Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2022

"Nỗi niềm"... trí tuệ!

  Không ngẫu nhiên mà trong thành phần “tứ dân” cơ bản (sĩ, nông, công, thương) ở xã hội phong kiến thời xưa, sĩ luôn được xếp ở vị trí hàng đầu. “Sĩ” là từ để chỉ tầng lớp trí thức, những người có học, có hiểu biết về chữ nghĩa nên luôn được xã hội trọng vọng. Qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta dẫu có lúc thăng trầm, thịnh suy, nhưng hầu hết các vương triều, các bậc minh quân đều xem trọng tri thức, đề cao sĩ phu, ngưỡng mộ những người văn võ song toàn, kinh bang tế thế.

“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn”. Câu nói bất tử của danh sĩ Thân Nhân Trung (1419 - 1499) được khắc ghi trang trọng trên bia đá ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội), không chỉ hàm ý tôn vinh, khẳng định sức mạnh to lớn của tri thức, trí tuệ, mà còn thể hiện một khát vọng về cách ứng xử, đối đãi đúng mực của thể chế chính trị đối với những nhân tài của đất nước.

Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 - 1784) đã tổng kết và đề ra bốn nguyên lý trị nước: “Phi nông bất ổn/ Phi công bất phú /Phi thương bất hoạt/ Phi trí bất hưng”. Nhấn mạnh hơn tầm quan trọng đặc biệt của nguyên lý thứ tư, vị danh nho kiệt xuất này còn khẳng định thêm: “Phi trí tắc vong”. Điều đó có nghĩa là, quốc gia mà không có trí thức, không trọng kẻ sĩ hay không biết sử dụng trí thức, hiền tài, thì đất nước chẳng những không hưng thịnh (bất hưng), mà còn có thể bị diệt vong.

Vậy mà, ngày nay cứ tưởng câu “Nhất hậu duệ, nhì tiền tệ, ba quan hệ, bốn trí tuệ” chỉ là sự râm ran trong dư luận hay xì xào to nhỏ khi “trà dư tửu hậu”, nhưng đó lại là nỗi trăn trở, đau lòng của người đứng đầu Đảng ta khi chỉ ra “Một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay”. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt câu hỏi: “Trong công tác cán bộ thì: “Thứ nhất là quan hệ, thứ nhì là tiền tệ, thứ ba là hậu duệ, thứ tư mới đến trí tuệ”. Nó là cái gì?”(1) khiến bất cứ ai nặng lòng với dân, với nước cũng không khỏi một nỗi niềm trăn trở, đau lòng.

Không trăn trở, đau lòng sao được khi một tiêu chí đáng lẽ phải được đặt lên vị trí hàng đầu trong công tác cán bộ, nhưng ở không ít nơi, nó lại bị đẩy xuống sau cùng? Vẫn biết “hậu duệ” cũng có dăm bảy hạng người, có bậc tài ba xuất chúng xứng đáng nối tiếp dòng dõi “thế phiệt trâm anh”, nhưng lại có những kẻ “tài hèn đức mọn” mà vẫn được xếp vào hàng “ăn trên ngồi trốc” thiên hạ, thì làm sao dư luận nguôi ngoai nỗi lòng? “Tiền tệ” cũng đáng quý, đáng trọng, nhưng chỉ là phương tiện thanh toán, trao đổi, mua bán các loại hàng hóa, sản phẩm thông thường, lẽ nào lại để nó len lỏi, “tranh giành” lên vị trí thứ hai và biến thành “vật đấu giá” trong công tác cán bộ? “Quan hệ” cũng rất cần thiết, nhưng liệu nó có thể thay thế được “chất xám” của con người chăng?

Cổ kim đông tây từng đúc kết: Một dân tộc giàu trí tuệ là một dân tộc có phúc. Một quốc gia giàu tri thức là một quốc gia may mắn. Một thể chế chính trị biết chiêu hiền đãi sĩ, xem trọng những người giàu kiến thức và năng lực là một thể chế chính trị tiến bộ, văn minh. Từ đó có thể nói rằng, một tổ chức đề cao tiêu chuẩn “trí tuệ” trong việc đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ là một tổ chức lành mạnh, minh bạch, nhân văn. Ngược lại, tổ chức, cơ quan, đơn vị nào đó vẫn còn để cho “tiền tệ” lên ngôi, “quan hệ” lộng hành, “hậu duệ” chi phối trong công tác cán bộ sẽ làm nảy sinh tình trạng nội bộ lục đục, trên dưới bất hòa, lòng người bất an. Nếu không kiên tâm, kiên quyết ngăn ngừa, hạn chế, đẩy lùi được vấn nạn này, thì mục tiêu xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức đủ cả đức - tài, trung thành, mẫn cán, vì dân, vì nước... xem chừng còn nhiều gian nan lắm!./.

Mong sao cuộc họp thứ... 2001

 Họp là việc bình thường và cần thiết của bất cứ tổ chức, cơ quan hay quốc gia dân tộc nào.

Nhưng, sẽ là bất bất bình thường và thậm chí vô lối, về sự họp ở không ít cơ quan, ngay tại xứ ta.

Lật thử xem trang báo, trong 11 tin đưa, có 7 tin về họp hành, hội thảo. Ấy là ở tỉnh! Ngó thử coi lịch làm việc treo trên bảng, trong 5 ngày làm việc, tổng cộng có tới 30 cuộc họp cho Bí thư. Đó là ở xã!

Thì ra, từ tỉnh tới xã, đâu cũng họp... rất nhiều! Cái gì cũng... họp lu bu. Đoàn thể nào cũng... họp triền miên. Cấp nào cũng họp... vô tiền khoáng hậu.

Hay chăng, đất nước ta bình quân mỗi ngày có 22 lễ hội, và hằng năm có tới 8000 lễ hội, nên nhiễm cả vào các cơ quan công quyền và nhiễm tận trong... máu mỗi người cái “đức... tụ vạ”, “thói... bàn suông”?

Hay chăng, vì để chữa bệnh sợ trách nhiệm cá nhân kinh niên xưa nay... nên cần họp để trốn vào cái lồng “lãnh đạo tập thể”, khi mắc lỗi thì “cả làng cùng chịu” theo kiểu: “Toét mắt bởi tại hướng đình. Cả làng cùng toét chứ mình gì ta”, nên xểnh ra... là họp?

Hay chăng, họp là có tiền, có đánh chén, nên... “đâu có họp là ta cứ đi”, “khua mõ ắt có gõ thớt” (!)? Hay chăng, họp là để... thay làm, kiểu như “mồm miệng đỡ chân tay”, “ngồi trong màn trướng định việc ngàn dặm”?

Hay chăng để “đánh bóng” tên tuổi mình, để truyền hình, báo chí đưa tin, trương ảnh cho... oách, cốt: “Vua biết mặt, chúa rõ tên” rồi sau đó “Đi nhẹ, nói khẽ hay cười. Việc đâu bỏ đấy là người phiếu cao”?

Vô vàn kiểu họp. Chả thế có người bảo: “Bé thì đi học, nhớn thì đi họp, già thì đi hội” (!), chả thế có người nói (đùa mà là thật, đầy “kiêu hãnh”): “Nghề nghiệp: Họp hành; thành phần: Theo vợ”, nên hở ra là...họp! V.v...

Có nhẽ vì thế, nên cứ thế, ai ai, đâu đâu... cũng đua nhau bày ra các cuộc họp! Tất nhiên, ấy chỉ là chuyện họp ở công sở, họp về việc công!

Nhân gian nom thấy, bèn gọi toẹt ra là... loạn họp, cuồng họp!

Gọi thế có oan?!

Chả nói ra, thì ai cũng thấy, họp hành kiểu ấy thì xiết bao tốn kém: thì giờ, tiền bạc, phiền phức, mà tất cả đều là thuế của nhân dân. Nhưng, điều đáng sợ hơn cả là, táng thất niềm tin: Họp lắm nát chuyện, đâm ra: “Nói dài nói dai hóa nói dại”, “Đâm bị thóc, chọc bị gạo”, thế là mất đoàn kết nảy nòi; thậm chí cả “họp vụng” kiểu bè nhóm, thế là nát bét mọi sự; nghiện họp rồi hóa “Lưỡi dài hơn tay”, đẻ ra thói “Nói nhiều làm ít”, “Nói đâu việc bỏ đó”, nói nhưng không làm, tệ lười biếng hoành hành; họp vô tích sự thành ra họp suông... thậm chí vừa nhàm vừa nhảm, làm công việc thì bê trễ, cơ quan thì lộn xộn, tổ chức thì rối beng! Họp thế đâu còn thì giờ để làm, để nghe dân, để đi cơ sở!?

Tôi chưa có thì giờ và kiên nhẫn để thống kê toàn quốc mỗi năm có bao nhiêu cuộc họp và bao nhiêu thì giờ dành cho họp, từ thôn làng cho đến Trung ương!? Có nhẽ, nếu giao việc này cho những người nghiện họp, phải cần ít nhất tới... mươi cuộc họp để luận cứ, luận chứng cuộc thống kê cỏn con về sự họp này! Mà có khi lại thành một đề án khoa học hẳn hoi, tiêu tốn vài ba trăm triệu đồng thuế của nhân dân!

Đang lay hoay nghĩ về sự họp, thì hôm 20-8-2017 mới đây, trên VTV đưa tin: Ở Thành phố H, bình quân mỗi năm trưởng ngành phải họp tới... 2000 cuộc!

