Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2022

KHÔNG LÀM NGƠ TRƯỚC BIỂU HIỆN SUY THOÁI "THÍCH ĐƯỢC ĐỀ CAO, CA NGỢI"


Cổ kim đông tây từng đúc kết, những người có chức sắc, vị thế xã hội mà bỏ ngoài tai những lời trung thực, khảng khái và lại ưa thích những lời người khác tâng bốc, tung hô, nịnh nọt mình thì rất dễ bị ảo tưởng về quyền lực, từ đó có những hành xử thiếu minh mẫn, nhân văn.
Nếu thời xưa, người dân luôn “dị ứng” và oán ghét những tên quan nịnh thần làm nhiễu nhương triều chính, thì thời nay, chúng ta cũng không thể làm ngơ trước một bộ phận cán bộ, đảng viên “thích được đề cao, ca ngợi” - một trong những biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã chỉ ra.
👉
Từ những lời cảnh báo thói đời siểm nịnh của người xưa
Nhìn lại lịch sử cho thấy, xu nịnh là cách sống “vào luồn, ra cúi” của một bộ phận quan nịnh thần trong các triều đại phong kiến thuở trước. Những kẻ nịnh thần này thường tài hèn đức mọn, nhưng lại khéo ăn khéo nói, biết vuốt ve, “vỗ về” vua chúa đúng lúc, đúng chỗ bằng những lời nói mỹ miều, ngọt ngào, cốt là để lấy lòng bề trên.
Nếu bề trên (ông vua, bà chúa, ông quan) nào tỉnh táo, sáng suốt và kiên quyết lánh xa, loại trừ thói xu nịnh vờ vĩnh, giả tạo thì giữ được tư thế, tác phong, nhân cách chân chính của bậc quang minh chính đại, góp phần bảo đảm cho triều chính được uy nghiêm, sơn hà xã tắc được bình an.
Ngược lại, những người ở ngôi cao chức trọng và nắm giữ nhiều quyền bính mà dễ ngả lòng, a dua, thậm chí “đắm chìm” trong những lời bợ đỡ, ton hót của những kẻ “ngồi lê đôi mách” thì dễ làm cho các mối quan hệ trong triều chính trở nên rối ren, mọi người sống nghi kỵ, oán thán lẫn nhau và khiến lòng dân thêm bất an, ly tán.
Danh nho Chu Văn An (1292-1370), một vị quan thanh liêm đời Trần, tận mắt chứng kiến cảnh nhiễu nhương, suy đồi từ trong triều chính có nguyên nhân sâu xa là do những quan nịnh thần gây ra. Vì vậy, Chu Văn An đã dâng “Thất trảm sớ”, đề nghị vua Trần Dụ Tông (1336-1369) xử chém 7 tên nịnh thần để góp phần lấy lại sự nghiêm minh trong vương triều và củng cố niềm tin cho thần dân. “Thất trảm sớ” của Chu Văn An dù không được nhà vua chấp thuận, nhưng mãi là lời cảnh báo, cảnh tỉnh muôn đời đối với hậu họa khôn lường của thói gian thần, nịnh bợ.
Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm (1889-1954) là một đại thần triều Nguyễn. Khi thi đỗ đại khoa, ông được cùng các vị tiến sĩ đồng khoa triều kiến vua Thành Thái (1879-1954). Khi nhà vua đề nghị mỗi vị đề xuất góp ý kế sách để phục hưng quốc gia, Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm đã đọc 4 câu: “Tôn tộc đại quy/ Tôn lộc đại nguy/ Tôn tài đại thịnh/ Tôn nịnh đại suy”. Bốn câu này được hiểu là: “Tôn trọng nòi giống ắt đại hòa hợp/ Tôn trọng bổng lộc ắt đại nguy nan/ Tôn trọng tài năng ắt đại phồn thịnh/ Tôn trọng siểm nịnh ắt đại suy vong”.
