Những ngày qua, liên quan đến về vụ việc đoàn thanh
tra Bộ Xây dựng do bà Nguyễn Thị Kim Anh, Phó trưởng phòng Phòng chống
tham nhũng làm trưởng đoàn. Phó đoàn là bà Lưu Vân Oanh, Phó trưởng phòng
Giám sát, kiểm tra và xử lý sau thanh tra, cùng 3 cán bộ thanh tra bị Công an
tỉnh Vĩnh Phúc lập biên bản, tạm giữ về hành vi “vòi tiền” trong quá trình
thanh tra tại huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Nhiều trang tin, bài báo lợi
dụng vấn đề trên phản ánh khác nhau đã gây ra những thông tin trái chiều, ảnh
hưởng đến đời sống xã hội.
Thứ Hai, 17 tháng 6, 2019
Thứ Sáu, 14 tháng 6, 2019
LUẬN BÀN VỀ BẢN
CHẤT CỦA QUAN ĐIỂM ĐÒI “DÂN SỰ HÓA”
QUÂN ĐỘI
(tiếp theo và hết)
3. Thực chất
mục đích của quan điểm đòi “dân sự hóa” Quân đội là kết hợp “diễn biến hòa
bình” với thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về quân sự, quốc phòng ở Việt
Nam
Với việc đưa
ra quan điểm đòi “dân sự hóa” Quân đội, một số người đã đánh tráo khái niệm
“dân sự quản lý quân sự” với “dân sự hóa” Quân đội; họ đánh đồng việc dân
sự quản lý quân sự với biến việc của quân sự thành việc của dân sự, làm cho
người khác hiểu sai về bản chất vấn đề.
LUẬN BÀN VỀ BẢN
CHẤT CỦA QUAN ĐIỂM ĐÒI “DÂN SỰ HÓA”
QUÂN ĐỘI
(tiếp theo)
2. Bản chất
“dân sự hóa” quân đội ở các nước tư sản
Dựa trên “học
thuyết phân quyền tư sản”, những người có quyền lập pháp ở các nước tư sản đã
ban hành vô số điều luật thiết tưởng sẽ chia tách được quyền lực của ba nhóm lập
pháp, hành pháp và tư pháp đối với việc quản lý nhà nước về quân sự, quốc
phòng. Ở đó, người ta “thực sự” tin rằng, nhờ chế định “dân sự quản lý quân sự”
(dân quản quân) đã được ghi tạc, ban hành trong luật pháp thì “chắc chắn” việc
của quân đội tất yếu là việc của phái dân sự thực hiện, chứ “dứt khoát” không
phải là việc của đảng phái nào, phái quân sự nào! Tuy nhiên, trái ngược với những
tư tưởng “tam quyền phân lập”, thực tiễn đời sống pháp luật tư sản cho thấy một
nghịch lý với hoài niệm “tốt đẹp” về nó.
LUẬN BÀN VỀ BẢN
CHẤT CỦA QUAN ĐIỂM ĐÒI “DÂN SỰ HÓA”
QUÂN ĐỘI
Hiện nay, một
số người đang cổ súy cho cái gọi là “dân sự hóa” Quân đội; kiến nghị đòi “trao
quyền kiểm soát Quân đội” cho Quốc hội, Nhà nước và Chính phủ”, cho rằng “Quân
đội chỉ phục tùng Hiến pháp, không phục tùng luật Đảng”(!). Vậy đâu là bản chất
của những luận điểm như vậy?
1. Quan điểm
trên thể hiện sự áp đặt luật pháp tư sản vào nước ta
Họ đã lấy luật
pháp nhà nước tư sản làm “thước đo”, “tiêu chí” pháp lý cho mọi nhà nước, chế độ
xã hội. Đó là thứ “triết lý” về chế độ “dân sự quản lý quân sự của nhà nước
tư sản”, theo Khoản 8, Điều I, Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Ở đó, không
có điều luật nào dành cho các nhánh hành pháp và tư pháp quyền ban hành luật
pháp đối với việc quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Đó là sự vay mượn
triết lý luật pháp về “chia tách” quyền lực quân sự
MỌI NGƯỜI XEM NGỪƠI MỸ NHẬN XÉT VỀ BỌN NGỤY QUÂN, NGỤY QUYỀN VIỆT NAM CỘNG HÒA?
Có rất nhiều bài Stt của người
Mỹ, người Việt Nam. Xin trích nguyên văn để các bạn có cách nhìn đúng về nhận
thức của Người Mỹ đối với ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn chạy sang Mỹ khi Việt
Nam thống nhất đất nước. Cụ thể như sau:
Nhận diện, đấu tranh với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị
Hiện nay ở Việt Nam, các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị được sự cổ vũ, hà hơi, tiếp sức của các thế lực xấu, đang đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị để phục vụ ý đồ làm rối loạn tư tưởng xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín, vị thế và sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, đến mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Vì
thế, việc nhận diện các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để có biện
pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả là vấn đề rất quan trọng và cần thiết.
Không nhận diện đúng, không phân biệt rõ hiện tượng và bản chất thì
không thể có giải pháp đấu tranh đúng đắn, hiệu quả. Xem xét một cách tổng quát, biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã
được Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng chỉ ra. Đó là những người
có quan điểm, thái độ chính trị thiếu nhất quán, không kiên định, vững
vàng; khi cách mạng phát triển thuận lợi thì tỏ ra tích cực, hăng hái;
khi cách mạng gặp khó khăn thì dao động, thoái chí, thỏa hiệp, thậm chí
phản bội, đầu hàng, quay lại chống phá cách mạng. Các phần tử này thường núp dưới danh nghĩa đổi mới, cải cách, dân
chủ, nhân quyền để mưu đồ lợi ích riêng. Cơ hội chính trị và bất mãn
chính trị là hai khái niệm biểu hiện tư tưởng chính trị khác nhau, đều
nguy hại, song có quan hệ chặt chẽ với nhau; cơ hội chính trị mang trong
nó cả yếu tố bất mãn chính trị; bất mãn chính trị có thể chuyển hóa
thành cơ hội chính trị. Các phần tử này đều có xu hướng câu kết với các
thế lực thù địch, hoặc bị các thế lực thù địch tìm mọi cách lôi kéo, hỗ
trợ, tiếp sức, câu kết nhằm biến thành kẻ phản bội, phản động, đứng hẳn
về phía đối lập, chống lại sự nghiệp cách mạng. Có thể khái quát một số
dạng cơ hội, bất mãn chính trị ở nước ta, đó là:
- Những người có lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng, dễ dao động, thiếu niềm tin, luôn hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do bản chất cơ hội, lập trường mơ hồ, thiếu kiên định, cho nên khi cách mạng gặp khó khăn, bất lợi thì hoang mang, thỏa hiệp, phụ họa theo nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, thù địch, quay lại chống phá cách mạng, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống phá Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Những người lợi dụng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để mưu cầu lợi ích riêng. Họ thường che giấu mặt thật, ít bày tỏ quan điểm, chính kiến rõ ràng, thái độ chính trị trung dung, thỏa hiệp, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, “dĩ hòa vi quý”, chỉ làm việc có lợi cho bản thân; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng, hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ không trong sáng. Họ lợi dụng chủ trương, chính sách, móc ngoặc với người có chức, có quyền để trục lợi, tiến thân. Họ lợi dụng thiếu sót, sơ hở của chính sách để công kích, chống phá, gây mất đoàn kết nội bộ, làm mất uy tín của Đảng, bôi nhọ, nói xấu chính quyền. Họ lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc với tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.
- Những người suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, hoặc bị kỷ luật, không kiếm được lợi lộc sinh bất mãn, bị các thế lực thù địch tác động, lôi kéo, mua chuộc. Hầu hết những phần tử này có tham vọng chính trị, chức quyền và khi tham vọng không được đáp ứng thì họ bất mãn. Họ lợi dụng xu thế dân chủ hóa, mạng xã hội, tranh thủ sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch ở nước ngoài dưới các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, ráo riết tập hợp lực lượng, từng bước công khai hóa tổ chức chính trị đối lập dưới hình thức hội, nhóm để thực hiện mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Những người thực dụng về kinh tế và muốn thể hiện mình trước tổ chức, tập thể. Họ sẵn sàng rẽ theo bất cứ con đường nào miễn là có lợi ích kinh tế lớn hơn; thường tự coi là người có học, hiểu biết, tỏ ra nổi trội, muốn đưa ra “phát kiến” mới, rồi lôi kéo, tổ chức, gây thanh thế. Khi mục đích kinh tế không đạt được, do các nguyên nhân khác nhau mà “phát kiến” không được chấp nhận, hoặc mối quan hệ kinh tế không trong sáng bị phát hiện, ngăn chặn, các phần tử này lập tức thể hiện thái độ chống đối Đảng, chế độ; phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh...Cần chú ý là các thế lực xấu, thù địch đã và đang ra sức lợi dụng, sử dụng các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị làm lực lượng xung kích, tiên phong để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”. Và sự chống phá diễn ra trên mọi lĩnh vực, tiến hành một cách kiên trì, có nội dung, phương thức, lộ trình, ngày càng trở nên tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm.
Đấu tranh với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị là yêu cầu khách quan, thường xuyên, là vấn đề cấp bách, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ, tới sinh mệnh của Đảng. Để đấu tranh với những người cơ hội và bất mãn chính trị có hiệu quả, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, các cấp, các ngành cần đồng thời vào cuộc thực hiện quyết liệt, đồng bộ và toàn diện các giải pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cơ chế, chính sách, pháp luật với quyết tâm cao, nhất là của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền các cấp, và cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thực hiện kiên quyết, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là giải pháp cơ bản, toàn diện và bao trùm trong đấu tranh chống các thế lực xấu, thù địch và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị ở nước ta. Để thực hiện tốt, các cấp ủy đảng, chính quyền phải quán triệt, thể chế hóa, cụ thể hóa các nội dung Nghị quyết thành các văn bản pháp luật, thành kế hoạch, đề án cụ thể; đồng thời nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ chủ chốt các cấp, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, nhất là cán bộ cấp cao trong nêu gương thực hiện Nghị quyết, nêu gương trong lời nói, hành động, công việc, đời sống riêng và thực hiện nghiêm chế tài giám sát, kiểm soát sự nêu gương ấy.
Xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự vững mạnh, không tham nhũng, lãng phí, quan liêu, mất đoàn kết. Giải pháp này đòi hỏi phải đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh, quốc phòng; thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo chuyển biến rõ rệt về ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và phong cách công tác của cán bộ, đảng viên. Thực hiện có nền nếp và chất lượng việc đấu tranh tự phê bình và phê bình, chủ động ngăn chặn, ngăn ngừa xu hướng cơ hội, bất mãn chính trị. Đặc biệt là cần chú trọng hơn nữa việc nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, nâng cao trình độ lý luận, trình độ nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, để tạo sức “đề kháng” trước tác động của quan điểm cơ hội, bất mãn chính trị, quan điểm sai trái, thù địch. Tăng cường công tác quản lý nội bộ, kịp thời đấu tranh và xử lý cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kịp thời phát hiện, ngăn chặn những người cơ hội và bất mãn chính trị.
Chủ động phát hiện, kiên quyết, kiên trì đấu tranh và xử lý bằng hình thức phù hợp đối với người cơ hội, bất mãn chính trị, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Cần làm tốt việc sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên, kiên quyết đưa người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng và cơ quan, đơn vị. Phát huy vai trò quần chúng trong phong trào bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ, phát hiện, đấu tranh với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị và xử lý kỷ luật thích đáng, kịp thời, công khai, nghiêm minh, đúng pháp luật, không để sơ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng vu cáo, công kích, chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chủ quyền đất nước, lợi ích quốc gia - dân tộc.
Tích cực và chủ động đấu tranh chống những tư tưởng cơ hội và bất mãn chính trị, quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục người nhẹ dạ, cả tin, bị mua chuộc, bị lôi kéo; phân hóa, cô lập kẻ cầm đầu, cực đoan, có thái độ chống đối. Phát huy sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng nhằm phát hiện kịp thời và đấu tranh hiệu quả với hoạt động phá hoại của các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. Chú trọng xây dựng và phát huy tốt vai trò của lực lượng chuyên trách, nòng cốt trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận có chất lượng cao, thật sự là cây bút có dũng khí, luận chiến sắc sảo, bình luận viên “đủ tầm”, đáp ứng yêu cầu đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
Trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động của các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị, cần dựa trên cơ sở khoa học xác đáng, với luận điểm đúng đắn, luận cứ rõ ràng, luận chứng sắc bén, có tính thuyết phục cao. Bên cạnh đó, cần quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin truyền thông, nhất là in-tơ-nét và mạng xã hội; kiểm soát, tổ chức tốt việc thu hồi tài liệu, ấn phẩm mà các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị phát tán để xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kích động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Những người có lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng, dễ dao động, thiếu niềm tin, luôn hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do bản chất cơ hội, lập trường mơ hồ, thiếu kiên định, cho nên khi cách mạng gặp khó khăn, bất lợi thì hoang mang, thỏa hiệp, phụ họa theo nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, thù địch, quay lại chống phá cách mạng, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống phá Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Những người lợi dụng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để mưu cầu lợi ích riêng. Họ thường che giấu mặt thật, ít bày tỏ quan điểm, chính kiến rõ ràng, thái độ chính trị trung dung, thỏa hiệp, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, “dĩ hòa vi quý”, chỉ làm việc có lợi cho bản thân; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng, hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ không trong sáng. Họ lợi dụng chủ trương, chính sách, móc ngoặc với người có chức, có quyền để trục lợi, tiến thân. Họ lợi dụng thiếu sót, sơ hở của chính sách để công kích, chống phá, gây mất đoàn kết nội bộ, làm mất uy tín của Đảng, bôi nhọ, nói xấu chính quyền. Họ lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc với tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.