Tôi buột thành tiếng cười: Sao không dẹp bớt? Cô cháu ngoại tôi mới học lớp mẫu giáo bé, thấy tôi cười, liền bập bẹ hỏi: Thế để làm gì hả... ông!?

Tôi im lặng... và quyết biên ra đây nhời khuyến nghị: Cần kíp thành phố ấy nên tổ chức cuộc họp thứ... 2001, để xóa hoặc làm bé đi nhiều lần con số 2000 cuộc họp, mà mỗi trưởng ngành của họ đang thực thi một năm!

Và, ước gì đâu đâu cũng thế!./

“Rác não”

 Lâu lắm mới có dịp ghé thăm ông Trường cùng cơ quan đã nghỉ hưu tại nhà riêng. Ngồi chưa ấm chỗ, ông Huy rỉ rả:

- Sang thăm, vợ chồng em biếu bác chút quà bồi dưỡng sức khỏe.

Nhìn túi quà, ông Trường không khách khí, “xả” thật lòng:

- Vẽ chuyện. Thời buổi này thời gian quý như vàng, đến thăm nhau đã là quý rồi lại còn quà với cáp. Tôi là tôi kịch liệt phê bình biểu hiện khách sáo của chú. Quý nhau “tam tứ núi cũng chèo, đò ngang cách trở thế nào cũng sang” mới là đúng chứ!

- Sang với bác trước là thăm sức khỏe, sau là để ôn lại thời “gạo châu, củi quế” cho đỡ nhớ, đỡ thèm. Quà mọn sao so được với tấm lòng? Mà cái anh “giấc mơ tầm vóc Việt” này tốt lắm nhé bác! Nó không chỉ tốt cho thiếu niên nhi đồng mà còn cho cả người già nữa. Sử dụng nó lợi cho đường ruột đã đành lại còn bổ sung thêm vi chất, ăn khỏe, ngủ tốt. Tuổi như bác, dùng hợp lý lắm.

- Rồi, chú để đó, tôi nhận. À, chú nói gì nhỉ, “giấc mơ tầm vóc Việt à”? Tôi thấy câu này quen quen. Mắt ông Trường sáng lên.

- Vâng, đó là slogan, dạng khẩu hiệu, phương châm kinh doanh của doanh nghiệp sữa Việt Nam. Có gì mà bác ngạc nhiên thế?

Tôi không ngạc nhiên về câu này. Nhờ chú nói mà tôi nghĩ ra biện pháp xử lý hiện tượng “rác não” đang rất phổ biến trong xã hội ta.

Lần này thì đến lượt ông Hùng ngạc nhiên, ông hỏi: “Rác não” ư, nó là cái gì vậy?

Ông Trường cười khà khà đắc trí, ông nheo mắt: Chú uống nước đi, lát tôi cho chú xem thế nào là “rác não”.

Theo ông Trường, “rác não” là những suy nghĩ bên trong của con người được thể hiện qua hành động bên ngoài, nhưng lại gây ảnh hưởng vô cùng nguy hại cho cộng đồng, xã hội, thậm chí có cả hiện tượng phản cảm, trái với luân thường đạo lý, thuần phong mỹ tục dân tộc. Ngoài hiện tượng “rác não” đã có trong lịch sử, bị xã hội lên án, người đời chê trách, phỉ báng thì ngày nay, “rác não” xuất hiện ở nhiều lứa tuổi, nhiều lĩnh vực, với tần xuất cao, đa dạng và tinh vi hơn, mức độ nguy hại cũng nhiều hơn.

Ông Trường phân tích, có loại “rác não” không “e ấp” ở chỗ tối như ngày xưa mà xuất hiện giữa thanh thiên bạch nhật, bất chấp dư luận. Nổi bật là các hiện tượng khoe giàu thái quá, vung tiền ra đếm, đốt xe; bạo lực học đường trong học sinh, quảng cáo phản cảm đã làm băng hoại đạo đức và văn hóa truyền thống... Ông ví dụ, kiểu kinh doanh mặc bikini bê hàng diễu phố; khuyến mại bằng cách kích thích khách hàng mặc bikini đến quán thì được hưởng tận... một cốc nước là cần phải loại bỏ tận gốc. Ông nóng mặt, kẻ đưa ra thông điệp đã thiếu văn hóa, kẻ nghe theo thực hiện còn ít văn hóa hơn.

Ông Trường cũng bức xúc khi nói về hiện tượng “rác não” rất tinh vi của các quan chức nhà nước. Người có quyền thì hoặc là không để ý tới hiện tượng móc ngoặc vì năng lực kém đã đáng chê; hoặc biết nhưng không đủ lực ngăn chặn nên làm ngơ và không loại trừ cả hiện tượng bị mua chuộc bằng lợi ích để “bật đèn xanh”, tiếp tay cho kẻ xấu, hại dân, hại nước, tham ô, tham nhũng nhiều tỷ đồng. Ông bức xúc hơn trước hiện tượng phương tiện làm việc cho công chức trong các cơ quan hành chính và bộ máy chính quyền nhà nước liên tục được đầu tư, cập nhật và nâng cấp hiện đại, ngang tầm các nước phát triển trên thế giới, nhưng biên chế thì không hề giảm, ngược lại thì tăng ở nhiều nơi, khiến Nhà nước phải “nuôi báo cô” những anh công chức “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về”.

Thế nên, theo ông Trường, do trước đây đói kém, thể trạng sức khỏe, tầm vóc của người Việt thấp hơn các nước trong khu vực và thế giới nên mới cần đến khẩu hiệu “giấc mơ tầm vóc Việt”. Ngày nay, khi tầm vóc đã tương đối ổn rồi thì cần phải tạo dựng phong trào dọn “rác não”. Có như vậy mới dẹp bỏ tận gốc những hành động, việc làm thiếu văn hóa, coi thường thuần phong mỹ tục, hại dân hại nước của những chú “hề đời” đang có nguy cơ ngày càng nhiều trong xã hội chúng ta.

Sau câu chuyện với ông Trường, về nhà, ông Hùng chia sẻ với vợ. Ông nêu chính kiến, nếu mở rộng vấn đề “rác não” thì có thể thấy, bất cứ chỗ nào trong xã hội chúng ta cũng có “rác não”. Tuy nhiên, đừng để cho “rác não” xâm nhập quá sâu vào con người, biến con người thành công cụ để đạt lợi ích cá nhân trước mắt bằng mọi giá. Thế nên, theo ông Hùng, cần một doanh nghiệp tiên phong, mạnh dạn đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, sản xuất ra được loại sản phẩm để khi sử dụng, “rác não” trong mỗi con người sẽ bị loại trừ, tiêu diệt, không có khả năng gây hậu quả xấu cho xã hội.

Bà vợ ông Hùng bảo, công nghệ ấy nằm mơ cũng không có, nhưng lại có ở mỗi người và phải trải qua quá trình giáo dục, rèn luyện đúng đắn, biến thành tự giáo dục thì mới có hiệu quả. Trong đó, Nhà nước không nên “giơ cao đánh khẽ”, không nên tin tưởng vào biện pháp “xử lý nội bộ” hoặc vận động, tuyên truyền kiểu kêu gọi “cáo già hãy tốt đi”. Nghe thế, ông Hùng ớ người, mừng rơn, vì ý tưởng về doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cao siêu kia của ông cũng chỉ là một biểu hiện của “rác não” tồn tại dưới dạng ý tưởng, chưa có khả năng gây hại cho xã hội vì nguy cơ dễ bị “tam sao thất bản”?./.

Lắm kiểu "cài số" "lùi"... "tiến" tuổi nghỉ hưu

“Nghỉ hưu”, thuật ngữ “xa xỉ” trong xã hội tiền công nghiệp, nếu có cũng chỉ dành cho tầng lớp quan lại. Trong xã hội công nghiệp và “hậu công nghiệp”, phạm vi đối tượng nghỉ hưu ngày càng được mở rộng sang nhiều lĩnh vực ngành, nghề khác nhau, từ công nghiệp đến dịch vụ, tại nhiều nước phát triển còn có cả “nông dân nghỉ hưu”. Cùng với thành quả đấu tranh của nhân loại cho tiến bộ xã hội, nghỉ hưu trở thành một quyền cơ bản của người lao động sau một quá trình cống hiến, được nghỉ ngơi khi tuổi cao, sức yếu, được hưởng bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc đóng - hưởng.

Nghỉ hưu, tưởng chừng như chuyện đương nhiên kiểu “ngày sáng, đêm tối”, nhưng nhìn ra xứ người, ngó lại xứ ta, kể ra cũng lắm chuyện oái ăm!

Ở xứ người, tôi đã từng chứng kiến nhiều cuộc biểu tình của người lao động phản đối chính sách kéo dài tuổi nghỉ hưu của người lao động. Truy ra ngọn nguồn mới vỡ nhẽ, do chất lượng sống con người ngày càng được cải thiện nên tuổi thọ người cao tuổi tăng lên, trong khi giới trẻ lại “lười” đẻ, nên dẫn đến tình trạng dân số già hóa, nhân lực lao động vì thế giảm dần, bởi vậy để giải quyết vấn đề này chính phủ nhiều nước tìm giải pháp bằng cách nâng tuổi nghỉ hưu. Chính sách này có tác dụng giảm áp lực suy giảm hoặc nguy cơ đổ bể quỹ lương hưu. Có nước ban đầu quy định tuổi nghỉ hưu là 60, nhưng rồi cứ nâng dần lên 62, rồi 65, thậm chí là 67... Thế là người lao động xuống đường phản ứng, biểu tình phản đối!

