh, văn hiến là những giá trị cốt lõi của dân tộc được đúc kết, khái quát từ thực tiễn chiến đấu, lao động sản xuất, đời sống của con người Việt Nam. Đó là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, có vai trò quan trọng để điều chỉnh thái độ, hành vi của con người. Các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, như: “lá lành đùm lá rách”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng/Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “thương người như thể thương thân”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng”... Ở đâu nhân dân gặp khó khăn, hoạn nạn, ở đó có các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc xuất hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác ái”(11).

Đây chính là điểm tựa để mỗi chúng ta vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại, củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng chỉ rõ: “Một xã hội văn minh là một xã hội xây dựng được quan hệ giữa con người với con người lành mạnh, giàu tình thương và lòng nhân ái; mọi cuộc sống, làm việc và hoạt động vì lợi ích của bản thân, gia đình và cộng đồng. Tự do và lợi ích của mỗi người được giới hạn bởi tự do và lợi ích của những người khác; con người sống và đối xử với nhau theo đạo lý: “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Xã hội văn minh là xã hội có văn hóa. Trình độ văn minh của xã hội tùy thuộc ở trình độ văn hóa của mỗi người và cả cộng đồng, ở sự thống nhất và hòa hợp giữa phép nước và lòng dân”(12).

Bốn là, nhân dân - cội nguồn của sự nghiệp đổi mới, sáng tạo và phát triển đất nước

Kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: nhân dân là người làm nên lịch sử, cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân, vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(13). Một trong những bài học kinh nghiệm được Đại hội XIII của Đảng chỉ ra: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân… Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(14). Do đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống của nhân dân, thông qua những cơ chế, chính sách đúng đắn, phù hợp, hiệu quả.

Một trong những yếu tố để củng cố, giữ vững niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(15).

Chính điều này đã góp phần làm nên sức mạnh vô địch trong nhân dân, đồng thời đặt ra yêu cầu cho Đảng và Nhà nước luôn tin dân, trọng dân, gần dân, sát dân, lắng nghe tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

Năm là, Quân đội và Công an, lực lượng nòng cốt, điểm tựa của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhân dân ta có hai lực lượng. Một là quân đội, để đánh giặc ngoại xâm, để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn hòa bình. Một lực lượng nữa là công an, để chống kẻ địch trong nước, chống bọn phá hoại. Có lúc chiến tranh, có lúc hòa bình. Lúc chiến tranh thì quân đội đánh giặc, lúc hòa bình thì tập luyện. Còn công an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hòa bình lại càng nhiều việc”(16). Quân đội ta “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, Công an “vì nước quên thân, vì dân phục vụ” đã đồng hành cùng với nhân dân trong suốt sự nghiệp đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi bước đi, mỗi thắng lợi của dân tộc đều có sự đóng góp to lớn của lực lượng Quân đội và Công an, đây chính là lực lượng nòng cốt, tinh nhuệ trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Ở đâu có khó khăn, vất vả, ở đó có Quân đội và Công an, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Sự hiện diện và nỗ lực hết mình phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của Quân đội và Công an đã đem đến sự công bằng, bình đẳng, bình yên trong xã hội, thắp sáng niềm tin, điểm tựa vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay.

Trong thiên tai, bão lụt, cán bộ, chiến sĩ Quân đội và Công an tham gia phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương, giúp đỡ, hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, “Công an nhân dân” dầm mình trong bùn lầy, băng mình qua suối dữ, cứu người bị nạn đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế. Đó không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là tình cảm, sự biết ơn, kính trọng đối với nhân dân đã cưu mang, che chở để Quân đội và Công an ngày càng lớn mạnh, trưởng thành; thể hiện bản chất tốt đẹp, tính ưu việt của chế độ XHCN mà chúng ta đang xây dựng.

Sáu là, ý chí tự lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn, gian khổ - điểm tựa ổn định, bền vững để khẳng định vị thế của đất nước

Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(17). Ý chí tự lực, tự cường của con người Việt Nam là dòng chảy liên tục không ngừng từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; không khuất phục, không cam chịu trước khó khăn, gian khổ; luôn có ý chí, nghị lực vươn lên mạnh mẽ, quyết liệt bằng chính bàn tay, khối óc của mình. Ý chí tự lực, tự cường đã vượt qua khuôn khổ giới hạn của chính bản thân mình để tồn tại và phát triển, khẳng định tính chính danh trong cộng đồng xã hội. Ý chí tự lực, tự cường của con người Việt Nam là một giá trị văn hóa bất biến không bao giờ vơi cạn, ngày càng được bồi đắp, trở thành một sức mạnh tinh thần, nền tảng, điểm tựa vững chắc bảo đảm cho sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.

Bản lĩnh, sức mạnh phi thường của nhân dân, ý chí tự lực, tự cường mạnh mẽ, quyết liệt vươn lên nên bất luận trọng điều kiện, hoàn cảnh nào, con người Việt Nam cũng vượt qua tất cả, không đầu hàng nghịch cảnh, càng ở thời điểm khó khăn, thách thức, càng sáng lên ý chí tự lực, tự cường phi thường của con người Việt Nam.

3. Tiếp tục giữ gìn và phát huy những điểm tựa Việt Nam để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, những điểm tựa Việt Nam đã phát huy giá trị trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, đổi mới, sáng tạo của các tổ chức, lực lượng. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được giữ gìn, củng cố và phát huy ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động theo phương châm hướng về cơ sở, lắng nghe ý kiến của nhân dân để xây dựng các chương trình, hoạt động cụ thể, thiết thức.

Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Trong những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường… Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác… ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta”(18). Trong khi đó, những yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đặt ra một cách trực tiếp, cấp bách, nhanh chóng đạt được các chỉ tiêu để về đích theo đúng kế hoạch, lộ trình đã vạch ra.

Đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, những điểm tựa Việt Nam vững chắc sẽ là nguồn sức mạnh vô tận, không thể thiếu được trên hành trình phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Cụ thể là:

Một là, tiếp tục củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

Đảng ta đã xác định mục tiêu: “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”(19). Với tinh thần này, cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương cần tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trong nhân dân; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu, nghèo giữa các vùng, miền, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số; quan tâm, chăm lo giải quyết thỏa đáng những nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân; bổ sung, điều chỉnh cơ chế, chính sách có liên quan đến từng đối tượng, lĩnh vực hoạt động cụ thể, bảo đảm tối thượng lợi ích quốc gia, dân tộc.

Nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong đoàn kết, tập hợp quần chúng nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi để mỗi người dân được phát huy cao nhất năng lực, sở trường, thế mạnh cho gia đình, quê hương và xã hội.

Hai là, Đảng phải thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra

Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt, kịp thời, đúng đắn của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; phát huy vai trò nêu gương, thúc đẩy đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả, hoạt động của các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị”(20). Với tinh thần này, cần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; việc xây dựng, ban hành các nghị quyết của Đảng phản ánh được những vấn đề nổi cộm, bức xúc, được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân quan tâm; những người đứng đầu cơ quan, ban, ngành từ trung ương đến địa phương gương mẫu, tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, uy tín, phương pháp, tác phong công tác; thật sự tiêu biểu về lương tâm, danh dự, trí tuệ của thời đại.

Thực hiện tinh giản, xây dựng bộ máy làm việc hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân và doanh nghiệp làm động lực, mục tiêu trong quá trình làm việc của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Phải hành động mạnh mẽ, quyết liệt trong xử lý các tình huống khẩn cấp có liên quan đến tài sản, tính mạng của nhân dân.

Ba là, thường xuyên quan tâm, chăm lo đời sống của nhân dân

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Chăm lo lợi ích, hạnh phúc của nhân dân là mục đích thiêng liêng, là lý tưởng cao quý của Đảng. Trong điều kiện hòa bình, xây dựng, chăm lo đời sống nhân dân là mục đích trực tiếp, là một nội dung quan trọng trong hoạt động của Đảng và các cơ quan nhà nước, là vấn đề quyết định sự tín nhiệm và sự gắn bó của nhân dân với Đảng, là một động lực to lớn tạo ra phong trào hành động cách mạng của quần chúng”(21).

Theo đó, tiếp tục điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách có liên quan đến người dân và doanh nghiệp; mỗi cơ chế, chính sách phát triển kinh tế gắn với chính sách xã hội, văn hóa, bảo đảm sự phát triển bền vững, ổn định của đất nước; quan tâm, chăm lo hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần của người có công với cách mạng, người yếu thế trong xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, nhất là đồng bào chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, hạn hán, lũ lụt. Tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đối với việc thực hiện cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân.

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua đối thoại trực tiếp ở từng cấp, giải quyết tốt thắc mắc, băn khoăn của người dân để tạo sự đồng thuận, thống nhất trong toàn xã hội. Kiên quyết xử lý theo đúng pháp luật đối với những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu quan liêu, xa dân, hách dịch, chủ nghĩa cá nhân, vòi vĩnh, dọa nạt, ức hiếp nhân dân.

Bốn là, xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tinh, gọn, mạnh

Quân đội và Công an là công cụ bạo lực sắc bén, chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và Công an; xây dựng Đảng bộ Quân đội, Đảng bộ Công an thật sự trong sạch, vững mạnh, gương mẫu đi đầu về chính trị tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, lấy xây dựng Đảng làm trọng tâm; tuyệt đối không để xảy ra bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; xây dựng kế hoạch phối kết hợp mang tầm chiến lược giữa hai lực lượng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc “từ sớm”, “từ xa”, bảo vệ Tổ quốc từ khi nước chưa ngụy; làm bất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Đồng thời, thực hiện nghiêm túc nghị quyết của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế, xây dựng lực lượng tinh, gọn, mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Giữ vững và củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Quân đội, Công an với nhân dân; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở từng khu vực, địa bàn và trên phạm vi cả nước.

Năm là, giữ gìn và phát huy hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI”(22). Với tinh thần này, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương cần vận dụng sáng tạo nội dung, hình thức, biện pháp thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa, gia đình văn hóa; thực hiện tốt xóa đói giảm nghèo; đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua yêu nước gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương trong sạch, vững mạnh gắn với đấu tranh, phê phán, loại bỏ các tệ nạn xã hội, văn hóa xấu độc, hủ tục lạc hậu. Xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh, thấm đẫm giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc, lấy con người làm trung tâm của mọi sự phát triển.

4. Kết luận

Dân tộc Việt Nam với hàng nghìn năm lịch sử, văn hiến, anh hùng đã tạo dựng, xây đắp nên những điểm tựa Việt Nam trong suốt quá trình hình thành, phát triển của đất nước ta từ quá khứ, hiện tại và tương lai. Những điểm tựa Việt Nam được Đảng Cộng sản Việt Nam nhân lên sức mạnh, đưa dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, làm cho vị thế, uy tín của nước ta ngày càng được củng cố, giữ vững và tăng lên trên trường quốc tế. Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên tiên tiến, văn minh, hiện đại, những điểm tựa Việt Nam là nguồn gốc, động lực mạnh mẽ, to lớn để dân tộc ta vượt qua và chiến thắng mọi khó khăn, gian khổ, tiếp tục đưa đất nước phát triển đi lên.

Liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa hợp tác xã với nông dân ở trung du và miền núi phía bắc.

 Liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững là yêu cầu khách quan, là tiền đề, điều kiện tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản, từng bước hình thành và góp phần phát triển một nền nông nghiệp sản xuất lớn. Nhận thức được điều này, những năm qua, các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc đã khuyến khích các chủ thể tham gia sản xuất, trong đó có hợp tác xã và nông dân tham gia liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn những hạn chế làm cho liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao giữa hợp tác xã với nông dân trong vùng chưa bền vững. Vì vậy, cần nghiên cứu tìm hiểu để đưa ra giải pháp khắc phục nhằm đẩy mạnh liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững thời gian tới.