- Những người suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, hoặc bị kỷ luật, không kiếm được lợi lộc sinh bất mãn, bị các thế lực thù địch tác động, lôi kéo, mua chuộc. Hầu hết những phần tử này có tham vọng chính trị, chức quyền và khi tham vọng không được đáp ứng thì họ bất mãn. Họ lợi dụng xu thế dân chủ hóa, mạng xã hội, tranh thủ sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch ở nước ngoài dưới các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, ráo riết tập hợp lực lượng, từng bước công khai hóa tổ chức chính trị đối lập dưới hình thức hội, nhóm để thực hiện mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Những người thực dụng về kinh tế và muốn thể hiện mình trước tổ chức, tập thể. Họ sẵn sàng rẽ theo bất cứ con đường nào miễn là có lợi ích kinh tế lớn hơn; thường tự coi là người có học, hiểu biết, tỏ ra nổi trội, muốn đưa ra “phát kiến” mới, rồi lôi kéo, tổ chức, gây thanh thế. Khi mục đích kinh tế không đạt được, do các nguyên nhân khác nhau mà “phát kiến” không được chấp nhận, hoặc mối quan hệ kinh tế không trong sáng bị phát hiện, ngăn chặn, các phần tử này lập tức thể hiện thái độ chống đối Đảng, chế độ; phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh...Cần chú ý là các thế lực xấu, thù địch đã và đang ra sức lợi dụng, sử dụng các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị làm lực lượng xung kích, tiên phong để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”. Và sự chống phá diễn ra trên mọi lĩnh vực, tiến hành một cách kiên trì, có nội dung, phương thức, lộ trình, ngày càng trở nên tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm.
Đấu tranh với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị là yêu cầu khách quan, thường xuyên, là vấn đề cấp bách, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ, tới sinh mệnh của Đảng. Để đấu tranh với những người cơ hội và bất mãn chính trị có hiệu quả, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, các cấp, các ngành cần đồng thời vào cuộc thực hiện quyết liệt, đồng bộ và toàn diện các giải pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cơ chế, chính sách, pháp luật với quyết tâm cao, nhất là của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền các cấp, và cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thực hiện kiên quyết, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là giải pháp cơ bản, toàn diện và bao trùm trong đấu tranh chống các thế lực xấu, thù địch và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị ở nước ta. Để thực hiện tốt, các cấp ủy đảng, chính quyền phải quán triệt, thể chế hóa, cụ thể hóa các nội dung Nghị quyết thành các văn bản pháp luật, thành kế hoạch, đề án cụ thể; đồng thời nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ chủ chốt các cấp, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, nhất là cán bộ cấp cao trong nêu gương thực hiện Nghị quyết, nêu gương trong lời nói, hành động, công việc, đời sống riêng và thực hiện nghiêm chế tài giám sát, kiểm soát sự nêu gương ấy.
Xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự vững mạnh, không tham nhũng, lãng phí, quan liêu, mất đoàn kết. Giải pháp này đòi hỏi phải đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh, quốc phòng; thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo chuyển biến rõ rệt về ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và phong cách công tác của cán bộ, đảng viên. Thực hiện có nền nếp và chất lượng việc đấu tranh tự phê bình và phê bình, chủ động ngăn chặn, ngăn ngừa xu hướng cơ hội, bất mãn chính trị. Đặc biệt là cần chú trọng hơn nữa việc nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, nâng cao trình độ lý luận, trình độ nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, để tạo sức “đề kháng” trước tác động của quan điểm cơ hội, bất mãn chính trị, quan điểm sai trái, thù địch. Tăng cường công tác quản lý nội bộ, kịp thời đấu tranh và xử lý cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kịp thời phát hiện, ngăn chặn những người cơ hội và bất mãn chính trị.
Chủ động phát hiện, kiên quyết, kiên trì đấu tranh và xử lý bằng hình thức phù hợp đối với người cơ hội, bất mãn chính trị, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Cần làm tốt việc sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên, kiên quyết đưa người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng và cơ quan, đơn vị. Phát huy vai trò quần chúng trong phong trào bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ, phát hiện, đấu tranh với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị và xử lý kỷ luật thích đáng, kịp thời, công khai, nghiêm minh, đúng pháp luật, không để sơ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng vu cáo, công kích, chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chủ quyền đất nước, lợi ích quốc gia - dân tộc.
Tích cực và chủ động đấu tranh chống những tư tưởng cơ hội và bất mãn chính trị, quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục người nhẹ dạ, cả tin, bị mua chuộc, bị lôi kéo; phân hóa, cô lập kẻ cầm đầu, cực đoan, có thái độ chống đối. Phát huy sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng nhằm phát hiện kịp thời và đấu tranh hiệu quả với hoạt động phá hoại của các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. Chú trọng xây dựng và phát huy tốt vai trò của lực lượng chuyên trách, nòng cốt trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận có chất lượng cao, thật sự là cây bút có dũng khí, luận chiến sắc sảo, bình luận viên “đủ tầm”, đáp ứng yêu cầu đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
Trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động của các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị, cần dựa trên cơ sở khoa học xác đáng, với luận điểm đúng đắn, luận cứ rõ ràng, luận chứng sắc bén, có tính thuyết phục cao. Bên cạnh đó, cần quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin truyền thông, nhất là in-tơ-nét và mạng xã hội; kiểm soát, tổ chức tốt việc thu hồi tài liệu, ấn phẩm mà các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị phát tán để xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kích động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
ĐỊNH HƯỚNG NHẬN THỨC CHO THANH NIÊN QUÂN ĐỘI TRƯỚC SỰ CHỐNG PHÁ MỚI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG HIỆN NAY
Những năm gần đây, sự bùng nổ của mạng xã hội
(Facebook, Zalo...) đã đem lại những lợi ích không thể phủ nhận; đã kết nối
thông tin cho mọi người, chia sẻ những vấn đề trong cuộc sống, kết nối mọi
người gần nhau hơn.
Với đặc điểm nổi trội là tốc độ kết nối
nhanh, phạm vi chia sẻ rộng, hiệu quả tác động lớn, mạng xã hội trở thành nhu
cầu không thể thiếu đối với đời sống, tác động một cách trực tiếp, làm thay đổi
nhận thức, hành vi của mỗi cá thể, qua đó tác động đến sự phát triển của toàn
xã hội. Tuy nhiên, mạng xã hội cũng bộc lộ những mặt trái và hệ lụy của nó
đối với sự phát triển của đất nước ta. Nhận biết được điều đó, thời gian gần
đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, lực lượng chống cộng
cực đoan ở nước ngoài,… triệt để lợi dụng các trang mạng xã hội để tán phát các
tin, bài, videoclip có nội dung chống phá Đảng, Nhà nước ta với sự gia tăng cả
về cấp độ, mật độ, tần suất và lưu lượng tin, bài,… bằng những chiêu thức, thủ
đoạn hết sức tinh vi, thâm hiểm nhằm thu hút sự quan tâm, theo dõi của cộng
đồng mạng. Qua đó, chúng thực hiện các biện pháp, thủ đoạn tuyên truyền, kích
động, xuyên tạc, chống phá ta một cách quyết liệt, tung tin thất thiệt, lừa
bịp, mị dân, thật giả lẫn lộn, làm cho một bộ phận cư dân mạng mất phương
hướng, lầm tưởng rằng đó là sự thật, dẫn đến hoài nghi, thiếu niềm tin với
Đảng, chế độ. Nổi lên một số thủ đoạn mới đáng chú ý là:
1. Thực hiện Live stream trực
tiếp để kêu gọi cộng đồng mạng can thiệp vào nội bộ hoặc tham gia bình luận
trái chiều trên mạng xã hội. Đây là thủ đoạn dùng tài
khoản Faceook với công cụ Live stream để phát videoclip trực tiếp về một sự
việc do chúng dựng lên hoặc “lên sóng” trực tiếp trên mạng xã hội để tạo “diễn
đàn” kêu gọi mọi người tham gia bình luận về một vấn đề “nóng” được dư luận xã
hội quan tâm, “kịch bản” được xây dựng khá công phu, nội dung được quay video
phát trực tiếp thường là các vụ việc liên quan đến các cuộc tụ tập đông người,
khiếu kiện tại trụ sở các cơ quan công quyền. Chủ đề chúng chọn bình luận
thường là các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi thiết thực, vấn đề bức
xúc của người dân, như: môi trường, dân sinh, giải phóng mặt bằng, quan hệ ứng
xử của cán bộ công chức, lực lượng vũ trang, thực thi công vụ của các lực lượng
chức năng, v.v. Thời điểm chúng chọn để Live stream thường vào dịp có các sự
kiện chính trị của Đảng, Nhà nước (các kỳ họp, ngày lễ, ngày kỷ niệm, nguyên
thủ các nước đến thăm Việt Nam,…), hoặc chúng lồng ghép quan điểm cá nhân, bình
luận xuyên tạc, thu hút sự quan tâm của cộng đồng mạng và kêu gọi sự “phù họa”
của các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị cùng tham gia, chia sẻ. Mục đích của
chúng nhằm: “vẽ ra” trong mắt công chúng một Đảng cầm quyền bất ổn, một nhà
nước bị chia rẽ cục bộ, một hình ảnh Quân đội yếu đuối, Công an tham nhũng,
v.v. Từ đó, kêu gọi sự can thiệp của dư luận quốc tế và các tổ chức phản động
vào chống phá Việt Nam.
2. Sử dụng “khoảng trống
thông tin” để tấn công vào sự hiếu kỳ của công chúng. Đây
là thủ đoạn chúng lợi dụng việc báo chí chính thống trong nước khi đưa tin đều
phải qua quá trình tiếp cận thực tế, kiểm định nguồn tin, biên tập, thông qua
mới cho đăng tin, bài (thậm chí, để bảo đảm tính chính xác của thông tin và
tính toán lợi ích của việc đưa tin, một số vấn đề cụ thể nào đó, có thể bị chậm
trễ khi đưa tin). Lợi dụng “khoảng trống thông tin” này, chúng phát tán ồ ạt,
trực tiếp những tin, bài xuyên tạc, bóp méo sự thật bằng những tiêu đề “giật
gân”, “câu khách” về những gì dư luận đang quan tâm, nhất là các vấn đề liên
quan đến nội bộ Đảng, Nhà nước, tham nhũng, tiêu cực dưới các dạng, như: thông
tin sự việc, đặt câu hỏi, bỏ ngỏ vấn đề bể bạn đọc suy ngẫm,… với những thông
tin trộn lẫn thật giả, kích thích tính hiếu kỳ, tò mò của cộng đồng mạng vào
các trang Facebook, Blog và các tờ báo điện tử có nội dung phản động, gây tâm
lý hoang mang, bán tín, bán nghi, v.v.
3. Làm mới thông tin cũ, bịa
đặt thông tin mới để chống phá Quân đội là thủ đoạn được chúng tiến
hành khá “bài bản”. Thông tin cũ được lựa chọn để “làm mới” và “thông tin mới
được lựa chọn để bịa đặt” thường là những đoạn videoclip hoặc hình ảnh có liên
quan đến mối quan hệ cán bộ với chiến sĩ, cán bộ được cho là “hành hung chiến
sĩ”, “chiến sĩ cũ đánh chiến sĩ mới”, các vấn đề liên quan đến dân chủ trong
Quân đội, quan hệ quân dân,… do chúng tạo dựng lên. Thủ đoạn của chúng là,
các vụ việc đã được xử lý, giải quyết từ lâu nhưng đưa ra “làm mới”; hoặc
những thông tin mới, mặc dù đã có kết luận của các cơ quan chức năng nhưng
chúng bịa đặt, xuyên tạc, đưa ra những bình luận trái chiều làm sai lệch bản
chất của vấn đề. Thời điểm tán phát để “làm mới” hoặc bịa đặt thường là trước
mùa tuyển chọn, giao nhận quân, quá trình huấn luyện chiến sĩ mới, trước các sự
kiện chính trị của đất nước, Quân đội, v.v. Mục đích của việc tán phát các
thông tin, hình ảnh, đoạn videoclip không thuần túy chỉ là sự phản ánh một vụ
việc, một con người cụ thể, mà đằng sau đó là âm mưu và sự toan tính hết sức
thâm độc của các thế lực thù địch. Họ muốn đánh vào tâm lý lo lắng, sợ hãi
trong nhân dân và thanh niên không muốn nhập ngũ vì sợ vào Quân đội sẽ bị “đánh
đập tàn bạo”, sẽ trở thành những “quân oan”, hoặc tâm lý chấp nhận “ma cũ bắt
nạt ma mới” trong chiến sĩ, v.v. Từ đó, gây dư luận trái chiều trong xã hội về
bản chất của Quân đội ta, kích động thanh niên trốn tránh nghĩa vụ quân sự, làm
giảm sức mạnh chiến đấu, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong Quân đội, làm mất đi
hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, làm giảm niềm tin của nhân dân về môi trường
Quân đội, cuối cùng là thực hiện mục tiêu “phi chính trị hóa” Quân đội.