“Tôn nịnh đại suy” hiểu rộng ra là bất cứ chỗ nào, thể chế nào, xã hội nào, nếu không loại bỏ mà lại coi trọng thói siểm nịnh thì sớm muộn chỗ đó, thể chế đó, xã hội đó cũng sẽ mục ruỗng, thối nát và đi đến bờ vực suy vong thảm hại.
👉
Đến căn bệnh “thích được đề cao, ca ngợi” trong một bộ phận quan chức thời nay
Thực ra, đã sống trong cuộc đời này, ai cũng thích khen. Vì lời khen không chỉ là một trong những nghệ thuật giao tiếp để động viên, khích lệ nhau vươn lên trong cuộc sống mà còn là một phương thức giáo dục tinh tế, hiệu quả trong học tập, lao động, công tác.
Nhưng điều quan trọng là phải khen đúng lúc, đúng chỗ, đúng mực, đúng đối tượng thì lời khen mới có giá trị. Còn nếu khen một cách tràn lan, gặp đâu khen đấy, khen không xuất phát từ tấm lòng chân thành, nhất là cấp dưới thường xuyên dành cho cấp trên những lời “ngọt như mía lùi” thì đó không phải là lời khen, mà thực chất là sự nịnh nọt, ton hót - một thái độ ứng xử không phù hợp với phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Đến nhiều tổ chức, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp hiện nay, nếu ai tinh ý và chịu khó quan sát, lắng nghe thì trong các cuộc trò chuyện, có thể thấy một hiện tượng là quần chúng thích nói ý tứ cho vừa lòng lãnh đạo, cấp dưới hay “vuốt ve” cấp trên, nhân viên ưa nói tốt về thủ trưởng... Trong giao tiếp đời thường là vậy và trong sinh hoạt đảng, chính quyền, đoàn thể cũng như vậy.
Còn tồn tại hiện tượng trên một phần vì cấp dưới mang tâm lý cả nể những người có tuổi tác, chức sắc, vị thế công tác hơn mình; nhưng phần khác, cũng do tâm lý thích, thậm chí ham mê, ưa chuộng lời khen của những người có chức quyền. Mà khi cấp dưới khen thì nhiều khi là “khen cho được việc”, cố khen cho “mát mặt” cấp trên, chứ chưa hẳn là khen đúng lòng mình. Hay nói cách khác, đó là những lời khen mang tính chất “hối lộ tinh thần” hơn là lời khen thật sự ý nghĩa.
Không những vậy, một số quan chức còn lợi dụng báo chí, truyền thông để ca ngợi, tung hô mình vào những thời điểm "nhạy cảm", như: Đại hội, bầu cử, được bổ nhiệm chức vụ mới… Tinh vi hơn, có quan chức bỏ ra những khoản kinh phí “không hề nhỏ” để duy trì, “nuôi dưỡng” một bộ phận làm truyền thông chuyên nghiệp chỉ để “lăng xê”, đánh bóng tên tuổi cá nhân mình trong xã hội.
👉
Cán bộ, đảng viên cần giữ đạo khiêm nhường, tự trọng, cương trực
Trong những năm tháng bao cấp, dư luận vẫn râm ran câu nói “Thật thà thường thua thiệt/ Lươn lẹo lại lên lương” nhằm ám chỉ những kẻ “mồm năm miệng mười", "đầu môi chót lưỡi” ngon ngọt với cấp trên thì dễ bề được ưu tiên thăng tiến, lên cấp, nâng lương.
Nhưng cha ông ta cũng có câu “Mật ngọt chết ruồi” với hàm ý khuyên răn, cảnh tỉnh ai đó chỉ thích nghe những lời lẽ quyến rũ, giọng điệu ngọt ngào mà giả dối của người khác thì tự mình sa vào tình thế nguy hiểm lúc nào không hay.