Liên kết giữa Hợp tác xã chè Hảo Đạt ở Thái Nguyên được thành lập năm 2016 có 8 thành viên liên kết với hơn 50 hộ nông dân cung cấp chè nguyên liệu_ Ảnh: IT

1. Mở đầu

Trung du và miền núi phía Bắc có diện tích lớn thứ hai cả nước, với 95.184,1 km2, chiếm 28,72% diện tích tự nhiên của cả nước(1), bao gồm 14 tỉnh, đó là: Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình. Là vùng kinh tế - xã hội có vị trí, phía Bắc giáp, Trung Quốc, phía Tây giáp Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào; phía Đông, phía Nam giáp với vùng đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Sự đa dạng của địa hình (đồi núi cao, đồi núi trung bình và thấp, xen kẽ đồng bằng nhỏ hẹp), đa dạng của khí hậu, đất đai đã tạo điều kiện thuận lợi để đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp như: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp; sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới. Tuy nhiên, do địa hình chia cắt, đất đai sản xuất nông nghiệp phân tán, nhỏ lẻ, nguồn nước khó khăn, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nói chung và hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu,... khiến sản xuất nông nghiệp trong vùng không ổn định, năng suất, sức cạnh tranh và hiệu quả thấp. Vì vậy, liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao là yêu cầu khách quan, là tiền đề, điều kiện khai thác lợi thế và tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản, từng bước hình thành, phát triển một nền nông nghiệp bền vững.

2. Thực trạng liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa nông dân và hợp tác xã ở trung du và miền núi phía Bắc

Một số kết quả

Số hợp tác xã liên kết với nông dân ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp trong vùng các năm gần đây tăng nhanh: từ 198 hợp tác xã năm 2019 lên 519 (năm 2022)(1) và 693 (năm 2023)(3), tăng 495 hợp tác xã, bình quân tăng 37%/năm. Trong đó, Sơn La và Thái Nguyên là hai địa phương có số lượng hợp tác xã liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững với nông dân không chỉ cao so với toàn vùng mà còn giữ vị trí hàng đầu cả nước (năm 2022 Sơn La có 174 hợp tác xã, Thái Nguyên có 106 hợp tác xã(4)).

Trung du và miền núi phía Bắc cũng là vùng có hợp tác xã nông nghiệp là chủ chuỗi liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững với nông dân cao nhất cả nước. Năm 2023, cả nước có 2.500 hợp tác xã liên kết với nông dân ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp, chiếm 9,86% tổng số hợp tác xã nông nghiệp cả nước thì vùng trung du và miền núi phía Bắc có 693 hợp tác xã, chiếm 12% tổng số hợp tác xã nông nghiệp toàn vùng(5). Có được kết quả trên là do các hợp tác xã nông nghiệp ở trung du và miền núi phía Bắc có quy mô nhỏ nên dễ đồng thuận trong việc ứng dụng công nghệ cao cũng như mở rộng quy mô liên kết so với các hợp tác xã nông nghiệp có quy mô lớn ở các vùng khác(6).

Sự gia tăng nhanh chóng của số hợp tác xã nông nghiệp chủ chuỗi liên kết dẫn đến số hộ nông dân tham gia liên kết cũng tăng lên. Ngoài các hộ nông dân là thành viên, các hộ nông dân ngoài hợp tác xã tham gia liên kết cũng tăng khá nhanh. Cụ thể, số lượng thành viên hợp tác xã tăng từ 9.900 người (năm 2019) lên 25.950 người (năm 2022) và 32.571 người (năm 2023); số hộ nông dân ngoài hợp tác liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững với hợp tác xã cũng tăng từ 7.920 hộ (năm 2019) lên 15.570 hộ (năm 2022) và 1.302.840 hộ (năm 2023)(7).

Các công nghệ cao được chủ chuỗi liên kết là các hợp tác xã sử dụng nhiều nhất trong giai đoạn này là kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, bảo quản (84,6%); công nghệ tin học trong quản lý kinh doanh (40,4%); công nghệ tự động hóa (29,1%); công nghệ sinh học trong nông nghiệp (20,6%); và công nghệ sản xuất vật tư nông nghiệp (9,9%). Điều này được thể hiện ở Bảng dưới đây.

Bảng 1: Công nghệ cao được các mô hình liên kết hợp tác xã
với nông dân sử dụng giai đoạn 2019-2023

Danh mục công nghệ
Tỷ lệ (%)
Công nghệ sinh học trong nông nghiệp
20,6
Kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, bảo quản
84,6
Công nghệ tự động hóa
29,1
Công nghệ sản xuất vật tư nông nghiệp
9,9
Công nghệ tin học trong quản lý kinh doanh
40,4

Nguồn: Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (2023)

Liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa hợp tác xã và nông dân đã giúp giảm chi phí nhờ gia tăng quy mô và giảm giá nguyên liệu đầu vào, bảo vệ môi trường, khắc phục tình trạng ”được mùa mất giá”, sản xuất theo yêu cầu thị trường, gia tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, mang lại lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia và đặc biệt là đã làm thay đổi tập quán canh tác nhỏ lẻ của người nông dân, phát triển kinh tế tập thể và nâng cao giá trị chuỗi nông sản.

Chẳng hạn, liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa Hợp tác xã Nông sản Sơn La với 20 hộ nông dân xã Chiềng Ban, huyện Mai Sơn. Trong liên kết này, Hợp tác xã Nông sản Sơn La đã hướng dẫn các hộ nông dân thành viên và các hộ nông dân liên kết đưa công nghệ màng phủ, công nghệ tưới nước tiết kiệm, quy trình sản xuất nông nghiệp sạch vào sản xuất các loại rau, củ, quả đã đem lại hiệu quả cao. Cụ thể, sản lượng và doanh thu của hợp tác tăng từ 20-30%/năm và nâng cao thu nhập cho thành viên, các hộ nông dân liên kết trên địa bàn cũng như từng bước thay đổi nhận thức của họ(8).