Trong Quân đội nhân dân Việt Nam,
lực lượng thanh niên rất đông đảo, lực lượng chủ yếu, trực tiếp thực hiện các
nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Đây cũng là lực lượng rất năng động, giàu hoài bão, dễ tiếp thu các luồng thông
tin, nhất là thông tin trên intenet và những tư tưởng mới lạ. Tuy nhiên, khả
năng phân tích, nhận định, chọn lọc thông tin của đối tượng này còn hạn chế, dễ
bị dao động, lôi kéo, kích động dẫn đến những quyết định không chính xác, thậm
chí sai lầm. Trước thực trạng đó, cần tạo sức đề kháng, “hệ miễn dịch” trong
mỗi quân nhân - thanh niên trước những âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực thù
địch, góp phần tạo sự thống nhất cao về chính trị, tư tưởng trong thế hệ trẻ
nói chung, thanh niên Quân đội nói riêng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay. Vì thế, cần định hướng cho thanh niên Quân đội khi tham gia
mạng xã hội là vấn đề cấp thiết hiện nay. Do đó, lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan,
đơn vị cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp để khắc phục tình trạng này; trong
đó, tập trung vào một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, giáo dục mục tiêu, lý tưởng, đạo đức cách mạng, tinh thần tự
giác trong tu dưỡng, rèn luyện kỷ luật của quân nhân. Tiến hành công tác
giáo dục chính trị tư tưởng với những hình thức, phương pháp mới phù hợp với
giới trẻ, quá trình giáo dục tập trung nâng cao tầm hiểu biết về mục tiêu, lý
tưởng, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, tình cảm gắn bó cán bộ với chiến sĩ, quân với
dân, chức trách, nhiệm vụ; nếp sống văn minh, giữ gìn truyền thống văn hóa dân
tộc, thái độ và hành vi ứng xử có văn hóa;
ý thức xây dựng nền nếp chính quy, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước,
kỷ luật Quân đội, tinh thần trách nhiệm cao trong thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao; đồng thời, nêu cao cảnh giác cách mạng, biết phân biệt đúng
- sai, ý thức tự phòng, chống các tác động xấu từ mặt trái kinh tế thị trường
và âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” do các thế lực thù
địch tiến hành chống phá cách mạng nước ta thông qua không gian mạng.
Hai là, trang
bị “vũ khí phòng vệ và phản công”cho đoàn viên thanh niên trong Quân đội khi
tham gia mạng xã hội. Các đơn vị cần đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao
nhận thức cho đoàn viên thanh niên Quân đội về mạng xã hội, cách sử dụng mạng
xã hội hợp lý. Tăng cường các hoạt động phổ biến, giáo dục cho đoàn viên, thanh
niên tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, quy định
của đơn vị. Động viên đoàn viên, thanh niên tự học, tự trang bị các kiến thức,
kinh nghiệm sống để nhận diện thông tin xấu độc, hình thành khả năng phân tích
trước các thông tin tràn lan trên mạng xã hội. Phát huy vai trò định hướng của
cơ quan chính trị, tổ chức Đoàn các cấp và tính tự giác của đoàn viên thanh
niên khi tham gia mạng xã hội; đề ra cơ chế kiểm soát thông tin, loại bỏ các
nội dung xuyên tạc, gây bất an trong dư luận trên mạng xã hội. Coi việc đấu
tranh, phòng, chống hiệu quả âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, tạo ra hệ
“miễn dịch” đối với mọi thông tin sai trái, xấu độc của các thế lực thù địch là
thước đo kết quả xây dựng bản lĩnh chính trị của đoàn viên thanh niên Quân
đội.
Ba là, chủ
động, tự giác, tích cực tuyên truyền làm cho mọi đoàn viên thanh niên Quân đội
thấy rõ tính hai mặt của mạng xã hội. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp thường
xuyên quan tâm, chủ động trong việc giáo dục nâng cao nhận thức cho mọi quân
nhân, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục pháp luật, nhất
là các quy định trong việc dùng và sử dụng mạng xã hội trong đơn vị. Tăng cường
công tác quản lý, sử dụng, khai thác mạng xã hội trong việc học tập, nghiên
cứu, sử dụng phải đúng mục đích; nghiêm cấm đưa các hình ảnh phản cảm lên mạng
xã hội để chia sẻ. Kịp thời chấn chỉnh, nhắc nhở, xử lý, ngăn chặn những hành
vi tán phát các thông tin, hình ảnh có nội dung tiêu cực, phản cảm và các biểu
hiện lơ là mất cảnh giác khi tham gia mạng xã hội, không để các thông tin tiêu
cực trên mạng xã hội tác động xấu tới tư tưởng, nhận thức của đoàn viên thanh
niên.
Thứ Tư, 12 tháng 6, 2019
Giá trị của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
góp phần ngăn
chặn, đẩy lùi biểu hiện “Tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” từ nội bộ trong tình hình hiện
nay
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là quá
trình tự biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên theo chiều hướng tiêu cực, làm phai nhạt dần niềm tin và các chuẩn mực của
người đảng viên cộng sản, nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ dễ dẫn đến xa
rời nguyên tắc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục
tiêu, lý tưởng cách mạng, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; nhận thức phiến diện, giản đơn, không thấy được sự nguy hại của nó, vô
tình đã có những hành động tiếp tay cho các thế lực thù địch chống Đảng, Nhà
nước, sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về
“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ”, đã chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, phân tích nguyên nhân, đề ra giải pháp để từng đảng viên, tổ chức
đảng soi vào đó kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, khắc phục, sửa chữa. Qua
đó, đã tạo sự chuyển biến trong công tác xây dựng Đảng.
NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẮN CHỐNG “DIỄN
BIẾN HOÀ BÌNH”
TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ
“Diễn biến hoà bình” là một bộ
phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của các thế lực thù
địch, với phương thức hành động tổng lực, phức tạp, rộng lớn chống các nước xã
hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc. “Diễn biến hoà bình” được tiến
hành trên mọi lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội bằng mọi
biện pháp. Chiến lược “Diễn biến hoà bình” sử dụng biện pháp “phi quân sự” là
chủ yếu, nhưng có kết hợp với bạo loạn, lật đổ, can thiệp vũ trang, kể cả xâm
lược khi có điều kiện, thời cơ.
Một trong những mục tiêu cơ bản của chiến
lược "Diễn biến hòa bình" là làm suy yếu, chệch hướng phát triển của
nền kinh tế, tiến tới chi phối, khống chế nền kinh tế các nước xã hội chủ
nghĩa.
Các thế lực thù địch sử dụng kinh
tế để lũng đoạn nền kinh tế Việt Nam, chuyển hóa nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đi theo quỹ đạo kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa và từ chuyển hóa về kinh tế tiến tới chuyển hóa về chính trị. Thông
qua các hoạt động đầu tư, liên doanh, liên kết, hợp tác kinh tế để đẩy mạnh phát
triển khu vực kinh tế tư nhân, làm biến đổi dần cơ sở kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Lợi dụng các khoản viện trợ kinh tế, cho vay ưu đãi,
hiệp định thương mại và các quan hệ kinh tế khác để gây sức ép về chính trị,
can thiệp nội bộ, từng bước chuyển hóa Việt Nam theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.
ĐỊCH Ở SAU LƯNG NHÀ NGƯƠI ĐẤY
Thời
gian gần đây hay vào các trang mạng xã hội; xoay quanh việc xin từ chức của ông
Đoàn Ngọc Hải mấy ngày qua và nhận thấy thủ đoạn rất tinh vi nhưng vô cùng quyết
liệt của các thế lực thù địch phá hoại trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. Đúng là bọn “mõm nhôm” Chúng
đã khai thác triệt để vào các vấn đề thời sự, sự kiện diễn ra được quan tâm,
chia sẻ rộng rãi trong cộng đồng mạng. Từ đó tung tin đồn nhảm, xuyên tạc tình
hình phát tán các tài liệu đã sửa đổi, cổ vũ, kích động quan điểm chống đối gây tâm lý hoang mang,
mất lòng tin, hiểu lầm trong nhân dân, hạ uy tín lãnh đạo, uy tín của tổ chức
trong công tác bố trí, điều động, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ; đánh vào sự hoài
nghi niềm tin của cán bộ với tổ chức, gây chia rẽ đoàn kết trong nội bộ…Buồn hơn khi còn nhiều bình luận cổ súy, thích và chia
sẻ cho chúng. Bài học “cảnh giác” xin mọi người chớ có quên “địch ở
sau lưng nhà ngươi đấy”.
Thứ Ba, 11 tháng 6, 2019
CHUYẾN ĐI ĐẦY KỶ NIỆM Những con Số 5 và 9 đã làm nên Đường Trường Sơn lịch sử
Trường Sơn, nói như nhà thơ Tố Hữu: "Ai chưa đến đó, như chưa rõ
mình". Những người đã qua chiến trường Trường Sơn trong thời "bom đạn
bời bời" ngày trước hay những ai đi trên Đường Hồ Chí Minh của thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hôm nay như thấy rõ hơn sự kết nối giữa quá
khứ-hiện tại-tương lai trên con đường huyền thoại. 60 năm, Trường Sơn vẫn
thiêng liêng và vang vọng mãi.
Suy ngẫm về 60 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh, Ngày truyền thống Bộ đội Trường
Sơn năm nay, trong tôi cứ bị ám ảnh bởi hai con số: 5 và 9. Ngày 19-5-1959,
Thường trực Tổng Quân ủy đã chính thức giao nhiệm vụ cho Đoàn công tác quân sự
đặc biệt-Đoàn 559 do Thượng tá Võ Bẩm làm Đoàn trưởng, có nhiệm vụ mở đường
Trường Sơn, chi viện cho chiến trường miền Nam. Quy mô ban đầu của đoàn: 500
người.
Để đáp ứng yêu cầu và sự phát triển của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tổ chức, biên chế của Đoàn 559 đã nhanh
chóng phát triển, được ví "lớn nhanh như Phù Đổng" với những con số
ngẫu nhiên: 5 và 9 xuất hiện nhiều lần. Hơn 5 năm sau ngày thành lập, đầu năm
1965, Đoàn công tác quân sự đặc biệt ngày nào đã trở thành Bộ tư lệnh 559-đơn
vị tương đương cấp quân khu. Ngày 29-7-1970, Bộ tư lệnh 559 phát triển thành Bộ
tư lệnh Trường Sơn-đơn vị cấp quân khu. Trường Sơn chính thức trở thành một
chiến trường quan trọng và rộng lớn. Bộ tư lệnh Trường Sơn được tổ chức thành
binh chủng hợp thành, có cả lực lượng vận tải, công binh, phòng không, bộ binh,
thông tin, giao liên… Đến năm 1973-1975, Bộ tư lệnh Trường Sơn đã có lực lượng
hùng hậu với 9 sư đoàn binh chủng cùng 21 trung đoàn trực thuộc, quân số hơn 10
vạn cán bộ, chiến sĩ và một vạn thanh niên xung phong (TNXP).
Hơn 15 năm vừa tổ chức mở đường, chiến đấu
bảo vệ đường, tổ chức vận tải quân sự chi viện cho các chiến trường và tham gia
chiến đấu trong các chiến dịch lớn để giải phóng và bảo vệ các vùng giải phóng
thuộc tuyến hành lang vận tải chiến lược, Bộ đội Trường Sơn đã xây dựng một
mạng lưới dọc, ngang, cả Tây và Đông Trường Sơn, cả trên bộ, trên sông, có cả
hệ thống đường dẫn xăng dầu, đường dây thông tin dài hàng vạn ki-lô-mét. Tuyến
chi viện chiến lược Trường Sơn là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước…
Những địa danh, chiến công mãi còn nhắc
nhớ…
Trong nhiều chuyến đi với cơ quan, bạn bè
tôi nhớ mãi lần về nguồn trên con đường huyền thoại này cách đây 2 năm. Chuyến
đi vào đợt 30.4 - 1.5-2017, tôi đã được đến nhiều địa danh, được nghe nhiều câu
chuyện xúc động, để thấy được một Trường Sơn bi tráng và anh hùng, thiêng liêng
và đặc biệt như thế nào.
Tôi được đến Đường 20-Quyết Thắng, một
thời máu trộn trên đường. Nằm ở phía tây rừng núi Quảng Bình, từ năm
1965, con đường này trở thành một tuyến đường chi viện chủ lực cho
chiến trường. Tôi nhớ, tại bia tưởng niệm ở ngầm Trạ Ang, tôi có gặp rất nhiều
cựu chiến binh và có một cựu chiến binh trong đoàn, dõi theo dòng nước từ ngầm
Trạ Ang, thì thào nói: "Cháu biết không, có những lúc chiến trường cần
xăng, mà đường thì bị đánh không đi được, chúng ta phải vận chuyển xăng ngược
dòng nước chảy qua chân trọng điểm này. Trong lúc vận chuyển, máy bay đến ném
bom, làm vỡ thùng xăng, lửa cháy bùng bùng. Anh em bẻ cành cây, cởi cả quần áo
dập lửa, có người ôm lấy thùng xăng. Máu của chiến sĩ ta hòa vào xăng, vào
nước. Vần được 30 phuy xăng lên phía trước thì 29 anh em đã không trở
về…".
Tôi đã đến hang Tám Cô. Vẫn còn nhớ lời
anh hướng dẫn viên nghèn nghẹn: “Nơi đây vào ngày 14-11-1972, bom Mỹ đánh
dữ dội vào khu vực này, nơi có một đội TNXP và một tiểu đội pháo đang làm nhiệm
vụ. Địch bắn tên lửa làm sập lèn đá 100 tấn, lấp kín cửa hang. Trong hang lúc
này có 8 TNXP, 4 nam, 4 nữ đều quê ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Họ hy sinh khi
hầu hết mới ở tuổi mười tám, đôi mươi…”.
Tôi cũng đã
vào Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn, nơi yên nghỉ của hơn một vạn liệt
sĩ, trong một buổi trưa đầy nắng và gió. Giữa mênh mang bạt ngàn bia mộ, có một
cái gì đó nhoi nhói trong tim, nấc nghẹn trong cổ họng. Các anh trong ban quản
lý nghĩa trang nói rằng, mỗi ngôi mộ ở đây là một câu chuyện xúc động về tấm
gương hy sinh của những người lính Trường Sơn. Hơn một vạn ngôi mộ là hơn một
vạn câu chuyện như thế. Ở nghĩa trang có quy mô lớn nhất nước này, còn có cả
những câu chuyện thuộc về thế giới tâm linh. Dẫu còn thực hư nhưng những câu
chuyện tâm linh đó lại mang tính nhân bản sâu sắc và như nhắc nhớ một điều với
những người đang sống: Các liệt sĩ đã chiến đấu anh dũng, đã nằm xuống nhưng
các anh, các chị không bao giờ chết. Họ sống mãi trong lòng Tổ quốc và nhân
dân…
Chiến tranh đã lùi xa. Những cánh rừng giữa đại ngàn Trường Sơn một thời xơ
xác, trơ trọi vì bom đạn nay đã xanh tươi trở lại. Đường Hồ Chí Minh của thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như một dải lụa xuyên qua núi rừng hùng vĩ,
thay thế những con đường “xẻ dọc, rọc ngang” của thời máu lửa. Trường Sơn không
chỉ có những con số 5, số 9… bi hùng, thiêng liêng, những chiến công mãi còn
nhắc nhớ mà Trường Sơn còn là “con đường tương lai giàu có của Tổ quốc ta” như
lời Tổng Bí thư Lê Duẩn ghi trong Sổ vàng của Bộ đội Trường Sơn…
BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU GIÁ TRỊ NHÂN VĂN CAO CẢ TRONG DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Trong suốt cuộc đời cách mạng của mình, kể từ khi tìm được con đường cứu dân, cứu nước cho đến lúc vĩnh biệt chúng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng chăm lo, săn sóc đến sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ trẻ, luôn danh cho họ “muôn vàn tình yêu thương” và một niềm tin vững chắc vào khả năng to lớn của tuổi trẻ Việt Nam. Trước lúc đi xa, Người còn căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Những quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên là một di sản vô giá đối với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sỹ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Ở Người, trong tư tưởng, tình cảm và phong thái, trong con đường cứu nước và sự nghiệp cách mạng, có sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác – Lênin với thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên còn là sự thể hiện chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh về con người. Bác cũng nhìn thấy thanh niên là lực lượng nòng cốt để xây dựng xã hội mới trong tương lai, một xã hội tươi đẹp, không có người bóc lột người, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Do vậy, bồi dưỡng thế hệ cách mạng là một vấn đề đặc biệt quan trọng của cách mạng và của Đảng ta.
Xuất phát từ luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng ”, nếu quần chúng được giác ngộ cách mạng nhất định sẽ làm nên được những sự nghiệp cách mạng vĩ đại mà lịch sử đã giao phó. Tư tưởng trên được Bác Hồ vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trong việc chăm lo, bồi dưỡng các thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng. Đây là trách nhiệm không thể thoái thác được của các thế hệ trước đối với thế hệ sau. Theo quan điểm của Người, bồi dưỡng không chỉ để cho thế hệ sau trở thành những gì đúng như thế hệ trước đã có, mà còn vượt lên những gì thế hệ trước mong muốn nhưng chưa thực hiện được, do những điều kiện lịch sử quy định hoặc hạn chế, mà chỉ đến thế hệ sau mới làm được. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “nếu thế hệ già khôn hơn thế hệ trẻ thì không tốt, thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt. Các cháu không hơn là bệt. Bệt là không tốt”. Bác vẫn thường nhắc lại những câu tục ngữ quen thuộc: “con hơn cha là nhà có phúc”, “măng mọc quá tre”, “tre già măng mọc” để nói lên những mong muốn đối với thế hệ trẻ, những kỳ vọng đặt vào lớp con cháu đang nối tiếp mình. Bồi dưỡng cho thế hệ trẻ là để trao vào tay họ cả tương lai và vận mệnh của đất nước.
Trong các thế hệ, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng là đặc biệt quan trọng, khi Bác nói: “phải bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, với mục tiêu của chiến lược “trồng người” là “dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sỹ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”. Bác hiểu hơn ai hết thế nào là sự khó khăn của một dân tộc phải bỏ qua những bước đi lớn của lịch sử để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quan tâm giáo dục thế hệ trẻ năng động nhất trong các thế hệ, đó là nhãn quan chính trị thiên tài của một lãnh tụ vĩ đại. Và cũng chính vì lẽ đó ngay từ lúc này thế hệ trẻ phải được chuẩn bị, tức là phải được chăm lo giáo dục về mọi mặt để họ đảm nhiệm những công việc của ngày mai khi thế hệ già hôm nay không còn đến ngày ấy. Do vậy, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chắc chắn là phụ thuộc vào thế hệ trẻ - thế hệ thanh niên, thiếu niên, nhi đồng đang sinh thành và phát triển hôm nay.
Nhìn lại toàn bộ di sản tinh thần và cuộc đời hoạt động thực tiễn cách mạng mới thấy, Bác Hồ luôn luôn quan tâm một cách nghiêm túc và tha thiết vấn đề chăm lo bồi dưỡng, giáo dục cho thế hệ trẻ. Người quan niệm đó là sự cần thiết của một đất nước, một tương lai của một dân tộc. Khi nói đến thế hệ trẻ, trong Di chúc Bác Hồ đã căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Sự chăm lo của Đảng đến thế hệ trẻ bao gồm nhiều mặt nhưng chủ yếu là xác định một đường lối chiến lược đối với họ và nó phải được cụ thể hóa bằng chủ trương, chính sách. Quan tâm chăm lo đến thế hệ trẻ ở Hồ Chí Minh là cần làm cho họ thấy những thuận lợi, khó khăn phức tạp đang và sẽ đặt ra cho họ mà họ cần phải thực hiện, có nhận thức được đầy đủ vấn đề đó, thế hệ trẻ mới có quyết tâm và nghị lực để làm lên sự nghiệp lớn. Ngày nay, khi cách mạng nước ta đã bước vào giai đoạn mới, lời dạy của Bác càng nhắc nhở chúng ta quan tâm đến vấn đề chăm lo giáo dục thanh niên là một vấn đề của chiến lược cách mạng. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực, trong nước có những diễn biến phức tạp hiện nay, chúng ta lại càng phải quan tâm nhiều hơn và làm tốt hơn vấn đề vừa “hồng” vừa “chuyên” để họ thực sự trở thành chủ nhân của công cuộc kiến tạo một xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Người nêu rõ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Đây là nhiệm vụ đối với dân tộc, đất nước và cũng là trách nhiệm “để đền bù lại công lao to lớn của những người đã không tiếc thân, tiếc của để giành lại nền độc lập tự do cho nước nhà”.
Thực tiễn lịch sử 89 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và 50 năm thực hiện Di chúc của Người, các thế hệ thanh niên Việt Nam luôn xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày nay họ đã và đang có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những tấm gương, điển hình tiên tiến trong chiến đấu, lao động, học tập và công tác đã thuộc về tuổi trẻ Việt Nam. Thanh niên hăng hái xung kích, đi đầu trong thực hiện các chương trình, mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, nổi bật là hai phong trào lớn: “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, được tiến hành cụ thể ở bốn chương trình hành động: “Lập thân, lập nghiệp, xây dựng đất nước phồn vinh”, “Bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự, an ninh”, “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng tài năng trẻ, phát triển văn hóa, thể thao”, “Công tác xã hội, bảo vệ môi trường” đã minh chứng sâu sắc cho điều đó. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều biến động phức tạp, các thế lực thù địch đang tìm mọi kẽ hở để gieo rắc những “mầm” độc vào môi trường tư tưởng, văn hóa, lối sống trong thanh niên; một bộ phận thanh niên thiếu niềm tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới. Đáng lo ngại hơn là một bộ phận thanh niên đang chây lười trong học tập, rèn luyện từng bước thoái hóa hư hỏng, giảm xút về tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn đấu vươn lên, xa vào các tệ nạn xã hội, các hiện tượng lệch chuẩn thần tượng, a dua theo các trào lưu xấu trên mạng xã hội…Con đường đi lên của các thế hệ thanh niên Việt Nam vẫn luôn được chiếu sáng bởi những tư tưởng cách mạng và khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Thực hiện Di chúc của Người, thế hệ thanh niên Việt Nam hãy suy nghĩ và hành động theo tấm gương và lời dạy của Bác để khẩu hiệu “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” luôn luôn là hiện thực, là chân lý tiếp tục soi sáng con đường chúng ta đi./.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sỹ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Ở Người, trong tư tưởng, tình cảm và phong thái, trong con đường cứu nước và sự nghiệp cách mạng, có sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác – Lênin với thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên còn là sự thể hiện chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh về con người. Bác cũng nhìn thấy thanh niên là lực lượng nòng cốt để xây dựng xã hội mới trong tương lai, một xã hội tươi đẹp, không có người bóc lột người, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Do vậy, bồi dưỡng thế hệ cách mạng là một vấn đề đặc biệt quan trọng của cách mạng và của Đảng ta.
Xuất phát từ luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng ”, nếu quần chúng được giác ngộ cách mạng nhất định sẽ làm nên được những sự nghiệp cách mạng vĩ đại mà lịch sử đã giao phó. Tư tưởng trên được Bác Hồ vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trong việc chăm lo, bồi dưỡng các thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng. Đây là trách nhiệm không thể thoái thác được của các thế hệ trước đối với thế hệ sau. Theo quan điểm của Người, bồi dưỡng không chỉ để cho thế hệ sau trở thành những gì đúng như thế hệ trước đã có, mà còn vượt lên những gì thế hệ trước mong muốn nhưng chưa thực hiện được, do những điều kiện lịch sử quy định hoặc hạn chế, mà chỉ đến thế hệ sau mới làm được. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “nếu thế hệ già khôn hơn thế hệ trẻ thì không tốt, thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt. Các cháu không hơn là bệt. Bệt là không tốt”. Bác vẫn thường nhắc lại những câu tục ngữ quen thuộc: “con hơn cha là nhà có phúc”, “măng mọc quá tre”, “tre già măng mọc” để nói lên những mong muốn đối với thế hệ trẻ, những kỳ vọng đặt vào lớp con cháu đang nối tiếp mình. Bồi dưỡng cho thế hệ trẻ là để trao vào tay họ cả tương lai và vận mệnh của đất nước.
