LUẬN BÀN VỀ BẢN
CHẤT CỦA QUAN ĐIỂM ĐÒI “DÂN SỰ HÓA”
QUÂN ĐỘI
(tiếp theo)
2. Bản chất
“dân sự hóa” quân đội ở các nước tư sản
Dựa trên “học
thuyết phân quyền tư sản”, những người có quyền lập pháp ở các nước tư sản đã
ban hành vô số điều luật thiết tưởng sẽ chia tách được quyền lực của ba nhóm lập
pháp, hành pháp và tư pháp đối với việc quản lý nhà nước về quân sự, quốc
phòng. Ở đó, người ta “thực sự” tin rằng, nhờ chế định “dân sự quản lý quân sự”
(dân quản quân) đã được ghi tạc, ban hành trong luật pháp thì “chắc chắn” việc
của quân đội tất yếu là việc của phái dân sự thực hiện, chứ “dứt khoát” không
phải là việc của đảng phái nào, phái quân sự nào! Tuy nhiên, trái ngược với những
tư tưởng “tam quyền phân lập”, thực tiễn đời sống pháp luật tư sản cho thấy một
nghịch lý với hoài niệm “tốt đẹp” về nó.
Muôn vàn ví dụ về quản lý nhà nước đối
với quốc phòng của Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới cho thấy rõ điều này.
Trên thực tế, dù luật pháp của Hoa Kỳ có chặt chẽ đến đâu thì các chính đảng vẫn
can thiệp cả vào lập pháp, hành pháp và tư pháp đối với việc quản lý nhà nước về
quân sự, quốc phòng. Hoa Kỳ đã trải qua 45 đời tổng thống, chỉ có tổng thống đầu
tiên là G. Washington không thuộc đảng phái nào; còn 44 tổng thống khác đều là
người đứng đầu hay đại diện cho các đảng phái khác nhau. Hầu hết các Tổng thống
Hoa Kỳ đều nhất quán thực thi đường lối của đảng đã cử mình làm đại diện tranh
cử. Ví dụ như, trong quá trình tranh cử, ông Đô-nan Trăm (ứng cử viên đại diện
cho Đảng Cộng hòa) tuyên bố sẽ rút quân đội khỏi Trung Đông nếu trúng cử. Và giờ
đây khi là tổng thống, Ông đã thực thi đường lối quân sự đó. Như vậy, tư tưởng,
đường lối nhất quán của một chính đảng và một tổng thống đắc cử đã thực thi. Do
đó, không có cái gọi là “dân quản quân”, mà thực chất là “đảng quản quân”.
Một vài ví dụ
khác, năm 1950, Tổng thống Mỹ Truman chọn Thống tướng Lục quân G. Marshall mới
nghỉ hưu được hơn 5 năm làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trong khi Luật An ninh quốc
gia Mỹ năm 1947 quy định: “Bộ trưởng phải được chỉ định từ giới dân sự. Đối với
cựu quân nhân Mỹ, họ chỉ có thể được đảm đương chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng sau 10 năm kể từ khi họ giải ngũ”. Mới đây, ông J. Mattis, Đại tướng, Tư
lệnh Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ, mới nghỉ hưu năm 2013 vẫn được Tổng thống Đô-nan Trăm đề
cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Thượng viện phê chuẩn ngày 20-01-2017, trong
khi luật pháp Hoa Kỳ năm 2008 quy định: “người rời khỏi quân đội ít nhất 7 năm
mới được làm bộ trưởng quốc phòng” và “quá trình bổ nhiệm quan chức quân sự, chỉ
đi một hướng từ dân sự sang quân sự, không có chiều ngược lại”. Điều trên cho
thấy nguyên tắc “dân quản quân” đã không được thực hiện triệt để.
Nhiều nước
trên thế giới, như: Nga, U-crai-na, Hàn Quốc, Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia,… Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng thường là quân nhân. Ở Nga, đến năm 2001 mới có ông S. B.
I-va-nốp là người dân sự đầu tiên làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhưng đến năm
2012, Tổng thống V. Putin sử dụng lại người nhà binh, bổ nhiệm Đại tướng S.
Sôigu làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Quyết định đó được các chuyên gia quân sự
đánh giá cao, cho rằng, người đứng đầu quân đội phải nắm rõ việc quân sự, phải
có uy với cấp dưới, khi cần quản lý nhà nước đã có cố vấn, thư ký hỗ trợ; nếu
người dân sự làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thì sẽ khó thể hiện tính quyết đoán,
nhất là giải quyết những vấn đề đột xuất, đòi hỏi quyết đoán nhanh trong điều
kiện khó khăn, căng thẳng.
Có thể thấy,
bản chất chế định pháp lý người đứng đầu quân đội (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) ở Mỹ
và một số quốc gia khác không phải là quân nhân, mà là dân sự, đó không có
nghĩa là “dân sự hóa” quân đội mà là sử dụng con người dân sự cụ thể để quản lý
công việc quân sự. Tuy nhiên, chế định này không phải lúc nào cũng thực hiện được.
Vì vậy, quan điểm đòi “dân sự hóa” Quân đội ở Việt Nam, cho rằng “Quân đội chỉ
phục tùng Hiến pháp, không phục tùng luật Đảng” chỉ là sự thiếu hiểu biết về
tri thức pháp lý và quản lý nhà nước về quốc phòng của một số người mà thôi.
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét