Thứ Ba, 2 tháng 6, 2020

Giải quyết nạn thông tin giả trên KGM



Sở dĩ thông tin bịa đặt, thông tin giả về các vụ án còn tồn tại trên không gian mạng và luôn phát triển với cấp số nhân là vì mấy vấn đề sau: Thứ nhất, còn nhiều người tin vào những sự “bịa như thật” trên mạng. Nói về vấn đề này, TS Cao Đức Thái, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, từng nhận xét: Ở Việt Nam, tốc độ phát triển của internet khá nhanh và lượng người sử dụng rất cao (khoảng 64 triệu người), trong khi trình độ dân trí của một bộ phận người dân còn có những hạn chế nên khó phân biệt được tin thật với tin giả lan truyền trên mạng. Vì vậy, việc nâng cao dân trí thông qua tuyên truyền, phổ biến, giáo dục... là rất cần thiết, đây chính là cái gốc sâu xa nhằm giải quyết vấn đề dư luận sẽ đi theo chiều cạnh nào khi tiếp nhận biển cả thông tin mênh mông. Đối với các vấn đề quan trọng, có ảnh hưởng sâu sắc đến dư luận, tâm lý xã hội, nhất là các vụ án trọng điểm thì càng cần được định hướng, tuyên truyền sâu rộng để đông đảo các tầng lớp nhân dân được biết, được hiểu, từ đó tự xây dựng nhận thức đúng đắn khi tiếp nhận các thông tin trái chiều. Một quy luật tất yếu là nếu lúa tốt thì cỏ dại khó mọc và ngược lại.
Thứ hai, còn nhiều nhà mạng thiếu trách nhiệm với những thông tin mà mình cung cấp, điều nguy hại hơn là họ còn trả tiền cho cả những thông tin giả, thông tin bịa đặt. Với vai trò là cung cấp nền tảng hơn là vai trò của nhà xuất bản, các nhà mạng lớn trên thế giới hiện nay có vẻ không quan tâm đến độ chính xác của các thông tin, vì thế các thông tin thất thiệt hầu như không bị can thiệp, mặc sức hoành hành trên mạng. Thực tế hiện nay, mạng xã hội không khác gì "chợ truyền thông", trong đó lẫn lộn cả thông tin tốt lẫn thông tin xấu độc. Có lẽ đã đến lúc cần phải nghiên cứu xây dựng các đạo luật, hoặc các công ước có tính quốc tế nhằm quản lý tình trạng trên, không thể để tình trạng vì tiêu chí tự do ngôn luận mà xâm hại các quyền hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thậm chí là quyền lợi chính đáng của một quốc gia. Mục tiêu của các nhà mạng là kiếm tiền từ thông tin thì dứt khoát phải chịu trách nhiệm về tính xác thực của các thông tin mà mình đóng vai trò hỗ trợ cung cấp. Trong một cái chợ thì ban quản lý chợ cũng phải chịu trách nhiệm về tình trạng trộm cắp, bất lương của cái chợ đó.
Thứ ba, việc cung cấp thông tin chính thống có lúc chưa kịp thời, chưa đầy đủ. Về vấn đề này, có lần trao đổi với chúng tôi, nhà báo Hà Đăng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương cho rằng: Cơ chế thông tin của Nhà nước ta là dân chủ và minh bạch, tuy nhiên đối với từng cơ quan cụ thể, có lúc chưa làm tốt vấn đề này, chính vì vậy mới tạo ra kẽ hở để một số tổ chức, cá nhân có dã tâm lợi dụng, hòng trục lợi và mưu đồ chống phá. Do đó, việc thông tin những vấn đề quan trọng có liên quan tới quyền lợi về chính trị, kinh tế, văn hóa... của các tầng lớp nhân dân cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, toàn diện và sâu kỹ. Khi có thông tin đích thực, chính thống, có nghĩa là dư luận đã được định hướng, không còn sự ngả nghiêng, nghi ngờ giữa cái thật và không thật. Báo chí chính thống, cách mạng phải giữ vững vai trò chủ đạo trong thông tin chân thực, tuyệt đối không để lợi ích cục bộ che lấp bản chất cách mạng của các nhà báo, cơ quan báo chí.
Giải quyết được 3 vấn đề trên có nghĩa là chúng ta đã thực hiện được những yếu tố cơ bản, góp phần làm trong sạch môi trường truyền thông, tạo điều kiện tốt nhất để dư luận tiếp cận các thông tin đúng, chân thực, loại bỏ các thông tin xấu độc, giả mạo để người dân hiểu đúng bản chất sự việc, sự thật.