Trong các thế hệ, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng là đặc biệt quan trọng, khi Bác nói: “phải bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, với mục tiêu của chiến lược “trồng người” là “dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sỹ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”. Bác hiểu hơn ai hết thế nào là sự khó khăn của một dân tộc phải bỏ qua những bước đi lớn của lịch sử để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quan tâm giáo dục thế hệ trẻ năng động nhất trong các thế hệ, đó là nhãn quan chính trị thiên tài của một lãnh tụ vĩ đại. Và cũng chính vì lẽ đó ngay từ lúc này thế hệ trẻ phải được chuẩn bị, tức là phải được chăm lo giáo dục về mọi mặt để họ đảm nhiệm những công việc của ngày mai khi thế hệ già hôm nay không còn đến ngày ấy. Do vậy, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chắc chắn là phụ thuộc vào thế hệ trẻ - thế hệ thanh niên, thiếu niên, nhi đồng đang sinh thành và phát triển hôm nay.
Nhìn lại toàn bộ di sản tinh thần và cuộc đời hoạt động thực tiễn cách mạng mới thấy, Bác Hồ luôn luôn quan tâm một cách nghiêm túc và tha thiết vấn đề chăm lo bồi dưỡng, giáo dục cho thế hệ trẻ. Người quan niệm đó là sự cần thiết của một đất nước, một tương lai của một dân tộc. Khi nói đến thế hệ trẻ, trong Di chúc Bác Hồ đã căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Sự chăm lo của Đảng đến thế hệ trẻ bao gồm nhiều mặt nhưng chủ yếu là xác định một đường lối chiến lược đối với họ và nó phải được cụ thể hóa bằng chủ trương, chính sách. Quan tâm chăm lo đến thế hệ trẻ ở Hồ Chí Minh là cần làm cho họ thấy những thuận lợi, khó khăn phức tạp đang và sẽ đặt ra cho họ mà họ cần phải thực hiện, có nhận thức được đầy đủ vấn đề đó, thế hệ trẻ mới có quyết tâm và nghị lực để làm lên sự nghiệp lớn. Ngày nay, khi cách mạng nước ta đã bước vào giai đoạn mới, lời dạy của Bác càng nhắc nhở chúng ta quan tâm đến vấn đề chăm lo giáo dục thanh niên là một vấn đề của chiến lược cách mạng. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực, trong nước có những diễn biến phức tạp hiện nay, chúng ta lại càng phải quan tâm nhiều hơn và làm tốt hơn vấn đề vừa “hồng” vừa “chuyên” để họ thực sự trở thành chủ nhân của công cuộc kiến tạo một xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Người nêu rõ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Đây là nhiệm vụ đối với dân tộc, đất nước và cũng là trách nhiệm “để đền bù lại công lao to lớn của những người đã không tiếc thân, tiếc của để giành lại nền độc lập tự do cho nước nhà”.
Thực tiễn lịch sử 89 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và 50 năm thực hiện Di chúc của Người, các thế hệ thanh niên Việt Nam luôn xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày nay họ đã và đang có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những tấm gương, điển hình tiên tiến trong chiến đấu, lao động, học tập và công tác đã thuộc về tuổi trẻ Việt Nam. Thanh niên hăng hái xung kích, đi đầu trong thực hiện các chương trình, mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, nổi bật là hai phong trào lớn: “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, được tiến hành cụ thể ở bốn chương trình hành động: “Lập thân, lập nghiệp, xây dựng đất nước phồn vinh”, “Bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự, an ninh”, “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng tài năng trẻ, phát triển văn hóa, thể thao”, “Công tác xã hội, bảo vệ môi trường” đã minh chứng sâu sắc cho điều đó. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều biến động phức tạp, các thế lực thù địch đang tìm mọi kẽ hở để gieo rắc những “mầm” độc vào môi trường tư tưởng, văn hóa, lối sống trong thanh niên; một bộ phận thanh niên thiếu niềm tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới. Đáng lo ngại hơn là một bộ phận thanh niên đang chây lười trong học tập, rèn luyện từng bước thoái hóa hư hỏng, giảm xút về tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn đấu vươn lên, xa vào các tệ nạn xã hội, các hiện tượng lệch chuẩn thần tượng, a dua theo các trào lưu xấu trên mạng xã hội…Con đường đi lên của các thế hệ thanh niên Việt Nam vẫn luôn được chiếu sáng bởi những tư tưởng cách mạng và khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Thực hiện Di chúc của Người, thế hệ thanh niên Việt Nam hãy suy nghĩ và hành động theo tấm gương và lời dạy của Bác để khẩu hiệu “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” luôn luôn là hiện thực, là chân lý tiếp tục soi sáng con đường chúng ta đi./.
KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT NAM BỘ
Lịch sử vùng đất Nam Bộ của Việt Nam vẫn luôn được các đảng đối lập ở Campuchia sử dụng để xuyên tạc, phá hoại quan hệ hữu nghị truyền thống giữa nhân dân, nhà nước Việt Nam và nhân dân, nhà nước Campuchia. Tuy nhiên, vùng đất Nam Bộ là lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam, trên cả hai cơ sở lịch sử và pháp lý, phù hợp với thông lệ quốc tế.
1. Về mặt lịch sử:
Các tài liệu ghi chép lại thì vùng Nam Bộ xưa kia vốn là một vương quốc cổ có tên là Phù Nam. Quốc gia Phù Nam ở ven biển, có trình độ phát triển khá cao và mở rộng được phạm vi ảnh hưởng. Thời gian tồn tại của vương quốc Phù Nam từ trước Công nguyên cho tới thế kỷ thứ VII. Cũng trong thời gian này thì người Khmer cũng đã có vương quốc riêng tên là Chân Lạp, là một quốc gia xuất hiện ở vùng trung lưu sông Mê Kông, khu vực gần Biển Hồ, lấy nông nghiệp là nghề sống chính (đây mới chính là vương quốc Campuchia cổ). Trong thời kỳ Phù Nam cường thịnh đã có nhiều nước nhỏ thần thục với tư cách là những thuộc quốc hoặc chư hầu, trong đó có Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ thứ VII, nhân lúc Phù Nam suy yếu, Chân Lạp đã tấn công và chiếm lấy. Lãnh thổ Phù Nam về tay Chân Lạp do kết quả của những cuộc chiến tranh.
Sau khi chiếm được Phù Nam, vùng đất này được đặt tên là Thủy Chân Lạp. Tuy nhiên do khó khăn về lực lượng cộng với hướng phát triển bành trướng lãnh thổ lên phía Tây nên về cơ bản vùng Thủy Chân Lạp này là vùng đất hoang, ít có người sinh sống, khi khẩn. Sự cai quản của Chân Lạp đối với vùng này gần như không có trên thực tế.
Từ cuối thế kỷ XVI và đặt biệt là từ đầu thế kỷ XVII, dưới sự bảo hộ của các chúa Nguyễn người Việt đã từng bước khai phá vùng đất này. Người Việt đã nhanh chóng hòa đồng với cộng đồng dân cư tại chỗ và những dân cư mới đến (người Hoa) cùng nhau mở mang, phát triển Nam Bộ thành một vùng đất trù phú. Cũng từ đây người Việt là dân cư chủ thể và thực sự quản vùng đất này. Từ đó đến nay chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được khẳng định không chỉ bằng thực tế lịch sử mà còn trên các văn bản có giá trị pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
2. Về mặt cơ sở pháp lý:
Việt Nam cũng có đầy đủ cơ sở pháp lý để chứng minh vùng Nam Bộ là thuộc chủ quyền của mình. Tháng 12 năm 1845 ba nước An Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan) và Miên (Campuchia) đã ký một hiệp ước, trong đó thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc Việt Nam. Năm sau, triều Nguyễn và Xiêm lại ký một Hiệp ước có nhắc lại điều đó. Đây là Hiệp ước mà sau này Cao Miên cũng tham gia. Như vậy muộn nhất là đến năm 1845 các nước láng giềng với Việt Nam, trong đó có cả Campuchia đã ký các văn bản pháp lý chính thức công nhận vùng đất Nam Bộ là của Việt Nam.
Pháp tấn công Nam Bộ rồi sau đó lần lượt chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ là các sự kiện thể hiện rõ sự xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ trên vùng đất Nam Bộ, nhưng Campuchia không có bất cứ một phản ứng gì. Trái lại, triều Nguyễn đã điều động quân đội tiến hành kháng Pháp và khi kháng chiến thất bại, đã đứng ra ký các Hiệp định nhường cho Pháp 3 tỉnh niềm Đông (năm 1862) và 3 tỉnh niềm Tây (năm 1874). Đây là những chứng cớ và cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất này.
Sau khi lập ra Liên bang Đông Dương, trên cơ sở nghiên cứu lịch sử thực thi chủ quyền trên vùng đất Nam Bộ, Pháp đã tiến hành hoạch định biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia theo luật của nước Pháp. Việc khảo sát, đo đạc trên thực địa được tiến hành bởi các chuyên gia Pháp và Campuchia. Năm 1889 giữa Pháp và Campuchia đã ký một loạt các văn bản pháp lý về hoạch định, phân giới cắm mốc biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia. Tất cả các văn bản pháp lý này đều khẳng định vùng đất Nam Kỳ hoàn toàn thuộc về Việt Nam. Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 4 tháng 6 năm 1949 tổng thống Vincent Aurol ký Bộ luật số 49- 733 trả lại Nam Kỳ cho chính quyền Bảo Đại. Trong Bộ luật còn có chữ ký của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp.
Vậy là đến năm 1949, vùng đất Nam Bộ vốn từng bị triều Nguyễn “bán” cho Pháp, đã được trả lại bằng một văn bản có giá trị pháp lý. Chính phủ Pháp còn khẳng định những cơ sở lịch sử và luật pháp của văn bản này với vương quốc Campuchia. Từ đó về sau chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ liên tục được tất cả các Hiệp định có giá trị pháp lý quốc tế như Hiệp định Geneve (1954), Hiệp định Paris (1973) công nhận. Từ những điều trên khẳng định lại một lần nữa là vùng Nam Bộ mãi mãi thuộc chủ quyền Việt Nam. Không ai có thể xuyên tạc, phủ nhận sự thật lịch sử này./.
1. Về mặt lịch sử:
Các tài liệu ghi chép lại thì vùng Nam Bộ xưa kia vốn là một vương quốc cổ có tên là Phù Nam. Quốc gia Phù Nam ở ven biển, có trình độ phát triển khá cao và mở rộng được phạm vi ảnh hưởng. Thời gian tồn tại của vương quốc Phù Nam từ trước Công nguyên cho tới thế kỷ thứ VII. Cũng trong thời gian này thì người Khmer cũng đã có vương quốc riêng tên là Chân Lạp, là một quốc gia xuất hiện ở vùng trung lưu sông Mê Kông, khu vực gần Biển Hồ, lấy nông nghiệp là nghề sống chính (đây mới chính là vương quốc Campuchia cổ). Trong thời kỳ Phù Nam cường thịnh đã có nhiều nước nhỏ thần thục với tư cách là những thuộc quốc hoặc chư hầu, trong đó có Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ thứ VII, nhân lúc Phù Nam suy yếu, Chân Lạp đã tấn công và chiếm lấy. Lãnh thổ Phù Nam về tay Chân Lạp do kết quả của những cuộc chiến tranh.
Sau khi chiếm được Phù Nam, vùng đất này được đặt tên là Thủy Chân Lạp. Tuy nhiên do khó khăn về lực lượng cộng với hướng phát triển bành trướng lãnh thổ lên phía Tây nên về cơ bản vùng Thủy Chân Lạp này là vùng đất hoang, ít có người sinh sống, khi khẩn. Sự cai quản của Chân Lạp đối với vùng này gần như không có trên thực tế.
Từ cuối thế kỷ XVI và đặt biệt là từ đầu thế kỷ XVII, dưới sự bảo hộ của các chúa Nguyễn người Việt đã từng bước khai phá vùng đất này. Người Việt đã nhanh chóng hòa đồng với cộng đồng dân cư tại chỗ và những dân cư mới đến (người Hoa) cùng nhau mở mang, phát triển Nam Bộ thành một vùng đất trù phú. Cũng từ đây người Việt là dân cư chủ thể và thực sự quản vùng đất này. Từ đó đến nay chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được khẳng định không chỉ bằng thực tế lịch sử mà còn trên các văn bản có giá trị pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
2. Về mặt cơ sở pháp lý:
Việt Nam cũng có đầy đủ cơ sở pháp lý để chứng minh vùng Nam Bộ là thuộc chủ quyền của mình. Tháng 12 năm 1845 ba nước An Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan) và Miên (Campuchia) đã ký một hiệp ước, trong đó thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc Việt Nam. Năm sau, triều Nguyễn và Xiêm lại ký một Hiệp ước có nhắc lại điều đó. Đây là Hiệp ước mà sau này Cao Miên cũng tham gia. Như vậy muộn nhất là đến năm 1845 các nước láng giềng với Việt Nam, trong đó có cả Campuchia đã ký các văn bản pháp lý chính thức công nhận vùng đất Nam Bộ là của Việt Nam.