Thực tế cho thấy, những cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ có chức quyền mà luôn sống, sinh hoạt, làm việc trong sự “bủa vây” của những lời khen hào phóng, mỹ miều, giả tạo của những người xung quanh và cấp dưới, thì theo ngày ngày, tháng tháng, họ rất dễ bị ảo tưởng về chính mình. Từ đó, những biểu hiện gia trưởng, quan liêu, độc đoán cũng sẽ dần “lớn lên” trong thái độ, tư tưởng, tính cách của họ. Đó cũng là tiền đề để hình thành, tạo ra “uy tín giả” - một “cái bẫy” có thể làm quan chức tự sụp đổ ngay dưới chân mình!
Cổ kim đông tây đã đúc kết, những người có chức sắc, vị thế xã hội mà bỏ ngoài tai những lời trung thực, khảng khái và lại ưa thích những lời tâng bốc, tung hô, nịnh nọt thì rất dễ bị ảo tưởng về quyền lực, từ đó có những hành xử thiếu minh mẫn, nhân văn, thậm chí vùi dập những người cương trực.
Thế nên, Tuân Tử - một trong những triết gia cổ đại lừng danh của Trung Quốc đã tự răn mình và cũng là nhắc nhở các bậc quân tử đời sau: “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ chính là kẻ thù của ta vậy”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất lên án thói tâng bốc, xu nịnh. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết tháng 10-1947, một trong những căn bệnh của một bộ phận cán bộ, đảng viên được Bác sớm chỉ ra và cảnh báo là: “Bệnh xu nịnh, a dua; ưa người ta tâng bốc, khen ngợi mình”.
Bác cũng phê phán những cán bộ, đảng viên sống ba phải, không có lập trường, chính kiến rõ ràng: “Thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái”. Những người như thế không xứng đáng là người lãnh đạo, dìu dắt, giáo dục quần chúng.
Để không mắc vào “cạm bẫy” ưa xu nịnh và chữa trị được căn bệnh “thích được đề cao, ca ngợi”, một trong những việc cần làm hiện nay là mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp phải giữ gìn đức tính cương trực, tự trọng, khiêm nhường.
Cương trực để không bị "mê hoặc" bởi “cái bả” ca tụng của nhiều cán bộ, nhân viên cấp dưới lúc nào cũng có thể “rót lời đường mật” vào tai mình. Tự trọng để biết phân biệt đâu là điều hay lẽ phải cần lắng nghe, coi trọng, đâu là lời khen vờ vĩnh, giả tạo cần tránh xa, loại bỏ. Khiêm nhường để không tự ảo tưởng về mình mà luôn có ý thức học tập, rèn luyện, bồi đắp những phẩm chất giá trị tích cực. Nhân văn nhằm không ngừng hoàn thiện nhân cách bản thân và sống giản dị, gần gũi với tập thể nơi công tác và với cộng đồng nơi cư trú.
Một việc không thể không nhắc lại là các cấp ủy, tổ chức đảng nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng cần tiếp tục coi trọng và duy trì thường xuyên, nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình. Trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình, mỗi người cần thể hiện rõ tinh thần trung thực, thẳng thắn, công tâm, đồng thời bày tỏ thái độ trân trọng, bảo vệ cái đúng, cái tốt; phê phán kịp thời cái xấu, cái sai; kiên quyết đấu tranh loại bỏ lề thói xu nịnh, a dua, “mũ ni che tai”, “mười lăm cũng ừ, mười tư cũng gật”, góp phần vừa giữ vững và nâng cao kỷ cương, kỷ luật của tổ chức đảng, vừa xây dựng môi trường văn hóa giao tiếp ứng xử lành mạnh trong tổ chức, cơ quan, đơn vị.