BẢO VỆ TRẺ EM TRÊN MÔI TRƯỜNG MẠNG



Hầu hết trẻ em nước ta hiện được thừa hưởng cuộc sống no đủ, được chăm lo chu đáo, được đến trường học hành thuận lợi. Cuộc sống con trẻ tưởng như viên mãn trong tình yêu thương, nâng niu của các bậc phụ huynh sẽ trở nên hạnh phúc, nhưng còn đó những nỗi lo về môi trường sống an lành cho trẻ. Một trong những nỗi lo đó là mặt trái của xã hội thông tin bùng nổ và môi trường mạng đã và đang tạo ra nhiều nguy cơ đối với trẻ em.
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ người dùng internet nhiều nhất thế giới. Hiện nay, phần lớn các gia đình, nhất là các gia đình ở khu vực đô thị có nhiều thiết bị, công nghệ có thể kết nối với internet một cách dễ dàng. Điều đó khiến không chỉ một bộ phận người lớn mà cả trẻ em cũng có thể “nghiện” mạng, “nghiện” iPhone, iPad... Trong khi việc quản lý, kiểm soát thông tin trên môi trường mạng còn lỗ hổng, ý thức nhiều người sử dụng mạng xã hội (MXH) kém cỏi, trẻ em rất dễ bị “ngộ độc” những thông tin, hình ảnh thiếu lành mạnh trên môi trường mạng.
Thời gian qua, dư luận có lúc không khỏi bàng hoàng, đau xót khi nhiều hình ảnh bạo lực, xâm hại trẻ em bị kẻ xấu đưa lên lan truyền, chia sẻ trên MXH. Theo nhận định của các chuyên gia tâm lý, nếu xâm hại ngoài xã hội chỉ có một vài người chứng kiến trong phạm vi hẹp thì khi hình ảnh trẻ bị bạo lực, xâm hại bị tung lên môi trường mạng sẽ để lại di chứng lâu dài cho người bị hại. Nhiều vụ trẻ em tự tử, tự hại mình cũng bắt nguồn từ áp lực dư luận trên MXH.
Điều đáng nói hơn, do tâm lý thích khoe mẽ, nhiều bà mẹ, ông bố hồn nhiên chụp nhiều ảnh và tùy tiện đưa thông tin của con lên MXH. Hành vi này không những xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em đã được quy định tại Luật Trẻ em mà vô hình trung còn tạo cơ hội cho những kẻ xấu có thể khai thác thông tin, hình ảnh của trẻ để thực hiện những mục đích không lành mạnh. Trong cuộc hội thảo góp ý xây dựng Đề án “Bảo vệ và hỗ trợ trẻ em tương tác sáng tạo, lành mạnh trên môi trường mạng” do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức cuối tuần qua tại Hà Nội, đại diện Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tại Việt Nam đã đưa số liệu mang tính cảnh báo: Vào bất cứ thời điểm nào, trên khắp thế giới có khoảng 750.000 đối tượng đang ngồi tìm kiếm các hình ảnh, video về tình dục trẻ em.
Phiên họp trực tuyến của Quốc hội diễn ra tuần qua, khi thảo luận Báo cáo kết quả giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em, nhiều đại biểu Quốc hội đã đề nghị các cấp, ngành và cộng đồng phải có những việc làm thiết thực để chủ động phòng ngừa những tác hại của môi trường mạng đối với trẻ em. Kết thúc phiên thảo luận, Quốc hội đề nghị Chính phủ trong năm 2020 ban hành theo thẩm quyền hoặc chỉ đạo các bộ, ngành liên quan ban hành văn bản về “Chương trình phòng, chống xâm hại trẻ em trên môi trường mạng”.
Để bảo vệ sự an toàn về thể chất, tâm hồn cho con trẻ trong bối cảnh “thế giới phẳng” hiện nay quả là điều không đơn giản đối với mỗi quốc gia và cả cộng đồng xã hội. Trong khi chờ đợi một chương trình tổng thể, khả thi về phòng, chống xâm hại trẻ em trên môi trường mạng, ngay từ bây giờ, các bậc phụ huynh phải biết tự bảo vệ con em mình bằng cách thường xuyên giáo dục, quản lý, theo dõi sát sao để trẻ không bị sa đà vào những thông tin, hình ảnh độc hại trên mạng; đồng thời phối hợp chặt chẽ với nhà trường, giáo viên và các tổ chức đoàn, đội, hội để hướng trẻ em tiếp cận, thụ hưởng những không gian mạng thật sự an toàn, bổ ích.
Khi bảo vệ sự an toàn của trẻ em ở mọi lúc, mọi nơi, chúng ta mới hiện thực hóa được niềm tin trẻ em là hồng phúc và tương lai của mỗi gia đình, là triển vọng của quốc gia, dân tộc.