Pháp tấn công Nam Bộ rồi sau đó lần lượt chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ là các sự kiện thể hiện rõ sự xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ trên vùng đất Nam Bộ, nhưng Campuchia không có bất cứ một phản ứng gì. Trái lại, triều Nguyễn đã điều động quân đội tiến hành kháng Pháp và khi kháng chiến thất bại, đã đứng ra ký các Hiệp định nhường cho Pháp 3 tỉnh niềm Đông (năm 1862) và 3 tỉnh niềm Tây (năm 1874). Đây là những chứng cớ và cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất này.
Sau khi lập ra Liên bang Đông Dương, trên cơ sở nghiên cứu lịch sử thực thi chủ quyền trên vùng đất Nam Bộ, Pháp đã tiến hành hoạch định biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia theo luật của nước Pháp. Việc khảo sát, đo đạc trên thực địa được tiến hành bởi các chuyên gia Pháp và Campuchia. Năm 1889 giữa Pháp và Campuchia đã ký một loạt các văn bản pháp lý về hoạch định, phân giới cắm mốc biên giới giữa Nam Kỳ và Campuchia. Tất cả các văn bản pháp lý này đều khẳng định vùng đất Nam Kỳ hoàn toàn thuộc về Việt Nam. Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 4 tháng 6 năm 1949 tổng thống Vincent Aurol ký Bộ luật số 49- 733 trả lại Nam Kỳ cho chính quyền Bảo Đại. Trong Bộ luật còn có chữ ký của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp.
Vậy là đến năm 1949, vùng đất Nam Bộ vốn từng bị triều Nguyễn “bán” cho Pháp, đã được trả lại bằng một văn bản có giá trị pháp lý. Chính phủ Pháp còn khẳng định những cơ sở lịch sử và luật pháp của văn bản này với vương quốc Campuchia. Từ đó về sau chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ liên tục được tất cả các Hiệp định có giá trị pháp lý quốc tế như Hiệp định Geneve (1954), Hiệp định Paris (1973) công nhận. Từ những điều trên khẳng định lại một lần nữa là vùng Nam Bộ mãi mãi thuộc chủ quyền Việt Nam. Không ai có thể xuyên tạc, phủ nhận sự thật lịch sử này./.
ĐẨY MẠNH TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH CỦA ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc và là quy luật
phát triển tất yếu của Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo; nâng cao chất
lượng, uy tín của đội ngũ cán bộ, đảng viên, để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh
như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong Di chúc: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự
phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và
thống nhất của Đảng”.
INTERNET TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
Trong những năm qua, sự phát
triển của công nghệ thông tin đã góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, đặc biệt trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Trên thực
tế, Internet đem lại rất nhiều tiện ích cho người sử dụng, vì tốc độ thông tin
rất nhanh, nội dung phong phú, đa dạng… Nếu sử dụng Internet cũng như các mạng
xã hội đúng mục đích và phù hợp thì nó mang lại hiệu quả rất lớn cả trong học tập,
công tác, sinh hoạt và đời sống xã hội cho mỗi người. Tuy nhiên, bên cạnh những
tiện ích của cuộc cách mạng 4.0 mang lại thì mặt trái của nó là không hề nhỏ,
đặc biệt là các thế lực thù địch đã triệt để tận dụng và xem đây là “mảnh đất
mầu mỡ” để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm chống phá sự
nghiệp xây dựng kinh tế, phát triển đất nước.
Nhận diện và đấu tranh với âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” để chống phá Đảng, Nhà nước, hòng chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam
Hòng thực hiện âm mưu đó, các thế lực thù địch đã và đang triệt để lợi dụng tính chất chính trị, xã hội phức tạp của “XHDS” để tác động vào hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân bằng nhiều phương thức khác nhau, từ tuyên truyền lừa bịp, thổi phồng, cường điệu hóa vai trò của XHDS, cung cấp tài chính, phương tiện hoạt động đến gây sức ép với Đảng, Nhà nước ta trong quan hệ đối ngoại. Các đối tượng chống đối nhân danh chiêu bài “XHDS”, “dân chủ”, “nhân quyền”... để tập hợp lực lượng, lập hội, nhóm với tên gọi, khẩu hiệu, tôn chỉ, mục đích dễ gây “ấn tượng” với thị hiếu của từng nhóm xã hội nhất định, như “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Hội tù nhân lương tâm”, “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội bầu bí tương thân”, “Hội nhà báo độc lập”, “Hội anh em dân chủ”,...
Thủ đoạn mà các đối tượng chống đối sử dụng phổ biến hiện nay là thông qua các trang web, diễn đàn trực tuyến, nhất là mạng xã hội để công khai tổ chức, tuyên truyền, lừa bịp, lôi kéo quần chúng tham gia; sử dụng các phần mềm bảo mật để liên lạc, tổ chức huấn luyện, đào tạo trực tuyến cho thành viên; công khai viết “đơn kiến nghị” đòi thành lập đảng chính trị đối lập, tự do thành lập hội mà không tuân theo quy định pháp luật, đòi khởi kiện, vu cáo, xuyên tạc Nhà nước ta vi phạm các điều ước quốc tế về quyền dân sự... Ngoài ra, các đối tượng này còn tìm cách chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, lợi dụng các khuyết điểm trong quản lý đất đai, môi trường... để kích động khiếu kiện, tụ tập đông người, biểu tình, xuyên tạc tình hình, hạ uy tín cán bộ; thông qua các hoạt động này để tập hợp lực lượng, gây thanh thế, từng bước nhen nhóm và thành lập tổ chức chính trị đối lập... Tại các địa bàn chiến lược, các đối tượng chống đối đẩy mạnh xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo; kích động tư tưởng ly khai, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, khơi gợi, khoét sâu mâu thuẫn dân tộc, tuyên truyền phát triển các tổ chức tôn giáo phi pháp, tụ tập “xưng vua”...
Bên cạnh đó, dưới danh nghĩa đại diện các tổ chức “XHDS”, một số đối tượng chống đối đã tham gia các buổi điều trần ở nước ngoài, vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”, đề nghị can thiệp trả tự do cho các đối tượng chống đối trong nước bị bắt do vi phạm pháp luật... Đặc biệt, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận đảng viên, tình trạng yếu kém, sai phạm của một số cán bộ để thổi phồng, cường điệu hóa khuyết điểm, “hạ bệ” uy tín chính trị của Đảng, lôi kéo người dân tham gia các tổ chức mang danh nghĩa “XHDS” để tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Thực tế những năm qua cho thấy, một số tổ chức phi chính phủ (NGO) nước ngoài rất quan tâm đến các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội ở nước ta và tìm cách xâm nhập, tác động, hướng lái hoạt động, chuyển hóa dần các tổ chức này khi chưa đủ điều kiện, thời cơ thành lập tổ chức đối lập. Thông qua các hoạt động, như triển khai dự án, tài trợ tài chính, tổ chức hội thảo với các NGO Việt Nam, một số tổ chức nước ngoài đã đi sâu xâm nhập, tìm hiểu nội bộ, xu hướng quan điểm của các NGO Việt Nam, kích động các tổ chức này thoát ly vai trò lãnh đạo của Ðảng và sự quản lý của Nhà nước, cổ vũ quyền “tự do lập hội” theo tiêu chí phương Tây. Ngoài ra, một số tổ chức nước ngoài còn hỗ trợ tài chính cho một số NGO Việt Nam để xuất bản, phát hành tài liệu nghiên cứu, văn bản luật nước ngoài nhằm tuyên truyền quan điểm, pháp luật phương Tây đến với công chúng Việt Nam một cách công khai.
Các tổ chức phản động nước ngoài cũng tìm cách thúc đẩy hình thành “XHDS” tại Việt Nam với mục đích chống phá từ bên trong. Tổ chức “Bảo vệ người lao động” (tại Ba Lan) gia tăng hoạt động với ý đồ chuyển hướng xâm nhập vào trong nước, thúc đẩy hình thành các tổ chức “công đoàn tự do”. Tổ chức “Mạng lưới tuổi trẻ Việt Nam lên đường” đã tiến hành “Đại hội thanh niên sinh viên Việt Nam trên thế giới lần thứ V” vào tháng 1-2008 tại Ma-lai-xi-a. Tại “đại hội” này, các đối tượng tham gia cho rằng để tiến hành “cuộc cách mạng hòa bình” tại Việt Nam thì phải xây dựng được một “XHDS bền vững” và muốn thay đổi xã hội thì không chỉ trên phương diện chính trị, mà còn trên các phương diện kinh tế, luật pháp, trong mỗi cộng đồng dân cư. Qua đây cho thấy, các thế lực thù địch bên ngoài đặc biệt quan tâm đến việc lợi dụng “XHDS” để thực hiện âm mưu lật đổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ðáng chú ý là, một số đối tượng cơ hội chính trị có quan điểm cực đoan đã lợi dụng một số tổ chức quần chúng hợp pháp để tổ chức các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn có nội dung đòi “trưng cầu ý dân” về Ðiều 4 của Hiến pháp cũng như sửa đổi toàn bộ Hiến pháp, thúc đẩy hình thành “XHDS” và thực hiện các quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây, tư hữu hóa đất đai... Ðây là phương thức chống đối công khai rất nguy hiểm, nếu thiếu cảnh giác có thể tạo môi trường để các thế lực thù địch lợi dụng các tổ chức “XHDS” đưa ra những kiến nghị thay đổi thể chế, chuyển đổi hệ thống luật pháp XHCN bằng luật pháp tư sản.
Vì sao các thế lực thù địch, cơ hội chính trị gia tăng hoạt động lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” để chống phá?
Một số học giả trên thế giới có quan điểm chống cộng rất đề cao vai trò của “XHDS” trong các cuộc “cách mạng sắc màu” lật đổ chế độ XHCN. Giữa những năm 80 của thế kỷ XX, ngay sau khi khởi xướng cải tổ với việc M. Goóc-ba-chốp chủ trương “công khai hóa” và “dân chủ hóa”, các tổ chức đoàn thể phi chính thức và các ấn phẩm tuyên truyền cho tự do hóa tư sản dưới nhiều hình thức đã mọc lên “như nấm sau mưa” ở Liên Xô. Ngày 28-12-1987, xã luận đăng trên báo Sự thật cho biết, Liên Xô khi đó đã có hơn 30.000 tổ chức, đoàn thể phi chính thức. Do thái độ ủng hộ của M. Goóc-ba-chốp, ngày càng có nhiều tổ chức đoàn thể xã hội chống đối Đảng, chính quyền Xô-viết được công khai hóa, hợp pháp hóa. M. Goóc-ba-chốp không những cho phép các đoàn thể phi chính thức tồn tại mà còn cổ vũ thành lập các đảng phái, từng bước thực hiện chế độ đa đảng. Các đảng đối lập ra đời và sau đó đã giành được chính quyền tại một loạt địa phương dưới cái gọi là “bầu cử tự do” là hệ quả trực tiếp của chính sách nêu trên. Những tổ chức này trắng trợn xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ, hạ bệ các nhà lãnh đạo Liên Xô trước đây, phủ nhận thành tựu của chủ nghĩa xã hội, ngang nhiên hô hào chống chế độ và Nhà nước Xô-viết. Đây là một trong những nhân tố trực tiếp dẫn đến sự tan rã của Liên Xô.
Tại Ðông Âu ngay từ những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, ở một số nước đã hình thành các công đoàn, hội có xu hướng tách khỏi quản lý của nhà nước, đối lập với chính quyền, hoạt động với danh nghĩa là “tổ chức XHDS” nhân danh bảo vệ công nhân, bảo vệ các quyền dân sự. Thông qua việc lôi kéo quần chúng, với sự hỗ trợ từ nước ngoài, một số tổ chức Công giáo, được kích hoạt thêm bởi các chính sách “công khai hóa”, “dân chủ hóa” và chính sách đối ngoại với đồng minh của M. Goóc-ba-chốp, những tổ chức này nhanh chóng chuyển hóa thành tổ chức chính trị đối lập, đóng vai trò trọng yếu trong việc hạ bệ uy tín của nhà nước, thúc đẩy hình thành chế độ đa đảng và giành chính quyền thông qua cái gọi là “bầu cử dân chủ”. Các cuộc “cách mạng đường phố” tại các nước khu vực Trung Ðông - Bắc Phi hay “cách mạng nhung”, “cách mạng màu” ở một số nước thuộc không gian hậu Xô-viết thời gian qua cũng cho thấy vai trò của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các NGO trong việc hỗ trợ các tổ chức XHDS trong nước lôi kéo, kích động quần chúng lật đổ các chính thể hợp pháp, gây nên tình trạng khủng hoảng chính trị, thậm chí có nước còn lâm vào cảnh chia rẽ, xung đột triền miên, lãnh thổ bị chia cắt lâu dài.