NHỮNG CHIẾN SĨ HẢI QUÂN LÀM HOA TIÊU Ở ĐẢO TRƯỜNG SA


Ở Trường Sa, mỗi khi xuồng chuyển tải đưa đoàn công tác lên đảo, mọi người đều bắt gặp những chiến sĩ hải quân đứng làm hoa tiêu vẫy cờ giúp cho xuồng đi đúng luồng, tránh va phải san hô, góp phần bảo đảm an toàn cho đoàn công tác.
Tôi may mắn đã 3 lần được đi công tác ở Trường Sa. Chứng kiến những chiến sĩ hải quân làm nhiệm vụ hoa tiêu dẫn xuồng qua luồng lạch trên các đảo chìm trên quần đảo Trường Sa, tôi có cảm giác rất đặc biệt. Hình ảnh các chiến sĩ nơi đầu sóng, vẫy vẫy hai lá cờ theo hiệu lệnh riêng của Luật Hàng hải với mục đích dẫn xuồng cào đúng luồng lạch rất đẹp và dễ mến.
Sau khi lên đảo Song Tử Tây, tôi lại gần chiến sĩ Đinh Thiên Hoàng chụp ảnh khi anh đang đứng làm hoa tiêu hướng dẫn cho xuồng vào đảo. Anh Hoàng cho biết, động tác làm hoa tiêu hướng dẫn xuồng di chuyển vào luồng là một trong các bài học luyện tập của lính hải quân khi tới công tác tại các đảo chìm.
Cũng theo chiến sĩ Đinh Thiên Hoàng, các động tác phất cờ của hoa tiêu thực tế không khó mà điều quan trọng nhất chính là sự hiểu biết về địa hình của bãi cạn. Dưới mặt nước xuồng di chuyển dù có làm sẵn luồng lạch nhưng vẫn rất nguy hiểm bởi san hô sắc nhọn. Mỗi khi xuồng vào đảo phải di chuyển chính xác trên luồng bởi có nhiều mỏm đá san hô ngầm. Nếu không may xuồng va chạm vào các mỏm đá ấy sẽ rất dễ xảy ra tai nạn ngoài ý muốn.
Để tiếp cận được đảo chìm là việc khá khó khăn, phụ thuộc rất lớn vào thủy triều lên xuống tự nhiên. Khi thủy triều xuống, những bãi cạn này có mực nước thấp, thậm chí có thể nổi một phần trên mặt nước. Khi đó các xuồng không thể di chuyển vào đảo. Chỉ khi mực nước thủy triều dâng lên cao, thường là khoảng thời gian trước và sau 12 giờ trưa, đây cũng là lúc mực nước triều lên cao nhất, thuận lợi nhất để di chuyển vào đảo chìm.
Nhưng ngay cả khi điều kiện tự nhiên thuận lợi, việc di chuyển xuồng vào đảo vẫn cần có sự hỗ trợ của những người lính làm hoa tiêu. Họ là những người đang công tác, làm nhiệm vụ trên các điểm, đảo ở Trường Sa với kiến thức hàng hải về nghề hoa tiêu cùng sự am hiểu tường tận các bãi cạn xung quanh đảo để dẫn đường.
Nhìn từ xa, giữa đại dương mênh mông sóng nước, những đảo chìm thật nhỏ bé. Thế nhưng khi càng di chuyển tới gần, đảo càng hiện ra rõ hơn với hình ảnh người lính hoa tiêu nơi tiền tiêu Tổ quốc. Những động tác vẫy cờ, chỉ đơn giản là trái, phải giúp xuồng đi đúng luồng lạch.
TTXVN
Thích
Bình luận
Chia sẻ

SÁNG TỎA CHÍ ANH HÙNG

 Kỷ niệm 90 năm ngày hy sinh của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh (31/7/1932 - 31/7/2022)

Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh sinh tại làng Diêm Điền, tổng Hổ Đội, huyện Thụy Anh (nay là thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy), tỉnh Thái Bình. Năm 1927, đồng chí gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1929, đồng chí tham gia sáng lập: Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở trong nước, Đông Dương Cộng sản Đảng, Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ (tiền thân của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam).