TĂNG CƯỜNG TIỀM LỰC BẢO VỆ BIỂN ĐẢO VIỆT NAM



Bộ Quốc phòng Việt Nam khẳng định: Trong những năm qua, Đảng - Nhà nước đã quan tâm đầu tư nâng cao tiềm lực quốc phòng, tăng cường khả năng chiến đấu của lực lượng trực tiếp bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Vừa qua, cử tri TP.HCM đã có kiến nghị: Đảng, Nhà nước cần tiếp tục kiên quyết, kiên trì thực hiện các biện pháp phù hợp trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo kịp thời thông tin đến nhân dân; tăng cường tiềm lực quốc phòng nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.
Trả lời vấn đề này, Bộ Quốc phòng cho biết: Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã đầu tư nâng cao tiềm lực quốc phòng, tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng trực tiếp bảo vệ chủ quyền biển, đảo: Hải quân, Phòng không - Không quân, Cảnh sát biển; mua sắm các trang thiết bị vũ khí hiện đại, chủ động nghiên cứu, phát triển trang bị, vũ khí công nghệ cao, nâng cao khả năng nắm tình hình và quản lý các vùng biển...
Bên cạnh đó, Bộ Quốc phòng đã tăng cường lực lượng tàu trực tại các vùng biển trọng điểm, thường xuyên tổ chức tuần tra, kiểm soát kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành động xâm phạm chủ quyền biển, đảo của các nước, sẵn sàng các phương án xử trí không để bị bất ngờ; rà soát, điều chỉnh, bổ sung các kế hoạch bảo vệ chủ quyền biển, đảo; tổ chức diễn tập, luyện tập các phương án, hiệp đồng các lực lượng trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo để xử lý tốt các tình huống diễn ra trên biển.
Đồng thời phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và địa phương trong việc trao đổi thông tin và xử lý các tình huống diễn ra trên biển; đẩy mạnh công tác đối ngoại quốc phòng với các nước trên thế giới, phối hợp với lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển các nước trong khu vực, tổ chức tuần tra chung trên biển, duy trì an ninh, trật tự trên vùng biển giáp ranh, nhằm tăng cường hiểu biết, tin cậy lẫn nhau để giải quyết những vấn đề xảy ra trên biển.

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2020

THẾ NÀO LÀ "BƯNG BÔ"



Trước áp lực của dư luận cho “các tổ chức nhân quyền”, “dân chủ” tầm châu lục như Việt Tân, RFA, BBC hay các nhà dân chủ trong nước tại sao không lên tiếng về các cuộc bạo loạn, đàn áp đang diễn ra ở Mỹ, mới đây, các trang này đã rục rịch lên tiếng.
Thay vì lên án chính quyền Mỹ đàn áp người dân, nhà báo hay đòi điều tra các vụ cảnh sát “bắn nhầm” người vô tội thì các anh lại đăng các tin như “cảm động cảnh sát quỳ gối trước người biểu tình”, “thế lực nào đứng sau các cuộc biểu tình ở Mỹ” và thậm chí, dày mặt như Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) đăng bài viết “Người Việt so sánh và mơ được biểu tình như ở Mỹ”.
Ở trong nước, trong khi nhiều nhà dân chủ còn đang câm lặng hoặc mải mê đưa tin về biểu tình ở Hồng Kông, cây hài Nguyễn Phúc Gia Huy (Dưa Leo) đã lên tiếng để bảo vệ nước Mỹ thân yêu, khẳng định rằng không khí dân chủ ở Mỹ là thứ mà người dân Việt Nam không thể được hưởng.
Phát ngôn của Dưa Leo là một minh chứng chắc nịch để các nhà khoa học khẳng định khuyết tật ở tay của dưa leo ảnh hưởng tới não bộ như thế nào
Có thể thấy, các đài báo cũng như dân chủ viên đang ra sức bảo vệ hình ảnh nước Mỹ đứng trước nguy cơ sụp đổ trong mắt dân Việt. Nhưng các anh chị quên mất, Việt Nam là nước có tốc độ phát triển 4G và độ phủ sóng Internet giá rẻ nhanh nhất thế giới.
Thế nên, dù các anh chị có ra sức bao biện cho nước mẹ, nhưng các video do chính người dân Mỹ ghi lại về các cuộc biểu tình, về cảnh xe cảnh sát lao vào đám đông biểu tình, về các cảnh hỗn loạn, cướp bóc xảy ra mấy ngày qua thì không nói lên điều tốt đẹp như vậy.
Nó khẳng định một sự thật duy nhất rằng, nước Mỹ không tốt đẹp như những gì các anh chị hay vẽ vời và một nước Mỹ chia rẽ, bất bình đẳng, mâu thuẫn tràn ngập trong lòng xã hội. Và cũng khẳng định rằng, nhân dân Việt Nam chúng tôi bận yêu hòa bình, không hề mơ về biểu tình như Mỹ đâu các con zời VOA nhé .
Dù sao, các anh, các chị đã cho chúng tôi hiểu thế nào là bưng bô rồi. Đúng là các bậc thầy trong nghề này

CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG GÓP Ý VÀO CÁC VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG ĐỂ CHỐNG PHÁ

Tất cả lợi ích của Đảng ta đều vì dân và mọi quyết sách của Đảng cũng xuất phát từ nhân dân! Với quan điểm đó, trước thềm Đại hội XIII của Đảng, Đảng ta trân trọng xin ý kiến của nhân dân để nghiên cứu, xây dựng chủ trương, đường lối lãnh đạo cho sát đúng với sự phát triển của thực tiễn. Song, lợi dụng việc này các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, chống phá quyết liệt quan điểm nhân văn đó. Bởi vậy, cảnh giác và đấu tranh vạch trần các thủ đoạn đó là nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay. Lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của các cấp trong Đảng và mọi tầng lớp nhân dân vào các văn kiện trước khi đại hội Đảng vừa là nguyên tắc, vừa là truyền thống phát huy dân chủ trong Đảng; đồng thời, thể hiện sự gắn bó hữu cơ “giữa Đảng với Nhân dân”, “giữa lý luận với thực tiễn phong phú, sinh động”. Tuy nhiên, một số thế lực thù địch lại lợi dụng chủ trương đó để chống phá. Trên mạng xã hội - một kênh thông tin và tương tác tiện dụng với nhiều người đã được họ lợi dụng tấn công một cách ác ý vào văn kiện của Đảng, hòng làm mất lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng và giá trị các văn kiện đại hội Đảng. Có thể thấy điều đó, trên mấy khía cạnh sau: 1- Tập trung chống phá đường lối, quan điểm Đại hội XIII của Đảng. Họ cho rằng, văn kiện Đại hội lần này cũng chỉ là sự sao chép và biến tấu từ văn bản các đại hội trước; nội dung không có giá trị gì với sự phát triển đất nước, mà ngược lại là nhân tố kìm hãm sự tiến bộ của dân tộc ta. Bởi vậy, cũng như trước đây, văn kiện Đại hội XIII cũng chỉ là những vấn đề sáo rỗng, giáo điều, bảo thủ; khư khư ôm giữ chủ nghĩa Mác - Lênin để duy trì quyền lực của Đảng mà thôi! Dưới hình thức: “Thư ngỏ”, “Thư góp ý”, “Trao đổi về Đại hội 13, Đảng Cộng sản Việt Nam”,… họ kiến nghị lấy lại tên Đảng, tên Nước trước đây cho “hợp với lòng dân” và để “quy tụ được ý chí của toàn dân tộc”, khởi động tinh thần Việt Nam, kết thành sức mạnh to lớn vượt qua mọi thách thức, chớp lấy thời cơ, đưa đất nước tiến lên! Và trước việc Đảng, Nhà nước ta xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên sai phạm, thì họ xuyên tạc là “thanh trừng nội bộ”, “trả thù cá nhân”, v.v. Từ đó, họ kích động các đối tượng bất mãn viết bài tung lên mạng xã hội, tạo dư luận đòi: Việt Nam phải “thay đổi toàn bộ khung, sườn”, tức là xóa bỏ chế độ “độc tài toàn trị của Đảng Cộng sản”, thực thi “đa nguyên, đa đảng”, “xã hội dân chủ”, đừng trông chờ vào đường lối Đại hội XIII. Thực tiễn minh chứng: kể từ ngày thành lập đến nay, cùng với Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng (03/02/1930), Đảng ta đã có 12 kỳ đại hội đại biểu toàn quốc. Mặc dù, mỗi đại hội diễn ra trong những bối cảnh lịch sử khác nhau, nhưng các văn kiện đại hội Đảng đều chứa đựng những giá trị nội dung và ý nghĩa to lớn về cách mạng dân tộc, dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa của đất nước, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân - ý Đảng, lòng dân là một, tạo sức mạnh vô song chiến thắng kẻ thù xâm lược và từng bước vững chắc trong tiến trình bảo vệ, xây dựng đất nước. Cương lĩnh năm 1930 đã đưa đến cao trào cách mạng những năm 30, 40 của thế kỷ XX và thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945; đồng thời, tạo cơ sở để Đảng đề ra đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh” chống thực dân Pháp. Tại Đại hội II (02/1951), Đảng xác định quyết tâm lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đại hội III (9/1960), Đảng chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, thống nhất Tổ quốc. Sau khi đất nước thống nhất, từ Đại hội IV đến Đại hội XII, Đảng vạch ra và ngày càng bổ sung, hoàn thiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt, trước những yêu cầu mới của sự phát triển đất nước, để khắc phục những bất cập của cơ chế cũ dẫn tới sự khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm sau chiến tranh, Đảng đã tiến hành đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và từng bước hình thành Đường lối đổi mới đất nước. Đại hội VI (12/1986), đã phân tích sâu sắc tình hình đất nước, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng đề ra Đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của dân tộc. Sau Đại hội VI, tại các kỳ đại hội, nhất là Đại hội VII (6/1991) và Đại hội XI (01/2011) Đảng đã hoàn thiện và cụ thể hóa một bước đường lối đổi mới, mà nội dung cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011). Tại Đại hội XII (01/2016), Đảng đã đề ra chủ trương: tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, v.v. Quán triệt quan điểm của các đại hội, phát huy kinh nghiệm thực tiễn trong nước và quốc tế, Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày càng giành được nhiều thắng lợi. Nhờ đó, đất nước đã vượt qua thách thức từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu cũng như sự bao vây, cấm vận của kẻ thù, tiếp tục vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau hơn