Chúng ta không phủ nhận vai trò nhất định của các tổ chức xã hội, hiệp hội, quỹ, diễn đàn,... nhất là khả năng tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội tại cộng đồng hay nhóm xã hội cụ thể; tập hợp nguyện vọng đa dạng của các tầng lớp trong xã hội phản ánh đến Đảng và Nhà nước; trực tiếp đứng ra cung ứng một số dịch vụ xã hội do Nhà nước ủy quyền, hoạt động trong khuôn khổ quy định pháp luật. Trên thực tế, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng thiết lập các tổ chức xã hội đa dạng theo ngành nghề, lợi ích, nhu cầu, nhân đạo, hữu nghị, sở thích... và không ngừng hoàn thiện quy định pháp luật để phát huy vai trò của các tổ chức này thật sự có ích cho xã hội, cho người dân. Các tổ chức NGO nước ngoài hoạt động tại nước ta thật sự có đóng góp cho cộng đồng, phát triển xã hội, tôn trọng pháp luật Việt Nam đều được tôn trọng, khuyến khích.
Nhưng cần thấy rõ rằng, ở nhiều quốc gia, nhất là những nước đang phát triển, sự hình thành các tổ chức của “XHDS” thường chịu sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó có các lực lượng chính trị từ bên ngoài thông qua nhiều hình thức và con đường khác nhau. Vậy chúng ta cần nhận thức về “XHDS” như thế nào?
Cùng với thực tế tồn tại và phát triển ngày càng phong phú của các tổ chức hội quần chúng, thuật ngữ “XHDS”, “tổ chức XHDS” được thảo luận, bàn luận khá sôi nổi ở nước ta. Tuy nhiên, đây là vấn đề chính trị, xã hội rất phức tạp, còn nhiều nhận thức khác biệt, thậm chí đối lập nhau, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận. Hiện nay, đang tồn tại hai khuynh hướng nhận thức phổ biến về vấn đề XHDS: Một là, tuyệt đối hóa, đề cao quá mức vai trò của “XHDS”, cho rằng cần đẩy nhanh sự phát triển của “XHDS” ở Việt Nam, đồng nhất quá trình này với thực hiện dân chủ hóa, xem đây là “liều thuốc vạn năng” cho khắc phục những giới hạn của quản lý nhà nước và giải quyết tiêu cực trong đời sống xã hội phát sinh từ cơ chế thị trường; hai là, coi “XHDS” mang tính tiêu cực, “đối lập” với Nhà nước XHCN, là vấn đề nhạy cảm, nên né tránh, ngại đề cập và không khuyến khích nghiên cứu, tìm hiểu, thậm chí dựa vào các tổ chức xã hội hoạt động theo kiểu “bất tuân dân sự”, gây nên tình trạng vô chính phủ, bất ổn chính trị - xã hội ở nhiều nước trên thế giới rồi bài xích, phủ nhận sạch trơn vai trò các hội, quỹ, diễn đàn trong tham gia quản lý phát triển xã hội. Việc chưa thống nhất nhận thức khiến cho cách tiếp cận, ứng xử đối với vấn đề XHDS hiện nay của các cơ quan chức năng đang khá lúng túng.
Bản chất và những đặc điểm của “xã hội dân sự” mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị thường lợi dụng để chống phá
Khái niệm “xã hội dân sự” gây nên nhiều tranh cãi tại Việt Nam, có người đặt nó đối nghĩa với “xã hội chính trị”, có người lại xem nó đối lập với “xã hội quân sự”. Nhiều người không thừa nhận khái niệm này vì nội hàm và ngoại diên không tường minh, bởi khó có thể định nghĩa một “xã hội” (dân sự) trong “xã hội” (tổng thể) mà nhân loại lâu nay đã phân định thành các phân hệ - lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Có người xem các hiệp hội, tổ chức xã hội chính, quỹ, diễn đàn... là những biểu hiện cụ thể của “XHDS”, nhưng người khác lại cho rằng đó chính là các thiết chế xã hội gắn với các thể chế tương ứng, đâu phải là một “xã hội”. Một định nghĩa về XHDS được chia sẻ rộng rãi: “XHDS là không gian xã hội công cộng nằm ngoài nhà nước, thị trường và lĩnh vực riêng tư của cá nhân, bao gồm tổng thể các định chế xã hội độc lập tương đối với nhà nước và hoạt động tự nguyện trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, truyền thông đại chúng, tôn giáo, xã hội...”.
Điều đó cho thấy, không có định nghĩa thống nhất về “XHDS” mà nó thường bị giải thích một cách chủ quan bởi ý chí của người muốn sử dụng khái niệm này. Các thế lực thù địch và cơ hội chính trị lợi dụng tính không rõ ràng, thiếu tính lịch sử - cụ thể của khái niệm này để giải thích nội hàm “XHDS” theo tiêu chí của các nước phương Tây. Trong các nền dân chủ đa đảng, ranh giới giữa một tổ chức của XHDS và đảng chính trị rất mong manh. Một tổ chức xã hội khi đủ điều kiện và đăng ký tham gia tranh cử vào nghị viện, nếu giành được một tỷ lệ phiếu nhất định trong các cuộc bầu cử (theo quy định của các nước rất khác nhau), thì được xếp vào đảng chính trị và nhận được hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước để hoạt động. Thậm chí nếu giành được số phiếu cao có thể trở thành đảng chính trị có vị thế trong đời sống chính trị đất nước. Còn các tổ chức xã hội không hội đủ số phiếu cần thiết, cùng với các hiệp hội, quỹ, diễn đàn, viện nghiên cứu độc lập... được xem là thành tố cấu thành của “XHDS”. Ngay bản thân tài chính của các tổ chức xã hội, viện nghiên cứu độc lập, quỹ, diễn đàn này, một mặt, dựa vào khả năng tự huy động; mặt khác, nhận đấu thầu các gói dịch vụ có nguồn gốc tài chính ngân sách để thực hiện các mục tiêu của chính phủ. Những tổ chức của “XHDS” có vị thế lớn đều có lực lượng chính trị này hay lực lượng chính trị khác đứng sau chi phối, gây ảnh hưởng, thông qua cung cấp tài chính và định hướng mục tiêu hoạt động.
Trong các nước chuyển đổi chế độ chính trị ở Đông Âu, không gian hậu Xô-viết, Bắc Phi - Trung Đông, cũng như ở nhiều nơi khác, đã từng diễn ra các trường hợp một tổ chức của “XHDS” bằng các chiêu trò dân túy và sự hà hơi, tiếp sức từ bên ngoài, chỉ trong một thời gian ngắn chuyển hóa thành đảng chính trị thực hiện “cách mạng nhung”, “cách mạng màu” rồi trở thành đảng cầm quyền. Các NGO nước ngoài nhân danh “XHDS” hoạt động trên lãnh thổ nước khác hoạt động rất ráo riết để cổ vũ cho thúc đẩy các hoạt động “cách mạng đường phố”, mà đứng sau đều chịu sự chi phối bởi các chính phủ đã cung cấp tài chính. Vì vậy, Tổng thống Nga V. Pu-tin rất mạnh tay với các tổ chức NGO nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ nước Nga; nhiều nước khác cũng rất cảnh giác, thận trọng, tìm cách quản lý, kiểm soát các tổ chức này nếu không muốn gây nên nguy cơ bất ổn xã hội.
Do các tổ chức xã hội có vai trò tích cực nhất định, nên các đối tượng thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã ra sức lợi dụng, tuyệt đối hóa đặc điểm này để tranh thủ quần chúng, tập hợp lực lượng một cách công khai nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước. Họ lợi dụng các kẽ hở về mặt pháp luật, các vấn đề tiêu cực trong xã hội, vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... để tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khi thời cơ chín muồi sẽ hình thành tổ chức chính trị đối lập tại Việt Nam. Có thể nhận dạng mấy điểm sau đây của XHDS:
Thứ nhất, dù những người cổ vũ cho XHDS tự cho rằng XHDS có tính “độc lập” với Nhà nước và không mang bản chất giai cấp, nhưng thực tế cho thấy, XHDS (bao gồm các tổ chức hội, hiệp hội, đoàn thể, tổ chức phi chính phủ, quỹ, diễn đàn...) đều mang tính chính trị, luôn tiềm ẩn nguy cơ bị các thế lực thù địch lợi dụng để tiến hành các hoạt động chống Đảng và Nhà nước. “Xã hội dân sự” chính là môi trường mà trong chính bản thân các thành tố cấu thành cũng diễn ra cuộc đấu tranh giữa các nhóm lợi ích trên mọi phương diện, từ chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa... Do đó, các lực lượng, phe phái, đảng phái chính trị luôn tìm cách chi phối, vận động, lôi kéo lực lượng XHDS hoặc chính các thành tố của XHDS (hội, hiệp hội, đoàn thể, quỹ, diễn đàn...) để đạt được mục tiêu, lợi ích của mình đều bị chi phối bởi các thế lực chính trị hoặc bị chính trị hóa ở các mức độ, hình thức khác nhau. Thực tế cho thấy, thời gian qua, các thế lực thù địch đã và đang triệt để lợi dụng, thúc đẩy hình thành XHDS đối lập với Đảng, hoạt động ngoài sự quản lý của Nhà nước, tạo tiền đề cho can thiệp, lật đổ dưới danh nghĩa “chuyển hóa dân chủ”, đưa các lực lượng chống đối lên nắm chính quyền.
Thứ hai, vốn mang tính đa dạng về lợi ích, thành phần, do đó XHDS cũng mang tính đa dạng, đa nguyên về tư tưởng. Đặc trưng này phản ánh tính phức tạp về tư tưởng, văn hóa trong đời sống XHDS. Đối với Việt Nam, sự hình thành của XHDS còn chứa đựng nguy cơ xuất hiện, hình thành hoặc du nhập những khuynh hướng tư tưởng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản, tiền đề trực tiếp dẫn đến đa nguyên về chính trị.
Thứ ba, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, ý thức công dân, ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ người dân còn hạn chế; hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, quản lý của chính quyền còn nhiều lỗ hổng; lại có những đặc điểm phức tạp, đa dạng về tôn giáo, dân tộc, di tồn lịch sử của chế độ thực dân... Do đó, sự hình thành và phát triển các yếu tố của XHDS luôn tiềm ẩn nguy cơ bị lợi dụng dẫn đến chia rẽ, xung đột, hỗn loạn, vô chính phủ, mất ổn định chính trị, xã hội của đất nước.
Thứ tư, XHDS bao hàm nhiều tổ chức xã hội có tính đa dạng về thành phần, mục đích hoạt động, lợi ích, thiếu tính tổ chức chặt chẽ, do đó nó dễ bị các cá nhân, tổ chức có điều kiện chi phối, lợi dụng để thực hiện các mục đích riêng và tiềm ẩn nguy cơ gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và trật tự, ổn định xã hội. Tính chất đa dạng, phức tạp của XHDS cho thấy đây là khu vực không thuần nhất, tính đồng thuận không cao và thiếu tính nhất quán. Tổ chức XHDS hình thành chủ yếu dựa trên những mối quan hệ và liên kết mềm, tự nguyện, tự quản, tính thống nhất không cao nên dễ xảy ra nguy cơ các tổ chức này chỉ chạy theo lợi ích cục bộ mà không quan tâm đến lợi ích chung, toàn xã hội, tạo ra các “lệ” riêng, có thể gây cản trở đến việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, thậm chí có trường hợp bị biến tướng phục vụ cho lợi ích của cá nhân, tổ chức có điều kiện chi phối. Thực tế cho thấy, tuyệt đối hóa vai trò các tổ chức của XHDS, xem nhẹ quản lý của Nhà nước, chỉ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, tiền đề cho rối loạn, bất ổn. Do tính chất đa dạng và phức tạp này mà XHDS luôn tiềm ẩn nguy cơ bị các đối tượng, tổ chức thù địch cả trong và ngoài nước mua chuộc, chi phối, lợi dụng nhằm thực hiện mưu đồ chính trị đen tối.
Thứ năm, một số tổ chức xã hội có vai trò, ảnh hưởng xã hội nhất định, số lượng thành viên đông đảo luôn trở thành mục tiêu tác động, chi phối, lợi dụng của các thế lực thù địch nhằm biến các tổ chức này thành các tổ chức chính trị đối lập với Đảng, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước Việt Nam. Một bộ phận các tổ chức xã hội, đặc biệt là các hội, liên hiệp hội, tổng hội có tổ chức mang tính hệ thống cả theo chiều dọc lẫn chiều ngang, với số lượng thành viên đông, có ảnh hưởng nhất định đối với quần chúng. Các tổ chức này trở thành mục tiêu lợi dụng của các thế lực thù địch để tìm cách tác động đến các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua các hoạt động “vận động hành lang”, hội thảo, kiến nghị, nhất là những vấn đề hệ trọng, nhạy cảm, như chế độ sở hữu đất đai, an ninh mạng, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc... Do đó, nếu không có những quy định pháp lý đủ mạnh, thiếu hiệu lực quản lý của các cơ quan chức năng để các hoạt động “vượt rào” thì các tổ chức này rất dễ bị lợi dụng, biến thái và biến tướng thành các lực lượng hỗ trợ tích cực cho thúc đẩy “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, thậm chí chuyển hóa thành tổ chức đối lập về chính trị.
Một số vấn đề đặt ra trong đấu tranh với các quan điểm, âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự”
Một là, cần nhận thức đầy đủ về XHDS và có cách “ứng xử” phù hợp với vấn đề “XHDS”. Phải thẳng thắn bác bỏ và phê phán, đấu tranh kiên quyết với các quan điểm khuyến khích, cổ vũ XHDS với ý đồ thúc đẩy hình thành các tổ chức chính trị đối lập. Hiện nay, nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến XHDS chưa được nghiên cứu thấu đáo, hiệu lực và công cụ quản lý của Nhà nước, ý thức pháp luật của người dân còn có những hạn chế. Do đó, nếu chúng ta buông lỏng, thả nổi cho sự hình thành, phát triển “XHDS” sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy phức tạp, khó kiểm soát, nhất là dưới góc độ quản lý nhà nước, cũng như bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và bảo vệ an ninh quốc gia.
Hai là, kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách, biện pháp hạn chế đến mức thấp nhất những hệ lụy, ảnh hưởng tiêu cực của XHDS mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam. Cần tổ chức nghiên cứu bài bản, có hệ thống về XHDS, các yếu tố của XHDS, nhất là làm rõ khái niệm, bản chất của XHDS; XHDS và các yếu tố cấu thành, biểu hiện cụ thể của XHDS; các hình thức của XHDS gắn với điều kiện lịch sử - cụ thể, nhất là chế độ chính trị, truyền thống văn hóa, trình độ phát triển kinh tế - xã hội; cấu trúc của XHDS và quan hệ của XHDS với nhà nước, thị trường, tôn giáo, mạng xã hội, gia đình; vai trò, ưu thế và giới hạn, mặt tiêu cực của XHDS; yếu tố ngoại sinh và nội sinh của XHDS; các hình thức lợi dụng XHDS của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị. Từ những kết quả nghiên cứu này sẽ giúp cho Đảng, Nhà nước chủ động có chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm quản lý các tổ chức xã hội, các NGO, vừa phát huy mặt tích cực, vừa định hướng hoạt động lành mạnh phù hợp với thể chế chính trị, đặc điểm về kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước, triệt tiêu các yếu tố có thể bị lợi dụng để hình thành lực lượng chính trị đối lập, gây bất ổn chính trị - xã hội. Đồng thời, làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân không bị các thế lực thù địch kích động, lôi kéo thông qua danh nghĩa tổ chức XHDS.
Ba là, trong điều kiện có sự tồn tại khách quan của một số loại tổ chức có tính chất “XHDS”, cần tham mưu cho Đảng, Nhà nước xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm phát huy đầy đủ vai trò của các tổ chức này, hạn chế những tác động tiêu cực của nó và có các biện pháp quản lý phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, phù hợp với cơ chế vận hành của thể chế chính trị, giữ vững bản chất của chế độ. Sự quản lý và định hướng có hiệu quả, bằng pháp luật của Nhà nước sẽ tạo ra một môi trường dân chủ, lành mạnh cho sự phát triển hài hòa của toàn xã hội. Mặt khác, cần củng cố, đổi mới, phát huy tính tích cực và chủ động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội để làm tốt chức năng đoàn kết, tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giám sát và phản biện xã hội, bảo vệ quyền lợi của nhân dân trước tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường và toàn cầu hóa.
Đồng thời, quán triệt tinh thần Đại hội XII của Đảng: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(1), định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội, hiệp hội, đoàn thể ở Việt Nam phải gắn liền với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; gắn với đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện nền dân chủ XHCN.
Bốn là, các lực lượng nòng cốt các cấp căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể được giao, vận dụng các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “XHDS” xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Trong đó, vấn đề cấp bách hiện nay là tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội và NGO Việt Nam, không để các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng tác động, chuyển hóa thành tổ chức XHDS theo tiêu chí phương Tây.
Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng khác đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận, ngăn chặn hoạt động truyền bá tư tưởng, thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trò của XHDS theo mô hình, tiêu chí của phương Tây, cổ vũ thành lập các tổ chức chính trị đối lập, các tổ chức phản động dưới danh nghĩa, vỏ bọc của tổ chức “XHDS”; phối hợp tuyên truyền, vận động các nhân sĩ, trí thức, học giả đang sinh hoạt tại các hội, liên hiệp hội, tổng hội nâng cao cảnh giác trước luận điệu của các thế lực thù địch về cái gọi là “hình mẫu lý tưởng” của “XHDS” phương Tây, cũng như tích cực tham gia đấu tranh tư tưởng - lý luận. Đồng thời, vạch rõ những điểm không phù hợp (cả về lý luận và thực tiễn) của “XHDS” theo hình mẫu phương Tây đối với xã hội Việt Nam; vạch rõ mưu đồ chính trị của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị thông qua việc lợi dụng vấn đề “XHDS” để tác động, chuyển hóa chế độ chính trị tại Việt Nam. Bên cạnh đó, sử dụng các biện pháp, phương tiện ngăn chặn, vô hiệu hóa các con đường, cách thức truyền bá vấn đề “XHDS” theo hình mẫu phương Tây vào Việt Nam, đặc biệt là thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, hợp tác, trao đổi về văn hóa, khoa học, giáo dục - đào tạo... Đấu tranh, ngăn chặn, xử lý kịp thời hoạt động của các thế lực thù địch bên ngoài câu kết, hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong nước thành lập các tổ chức phản động dưới danh nghĩa, vỏ bọc XHDS./.
Mai Năm Mới (ST)
-----------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 149
Cộng đồng quốc tế đánh giá cao bản chất chế độ xã hội và vị thế chính trị của Việt Nam
Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội vẫn có những cái nhìn phiến diện, những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt về thành tựu của cách mạng, nhất là trong công tác đối ngoại và về vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
![]() |
Đại hội đồng LHQ. Nguồn: zing.vn |
Nhưng việc chúng ta được bầu với số phiếu gần như tuyệt đối (192/193), trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) một lần nữa khẳng định khả năng, tầm vóc và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, sự kiện quan trọng ấy còn là minh chứng hùng hồn phản bác mọi giọng điệu đang cố tình xuyên tạc đường lối, phủ nhận thành tựu đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Kết quả bầu cử tại Khóa họp thứ 73 Đại hội đồng LHQ công bố tối 7-6 cho thấy, cộng đồng quốc tế đánh giá cao bản chất chế độ xã hội và vị thế chính trị của Việt Nam. Mặt khác, đây cũng là trách nhiệm nặng nề đối với Việt Nam. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải có những nỗ lực lớn hơn nữa trong thực hiện đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại và tiếp tục có những đóng góp cụ thể cho HĐBA tại LHQ. Nhiệm vụ quan trọng nhất là góp phần xây dựng chương trình nghị sự, tham gia định hình chính sách của LHQ.
Cách đây hơn 4 thập kỷ, ngày 20-9-1977, Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của LHQ. Kể từ đó, Việt Nam luôn là thành viên tích cực của tổ chức chính trị đa phương lớn nhất hành tinh này. Những đóng góp của Việt Nam là toàn diện, đặc biệt là trên 3 trụ cột: Hòa bình và an ninh quốc tế; phát triển kinh tế-xã hội; quyền con người. Những kết quả hoạt động trên 3 lĩnh vực này không chỉ thể hiện ở những đóng góp của Việt Nam tại LHQ mà còn ở việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị xã hội tại Việt Nam.
Trên lĩnh vực kinh tế-xã hội, xuất phát điểm từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp lúa nước lạc hậu, đất nước lại bị chiến tranh tàn phá suốt mấy chục năm, đến nay Việt Nam đã trở thành một nước có mức thu nhập trung bình của thế giới. Quy mô nền kinh tế Việt Nam ngày càng được mở rộng nhờ duy trì tốc độ tăng trưởng khá. GDP năm 2018 đạt 5.535,3 nghìn tỷ đồng, gấp hai lần quy mô GDP năm 2011. GDP bình quân đầu người năm 2018 ước tính đạt 58,5 triệu đồng, tương đương 2.587USD, tăng 198USD so với năm 2017... Mức sống người dân không ngừng được nâng cao, không phải quốc gia nào lâm vào hoàn cảnh như Việt Nam cũng có được kết quả như vậy.
Trong dịp tham dự Hội nghị Thượng đỉnh APEC cuối năm 2017 tại Đà Nẵng, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã phải thốt lên rằng “Việt Nam là điều kỳ diệu của thế giới”. Cũng trong dịp dự Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ-Triều Tiên lần hai tại Hà Nội (ngày 26-2-2019) Tổng thống Mỹ Donald Trump lại đưa ra thêm một nhận xét: “Việt Nam đang là một trong những nơi phát triển hiếm có trên Trái Đất”.
Là thành viên có trách nhiệm của LHQ, Việt Nam đã đi đầu trong thực hiện chiến lược của LHQ, trong đó có mục tiêu thiên niên kỷ (MDG). Ngay từ năm 2006, Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành MDG về xóa nghèo. Như vậy, Việt Nam đã về đích mục tiêu này trước 10 năm so với thời hạn (năm 2015).
Xóa đói, giảm nghèo luôn là một nhiệm vụ chính trị lớn được Đảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo sát sao. Trong năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1%-1,5%/năm. Riêng các huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 3%-4% theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020. Ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cho rằng: “Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn trong việc giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người. Tỷ lệ nghèo trong các dân tộc thiểu số tiếp tục giảm mạnh...”.
Về đường lối đối ngoại, an ninh, quốc phòng, quan điểm, đường lối, chính sách của Việt Nam là nhất quán và có nguyên tắc. Đó là: (1) Đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết; (2) Kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm: Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển; (3) Tôn trọng Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế.
Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) xác định rõ mục tiêu, phương châm, quan điểm chỉ đạo và nội dung, giải pháp để thực hiện chiến lược trong tình hình mới. Trong chiến lược nói trên, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ đối tác và đối tượng của cách mạng Việt Nam: “Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”
Quan điểm của Việt Nam về vấn đề chủ quyền và quyền chủ quyền biển, đảo, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là giữ vững nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, vừa kiên trì, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc, vừa giữ vững môi trường hòa bình và hợp tác để phát triển.
Việt Nam sẽ đón nhận nhiệm vụ Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ trong bối cảnh châu Á vừa là tâm điểm phát triển kinh tế, vừa là điểm nóng cạnh tranh ảnh hưởng của các nước lớn. Đây là một vấn đề được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm. Về mặt địa chính trị, Việt Nam và Biển Đông có một vị trí đặc biệt quan trọng. Đó là tuyến đường bộ đi từ các quốc gia phương Bắc xuống các quốc gia Đông Nam Á-một thị trường lớn, giàu tài nguyên, đang phát triển mạnh mẽ; đó cũng là tuyến đường biển thuận lợi nhất cho các quốc gia đi từ Đại Tây Dương qua Thái Bình Dương tới Ấn Độ Dương. Việt Nam, với vị trí địa chính trị và địa chiến lược cả trên đất liền, trên biển đảo... luôn là một địa bàn quan tâm của nhiều nước lớn.
Với vị trí Ủy viên không thường trực HĐBA, Việt Nam có nhiều thuận lợi hơn không chỉ trong việc thực hiện nhiệm vụ chung của LHQ mà còn trong xử lý những vấn đề chính trị ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có vấn đề chủ quyền biển, đảo và đường hàng không, hàng hải quốc tế qua Biển Đông. Vị trí này còn giúp Việt Nam thực hiện vai trò Chủ tịch Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào năm 2020.
Liên quan đến những vấn đề địa chính trị của Việt Nam và Biển Đông với vai trò Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ, TS Alexey Muraviev, Phó giáo sư Viện Nghiên cứu chiến lược an ninh quốc gia Đại học Curtin (Úc), một nhà nghiên cứu về khu vực, cho rằng: “Việc được bầu làm Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ sẽ tiếp tục nâng cao tiếng nói, sức nặng của Việt Nam xét về địa chính trị, như một nhân tố quan trọng và có tầm ảnh hưởng tại khu vực đang phát triển như Đông Nam Á cũng như xa hơn”.
Về việc Việt Nam tham gia lực lượng Gìn giữ hòa bình của LHQ, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, cho biết: “Đội công binh Việt Nam gồm 290 cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ đã cơ bản hoàn tất công tác chuẩn bị về tổ chức biên chế, trang thiết bị, trình độ ngoại ngữ, năng lực chuyên môn và sẵn sàng tham gia hoạt động Gìn giữ hòa bình LHQ từ năm 2020”.
Nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, đối ngoại là một chủ đề của Hội nghị Trung ương 10, khóa XII. Tại phiên bế mạc (ngày 18-5), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Trước những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường trên thế giới, trong khu vực, cần quan tâm đặc biệt, coi bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên… có chính sách, biện pháp phù hợp, bảo đảm thực hiện thắng lợi nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.” Một trong những mục tiêu của chiến lược an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Việt Nam trong tình hình mới là tiếp tục nâng cao vị thế chính trị của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế, thực hiện tốt nhất vai trò Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ.
Mai Năm Mới (ST)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)