Ở xứ ta, luật pháp quy định tuổi nghỉ hưu đối với nam là 60, và nữ là 55, nhưng trong thực tế cũng thấy lắm chuyện “nực cười” xung quanh câu chuyện tuổi nghỉ hưu. Xin kể 3 câu chuyện có thật về từ xin “tiến”... đến xin “lùi” tuổi nghỉ hưu sau đây:

Chuyện xin “tiến” hay nói đơn giản là xin nghỉ hưu sớm... vì “công ty sân sau”: Không kể những người ốm đau, lại phải nghề lao động nặng nhọc, độc hại, xin nghỉ hưu sớm là chuyện thường tình. Đằng này, có “quan bác” ở gần nhà tôi sức khỏe còn tốt, thậm chí đám trung niên tuổi ba mươi, bốn mươi còn phải “vái cụ”. Nghề nghiệp trước đây của ông cũng không phải bốc vác nặng nhọc hay độc hại gì. Ông là phó giám đốc một doanh nghiệp nhà nước có hạng. Theo quy định phải 3 năm nữa ông mới đủ tuổi nghỉ hưu. Thế mà ông làm đơn nằng nặc xin nghỉ hưu trước tuổi. Đơn của ông rất hợp tình, hợp lý, nào là ông nghỉ sớm cốt để tạo điều kiện cho thế hệ trẻ phát triển, nào là do tuổi đã cao, sức đã yếu, nào là tư duy không còn nhanh nhạy như xưa... trong khi việc cơ cấu lại doanh nghiệp bây giờ cần những lãnh đạo trẻ có tư duy mới... Tổ chức thuận theo nguyện vọng rất “chính đáng” và “đầy trách nhiệm” của ông. Ông được nghỉ hưu thật, thậm chí tính ra mỗi năm công tác còn được hỗ trợ 1 tháng lương.

Là hàng xóm láng giềng, sáng nào tôi cùng ông cũng làm vài vòng cuốc bộ thể thao quanh phố. Thắc mắc về việc nghỉ hưu sớm của ông, có lần tôi tò mò hỏi vì sao còn sức khỏe, trí tuệ còn minh mẫn, cương vị khối người mơ,... thế mà ông lại xin nghỉ hưu trước tuổi. Ông cười: “Xin nghỉ hưu trước tuổi vì “công ty sân sau” ấy mà! Cách đây mấy năm mình đã lập một công ty “sân sau”, giờ “hưu” nhưng có được nghỉ đâu, vẫn đang trực tiếp điều hành quản lý cái công ty ấy đấy chứ, để khỏi uổng phí vốn nghề nghiệp tích lũy cả cuộc đời. Các quan hệ khách hàng, mối lái, thị trường, bí quyết công nghệ, những tay thợ lành nghề đáng máu mặt,... của công ty cũ đều theo mình chuyển cả sang công ty của mình rồi... bởi vậy, công ty do mình lập ra vẫn “sống khỏe”, “ăn nên làm ra”. Tôi vặn lại “Thế công ty cũ của bác bây giờ sao? Nghe đâu nó đang “vật vã” với “cơ cấu lại”, khó khăn đủ bề... đúng không?”. Ông lý sự tỉnh queo: “Ôi dào... “Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào”... lo gì bò trắng răng!”. Đến đây tôi vỡ lẽ lý do xin nghỉ hưu trước tuổi của ông.

Cũng chuyện xin nghỉ hưu sớm... vì giữ “ghế” cho “quý tử”: Đó là chuyện giám đốc sở của một tỉnh nọ thuộc địa bàn tôi hay đến làm việc. Phải còn cỡ hơn một năm nữa mới đến tuổi nghỉ hưu, nhưng giám đốc sở “kiên quyết” xin nghỉ hưu sớm. Lý do thật “cao thượng” và “đầy trách nhiệm”, rằng nếu ông nghỉ hưu đúng 60 tuổi thì cấp phó của ông hết cơ hội, rằng người đi trước phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho người đi sau phát triển. Nói là làm. Ông một mực xin nghỉ trước 1 năm. Cấp phó của ông nhờ thế mà được bổ nhiệm làm giám đốc sở và biết ơn ông lắm. Mọi người cũng nể phục đạo đức của ông!

Nhưng chẳng bao lâu sau khi mới lên chức thì vị tân giám đốc sở đã ký quyết định bổ nhiệm con trai người tiền nhiệm làm phó giám đốc sở. Khi ấy mọi người mới “ngộ” ra “hành vi ẩn dụ” đằng sau lý do xin nghỉ hưu sớm của nguyên giám đốc sở. Người trong sở nọ nhìn nhau chỉ biết gật gù thốt lên: Ông thật cao tay, lo cho “hậu duệ” tinh vi đáo để thật!

Chuyện xin “lùi” tuổi nghỉ hưu hay kéo dài thời gian công tác... để được “cống hiến”: Đây là trường hợp thủ trưởng cũ của tôi. Khi sắp đến tuổi nghỉ hưu, ông “thò” ra một tờ giấy chứng minh “tuổi thật” của mình không giống như tuổi khai trong lý lịch cơ quan đang quản lý. Rồi ông làm đơn xin kéo dài thời gian công tác. Vì chuyện đó mà tập thể lãnh đạo cũng phải họp bàn lên xuống, nhưng cuối cùng cũng “chiều” theo ông, nhận đơn và “đá quả bóng” lên cấp trên xem xét. Ngồi đâu ông cũng hay chuyện là đồng chí lãnh đạo “nọ”, đồng chí lãnh đạo “kia” yêu cầu ông phải kéo dài thời gian công tác, vì sức khỏe ông còn tốt, vì trí tuệ ông còn minh mẫn, vì ông giàu kinh nghiệm nghề nghiệp, vì còn nhiều năng lực cống hiến, vì ông phải có trách nhiệm để đào tạo thế hệ kế cận đang còn “non”, v.v.. và v.v.. Mọi người tưởng vậy. Nhưng đùng một cái, ông vẫn có quyết định nghỉ hưu theo đúng quy định. Ngày nghe tin có quyết định nghỉ hưu, ông buồn lắm. Tôi thấy ông như gầy rộc đi. Mọi người lại tưởng, nhận quyết định rồi thì ông sẽ nghỉ như bao người khác. Nhưng không, sau khi nhận quyết định nghỉ hưu, ông vẫn đề đạt “nguyện vọng” được giữ phòng làm việc, mấy tháng đầu vẫn đến cơ quan như thường lệ. Văn phòng thấy ông nhiệt tình đến cơ quan nên “ngại” cắt chế độ xe đưa đón ông hằng ngày, vẫn bố trí người chuẩn bị chè nước, mang báo chí đến phòng cho ông,... Ban lãnh đạo mới cũng khó xử, nhất là khi ông vẫn “nhiệt tình” góp ý “chỉ đạo” công việc hằng ngày của cơ quan, vẫn ra tuyên bố “hùng hồn” không khác hồi còn đương chức lãnh đạo. Phải một năm sau, chẳng biết do có người nhắc khéo hay do ông tự “ngộ” mà ông mới trả phòng làm việc và ít khi lui tới cơ quan...

Còn “nghìn lẻ một đêm” những kiểu xin “tiến”, “lùi” tuổi hưu, nhưng chỉ đơn cử mấy câu chuyện trên đã thấy “tiến”, “lùi” tuổi hưu xem ra đều gắn với “quyền” và “lợi” của con người. Chỉ khi nào cơ chế, chính sách “bịt” hết các lỗ hổng thì mới làm cho mọi chuyện trong xã hội lành mạnh, kể cả chuyện nghỉ hưu. Ở trường hợp thứ nhất, phải làm tốt quản lý cán bộ lãnh đạo khi đương chức, nhất là các hoạt động kinh tế phi chính thức do gia đình, vợ con, “chiến hữu” đứng tên chuẩn bị cho “hạ cánh an toàn”... Ở trường hợp thứ hai, phải tạo ra cơ chế thi tuyển nhân tài công bằng, công tâm để chấm dứt được tệ nạn lo “ghế” cho “hậu duệ” rất tinh vi. Ở trường hợp thứ ba, phải tiền lương hóa mọi khoản chi phí phục vụ cho lãnh đạo (xe cộ, thông tin, liên lạc, nhà cửa, báo chí...), cũng như các lợi ích phi chính thức có được khi “đương chức”, mà lúc nghỉ hưu không còn, nên thường cảm thấy hẫng hụt, tiếc nuối.

Tin rằng những cải cách thể chế mạnh mẽ hơn thời gian tới có thể giảm dần và chấm dứt những trường hợp “cài số” “tiến”... “lùi” tuổi nghỉ hưu “oái oăm” trên đây./.

Cái sự... chọn người

 Nhiều chục năm qua, nom những sự chọn người trong thiên hạ, mấy bận rắp toan biên lại và nhẩm bụng đem bố cáo. Nhưng, lòng còn e ngại, bởi chửa hợp thời. Vả nữa, còn càng ngại rằng, chả ai muốn nghe. Hay nghe rồi chẳng động lòng hoặc lại nghĩ “ý này ý khác”. Nên đem cất kỹ tận nơi đáy hòm. Lại ngặt đó toàn là những chuyện “trung ngôn nghịch nhĩ” cả. Đâm ra, lại... đợi!

Một ngày cả gió, giở giời, mang đống bản thảo cũ ra phơi. Câu chuyện bật ra dưới nắng:

Rằng, từ rất lâu rồi, có vị cán bộ làm ở cái nơi, mà ngày xưa gọi là Bộ Lại (chả rõ vì sao chui được vào nơi này) luôn ra vẻ ta đây bời bời học thức. Ông ta học đòi kiểu “nhung y xứng kỳ đức”, “thuyền đua thì lái cũng đua”, nên muốn đến cả những con chim, con thú mà ông ta chơi, cũng phải có học thức. Tối thiểu chúng phải biết nói tiếng người.