Năm 1930, đồng chí giữ các trọng trách: Bí thư Đảng bộ Hải Phòng, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Trung Kỳ. Tháng 4/1931, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, giam tại Nhà tù Hỏa Lò. Đứng trước bản án tử hình, người tử tù Nguyễn Đức Cảnh vẫn nỗ lực hết mình, hăng hái đấu tranh để “Biến nhà tù thực dân thành trường học cách mạng”. Dồn tâm trí trong những ngày còn lại, đồng chí viết tác phẩm “Công nhân vận động” để trao lại cho Đảng.
Đồng chí Nguyễn Tạo, tù chính trị Nhà tù Hỏa Lò đã kể lại những ngày cuối cùng của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh tại hồi ký “Trong ngục tối Hỏa Lò”:
“Ngót một năm nay, suốt ngày đêm, hai chân bị cùm trong buồng số 29 ở dãy xà lim C, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh nay không còn là thanh niên nhanh nhẹn nữa, đầu trọc tếu, mắt lờ đ
ờ, mặt đầy sẹo, nhăn nhíu, lưng đã gù. Một bộ xương nhô lên dưới lớp da xanh bủng. Nhưng suốt ngày đêm đồng chí lo lắng ghi lại mọi kinh nghiệm đấu tranh trong hơn 3 năm lãnh đạo bí mật từ Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội tới Đông Dương Cộng sản Đảng và nhất là trong phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh mà đồng chí trực tiếp lãnh đạo trong hơn 6 tháng. Luôn luôn đồng chí vội vàng, tranh thủ viết, sợ chưa truyền đạt lại được hết những kinh nghiệm xương máu mà đã phải lên đoạn đầu đài…”.
Đêm 30/7/1932, kẻ địch vào xà lim áp giải đồng chí Nguyễn Đức Cảnh xuống Nhà lao Hải Phòng để thi hành án. Sáng ngày 31/7/1932, đồng chí hiên ngang lên đoạn đầu đài, nêu tấm gương trọn đời hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc:
Nguyễn Đức Cảnh trước giờ hành quyết
Vẫn ung dung không chút bận lòng
Dẫu hiềm sứ mệnh chưa xong
Nhưng đồng đội sẽ điệp trùng xông lên!
Anh xé toạc mảnh khăn che mắt
Ngẩng đầu chào đất nước quê hương
Muôn năm Cộng sản Đông Dương
Tiếng Anh hô, cả pháp trường chuyển rung.
(Trước giờ hành quyết, Giang Đúc Tuệ)
Cre: Di tích Nhà tù Hỏa Lò
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản
1
1 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ, TRUYỀN THỐNG VẺ VANG NGÀNH TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG


Ngày 30-7, Ban liên lạc truyền thống cán bộ ngành Tuyên huấn Quân khu 7 họp mặt kỷ niệm 92 năm Ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng (1/8/1930-1/8/2022) nhằm ôn lại lịch sử truyền thống vẻ vang của ngành Tuyên giáo. Dự có các đồng chí: Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; Thiếu tướng Nguyễn Văn Gấu, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng Cục Chính trị; Trung tướng Trần Hoài Trung, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu; các đồng chí nguyên là lãnh đạo Quân khu, thủ trưởng các cơ quan Quân khu và cán bộ ngành Tuyên huấn qua các thời kì.
Buổi họp mặt là dịp để bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đối với thủ trưởng các cấp, các cơ quan đơn vị đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đồng hành và nhiệt tình giúp đỡ để ngành Tuyên huấn Quân khu 7 hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao. Đây cũng là dịp gặp gỡ đặc biệt để các đại biểu cùng nhau trao đổi những tâm tư, tình cảm, đoàn kết, nối vòng tay lớn, động viên, giúp đỡ nhau trong cuộc sống và công tác. Thời gian qua, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo nói chung, cán bộ tuyên huấn Quân khu 7 nói riêng luôn phát huy truyền thống vẻ vang, kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm quý báu của thế hệ đi trước, tích cực tham mưu, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ được giao. Qua đó, đạt được một số kết quả nổi bật trên các lĩnh vực: công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; công tác tuyên truyền; phối hợp thực hiện nhiệm vụ…
Phát biểu tại buổi họp mặt, Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương biểu dương lực lượng cán bộ làm công tác tuyên giáo, tuyên huấn Quân khu luôn chủ động, đổi mới, nhạy bén, nâng cao chất lượng và đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, tạo nên động lực tinh thần mới, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đất nước trong các thời kỳ cách mạng. Đồng chí Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương khẳng định, công tác tuyên giáo nói chung và cán bộ tuyên huấn Quân đội nói riêng, phải là lực lượng tiên phong, đi trước mở đường; đi cùng thực hiện; đi sau tổng kết, rút kinh nghiệm. Bên cạnh đó, phải kiên định với chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước; chủ động đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền hiệu quả cả về chiều rộng lẫn chiều sâu; đồng thời thời gian tới lực lượng ngành phải mở ra một mặt trận mới – Mặt trận tuyên giáo trên không gian mạng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi tình huống.