ba thập kỷ tiến hành đổi mới, từ một đất nước nghèo, trình độ thấp, Việt Nam đã vươn lên trở thành quốc gia đang phát triển, có văn hóa, xã hội phát triển, đời sống mọi mặt của nhân dân được cải thiện; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao, v.v. Đặc biệt, trước sự tàn phá của đại dịch Covid-19 trên toàn cầu, nhiều nước trên thế giới bị động, lúng túng trong đối phó dẫn đến tỉ lệ nhiễm bệnh và tử vong cao, đang đứng trước nguy cơ suy thoái kinh tế, thì Đảng và Nhà nước ta đã chủ động đề ra nhiều giải pháp phòng, chống quyết liệt ngay từ những ngày đầu dịch Covid-19 xuất hiện, bùng phát tại Vũ Hán (Hồ Bắc, Trung Quốc). Đồng thời, động viên toàn dân đoàn kết, phát huy cao độ vai trò của các lực lượng: Y tế, Quân đội, Công an; thực hiện nhiệm vụ “kép” phát triển kinh tế và chống dịch rất hiệu quả, v.v. Nhờ vậy, Việt Nam được thế giới đánh giá là nước khống chế dịch tốt nhất, có nền kinh tế tăng trưởng cao nhất ở châu Á hiện nay. 2- Lợi dụng việc chống tham nhũng để chống phá văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Tham nhũng vốn là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự hình thành giai cấp, đồng hành và tồn tại ở mọi nhà nước. Ở Việt Nam, những năm qua, vấn đề này cũng diễn ra hết sức nhức nhối; Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp quyết liệt phòng, chống rất hiệu quả tệ nạn đó. Cần khẳng định rằng, không phải đến bây giờ Đảng ta mới đề cập tới đấu tranh chống tham nhũng, mà vấn đề này Đảng đã nhận thức và cảnh báo từ rất sớm. Nhìn lại các kỳ đại hội Đảng từ sau đổi mới, các văn kiện Ðảng thường xuyên đề cập và nêu quyết tâm cao về phòng, chống nguy cơ suy thoái, tham nhũng, tiêu cực. Ngay từ giữa nhiệm kỳ của Ðại hội VII, Ðảng ta đã xác định: tham nhũng và các tệ nạn xã hội, cùng với sự tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, là bốn nguy cơ của đất nước và chế độ. Tại Đại hội VIII, nhiệm vụ chống tham nhũng được đặt ra mạnh mẽ hơn (Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) là minh chứng cụ thể). Các Ðại hội IX, X và nhất là nhiệm kỳ Đại hội XI, với Nghị quyết Trung ương 4, nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng được đặt ra với quyết tâm chính trị rất cao. Đặc biệt, tại Đại hội XII, nhiệm vụ này được đặt ra rất quyết liệt, với: “cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng”1 và “cơ chế bảo đảm để không cần tham nhũng”2. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư, công tác này được tiến hành quyết liệt, bảo đảm công minh, chính xác, kịp thời, hiệu quả. Tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp thi hành kỷ luật 1.111 tổ chức đảng, 18.265 cấp ủy viên các cấp và 54.573 đảng viên. Trong đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 08 tổ chức đảng, 45 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật 111 đảng viên; trong đó, 92 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, gồm: 02 Ủy viên Bộ Chính trị, 21 ủy viên và nguyên ủy viên Trung ương, 38 sĩ quan trong lực lượng Công an và Quân đội3, v.v. Nhờ đó, đã góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng và Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”; đồng thời, bác bỏ luận điệu cho rằng: “Độc đảng lãnh đạo không thể chống được tham nhũng”! 3- Công kích, xuyên tạc về công tác nhân sự Đại hội XIII của Đảng. Để chuẩn bị cho Đại hội, công tác quy hoạch nguồn cán bộ được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chuẩn bị chặt chẽ, thống nhất. Căn cứ kế hoạch tổng thể, cán bộ trong diện quy hoạch được cử đi đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển công tác để rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, với nhiều cương vị công tác từ thấp đến cao. Quá trình này được các cấp tiến hành chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch; kiên quyết không để những người có tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, chạy cơ cấu, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, quan liêu, tham nhũng,… vào cấp ủy khóa mới. Rõ ràng, đây là bước chuẩn bị nhân sự chủ động từ sớm, từ xa, khoa học và công khai của các cấp cho Đại hội XIII. Sự thực đó bác bỏ mọi xuyên tạc cho rằng: quy hoạch nguồn cán bộ của Đại hội là “thiếu minh bạch”, vì “lợi ích nhóm”; là “xóa bỏ quyền của các đại biểu dự đại hội”; là “tước đi quyền tự do, dân chủ trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử của các đại biểu dự Đại hội”!, v.v. Đến nay, các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, được các tiểu Ban văn kiện chuẩn bị công phu, qua nhiều lần lấy ý kiến Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương, các bộ, ngành,… và đang tiến hành lấy ý kiến tham gia của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng các cấp và toàn dân. Quá trình đó, Trung ương sẽ “bình tĩnh lắng nghe, trân trọng, cân nhắc thật kỹ, tiếp thu tối đa mọi ý kiến”4 để hoàn thiện và trình Đại hội XIII xem xét quyết định. Chắc chắn văn kiện Đại hội XIII sẽ vạch ra được đường hướng đúng đắn để dân tộc ta vững bước trên con đường đi tới văn minh, hiện đại và giá trị các văn kiện sẽ là bằng chứng hùng hồn bác bỏ mọi sự xuyên tạc.