Sằn sục mãi, cho tới một bữa, ôm một bị tiền, ông ta ra chợ. Ngắm nghía đô hồi, ông ta hất hàm hỏi ông già bán chim cảnh: - Con này nói được tiếng gì, bao nhiêu tiền? Ông già thưa: - Dạ, nó nói được tiếng Hoa, giá 2 đồng. Ông ta mua; và, chỉ sang con chim bên cạnh: - Con này sao, giá bao nhiêu? Ông già bán chim điềm đạm: - Dạ, nó nói được tiếng Nga và Pháp, ngài cho tám đồng.

Cứ thế, cứ thế, viên cán bộ nọ mua hết con này tới con kia, và lũ chim có thể nói được tới cả vài ba chục thứ tiếng ngoại quốc từ Á sang Âu tới Mỹ La-tinh, có giá dễ cả mấy chục ngàn đồng. Viên cán bộ vô cùng hỉ hả.

Đến con chim cuối cùng: - Con này nói được những thứ tiếng gì, bao nhiêu tiền? Ông lão bán chim tỉnh bơ: - Số tiền mua nó bằng tất cả số tiền lũ chim kia cộng lại và nhân với mười lần. Lão già có điên không đấy, nó có nói được tới trăm thứ tiếng không, mà đòi lắm tiền vậy? - viên cán bộ nọ nổi cáu. Ông già thờ ơ: - Dạ, chính vì thế, nó mới có giá nghìn đồng, lại bởi nó không hề biết nói một thứ tiếng nước nào. - Lão có điên thật không đấy? - Thì ngài xem, một con chim “hậu duệ”, vừa ra ràng, dù nó không biết nói tiếng nước nào, dưng được phong “tước”, lại bằng cấp treo khắp đầy mình. Và, quan trọng nhất, nó mù ngoại ngữ nhưng lại “có quyền chỉ huy” tất cả những con chim rất giỏi ngoại ngữ kia. Chả nhẽ nó không đáng được giá ấy ư, thưa quý bác? Lão còn một mớ mấy con “mua” được cả quyền chỉ huy, đại loại như kiểu ấy nữa.

Nói đoạn, ông già bán chim hững hờ thả ánh mắt đến quá... chân mây. Và, viên cán bộ nọ cả vui và đếm tiền...

Nghe đâu, ít lâu sau, những con chim ấy do viên cán bộ nọ mua tặng, vỡ tung đàn. Vì con chim “hậu duệ” có giá cả mấy ngàn đồng ấy làm đầu đàn. Tự dưng chả con chim nào trong đàn thèm tiếng ngoại quốc nữa, rồi bỏ đàn bay đi hoặc cứ chết dần chết mòn... mà tự tan.

Nay, thấy tại rất nhiều chốn: Đây thì “con ông cháu cha”, “cả họ làm quan”, “nhất hậu duệ, nhì tiền tệ...”, kia thì “làm quan thần tốc”, “mua danh ba vạn”, “dấm dúi lên... quan”... làm cho xôn xao trong dư luận lẫn chung chiêng cả chốn công đường. Nay, lại trông ở không ít cấp: Đó thì “hoạch phát hoạch tàn”, “tốc hỉ tốc... bại”, nọ thì “dục tốc bất đạt”, “nửa bước đi tắt thành... quan”, “nửa đời phấn đấu không bằng cơ cấu một giây”... khiến cho chuẩn mực ngả nghiêng, thật giả lẫn lộn, người tài người tốt ngoảnh... đi!. Những sự ấy nguy cơ làm cho nhân tâm ly tán, việc lớn nát bét, đội ngũ xộc xệch, cơ đồ xiêu nghiêng, bởi cái họa “cha truyền con nối” biến “việc của Đảng chứ đâu phải việc của họ nhà nào” thành sự nhãn tiền, như Bác Hồ nói, rồi “đầu tư quan hệ”, “buôn quan bán tước”...

Tất cả vô hình, nhiều cơ quan thì chuốc lấy “vạ trong tường vách”, mấy người “đạo vị” (ăn trộm chức vụ), lại như Bác Hồ bảo, số phận thì cũng “gươm treo chỉ mành”, lắm tổ chức thì chênh vênh hơn “trứng để đầu đẳng”... Cơ hồ tai họa ập đến, tính chỉ độ bằng ngày, giờ!

Nhưng, ai người có tội?

Nên thiển nghĩ, cả quyết không thể không biên ra ở đây, dẫu biết rằng, có thể là tốn... giấy mực!./.

Tổng thống Ukraine sa thải 2 quan chức hàng đầu

 

 

  Tổng thống Ukraine sa thải 2 quan chức hàng đầu

(VTC News) - Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky hôm 31/3 cho biết ông đã sa thải 2 thành viên cấp cao của cơ quan an ninh quốc gia.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky hôm 31/3 cho biết trong một bài phát biểu video rằng ông đã sa thải 2 thành viên cấp cao của cơ quan an ninh quốc gia - người đứng đầu về an ninh nội bộ cũng như người đứng đầu chi nhánh của cơ quan này ở vùng Kherson. Ông nói những người này "phản bội" và "sẽ bị trừng phạt" nhưng không tiết lộ chi tiết.


Theo Reuters, đây là lần đầu tiên ông Zelenskiy tuyên bố sa thải những quan chức liên quan đến quốc phòng.

Ngoài ra, ông khẳng định tình hình ở miền Nam và khu vực Donbass vẫn vô cùng khó khăn và cho rằng Nga đang xây dựng lực lượng gần thành phố Mariupol.

Trong khi đó, theo Tass, Nga sẽ mở một hành lang nhân đạo từ Mariupol đến Zaporozhye vào ngày 1/4 dựa trên yêu cầu của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và Thủ tướng Đức Olaf Scholz.

"Dựa trên yêu cầu cá nhân từ Tổng thống Pháp và Thủ tướng Đức gửi tới Tổng thống Nga Vladimir Putin, Lực lượng vũ trang Nga sẽ một lần nữa mở hành lang nhân đạo từ Mariupol đến Zaporozhye (với điểm dừng ở Berdyansk) vào lúc 10 giờ sáng ngày 1/4. Nhăm Để đảm bảo thành công của hoạt động nhân đạo này, kế hoạch là sẽ có sự tham gia trực tiếp của đại diện Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn và Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế", đại diện Trung tâm Kiểm soát Quốc phòng Nga, Đại tá Mikhail Mizintsev cho biết.

Nga cho biết họ thực hiện "chiến dịch quân sự đặc biệt" ở Ukraine để giải giáp và "phi hạt nhân hóa" nước láng giềng, bác bỏ cáo buộc của Kiev về việc các lực lượng Nga đang nhắm vào dân thường.

Trên bàn đàm phán, theo Sputnik, hiện Kiev đã đề xuất một hệ thống đảm bảo an ninh mới cho Ukraine mà một số quốc gia bao gồm các nước trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, cũng như Thổ Nhĩ Kỳ, Đức, Canada, Italia, Ba Lan và Israel sẽ đóng vai trò bảo lãnh.

Ngoại trưởng Pháp Jean-Yves Le Drian cho biết nước này sẽ tích cực nghiên cứu các đề xuất nếu được Ukraine đưa ra. Ông đồng thời nhấn mạnh rằng cơ chế an ninh phải được thảo luận chủ yếu bởi Nga và Ukraine.

Các cuộc đàm phán giữa Nga và Ukraine đến nay chưa có nhiều bước đột phá có thể dẫn tới thỏa thuận ngừng bắn. Đầu tuần này, Istanbul đã tổ chức một vòng đàm phán mới giữa Moskva và Kiev. Cuộc hội đàm được tổ chức tại cung điện Dolmabahce và kéo dài khoảng 3 giờ.


(VTC News) - Nga sẽ xem việc từ chối trả tiền mua khí đốt bằng đồng rúp của các quốc gia là vi phạm hợp đồng, theo Tổng thống Vladimir Putin.

 

(VTC News) - Nga sẽ xem việc từ chối trả tiền mua khí đốt bằng đồng rúp của các quốc gia là vi phạm hợp đồng, theo Tổng thống Vladimir Putin.

Phát biểu tại cuộc họp về lĩnh vực hàng không, Tổng thống Nga Vladimir Putin cho biết nếu khách hàng mua khí đốt từ "các quốc gia không thân thiện" từ chối thanh toán bằng đồng rúp, Nga sẽ coi đó là hành vi vi phạm hợp đồng.



"Nếu các khoản thanh toán như vậy không được thực hiện, chúng tôi sẽ xem điều đó nghĩa là người mua không thực hiện các cam kết và áp dụng tất cả các điều khoản sau đó", ông Putin nói.

Tổng thống Nga Putin ký sắc lệnh quy định về việc thanh toán khí đốt bằng đồng rúp vào hôm 31/3. Theo Bloomberg, Nga sẽ ngừng cung cấp khí đốt cho người mua từ các quốc gia không thân thiện trừ khi họ chuyển sang thanh toán bằng đồng rúp từ ngày 1/4.

Nếu người mua không chấp nhận các điều khoản mới, Nga sẽ cắt nguồn cung.

Để mua khí đốt của Nga, "họ cần mở tài khoản bằng đồng rúp trong các ngân hàng Nga", theo ông Putin.

 

Hãng thông tấn nhà nước Nga RIA Novosti cho biết, ngân hàng được chỉ định sẽ mở hai tài khoản cho mỗi người mua, một bằng ngoại tệ và một bằng đồng rúp. Người mua sẽ thanh toán bằng ngoại tệ và ủy quyền cho ngân hàng chuyển số tiền đó lấy rúp trên sàn giao dịch tiền tệ của Moskva. Sau đó, đồng rúp sẽ được đưa vào tài khoản thứ hai, nơi chính thức thực hiện việc mua khí đốt.

Các nhà lãnh đạo châu Âu dù vậy vẫn thận trọng khẳng định họ sẽ tiếp tục trả tiền mua khí đốt tự nhiên bằng đồng euro và USD và muốn xem điều khoản rõ ràng về việc Điện Kremlin sẽ thực hiện sắc lệnh như thế nào.

Một số nhà kinh tế cho rằng việc chuyển các khoản thanh toán khí đốt sang đồng rúp sẽ không hỗ trợ nhiều cho đồng tiền của Nga, vì nhà xuất khẩu khí đốt Nga Gazprom dù sao cũng phải đổi 80% thu nhập ngoại tệ của mình sang đồng rúp.

Các nhà phân tích tại Evercore ISI nói rằng ngay cả khi Nga có thể buộc EU phải trả tiền khí đốt bằng đồng rúp, các nước châu Âu có thể trả đũa bằng cách áp đặt thêm thuế hoặc cấm hoàn toàn đối với dầu nhập khẩu của Nga. Như vậy, mặc dù Nga có thể bán dầu nhưng giá có thể sẽ giảm mạnh.

Trong làn sóng các lệnh trừng phạt nhắm đến Nga sau xung đột tại Ukraine, nhiều lo ngại đặt ra về nguồn cung năng lượng khi Nga là nhà cung cấp lớn của châu Âu. Nền kinh tế châu Âu vẫn phụ thuộc nhiều vào Nga về năng lượng với 40% lượng khí đốt và 25% lượng dầu nhập khẩu từ nước này.

Trong khi Mỹ và Anh cho biết họ sẽ ngừng mua dầu của Nga, các nhà lãnh đạo châu Âu né tránh việc thực hiện động thái tương tự. Thay vào đó, họ tập trung vào việc giảm nhập khẩu từ Nga trong vài năm tới.


Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.

               Đảng phải kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá  nhân loại. Để giữ gìn bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, hiện nay, vấn đề vô cùng quan trọng là phải trung thành với mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân, không mơ hồ, dao động về bản chất giai cấp công nhân của Đảng, xây dựng một đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt các cấp thực sự kiên định, vững vàng, tiêu biểu cho đường lối chính trị, phẩm chất trí tuệ và bản lĩnh giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Như vậy, bản chất giai cấp công nhân thể hiện không chỉ ở đảng viên xuất thân từ thành phần giai cấp công nhân nhiều hay ít (mặc dù vấn đề tăng số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân là rất quan trọng) mà chủ yếu và quyết định hơn cả là ở lập trường quan điểm, thế giới quan, đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức của Đảng có thực sự là của giai cấp công nhân hay không.

Đảng Cộng sản Việt Nam không những là dại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Vì vậy, mà Đảng đã phấn đấu hy sinh cho lợi ích của giai cấp, của nhân dân và của dân tộc. Đảng không những thường xuyên giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân mà còn, phát triển tinh hoa và truyền thống dân tộc lên một tầm cao mới, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá Việt Nam. Cho nên, sức mạnh của Đảng không ngừng được giữ vững và phát huy. Có thể nói rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng những là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, mang bản chất cách mạng và khoa học mà Đảng còn là đội tiên phong của cả dân tộc.Đảng mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Như vậy, trên cơ sở nắm vững những quan điểm chung về bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, từng tổ chức đảng nói chung mỗi cán, đảng viên nói riêng phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn ý nghĩa, nội dung biện pháp giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, để vận dụng quán triệt ở tổ chức cơ sở đảng vào các công việc hàng ngày trong công tác xây dựng Đảng. Hiện nay, toàn Đảng và từng tổ chức cơ sở đảng phải trú trọng giáo dục, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và phẩm chất cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, căn cứ vào cương lĩnh, đường lối của Đảng thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên đường lối, chủ trương của Đảng, các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Kiên quyết đẩy lùi tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên sa sút phẩm chất đạo đức, chạy theo lối sống cơ hội, thực dụng, làm giàu bất chính, tham nhũng, buôn lậu, kèn cựa địa vị, cục bộ địa phương, gia trưởng, độc đoán …Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu tự rèn luyện, tự phấn đấu nâng cao đạo đức cách mạng khắc phục chủ nghĩa cá nhân.

Trong công tác phát triển đảng phải trú trọng phát triển đảng viên và đào tạo cán bộ xuất thân từ giai cấp công nhân, đi đôi với việc không ngừng xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả số lượng và chất lượng.Đồng thời, phát triển đảng viên trong giai cấp nông dân, trí thức và các thành phần khác. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: trong những năm tới, toàn Đảng tiếp tục thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là nghị quyết Trung ương 6(lần 2) khoá VIII nhằm không ngừng nâng cao và phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta, đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác xây dựng đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X có nêu là: “Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.

 Nếu mọi tổ chức đảng đều làm tốt những vấn đề trên thì chắc chắn chúng ta sẽ giữ vững và tăng cường được bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, góp phần làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch và vững mạnh xứng đáng với niềm tin yêu của toàn dân. Bên cạnh việc làm tốt những vấn đề trên, chúng ta phải kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng thù địch, phản động muốn phủ nhận bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam. Một lần nữa chúng ta tiếp tục khẳng định rằng: bản chất giai cấp công nhân là cách mạng và khoa học, tính tiên phong của Đảng là đặc trưng cơ bản của Đảng, là tiêu chuẩn để phân biệt Đảng với giai cấp, là cơ sở để xác định những phương hướng, mục tiêu, nội dung trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay.

       Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam sáng lập, giáo dục và rèn luyện. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn trung thành tuyệt đối với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho Đảng có đủ sức lãnh đạo cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, vấn đề then chốt quyết định sự thắng lợi đó là Đảng phải thường xuyên giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng. Kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm cho Đảng ngày càng vững mạnh và trong sạch đủ sức lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi thử thách, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra đưa nước ta vững bước tiến lên.


Đảng phải thường xuyên củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân,

           Đảng phải thường xuyên củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân, lãnh đạo, xây dựng và làm nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, phát huy đầy đủ quyền làm chủ tập thể của nhân dân.Bởi vì, bản chất giai cấp công nhân không chứa đựng chủ nghĩa phường hội, cục bộ, bản vị, phân tán. Trái lại, nó đòi hỏi phải có tư tưởng thống nhất, hành động thống nhất, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và tập thể, bộ phận và toàn cục. Lịch sử quá trình lãnh đạo của Đảng đã chứng minh rằng, ở đâu và lúc nào tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên thường xuyên chăm lo lợi ích cho nhân dân, thì ở đó Đảng và dân có mối liên hệ tốt đẹp. Cán bộ, đảng viên được dân tin, dân phục, dân yêu. Trái lại, ở đâu và lúc nào tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên xa dân, quay lưng lại với nhân dân, quan liêu, trù dập, ức hiếp nhân dân thì ở đó sẽ bị dân oán ghét, xa lánh…

Hiện nay, do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, trước những âm mưu của các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để lôi kéo, kích động, chia rẽ Đảng với dân, tách dân ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, thì yêu cầu củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với dân càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Vì vậy, mỗi tổ chức Đảng và đảng viên phải nhận thức sâu sắc vấn đề này thì mới tăng cường được mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, mới xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân. Trong đó, nòng cốt là khối liên minh công- nông và trí thức. Đặc biệt, chú ý việc định ra chủ trương, chính sách hợp lòng dân, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, đồng thời phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, tạo động lực phát triển xã hội. Đấu tranh có hiệu quả với tình trạng quan liêu, tham nhũng, xây dựng bộ máy Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh. Tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thường xuyên góp ý kiến xây dựng Đảng. Thực hiện tốt phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Phải có kế hoạch để nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng nghị quyết và các chủ trương công tác của Đảng, giám sát phê bình cán bộ, đảng viên, giới thiệu những người đủ tiêu chuẩn để kết nạp vào đội ngũ của Đảng, giúp Đảng làm tốt công tác kiểm tra, phát hiện đấu tranh với những hành vi tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn tiêu cực khác.


Đảng phải được tổ chức chặt chẽ và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,

          Đảng phải được tổ chức chặt chẽ và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mọi hành động chia rẽ, bè phái, buông lỏng kỷ luật đều trái với nguyên tắc tập trung dân chủ.

Để Đảng hoạt động có hiệu quả theo nguyên tắc này, phải thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường quan điểm, ý thức tổ chức kỷ luật của giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành, tận tuỵ, có kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật, có năng lực tổ chức, năng lực quản lý ngang tầm với đòi hỏi của một đảng cầm quyền. Vì vậy, Đảng phải có quy định cụ thể để mọi đảng viên, cán bộ được thảo luận và tham gia quyết định các chủ trương, trương trình công tác của tổ chức Đảng, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Ban Chấp hành Trung ương và Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Những quyết định thuộc về quyền của tập thể phải biểu quyết theo đa số, mọi thành viên phải chấp hành quyết định của tập thể.

Đối với cán bộ, đảng viên: phải rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật, tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ, tham gia sinh hoạt Đảng đầy đủ, tuân thủ nghiêm kỷ luật của Đảng, không để đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức. Thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình, chống cách làm hình thức, chiếu lệ, không chịu sửa chữa khuyết điểm. Nghiêm cấm mọi biểu hiện trấn áp, trù dập người phê bình cũng như lợi dụng phê bình để vu cáo, đả kính cá nhân gây rối nội bộ… Tất cả những tổ chức đảng, cá nhân đảng viên vi phạm nguyên tắc trên đều phải được sử lý nghiêm túc và kịp thời.


Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động

           Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động.Trong tình hình hiện nay, phải kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể nước ta để hoàn chỉnh cương lĩnh, đường lối. Từ thực tiễn mà tổng kết, khái quát, bổ sung, phát triển lý luận, làm phong phú thêm học thuyết cách mạng và khoa học,  vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân . Thực tiễn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng: khi nào Đảng ta nắm vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam thì chúng ta có đường lối, phương pháp cách mạng đúng, cách mạng thắng lợi. Ngược lại, nếu không nắm vững, vận dụng không sáng tạo, cách mạng sẽ gặp khó khăn. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, Đảng ta luôn kiên trì với chủ nghĩa Mác - Lênin và tưởng Hồ Chí Minh đồng thời phát huy tư duy độc lập sáng tạo, để đề ra đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn đất nước. Đảng ta đã cụ thể hoá đường lối thành các chủ trương, chính sách trên tất cả các lĩnh vực để Nhà nước tổ chức thực hiện. Báo cáo Chính trị Đại hội IX khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời, chỉ rõ: “Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động là lập trường quan điểm nhất quán của Đảng ta, là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta”[16]. Do đó, để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nước ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nhất thiết phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động.


Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân trước hết Đảng phải kiên định với lập trường quan điểm của giai cấp công nhân, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,

 2. Một số giải pháp cơ bản để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng trong tình hình hiện nay


Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân trước hết Đảng phải kiên định với lập trường quan điểm của giai cấp công nhân, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, phấn đấu cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bất kỳ trong tình huống nào, dù tình hình thế giới và trong nước có khó khăn và phức tạp đến đâu, Đảng không chao đảo dao động xa rời mục tiêu lý tưởng đó. Bởi vì, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là  phản ánh khách quan sự phát triển của xã hội nó là kết quả của sản xuất vật chất. Mà trước hết, là sự phát triển của lực lượng sản xuất  đồng thời nó cũng đánh giá sự phát triển trình độ chính trị của dân tộc, giai cấp và của cả cộng đồng. Nó cũng là thành tựu văn hoá đã đạt được ở một trình độ nhất định để hướng con người tới độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là nguyện vọng của nhân dân  ta, là vấn đề có tính quy luật của cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định như một chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Trong tình hình hiện nay và mãi mãi về sau chỉ có độc lập dân tộc thực sự và chủ nghĩa xã hội chân chính sẽ khắc phục được sự bất bình đẳng, bảo đảm được quyền con người, bình đẳng về chủ quyền,  quyền tự quyết về vận mệnh của mình và thủ tiêu được mọi đặc quyền, đặc lợi. Điều này, khác hoàn toàn với bản chất của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản không có khả năng giải quyết vấn đề độc lập dân tộc một cách thực sự vì các tập đoàn tư bản không thể đại diện quyền lợi cho dân tộc mình một cách chân chính. Bởi vì, lợi ích của họ là độc lập của các nhà tư bản kếch sù. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại độc lập dân tộc thực sự và bền vững, mới có đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Từ khi nước ta được độc lập thống nhất, thì giải phóng dân tộc là tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng xác định độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, là cơ sở bảo đảm chắc chắn nhất của nền độc lập dân tộc. Nghị quyết Trung ương 6 (3/1989) chỉ ra: đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ và của Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu lý tưởng của Đảng ta và  nhân dân ta. Đến Đại hội Đảng IX, một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Chính vì vậy mà kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu bất di, bất dịch, đó là sự lựa chọn đúng đắn nhất của Đảng và nhân dân ta. Do đó, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng là phải kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.


Có phải chăng “Một người làm quan, cả họ được nhờ”

Trong dân gian đang “đàm tiếu” câu chuyện: một người dân đến Ủy ban nhân dân huyện xin gặp Chủ tịch. Bảo vệ cơ quan nói: bố của Chủ tịch huyện mất nên ông ấy nghỉ. Người dân nói: thế thì tôi gặp Trưởng phòng Nội vụ. Người bảo vệ nói: bố vợ Trưởng phòng Nội vụ mất. Người dân xin gặp Chánh Thanh tra huyện. Người bảo vệ nói: bác họ của Chánh Thanh tra mất. Người dân bực mình: sao lắm người mất thế. Anh bảo vệ sẵng giọng: có một người mất chứ đâu mà lắm! Thôi, ông về đi, tôi cũng phải đóng cửa để về đây, sắp đến giờ đưa đám ma chú của tôi rồi. Mặc dù chỉ là câu chuyện “đàm tiếu”, nhưng cũng phản ánh hiện tượng gần như vậy ở một số địa phương như báo chí đã nêu. Thực tế, một số cán bộ chủ chốt đã lợi dụng chức, quyền để ưu tiên đưa người thân, họ hàng, con cháu vào các vị trí có nhiều quyền lợi, mặc dù người đó chưa xứng đáng, thậm chí chưa đủ tiêu chí, tiêu chuẩn. Điều đáng nói là, khi sự việc được chỉ ra, thì nơi nào cũng khẳng định: công tác cán bộ đã tiến hành “đúng quy trình”. Nhưng, vấn đề đặt ra là: ai được chọn vào “quy trình” ấy? Tại sao là anh A con cháu của lãnh đạo, chứ không phải là anh B, anh C mà bố mẹ không làm cán bộ! Thực ra, cái “quy trình” mà các vị lãnh đạo kia khẳng định là đúng ấy vốn được quy định rất chặt chẽ bằng luật pháp, chính sách, quy chế, nhưng trong quá trình vận hành thì nó chỉ còn là hình thức. Ở một số địa phương, sự vi phạm đã làm ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và chế độ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, chính sách để lãnh đạo, chỉ đạo công tác cán bộ. Nhờ đó, chúng ta đã xây dựng được đội ngũ cán bộ cách mạng thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng làm nên thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, tổ chức đảng các cấp đang triển khai quán triệt, học tập và thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” (Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018). Thiết nghĩ, đây là dịp để chúng ta đẩy mạnh thực hiện các nội dung về công tác cán bộ. Trước hết, cấp ủy các cấp phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; tăng cường quản lý quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền; lấy việc đặt người; bảo đảm khách quan trong đánh giá, lựa chọn, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ, làm cơ sở để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ đức, tài, ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Thiết nghĩ, câu chuyện trên chỉ là “đàm tiếu” trong dân gian, nhưng cũng để chúng ta phải suy ngẫm.

Biểu hiện tính tiên phong của Đảng

 

Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam nhưng Đảng không phải là toàn bộ giai cấp công nhân mà Đảng là bộ phận ưu tú nhất, giác ngộ nhất, cách mạng nhất, tiên tiến nhất của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Đảng liên hệ chặt chẽ với giai cấp không tách rời giai cấp, nhưng Đảng là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị, Bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của cả dân tộc” Với tư cách là lãnh tụ chính trị, Đảng phải tiên phong về chính trị, tư tưởng, tổ chức, Đảng tiên phong cả về phẩm chất và năng lực, tư tưởng hành động, lý luận và thực tiễn. Đảng chỉ kết nạp vào hàng ngũ của mình những người ưu tú nhất, có giác ngộ cộng sản chủ nghĩa, gương mẫu dũng cảm và hy sinh nhất trong giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động để phấn đấu cho mục đích và lý tưởng của Đảng.

Tiên phong về chính trị: Đảng phải kiên định với mục tiêu lý tưởng, con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng phải đề ra đường lối, cương lĩnh, chính sách đúng. Đường lối, chính sách của Đảng phải tuân thủ và phản ánh đúng quy luật và điều kiện khách quan, phải trên cơ sở kết hợp đúng đắn những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với thực tiễn cách mạng. Đường lối của Đảng phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của quần chúng, phù hợp với sức dân, phù hợp thực tiễn và đặc thù của đất nước, của dân tộc. Đường lối chính trị đúng là nguồn sức mạnh to lớn của Đảng, là gốc rễ của mọi thắng lợi cách mạng. Đảng vạch ra đường lối chính trị đúng thì mới có thể tăng cường vai trò lãnh đạo của mình, đoàn kết và tranh thủ sự ủng hộ đông đảo của quần chúng nhân dân lao động, phát triển lực lượng cách mạng lớn mạnh, đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng lớn lên. Đường lối chính trị đúng còn là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng công tác tư tưởng và tổ chức, là cơ sở để giáo dục đảng viên , cán bộ thống nhất tư tưởng và hành động.