Liên kết giữa Hợp tác xã chè Hảo Đạt ở Thái Nguyên được thành lập năm 2016 có 8 thành viên liên kết với hơn 50 hộ nông dân cung cấp chè nguyên liệu. Tham gia liên kết, các hộ nông dân đã được Hợp tác xã chè Hảo Đạt hướng dẫn áp dụng các tiến bộ kỹ thuật sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP để bảo đảm nguồn nguyên liệu đạt chuẩn chất lượng, tạo ra các sản phẩm chè búp khô an toàn, chất lượng cao. Từ chỗ chỉ có 8 thành viên, đến nay, Hợp tác xã chè Hảo Đạt đã có trên 30 thành viên với vùng nguyên liệu hơn 10 ha, hệ thống nhà xưởng trên 2.000 m2, dây chuyền sản xuất khép kín, được tự động hóa 70%, công suất từ 4,0-4,5 tấn chè búp tươi/ngày. Hằng năm, mô hình này đã cung cấp cho thị trường từ 250-300 tấn chè búp khô an toàn, chất lượng cao, trong đó, sản phẩm chè Móc câu và Đinh xếp hạng OCOP 4 sao; chè Tôm nõn xếp hạng 5 sao. Doanh thu trung bình từ 5-6 tỷ đồng/ năm, lợi nhuận từ 1,5-2 tỷ đồng, tạo việc làm thường xuyên cho 20-30 lao động với mức thu nhập từ 4,5-6 triệu đồng/tháng; và khoảng 30 lao động thời vụ với mức lương thỏa thuận(9).

Liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa Hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà (xã Bản Liền), Lào Cai với 310 hộ nông dân sản xuất, chế biến, tiêu thụ chè Shan tuyết hữu cơ. Trong mô hình liên kết này, hợp tác xã đã mời các nhà khoa học, cơ quan khuyến nông hướng dẫn cho các thành viên và các hộ dân liên kết về kỹ thuật chăm sóc chè hữu cơ, chè sạch đúng tiêu chuẩn do các tổ chức quốc tế quy định, chất lượng sản phẩm đồng đều, đạt tiêu chuẩn an toàn. Nhờ đó, có tới 90% sản phẩm chè Shan tuyết hữu cơ của Hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ Bắc Hà đã được xuất khẩu sang các thị trường khó tính ở châu Âu. Bình quân mỗi ha chè mang lại lợi nhuận từ 80-100 triệu đồng/năm, cao hơn nhiều so với các cây trồng truyền thống khác; giá bán cao hơn từ 3-4 lần so với sản xuất chưa liên kết, tạo thu nhập ổn định cho các hộ nông dân đồng bào dân tộc thiểu số tham gia liên kết; góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững(10) và giúp địa phương hình thành vùng sản xuất tập trung.

Một số hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh một số kết quả ban đầu đạt được như trên, liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa hợp tác xã với nông dân tại các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc vẫn còn một số hạn chế:

Thứ nhất, tỷ lệ hợp tác xã và nông dân trong vùng tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững còn thấp. Mặc dù số hợp tác xã và nông dân tham gia liên kết tăng nhanh qua các năm, cao hơn so với tỷ lệ chung toàn quốc, song còn thấp. Năm 2023, chỉ có 12% hợp tác xã và gần 7% số hộ nông dân tham gia liên kết. Vì vậy, sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao còn chưa tương xứng với lợi thế tự nhiên các tỉnh trong vùng.

Thứ hai, tình trạng phá bỏ hợp đồng liên kết giữa hợp tác xã với nông dân vẫn xảy ra. Mặc dù liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững giữa hợp tác xã với nông dân trong vùng các năm qua đã được quan tâm, song tình trạng các hộ nông dân không phải thành viên hợp tác xã sẵn sàng bỏ ngang hợp đồng khi giá bán nông sản trên thị trường cao hơn vẫn xảy ra; tình trạng hợp tác xã không thu mua sản phẩm của hộ nông dân liên kết ngoài thành viên khi giá nông sản xuống thấp vẫn còn. Trong đó, có trên 60% là nông dân bỏ ngang, trên 30% hợp tác xã không thực hiện đúng hợp đồng.

Thứ ba, phần lớn công nghệ được các mô hình liên kết giữa hợp tác xã với nông dân trong vùng ứng dụng vào nông nghiệp là kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, bảo quản, tiếp đến là công nghệ thông tin trong quản lý kinh doanh nông nghiệp, công nghệ sinh học trong lai tạo giống mới, còn các công nghệ hiện đại như chuỗi khối,... ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp còn rất ít.

Những hạn chế trên xuất phát từ các nguyên nhân cơ bản dưới đây:

Một là, nhận thức của nông dân và phần lớn hợp tác xã trong vùng về liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững còn thấp, chưa đầy đủ. Hầu hết nông dân, hợp tác xã trong vùng chưa nhận thức được vai trò, lợi ích, sự cần thiết phải liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, tâm lý e ngại, thiếu niềm tin vào mô hình hợp tác xã kiểu cũ vẫn còn trong tiềm thức nông dân, tâm lý e ngại nông dân bỏ ngang hợp đồng khiến cho tỷ lệ nông dân và hợp tác xã tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao còn ít, chưa khai thác được tiềm năng, lợi thế của các chủ thể này vào phát triển nông nghiệp.

Hai là, năng lực nội sinh của hợp tác xã nông nghiệp và trình độ nông dân trong vùng còn thấp. Phần lớn các hợp tác xã nông nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ, vốn tự có ít, năng lực quản trị yếu, trang thiết bị lạc hậu nên các hợp tác xã mới chủ yếu cung ứng dịch vụ đầu vào; Trình độ chuyên môn, năng lực quản lý các hợp tác xã còn yếu, phần lớn chưa qua đào tạo, chủ yếu điều hành dựa trên kinh nghiệm. Bên cạnh đó, phần lớn nông dân trong vùng là đồng bào dân tộc thiểu số chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Đến nay, gần 93% lao động nông nghiệp trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo. Năng lực đầu tư, tiếp nhận, chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp thấp nên tỷ lệ hợp tác xã cũng như nông dân tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững còn ít.

Ba là, hệ thống kết cấu hạ tầng, phục vụ sản xuất nông nghiệp của các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc còn lạc hậu, chưa đồng bộ, là “nút thắt” trong phát triển kinh tế nói chung, liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững nói riêng. Hệ thống giao thông, thủy lợi,... ở các tỉnh trong vùng tuy đã được đầu tư, song chưa đồng bộ; hệ thống kho vận, logistic, chợ đầu mối nông sản, hệ thống chế biến nông sản, trung tâm xúc tiến thương mại mới manh nha, nhất là hệ thống đường giao thông còn hạn chế là lực cản hợp tác xã, nông dân tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững.