HÌNH THÀNH VĂN HOÁ SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI

Nghị định số 15/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin (CNTT) và giao dịch điện tử (gọi tắt là Nghị định 15) có hiệu lực từ ngày 15-4-2020, được kỳ vọng sẽ mang lại hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt hạn chế “đại dịch” tin giả, tin xấu độc trên mạng xã hội (MXH). Mạng xã hội không còn là ảo Theo Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT), năm 2019, 64 triệu người Việt Nam sử dụng internet, trong đó có tới 58 triệu người dùng MXH. Những con số trên phản ánh quy mô, mức độ sử dụng MXH Việt Nam đang phát triển mạnh, ngày càng giống như một xã hội trên môi trường internet. Bên cạnh những lợi ích to lớn, MXH tiềm ẩn rất nhiều nguy hại, đặc biệt là vấn nạn tin giả, xấu độc, lừa đảo… gây mất an ninh trật tự, tạo bất ổn trong xã hội. Ý thức được mặt trái của MXH, năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 174/2013/NĐ-CP, trong đó đã có những quy định khá cụ thể về hành vi thông tin sai sự thật trên môi trường viễn thông. Khoản a và b, Điểm 3, Điều 64 Nghị định 174 nêu rõ việc xử phạt hành vi cung cấp nội dung thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân; cung cấp nội dung thông tin không phù hợp với lợi ích đất nước. Đây chính là những căn cứ quan trọng để các cơ quan chức năng xử phạt hành chính hơn 800 trường hợp tung tin giả về đại dịch Covid-19 trước khi Nghị định 15 có hiệu lực. Nghị định 15 thay thế Nghị định 174 có nhiều quy định chi tiết hơn, nhất là xử lý các thông tin sai lệch, giả mạo trên MXH. Điều 101 quy định trách nhiệm cá nhân của người tham gia MXH. Người sử dụng MXH sẽ bị xử phạt với các hành vi cung cấp, chia sẻ: Thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; cổ xúy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi trụy, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc; miêu tả tỉ mỉ hành động chém, giết, tai nạn, kinh dị, rùng rợn; thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc; các tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm mà không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc chưa được phép lưu hành hoặc đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu; quảng cáo, tuyên truyền, chia sẻ thông tin về hàng hóa, dịch vụ bị cấm; hình ảnh bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia; đường dẫn đến thông tin trên mạng có nội dung bị cấm. Trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, luật sư Diệp Năng Bình, Trưởng Văn phòng luật sư Tinh thông luật, Đoàn luật sư TP Hồ Chí Minh, đưa ra lời khuyên: “Người sử dụng MXH hết sức cẩn thận khi đăng tải, chia sẻ, bình luận những thông tin chưa được kiểm chứng, chưa có các cơ quan chức năng, cơ quan báo chí lên tiếng, loan tin. Thậm chí, nếu một thông tin đăng tải trên báo chí “có vấn đề” bị gỡ xuống thì người sử dụng phải có trách nhiệm xóa đường dẫn đã chia sẻ trước đó. Thiết nghĩ, các cơ quan chức năng cần tuyên truyền để người dân biết điều gì được làm và không được làm một cách cụ thể. Chẳng hạn, nếu chia sẻ đường dẫn tin, bài của cơ quan báo chí kèm theo lời bình ngắn gọn không làm sai ý tác giả thì không vi phạm nhưng nếu trực tiếp sao chép nội dung tin bài rồi đăng tải mà chưa xin phép tác giả và cơ quan báo chí thì không được phép”. Các chuyên gia dự báo Nghị định 15 sẽ khiến không gian MXH không còn ảo nữa. Giờ đây, bất cứ ai dù vô tình đăng tải, chia sẻ trên MXH ảo sẽ phải gánh hậu quả thật sự, nhiều trường hợp sẽ phải trả giá rất đắt nếu bị khởi tố hình sự. Song hành hai biện pháp Ngay sau khi Nghị định 15 có hiệu lực, hai trường hợp đầu tiên bị xử phạt đều ở tỉnh Quảng Ninh. Trong đó đáng chú ý là trường hợp Đinh Văn Huynh (sinh năm 1984, trú tại huyện Đầm Hà) đã bị xử phạt 7,5 triệu đồng do bình luận trên một trang MXH, gán ghép bị can trong vụ án là con ruột lãnh đạo tòa án tỉnh Thái Bình. Đinh Văn Huynh làm nghề tự do, đọc thông tin trên mạng rồi “vô tư” gán ghép quan hệ hai người này do có cùng... họ và tên đệm giống nhau. Sau khi làm việc với cơ quan công an, Đinh Văn Huynh đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật, tự giác xóa bỏ các thông tin sai sự thật trên MXH. Điều đáng nói là không hiếm trường hợp cán bộ, công chức nhà nước “hồn nhiên” đưa tin tức từ các trang MXH, tin nghi là dựa vào nguồn tin báo chí. Chính chúng tôi đã không ít lần phải giải thích với những người quen rằng: Thông tin họ dẫn lại không phải từ ấn phẩm báo chí chính thống mà chỉ là trang thông tin tổng hợp bất cứ ai cũng có thể tạo ra. Ấn phẩm báo chí phải được Bộ TT&TT cấp giấy phép hoạt động và phải có cơ quan chủ quản. Đồng thời, cảnh báo họ sẽ bị xử phạt nếu thông tin chia sẻ là thông tin xấu độc, tin giả gây hoang mang trong xã hội. Ông Nguyễn Tiến Dũng, Thanh tra viên chính, Phòng Thanh tra Viễn thông và CNTT (Thanh tra Bộ TT&TT) cho biết: “Đa phần những người sử dụng MXH có hành vi vi phạm đều do thiếu hiểu biết. Thanh tra bộ, thanh tra các sở TT&TT sẽ xử lý những vi phạm ảnh hưởng tiêu cực với mức độ rộng lớn, đặc biệt liên quan đến đại dịch Covid-19. Lúc này, công tác tuyên truyền để người dân hiểu rõ Nghị định 15 sẽ được chú trọng hơn. Sau một thời gian nhất định, sẽ tiến hành xử lý nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng để Nghị định 15 phát huy tác dụng như mục tiêu đã đề ra”. Nhìn từ góc độ văn hóa, các nhà nghiên cứu từ lâu đã chỉ ra bản chất văn hóa Việt Nam là văn hóa làng xã, con người Việt Nam duy tình, tính cố kết cộng đồng cao. Yêu cầu khi sử dụng MXH lại đòi hỏi phải lý tính, biết suy xét nên đăng tải, bình luận, chia sẻ thông tin nào là thiết thực, bổ ích; đồng thời, không nên soi mói, quá tò mò chuyện cá nhân người khác để tỏ vẻ mình là người thạo tin, có sức ảnh hưởng. PGS, TS Bùi Hoài Sơn, Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cho rằng: “Để có văn hóa sử dụng MXH tích cực, đúng đắn, không thể hình thành trong ngày một ngày hai mà là cả một quá trình, đôi khi thời gian phải tính bằng một, hai thế hệ. Hiện nay, cần song hành hai biện pháp xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định pháp luật; đồng thời kiên trì tuyên truyền, giáo dục, định hướng cho người dân, nhất là giới trẻ về yêu cầu, chuẩn mực khi tham gia MXH là hết sức cần thiết”. Hy vọng rằng, với việc thực hiện quyết liệt hai biện pháp nêu trên, văn hóa sử dụng MXH sẽ sớm hình thành, qua đó góp phần ngăn chặn “đại dịch” tin giả, xấu độc trên MXH.

Chủ nghĩa yêu nước Việt nam đã được phát huy trong chống dịch COVID 19 vừa qua



Yêu nước là cơ sở, động lực để dân tộc Việt Nam tồn tại, phát triển trường tồn. Lòng yêu nước của Việt Nam là ”đặc sản”, ”thương hiệu” của dân tộc Việt Nam. Nói đến Việt Nam là nói đến lòng yêu nước của con người Việt Nam. Lòng yêu nước của con người Việt Nam được xuất phát từ nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quan trọng,  hàng đầu đó là tính tự tôn dân tộc; lòng tự trọng cao cả, nhân nghĩa, bao dung, đoàn kết, mong uớc hoà bình...Với đặc điểm của lòng yêu nước đó, cho nên, khi có khó khăn hoặc đứng trước nguy cơ diệt vong, tinh thần yêu nước ấy lại dâng trào, tạo nên sức mạnh vô song, để vượt qua mọi sóng gió. Dịch COVID 19 vừa qua cũng như vậy, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lại có dịp toả sáng, để rồi chúng ta, đến nay gần như đã khống chế được đại dịch. Khi dịch COVID 19 xuất hiện, bên cạnh hệ thống chính trị nhanh chóng vào cuộc với những nội dung biện pháp kịp thời, thì một vấn đề rất quan trọng, mang tính quyết định để chống dịch hiệu quả đó là ý thức trách nhiệm của người dân đã được phát huy cao độ. thức trách nhiệm được phát huy cao độ đó là mọi người dân đều chấp hành những quy định chống dịch của chính phủ gần như tuyệt đối). Vấn đề đặt ra là ý thức trách nhiệm ấy ở đâu mà có, rất đơn giản đó là từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mà có, nó được đúc kết từ đời này đến đời khác, cứ khi gặp khó khăn, hoạn nạn thì tinh thần ấy lại dâng trào, đơm hoa, kết trái.