Đường lối chính trị đúng là linh hồn của tổ chức, là mục tiêu và lý do tồn tại của tổ chức Đảng,  một trong những điều kiện căn bản nhất để xây dựng và củng cố kỷ luật của Đảng. Nó yêu cầu và quy định phương hướng về lựa chọn đảng viên, năng lực, phẩm chất cán bộ, quy định việc bố trí, sử dụng cán bộ để thực hiện đường lối ấy. Đồng thời, cũng quy định hình thức tổ chức, chức năng và cơ cấu bộ máy phù hợp với đòi hỏi của đường lối. Do vậy, nếu nhiệm vụ chính trị sai thì công tác tổ chức cũng sai theo, nếu nhiệm vụ chính trị không rõ ràng thì công tác tư tưởng và công tác tổ chức sẽ rơi vào tình trạng lúng túng, mò mẫm, mất phương hướng. Nhìn lại quá trình xây dựng Đảng ta, chúng ta càng tự hào rằng Đảng ta luôn có đường lối chính trị đúng đắn và sáng tạo cả trong đấu tranh cách mạng và trong lĩnh vực xây dựng đất nước; trong ngoai giao đường lối đó được Đảng ta vạch ra một cách độc lập, sáng tạo nhằm nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, chú trọng tổng kết kinh nghiệm phong phú qua đấu tranh cách mạng, đồng thời  tiếp thu có chọn lọc của các Đảng anh em.

Tiên phong về tư tưởng: tức là Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm hệ tư tưởng duy nhất đồng thời truyền bá hệ tư tưởng đó giữ địa vị thống trị trên lĩnh vực tư tưởng toàn xã hội. Phải làm cho toàn Đảng đứng vững trên lập trường quan điểm của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đấu tranh chống mọi biểu hiện và trào lưu tư tưởng phi vô sản, biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, xét lại. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “muốn cách mạng thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”[13]. Mặt khác, Đảng phải thường xuyên là chỗ dựa về tư tưởng và tinh thần cho quần chúng nhân dân trong mọi thử thách. Thực tiễn chứng minh, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đế quốc Mỹ là kẻ thù có tiềm lực mọi mặt, nhiều nước trên thế giới phải lo ngại. Nhưng Đảng ta đã vững vàng về tư tưởng, sáng suốt lãnh đạo nhân dân ta đánh bại đế quốc Mỹ. Hoặc sau khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ thì Đảng ta một lần nữa lại khẳng định sự vững vàng về tư tưởng và tìm ra con đường đi phù hợp với thực tiễn Việt Nam nói riêng và xu thế của thời đại nói chung.

Tiên phong về tổ chức: tức là Đảng phải thường xuyên xây dựng mình là một chỉnh thể có tổ chức. Nghĩa là Đảng phải là một khối đoàn kết, thống nhất, có kỷ luật tự giác, nghiêm minh, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình. Bởi vì, tổ chức là điều kiện vật chất bảo đảm cho tư tưởng biến thành hành động, thành hiện thực. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sự tiên phong về tổ chức có vị trí hết sức quan trọng. Nói về tổ chức V. I. Lênin đã chỉ rõ: Lĩnh vực trọng yếu khó khăn nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức. Khi đã có đường lối thì tất cả vấn đề là ở tổ chức thực hiện, tổ chức là biện pháp cơ bản bảo đảm thực hiện đường lối. Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đồng thời luôn đấu tranh chống các biểu hiện nhận thức lệch lạc, xem thường vai trò của tổ chức hoặc thiên về những biện pháp tổ chức và hành chính đơn thuần, coi nhẹ vai trò công tác tư tưởng. Chính trị tư tưởng tách khỏi tổ chức sẽ chỉ dừng lại ở nhận thức, không thể biến thành hành động, tổ chức tách rời chính trị tư tưởng sẽ thành hành động mù quáng, độc đoán, mệnh lệnh. 


NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN LỢI DUNG QUAN HỆ DÂN TỘC XUYÊN BIÊN GIỚI ĐỂ CHỐNG PHÁ NƯỚC TA

 

          Quan hệ dân tộc xuyên biên giới là mối quan hệ của một tộc người trong nước với đồng tộc hoặc khác tộc ở các quốc gia có chung đường biên giới. Quan hệ dân tộc xuyên biên giới ở Việt Nam là mối quan hệ diễn ra từ lâu đời trong lịch sử. Hiện nay, quan hệ dân tộc xuyên biên giới không chỉ bó hẹp trong phạm vi Việt Nam với quốc gia có chung đường biên giới mà còn với nhiều quốc gia khác có người đồng tộc, đồng tôn giáo. Quan hệ dân tộc xuyên biên giới ở Việt Nam biểu hiện phong phú và đa dạng, từ quan hệ về nguồn gốc lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội đến tín ngưỡng, tôn giáo. Các mối quan hệ này tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội trong nước theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Bên cạnh những tác động tích cực (tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau về văn hóa giữa nhân dân hai bên biên giới, nâng cao tình đoàn kết và tương trợ thông qua các mối quan hệ kinh tế; thắt chặt và làm giàu thêm sự gắn kết tình cảm, giảm thiểu các xung đột giữa nhân dân hai bên biên giới, góp phần phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi...), quan hệ dân tộc xuyên biên giới cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, tiềm ẩn những nguy cơ gây bất ổn ở khu vực đa tộc người, đa tôn giáo vùng biên giới (di cư tự do, kết hôn không giá thú, lao động Việt Nam sang các nước láng giềng tìm việc làm, buôn lậu, buôn bán người, truyền đạo trái phép...). Các vấn đề này gây khó khăn trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước, làm ảnh hưởng đến mối quan hệ đoàn kết giữa các dân tộc - tộc người hai bên biên giới nói riêng và quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng nói chung, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá nước ta.

          Âm mưu xuyên suốt của các thế lực thù địch là lợi dụng vấn đề dân tộc nói chung, quan hệ dân tộc xuyên biên giới nói riêng để chống phá Việt Nam, nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; kích động đồng bào các dân tộc, các tôn giáo chống phá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; mưu toan gây mất ổn định chính trị - xã hội, tạo cớ can thiệp, kích động bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Âm mưu đó được các thế lực thù địch thực hiện ráo riết với những thủ đoạn chủ yếu sau:

          Một là, lợi dụng chính sách thông thoáng đối với việc đi lại, thăm thân; lợi dụng tình trạng kết hôn không giá thú, hoạt động tội phạm xuyên biên giới, để tuyên truyền, kích động đồng bào dân tộc thiểu số khu vực biên giới di cư tự do, vượt biên, xâm nhập trái phép, gây bất ổn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Trong những năm qua, cùng với hiện tượng di cư tự do nội địa của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số, tình trạng di cư tự do và hôn nhân không giá thú xuyên biên giới, vượt biên, xâm nhập trái phép ở biên giới Việt Nam có xu hướng gia tăng. Lợi dụng tình hình này, một mặt, các thế lực thù địch đã tìm cách hỗ trợ, chỉ đạo lực lượng phản động là người dân tộc thiểu số cư trú ở khu vực biên giới thúc đẩy, tạo “làn sóng” di cư trái phép đến một số địa bàn “trọng điểm”; mặt khác, ra sức tuyên truyền, kích động, mua chuộc, lôi kéo người dân tộc thiểu số vượt biên trái phép, “đưa người dân tộc thiểu số” về từng khu vực theo ý đồ chính trị để có điều kiện xây dựng căn cứ phản cách mạng, khiến vấn đề dân tộc trở thành “ngòi nổ”, tạo cớ để nước ngoài có thể can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

          Hai là, lợi dụng những vấn đề phức tạp trong lịch sử quan hệ tộc người, nhất là các tộc người cư trú ở khu vực biên giới, tuyên truyền, kích động đòi “ly khai”, “tự trị” và tìm cách “luật pháp hóa”, “quốc tế hóa” vấn đề dân tộc để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Bên cạnh việc tổ chức các cuộc hội thảo, thu thập, phát tán nhiều tài liệu trái phép, các thế lực thù địch với sự trợ giúp của nước ngoài còn đưa ra nhiều “luật” với chế tài mang tính áp đặt vô lý nhằm hỗ trợ, khích lệ tinh thần cho các lực lượng phản động là người dân tộc thiểu số đẩy mạnh các hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước ta; hỗ trợ, chỉ đạo lực lượng phản động là người dân tộc thiểu số sống lưu vong ở nước ngoài thành lập nhiều tổ chức dưới danh nghĩa nghiên cứu lịch sử, văn hóa các dân tộc thiểu số nhằm khơi dậy những tồn tại trong quá khứ để kích động tư tưởng “ly khai”, “tự trị” của các dân tộc thiểu số trên một số địa bàn chiến lược của nước ta.

          Ba là, núp dưới chiêu bài hoạt động “nhân đạo”, “từ thiện” của các tổ chức phi chính phủ để lôi kéo đồng bào là người dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo chống phá chính quyền Việt Nam. Đây là một trong những thủ đoạn mới hết sức tinh vi, khó nhận biết mà các thế lực thù địch đã và đang công khai sử dụng để hỗ trợ các lực lượng phản động, cực đoan trên địa bàn biên giới hình thành các nhóm tổ chức, tập hợp lực lượng và tiến hành các hoạt động chống phá nước ta. Đáng chú ý, các thế lực thù địch sử dụng những tổ chức này để thâm nhập vào các địa bàn chiến lược của Việt Nam thu thập tình hình, báo cáo xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam; tiếp cận, chỉ đạo lực lượng phản động, cực đoan tiến hành những hoạt động tuyên truyền, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, đòi “ly khai”, “tự trị” nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội và tạo cớ can thiệp.