Bốn là, việc tiếp cận vốn vay ưu đãi khó khăn. Liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp đòi hỏi kinh phí đầu tư lớn quay vòng vốn chậm. Bởi vì, ngoài nguồn vốn xây dựng hạ tầng, nâng cao năng lực tiếp nhận, chuyển giao, các hợp tác xã phải đầu tư trang thiết bị, công nghệ cũng như tiếp cận thị trường. Trong khi đó, hầu hết các hợp tác xã, hộ nông dân tham gia liên kết ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp các tỉnh trong vùng khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi. Nguyên nhân là thủ tục rườm rà, một số quy định chưa phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương như phải xây dựng được dự án phù hợp với chương trình, phải có tài sản thế chấp...

Năm là, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao còn hạn hẹp, phân tán. Đến nay, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao chủ yếu ở một số khu vực trung tâm, một số nơi có mức sống cao, còn phần lớn người tiêu dùng vẫn sử dụng sản phẩm nông nghiệp sản xuất truyền thống. Trong khi đó, phần lớn các hợp tác xã chưa đủ sức tiếp cận thị trường tiêu thụ ở ngoài nước. Như vậy, tín hiệu thị trường chưa đủ mạnh để thu hút hợp tác xã, nông dân liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, chưa là động lực để hợp tác xã, nông dân chuyển từ sản xuất truyền thống sang tham gia liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Thứ sáu, cơ chế, chính sách về liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp chưa được thực hiện hiệu quả. Mặc dù cả Trung ương và các tỉnh trong vùng đã có chủ trương, chính sách khuyến khích liên kết, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, song chưa được triển khai đầy đủ trong thực tiễn. Chẳng hạn, chính sách hỗ trợ vốn vay; dự báo, thông tin thị trường; hỗ trợ nâng cao năng lực các hợp tác xã; quảng bá thương hiệu, phát triển hạ tầng, bảo hiểm nông nghiệp... Một số chính sách còn bất cập chưa phù hợp với thực tiễn, ví dụ, chính sách hỗ trợ vốn vay nhưng có hạn mức thấp, thời gian ngắn trong khi chi phí đầu tư cao, thời gian thu hồi vốn dài; chế tài liên kết còn lỏng lẻo...

3. Một số giải pháp

Một lànâng cao nhận thức của nông dân, hợp tác xã về sự cần thiết phải liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững

Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn các tỉnh trong vùng cần phối hợp với các sở thông tin và truyền thông đẩy mạnh công tác tuyên truyền về vai trò, lợi ích của liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp tại địa phương trên các phương tiện thông tin đại chúng; trong các lớp bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo nghề. Bên cạnh đó, giới thiệu các mô hình đã thành công trong liên kết ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp trong tỉnh, các tỉnh trong vùng và cả nước. Từ nhận thức rõ vai trò, lợi ích liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao, bền vững, nông dân, hợp tác xã chủ động xây dựng kế hoạch và thực hiện liên kết. Từ đó, hình thành nên các vùng, khu nông nghiệp công nghệ cao. Bên cạnh đó, tuyên truyền để xóa bỏ những “định kiến” về hợp tác xã kiểu cũ và hiểu đúng về bản chất, giá trị “hợp tác xã kiểu mới”, giúp cho mọi người hiểu và yên tâm khi liên kết.

Hai là, nâng cao năng lực nội sinh của các hợp tác xã và nâng cao trình độ nông dân các tỉnh trong vùng

Các địa phương trong vùng cần tổ chức các khóa bồi dưỡng, đào tạo kiến thức về thị trường, hội nhập, marketting và khuyến khích đội ngũ giám đốc, quản lý hợp tác xã tự học tập nâng cao trình độ; tạo điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã thuê đất, mở rộng sản xuất, tiếp cận được vốn vay ưu đãi, mua sắm trang thiết bị phục vụ quản lý, kinh doanh, hỗ trợ tiếp cận thị trường trong nước và xuất khẩu; đào tạo, bồi dưỡng. Bên cạnh đó, đào tạo nghề nông, nâng cao ý thức thực hiện hợp đồng liên kết cho nông dân; tăng cường vai trò của các trung tâm khuyến nông, tổ chức tập huấn kỹ thuật, nghiệp vụ cho cán bộ, cộng tác viên khuyến nông và nông dân. Lồng ghép các chương trình đào tạo dài hạn, ngắn hạn và tập huấn chuyển giao công nghệ. Quá trình đào tạo cần diễn ra liên tục, có kế thừa để đáp ứng yêu cầu của nông dân, hợp tác xã, từng bước tiếp cận với công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.

Ba làđầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nói chung và kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp công nghệ cao

Bên cạnh nguồn vốn từ trung ương trong các chương trình, dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nội vùng, liên vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp Bộ Giao thông vận tải xây dựng cơ chế thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư hệ thống đường giao thông các tuyến mới kết nối các tỉnh trong vùng và với các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Đối với những đường liên thôn, liên xã, liên bản, đường lên các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung giao cho chính quyền cấp huyện quản lý, cấp phép xây dựng và quản lý, kinh phí lấy từ vốn ngân sách kết hợp với các chương trình dự án xây dựng nông thôn mới và đóng góp của nhân dân. Xây dựng mới và củng cố hệ thống điện, thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp xây dựng hệ thống kho vận, logistic, chợ đầu mối nông sản, hệ thống chế biến nông sản, hệ thống trung tâm xúc tiến thương mại.

Bốn là, tạo điều kiện để hợp tác xã, nông dân tham gia liên kết tiếp cận nguồn vốn ưu đãi thuận lợi

Ủy ban nhân dân các tỉnh trong vùng chỉ đạo các ngân hàng Thương mại, các tổ chức tín dụng trên địa bàn công khai quy trình, thủ tục để tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp vay được nguồn vốn ưu đãi. Theo đó, cán bộ tín dụng phải hướng dẫn cách thức xây dựng dự án một cách cụ thể, dễ hiểu cho các hợp tác xã, nông dân tham gia liên kết ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp. Bên cạnh đó, có thể thay tài sản thế chấp bằng diện tích đất liên kết hoặc các trang thiết bị công nghệ của hợp tác xã tham gia liên kết. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh tham mưu UBND các tỉnh có cơ chế ưu đãi đặc biệt đối với những chủ chuỗi là hợp tác xã liên kết đưa công nghệ hiện đại vào sản xuất, kinh doanh nông nghiệp tại địa phương.