"KHÔNG THỂ ĐỂ MẤY ÔNG CÁN BỘ BỊ KỶ LUẬT CỨ NGỒI ĐẤY MÃI..."


Mới đây, tại hội nghị toàn quốc quán triệt các nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII, đồng chí Trương Thị Mai - Trưởng ban Tổ chức Trung ương khi truyền đạt chuyên đề "Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới" đã nói: "Không thể để mấy ông cán bộ bị kỷ luật ngồi mãi, làm ảnh hưởng lòng tin của dân với Đảng". Theo bà Mai, khi tổ chức cơ sở đảng bị kỷ luật thì phải thay ngay cấp ủy do lòng tin của nhân dân giảm sút.
Đây thực ra là một quan điểm không mới, nhưng thời gian qua chúng ta thực hiện chưa rốt ráo, nhiều nơi chưa nghiêm. Có một thực tế buồn là có nơi, nhiều cá nhân cấp ủy viên, ủy viên thường vụ sau khi bị kỷ luật vì sai phạm nghiêm trọng vẫn được tại vị, 1-2 năm lại "được công nhận tiến bộ" rồi có khi lại được cất nhắc cao hơn, quyền lực lớn hơn. Mà việc "công nhận tiến bộ" ấy ở nhiều nơi không thực chất, không thực sự thử thách được cán bộ sau sai phạm, chỉ cần cán bộ đó "ngồi im, thở khẽ" không vướng thêm lùm xùm là được những cấp ủy ba phải vì những lý do như nể nang, liên quan lợi ích hay há miệng mắc quai... công nhận "tiến bộ". Chính những cấp ủy ba phải đó lý giải vì sao nhiều cán bộ bị kỷ luật, ra tòa nhưng trước đó đều ‘tốt, xuất sắc’, như đồng chí Võ Văn Thưởng - Thường trực Ban Bí thư đặt vấn đề.
Trong khi việc đáng ra phải làm là buộc những người sai phạm: anh phải thử thách ở công việc khó hơn, gian khổ hơn vì anh đã tự quay vào "ô mất lượt", lượt quay này anh hãy vui lòng nhường người khác, cơ hội quay tiếp của anh ở... đợt sau, nhiệm kỳ sau và phụ thuộc vào kết quả khắc phục lượt quay sai này của anh đấy.
Đảng ta không thiếu những người tài giỏi, tâm huyết và trung kiên, chỉ sợ rằng những người Tài - Tâm - Tầm không được trao cơ hội khi mà những kẻ cơ hội, giỏi mồm mép, giỏi nịnh nọt, giỏi chạy chọt, giỏi thu vén cá nhân được ngồi vào, ngồi lâu và cứ ngồi lì ở ghế cấp ủy.MT