          Bốn là, lợi dụng địa bàn biên giới của các nước láng giềng để hỗ trợ, chỉ đạo các lực lượng phản động là người dân tộc thiểu số sống lưu vong ở nước ngoài lôi kéo một bộ phận người dân tộc thiểu số từ Việt Nam tham gia thực tập vũ trang cướp chính quyền, xâm nhập, phá hoại các địa bàn chiến lược ở nước ta. Các tổ chức, đứng đầu là những phần tử cực đoan, đã và đang liên kết chặt chẽ với lực lượng phản động trong nước để tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng nước ta trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Lực lượng phản động không chỉ tìm mọi cách hỗ trợ, khuyến khích xây dựng các tổ chức phản động sử dụng danh nghĩa tôn giáo ở nước ngoài chuyển hướng hoạt động vào trong nước; ra sức cổ xúy, hỗ trợ các tổ chức phản động mang danh nghĩa tôn giáo ở trong nước để chống phá, mà còn lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của các cấp, các ngành trong thực hiện chính sách dân tộc để mưu toan kích động tư tưởng chống đối, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, tạo ra những nhân tố gây mất ổn định, bạo loạn, biến vấn đề dân tộc, tôn giáo thành vấn đề chính trị...

          Có thể thấy, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc nói chung, quan hệ dân tộc xuyên biên giới nói riêng nhằm chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay vô cùng đa dạng, với tính chất vô cùng nguy hiểm, vừa công khai, vừa bí mật, diễn ra cả trong nước và ngoài nước, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhằm gây mất ổn định, phá hoại mối quan hệ tốt đẹp của Việt Nam với các nước láng giềng, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Những thủ đoạn chống phá đó của các thế lực thù địch đã làm cho đời sống kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn; ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước, nhất là các nước láng giềng...

Bản chất giai cấp công nhân của Đảng


Biểu hiện bản chất giai cấp công nhân: Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng, ở Cương lĩnh, đường lối, nền tảng tư tưởng, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, ở phẩm chất năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân và ở sự kết hợp giải quyết giữa vấn đề dân tộc và vấn đề quốc tế.

Về mục tiêu, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, mục tiêu lý tưởng, lập trường, lợi ích của Đảng là của giai cấp công nhân. mọi đường lối, chủ trương chiến lược, sách lược được đề ra trên cơ sở của giai cấp công nhân, đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xét về vai trò sứ mệnh lịch sử của Đảng thì Đảng chính là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của cả dân tộc. Sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà Đảng ta đã và đang phấn đấu là mục tiêu lý tưởng của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Đảng ta lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn dân tộc đoàn kết chung sức phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng đó. Đảng ta, được cả dân tộc tin yêu, thừa nhận là người lãnh đạo, đó là niềm vinh dự, nguồn sức mạnh của Đảng, nhất là hiện nay Đảng ta lại là Đảng cầm quyền. Điều đó, nói lên sự lớn mạnh và uy tín của Đảng được tăng lên. Mặt khác, còn khẳng định trong thời đại ngày nay, chỉ có Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác - Lênin mới đại diện cho lợi ích chân chính của dân tộc. Đồng thời, dương cao ngọn cờ dân tộc và biết đấu tranh cho  thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc là dấu hiệu của một Đảng Mác - Lênin, Đảng chiến đấu cách mạng chân chính của giai cấp công nhân.

Về hệ tư tưởng: Nền tảng tư tưởng của Đảng là của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là luận điểm quan trọng nhất, quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản, trong báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đồng thời, báo cáo cũng chỉ rõ: “khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng và là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta”.[5] Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng nhất, hoàn chỉnh nhất, là tinh hoa của trí tuệ loài người, là sản phẩm có tính quy luật của sự phát triển những tư tưởng tiên tiến của nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra quy luật vận động khách quan của tự nhiên, xã hội, tư duy, chỉ ra quy luật phát triển tất yếu của xã hội loài người là tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chắc chắn nhất, chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hộ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân… về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…

Như vậy, khi nói về bản chất giai cấp công nhân của Đảng là xét về hệ tư tưởng của Đảng. Đảng chỉ có thể mang hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin mà không mang hệ tư tưởng của giai cấp nào khác. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân nước ta và ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần  tư tưởng của nhân dân ta. Như vậy, trong hệ tư tưởng của giai cấp công nhân nước ta có sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với những giá trị truyền thống của dân tộc ta, nó không thể đối lập giá trị của giai cấp công nhân với giá trị của dân tộc.

Về nguyên tắc hoạt động: Đảng phải xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc phù hợp với đặc điểm và tổ chức của giai cấp công nhân, đó là tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình. Trong đó, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Nguyên tắc này chi phối, xuyên suốt quá trình xây dựng, tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh của Đảng được quyết định bởi việc quán triệt và thực hiện đầy đủ nguyên tắc này. Tập trung dân chủ quy định hình thức, cơ cấu tổ chức của Đảng, quy định nguyên tắc giải quyết quan hệ nội bộ Đảng. Tập trung dân chủ phát huy được tính chủ động tích cực sáng tạo, ý thức trách nhiệm cao của mọi cán bộ đảng viên và tổ chức đảng, đồng thời tập trung được trí tuệ và sức mạnh của toàn Đảng. Tập trung dân chủ còn là cơ sở để xây dựng và củng cố Đảng, xây dựng sự đoàn kết thống nhất, là cơ sở để xây dựng và giữ vững kỷ luật Đảng, là tiêu chuẩn để phân biệt đảng mác xít chân chính hay cơ hội về mặt tổ chức.

Về nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng, nó là sự biểu hiện cụ thể của nguyên tắc tập trung dân chủ trong phương pháp, tác phong lãnh đạo của Đảng. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ phát huy được quyền làm chủ, tính năng động sáng tạo và trí tuệ tập thể, trách nhiệm của mỗi cá nhân trong quá trình đề ra đường lối, chủ trương, biện pháp, bảo đảm cho mọi chủ trương, đường lối được quyết định đúng đắn, chính xác và tổ chức thực hiện triệt để. Hạn chế đến mực thấp nhất những sai lầm trong lãnh đạo, hoạt động của Đảng, đồng thời phải thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, đó là quy luật phát triển của Đảng, là thước đo trình độ dân chủ trong sinh hoạt Đảng, là trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân. Vì vậy, để tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng thì Đảng phải được xây dựng và tổ chức hoạt động theo nguyên tắc này.

Về lợi ích: Lợi ích của Đảng là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân. Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Bời vì, Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam, Đảng là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân. Do đó, lợi ích của Đảng trước hết là đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân. Lợi ích của giai cấp lại luôn thống nhất với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động và toàn dân tộc. Vì vậy, Đảng không chỉ là lãnh tụ chính trị và đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân mà Đảng còn là lãnh tụ chính và đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng trở thành lực lượng lãnh đạo toàn xã hội. Cho nên, Đảng đại biểu cho lợi ích và chăm lo lợi ích của toàn dân tộc, chịu trách nhiệm về vận mệnh của toàn dân tộc. Khi nói về lợi ích của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích nào khác”[6]. Đại hội Đảng lần thứ VI xác định: “Đảng ta không có mục đích nào khác là đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân”[7]và “Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, khơi dậy được sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”[8]. Đảng có thực sự là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc thì Đảng mới gắn bó mật thiết với giai cấp, dân tộc, mới có đường lối, chủ trương đúng đắn, phản ánh lợi ích của dân tộc và giai cấp, quần chúng nhân dân mới tin theo Đảng, Đảng mới có lực lượng hùng hậu và phát huy được vai trò lãnh đạo của mình đối với giai cấp và dân tộc. Để gắn bó chặt chẽ với giai cấp và dân tộc, trong toàn bộ hoạt động của mình Đảng phải quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc” phải xây dựng và phát huy quyền làm chủ thực sự của quần chúng nhân dân.

Về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân: Đảng phải gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Đây là mối quan hệ bản chất của Đảng Cộng sản, là sức mạnh và là vấn đề sống còn của Đảng, là nguyên tắc để xây dựng Đảng, là tiêu chuẩn để phân biệt Đảng mácxít  với các đảng phái khác. Mối liên hệ này bảo đảm và phát huy được quyền làm chủ thực sự của nhân dân thông qua hệ thống chính trị. Nói về mối quan hệ Đảng với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Người lãnh đạo ắt phải có mối liên hệ giữa mình với các tầng lớp người, với dân chúng, gắn chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng, lực lượng của Đảng nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại.

Chỉ có liên hệ với quần chúng nhân dân, với tư cách là đối tượng lãnh đạo thì Đảng mới tồn tại với tư cách là người lãnh đạo, là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Quan liêu, mệnh lệnh xa rời dân có nghĩa là Đảng tự cắt đứt mối liên hệ với nhân dân và tự phủ nhận địa vị lãnh đạo của mình. Làm cho đường lối và hoạt động của Đảng sẽ mất phương hướng , Đảng sẽ không còn sức mạnh.

Về chủ nghĩa quốc tế: .Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Mọi đường lối, chính sách của Đảng bao giờ cũng thể hiện sự kết hợp chặt chẽ lợi ích dân tộc với lợi ích của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng đã đấu tranh không mệt mỏi vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của dân tộc mình, đồng thời luôn có ý thức và hành động thiết thực với trách nhiệm, nghĩa vụ với phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta do Đảng lãnh đạo đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản trên thế giới. Trong hoạt động lý luận cũng như trong thực tiễn Đảng ta vừa giữ vững tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường vừa tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác quốc tế. Đảng vừa chăm lo củng cố, đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, vừa không ngừng vun đắp tình đoàn kết quốc tế và làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình. Một trong những bài học kinh nghiệm Đảng ta rút ra từ thực tiễn cách mạng là: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế. Ngày nay, trước cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, trước sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại và quá trình quốc tế hoá nền kinh tế. Cho nên, cần phải kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chính vì đã biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức mà Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang ngày nay”và “quan sơn muôn dặm một nhà, bốn phương vô sản đều là anh em”