Năm là, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, bền vững ở vùng trung du và miền núi phía Bắc

Đối với thị trường trong nước, các địa phương trong vùng cần đẩy mạnh quảng bá sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, bền vững trên địa bàn đến người tiêu dùng cả nước thông qua các siêu thị, quầy hàng chất lượng cao, hội chợ triển lãm, hội nghị, hội thảo. Bên cạnh đó, đẩy mạnh phối hợp, liên kết giữa các địa phương trong vùng và ngoài vùng trong sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm chủ lực chất lượng cao từng địa phương. Đối với thị trường xuất khẩu, chính quyền các địa phương phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương, các bộ ngành có liên quan đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu các sản phẩm nông sản chất lượng cao, chủ lực cho từng giai đoạn, từng khu vực thị trường mục tiêu.

Sáu làthực hiện các chính sách khuyến khích liên kết phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong thực tiễn, tránh tình trạng chính sách thì có nhưng không thực hiện hiệu quả.

Cung cấp thông tin dự báo cung cầu sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao; thực hiện bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm công nghệ cao, hỗ trợ các chủ thể liên kết tham gia bảo hiểm nông nghiệp; khuyến khích liên kết theo hợp đồng và thực hiện nghiêm chế tài khi vi phạm hợp đồng; hoàn thiện và thực hiện cơ chế khuyến khích, tôn vinh các doanh nghiệp, hộ nông dân thực hiện nghiêm túc chế tài liên kết.

Những đổi mới và quyết sách của Quốc hội trước kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

 Với tinh thần đổi mới, khí thế mới và quyết tâm mới, cùng với nỗ lực của Chính phủ, thời gian qua, Quốc hội đã quyết sách nhiều vấn đề quan trọng của đất nước, trong đó có nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực và thực tiễn đang đòi hỏi cấp thiết. Qua đó, tạo tiền đề về mọi mặt, góp phần quan trọng hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Trải qua gần 80 năm ra đời và phát triển, trưởng thành, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay thực sự là thành quả, biểu tượng cao quý của độc lập dân tộc, thống nhất đất nước - nơi hội tụ, lan tỏa ý chí, niềm tin và sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, ở mỗi giai đoạn cách mạng và từng nhiệm kỳ, Quốc hội Việt Nam không ngừng hoàn thiện về tổ chức và phát triển lớn mạnh; tăng cường đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, hoàn thành tốt sứ mệnh lịch sử, nhiệm vụ cách mạng được Đảng, nhân dân và cử tri tin tưởng giao phó. Quốc hội ngày càng khẳng định vững chắc vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt nhân dân thực hiện các quyền lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Từ khi ra đời đến nay, Quốc hội đã xây dựng, ban hành 05 bản Hiến pháp1 - những đạo luật cơ bản nhất của Nhà nước - thể hiện sự kết tinh ý chí, nguyện vọng, trí tuệ và sự sáng tạo của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các bản Hiến pháp ra đời đã tạo lập nền tảng chính trị, pháp lý cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước trong các giai đoạn lịch sử gần tám thập niên qua. Điều đó đã được Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Trong thành tựu chung của đất nước, có đóng góp rất quan trọng của Quốc hội nói chung, Quốc hội khóa XV nói riêng. Trong thời gian qua, hoạt động của Quốc hội đã có nhiều đổi mới, thực chất và hiệu quả hơn. Quốc hội ngày càng phát huy vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”2.

Đặc biệt, trên cơ sở kế thừa, phát huy những ưu điểm, bài học kinh nghiệm của Quốc hội trong lịch sử, nhất là của các nhiệm kỳ gần đây, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XV (từ ngày 21/10/2024 đến ngày 30/11/2024) - kỳ họp mang tính lịch sử, đã tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khắc phục các điểm nghẽn; quyết sách nhiều vấn đề khó, phức tạp, nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài trong nhiều năm, thậm chí nhiều nhiệm kỳ, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực và thực tiễn đang đòi hỏi cấp thiết; khơi thông nguồn lực, tập trung cao độ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Đồng thời, thảo luận, quyết định nhiều dự án tầm chiến lược, tạo tiền đề về mọi mặt, góp phần quan trọng hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Hoạt động của Quốc hội đã thể hiện nổi bật sự đổi mới về nhận thức, cách thức tiến hành và các hoạt động, lan tỏa mạnh mẽ tinh thần của Hội nghị Trung ương 10 (khóa XIII) ở mọi khâu, mọi bước và có những quyết đáp đúng đắn, kịp thời, đúng với tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9/11/2022 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:

Đổi mới về nhận thức, nâng cao hiệu quả các hoạt động của Quốc hội. Với tinh thần đổi mới toàn diện, lắng nghe ý kiến của các chuyên gia, nhà quản lý, doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là qua thực tiễn hoạt động, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có những đổi mới, nhất là đổi mới về nhận thức ngay từ khâu chuẩn bị cho kỳ họp để rà soát và thống nhất các nội dung cần báo cáo, trình Quốc hội xem xét, quyết định theo đúng thẩm quyền. Cùng với đó là những đổi mới trong công tác phối hợp giữa cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan chủ trì thẩm tra trong quá trình xây dựng các dự án luật, dự thảo nghị quyết trên tinh thần “đồng hành thực chất, tranh luận đến cùng, tôn trọng lắng nghe, lý lẽ dân chủ, nhưng phải đi đến phương án thống nhất tối ưu”.

Các dự thảo báo cáo, tờ trình, luật, nghị quyết được gửi kịp thời vừa giúp các đại biểu Quốc hội nghiên cứu, chuẩn bị ý kiến trước, vừa rút ngắn thời gian trình bày những tờ trình, báo cáo tại hội trường, dành thời gian để các đại biểu Quốc hội thảo luận và đại diện các cơ quan có liên quan phát biểu, giải trình, làm rõ những vấn đề đại biểu quan tâm. Đồng thời, Quốc hội cũng đổi mới hoạt động tại kỳ họp theo hướng giảm thời gian thảo luận tại hội trường, tăng thời gian thảo luận tại tổ để bảo đảm nhiều đại biểu Quốc hội được phát biểu ý kiến, trao đổi, thảo luận dân chủ và khách quan. Đặc biệt, ngay sau khi diễn ra các phiên thảo luận tổ, cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ quan chủ trì thẩm tra chủ động phối hợp, báo cáo giải trình sơ bộ, với tinh thần “dù một ý kiến đóng góp cũng phải được nghiên cứu, tiếp thu, giải trình thấu đáo, khẩn trương, kịp thời”.

Đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp. Đây là chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Quốc hội; là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các kỳ họp. Những năm qua, Quốc hội đã không ngừng đổi mới, nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, chủ động, kịp thời thể chế hóa các chủ trương của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp, bám sát yêu cầu của thực tiễn, phản ánh chân thực ý chí, nguyện vọng của cử tri và nhân dân. Vì thế, ở mỗi nhiệm kỳ, Quốc hội tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc lập pháp, ban hành khối lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật, góp phần quan trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ bản bao phủ rộng khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội, đáp ứng kịp thời yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng.

Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV, công tác lập pháp là một trong những trọng tâm ưu tiên để tập trung khắc phục, tháo gỡ nhanh và khơi thông ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực; trong đó, thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Quốc hội đã thảo luận, biểu quyết thông qua 18 luật và 21 nghị quyết, trong đó có 4 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật với tỷ lệ tán thành cao. Đồng thời, cho ý kiến lần đầu đối với 10 dự án luật khác. Đây đều là những dự án luật, dự thảo nghị quyết được cử tri, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp rất quan tâm, theo dõi. Trong đó có những dự thảo luật, dự thảo nghị quyết được Quốc hội xem xét, thông qua theo quy trình, thủ tục rút gọn tại một kỳ họp với nhiều quy định mới không những được đánh giá là chính sách đột phá, nhằm không chỉ kịp thời tháo gỡ ngay những khó khăn cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư công, thúc đẩy tăng trưởng, mà còn có tầm nhìn dài hạn, tạo cơ sở pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, như: quản lý và sử dụng dữ liệu, phát triển công nghiệp công nghệ số, chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao, phát triển điện hạt nhân và điện gió ngoài khơi,… thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, bắt kịp xu thế của thời đại, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới của dân tộc.

Quá trình tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện đối với các dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội xem xét, thông qua và các dự án luật trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu cho thấy, công tác lập pháp đã bám sát và hiện thực hóa tinh thần: chuyển đổi mạnh tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. Theo đó, các quy định của pháp luật do Quốc hội ban hành mang tính ổn định, có giá trị lâu dài. Luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc, đúng tầm và ngắn gọn, súc tích. Trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, các cơ quan đã chủ động rà soát, thống nhất cao về việc lược bỏ khỏi dự thảo luật những quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ, các bộ và cơ quan khác; không luật hóa các nội dung thông tư, nghị định. Đối với những vấn đề cụ thể còn đang trong quá trình vận động, chưa ổn định thì luật chỉ quy định khung và giao cho Chính phủ quy định chi tiết, đảm bảo linh hoạt trong điều hành, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Chính vì vậy, sau quá trình tiếp thu, chỉnh lý và hoàn thiện, số lượng các chương, điều, khoản trong các dự thảo luật đã giảm đáng kể so với bản dự thảo ban đầu do Chính phủ trình.

Đáng chú ý, việc xây dựng và trình Quốc hội thông qua dự thảo Luật Đầu tư công (sửa đổi) cũng như “một luật sửa bốn luật” trong lĩnh vực đầu tư và “một luật sửa chín luật” trong lĩnh vực tài chính, ngân sách,… là ví dụ điển hình cho việc đổi mới công tác xây dựng pháp luật theo hướng “chuyển từ tư duy quản lý sang khơi thông nguồn lực” với tinh thần đột phá, cải cách, phân cấp, phân quyền theo phương châm: “Địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ giữ vai trò kiến tạo, tăng cường hoàn thiện thể chế và kiểm tra, giám sát; bảo đảm “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ kết quả”; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tránh tạo cơ chế “xin - cho”; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể trong các quy định pháp luật do Quốc hội ban hành; công việc giao cơ quan nào, cấp nào làm tốt nhất thì giao cơ quan đó, cấp đó làm.

Trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và Luật Phòng không nhân dân, với tỷ lệ tán thành cao, thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội đối với việc xây dựng đội ngũ sĩ quan vững mạnh làm nòng cốt xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý khẳng định vai trò quan trọng của phòng không nhân dân trong phòng ngừa, xử lý có hiệu quả các tình huống về quốc phòng, an ninh trên không, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Quốc hội xem xét, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, tạo tiền đề để đất nước vươn mình trong thời gian tới. Nhằm tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, tạo đột phá để hoàn thiện cơ sở hạ tầng, phát huy tối đa nguồn lực, kiến tạo không gian phát triển mới, Quốc hội đã thảo luận và thông qua với tỷ lệ tán thành cao các nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và một số vấn đề khác liên quan đến các dự án trọng điểm của quốc gia, v.v. Đặc biệt, việc Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam ngay sau khi Ban Chấp hành Trung ương thống nhất chủ trương đầu tư toàn tuyến đối với Dự án, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới là minh chứng rõ ràng cho tư duy đổi mới trong phát triển hạ tầng quốc gia, không tiếp cận đơn lẻ, cục bộ, mà được hoạch định trên góc nhìn tổng thể, dài hạn, chiến lược, kết hợp hài hòa giữa các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường, quốc phòng, an ninh. Đây không chỉ là một công trình giao thông quan trọng quốc gia, mà còn là biểu tượng của khát vọng, tinh thần đổi mới và hành động quyết liệt, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức để mở ra cơ hội lớn cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Quốc hội cũng đã thảo luận, thông qua nhiều cơ chế, chính sách để giải quyết kịp thời các vấn đề quốc kế dân sinh, tháo gỡ nhanh nhất các khó khăn, “điểm nghẽn” liên quan đến cơ chế, chính sách, các dự án, đất đai, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, giải phóng các nguồn lực, hỗ trợ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn, như: Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi) quy định từng bước liên thông, thông tuyến trong khám chữa bệnh bảo hiểm y tế; giảm thuế giá trị gia tăng; Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035; Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2030, v.v. Nhằm lan tỏa tinh thần của Trung ương, Quốc hội cho phép sử dụng nguồn cắt giảm, tiết kiệm 5% chi thường xuyên năm 2024 của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương để hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Quốc hội đã đồng thuận cao với chủ trương xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, mang tính thời đại, như: phát triển hạ tầng năng lượng quốc gia (khởi động lại việc đầu tư dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận,…), ứng dụng thành quả của trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh,... nhằm tạo bước đột phá mạnh mẽ cho sự phát triển của đất nước những năm tiếp theo trong kỷ nguyên mới.

Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội được thực hiện tốt hơn. Hoạt động giám sát của Quốc hội ngày càng thực chất, hiệu quả, không chỉ nhằm mục đích đưa pháp luật vào cuộc sống, bảo đảm cho luật pháp được thi hành nghiêm và thống nhất, mà còn đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội đã kịp thời chấn chỉnh các sai sót, hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành và địa phương; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến thực sự trong thực tiễn.

Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp, nhất là kỳ họp thứ 8 đã có sự đổi mới và thành công với những cam kết mạnh mẽ trong chỉ đạo, quản lý, điều hành của Chính phủ. Sau chất vấn, Quốc hội đã thông qua nghị quyết với những yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể đối với Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan nhằm tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc giám sát thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát. Đồng thời, tập trung nghiên cứu, xác định rõ phương pháp, lựa chọn các hình thức giám sát phù hợp với thực tiễn, như: giám sát từ cơ sở, giám sát đột xuất,… kết hợp giám sát của Quốc hội với Hội đồng nhân dân; kế thừa kết quả giám sát, kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Trong đó, quán triệt quan điểm giám sát là để tăng hiệu quả thực chất của việc thực hiện chính sách, pháp luật, tránh trùng lặp với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác; không để ảnh hưởng, cản trở đến hoạt động bình thường của các cơ quan, đơn vị.

Cùng với đó, Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng về nhân sự cấp cao của đất nước và sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 - 2025 là cơ sở quan trọng để các địa phương trong cả nước sớm ổn định tổ chức bộ máy, tiến hành thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, thể hiện tinh thần đổi mới, hiệu quả cao trong quá trình làm việc của Quốc hội.

Hiện nay toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta với tinh thần mới, khí thế mới, niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đó là kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Để đạt được mục tiêu đó, ưu tiên hàng đầu là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao. Theo đó, đất nước đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần giải quyết. Nhân dân đang mong chờ và kỳ vọng vào những quyết sách của Đảng, Nhà nước và Quốc hội. Để đáp ứng những đòi hỏi đó, trong thời gian tới, Quốc hội tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, gương mẫu, đi đầu, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động theo phương châm “Trung ương làm gương - Địa phương hưởng ứng”; chú trọng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, tập trung triển khai thực hiện đồng bộ và hiệu quả các quyết sách của Quốc hội thời gian qua, nhất là tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XV. Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các cấp, các ngành, các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội cần tổ chức triển khai nhanh chóng, kịp thời các luật, nghị quyết đã được thông qua; khẩn trương quán triệt tinh thần đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật có hiệu quả, tạo hiệu ứng lan toả tích cực trong hệ thống chính trị và toàn dân.

Hai là, chủ động phối hợp chuẩn bị nội dung, chương trình kỳ họp thứ 9 và thứ 10 của Quốc hội khóa XV; tích cực chuẩn bị tổng kết toàn quốc hoạt động của Hội đồng nhân dân, đoàn đại biểu Quốc hội năm 2024; chú trọng việc lan tỏa, sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy và trách nhiệm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Ba là, quán triệt sâu sắc và triển khai khẩn trương yêu cầu cấp bách của công tác sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước trong kỷ nguyên mới; gắn chặt công tác tư tưởng với công tác tổ chức, cán bộ và chính sách; tập trung nâng cao ý thức, trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên, người lao động, trước hết là sự nêu gương của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức; trong đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội, coi đây là một trong những yếu tố then chốt của then chốt để đổi mới hoạt động của Quốc hội.

Đảng đoàn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập Ban Chỉ đạo, xây dựng kế hoạch, họp bàn phân công cụ thể; Quốc hội và các đại biểu Quốc hội cần thống nhất cao và gương mẫu, đi đầu. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quan hệ giữa các cơ quan, nhất là các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ, bảo đảm chặt chẽ, hài hòa trong quy trình quản trị quốc gia. Sắp xếp, kiện toàn Hội đồng dân tộc, các ủy ban, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Bên cạnh đó, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội theo chức năng, nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu, rà soát các luật, pháp lệnh, nghị quyết có liên quan đến tổ chức, hoạt động của Quốc hội nói riêng và của cả hệ thống chính trị nói chung để chủ động đề xuất trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới, sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, đảm bảo chủ trương của Đảng được triển khai nhanh nhất khi được Trung ương thống nhất thông qua.

Bốn là, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội tiếp tục quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; trong đó, xác định bốn giải pháp trọng tâm gồm: nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên với tư duy làm việc khoa học, quản lý thời gian hiệu quả, hình thành trách nhiệm đạo đức xã hội gắn với thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật; hoàn thiện thể chế phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm; giải quyết triệt để các nguyên nhân dẫn đến tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; xây dựng văn hóa tiết kiệm, coi thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, hằng ngày của mỗi cá nhân, tổ chức.

Năm là, xây dựng và triển khai kế hoạch tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Dự kiến cơ cấu, thành phần, nhân sự cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI; chỉ đạo triển khai công tác chuẩn bị cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031 thành công tốt đẹp.

Quán triệt, thực hiện tốt ba nhiệm vụ lớn mà Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 10 (khóa XIII) xác định: đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị; tăng tốc, bứt phá để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng; chuẩn bị tốt các điều kiện để tổ chức thành công Đại hội XIV, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Với vai trò và chức năng của mình, tiếp nối và phát huy những kết quả của kỳ họp thứ 8, Quốc hội cần “Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động, bảo đảm thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp”3 cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu đã đề ra, vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.