Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2023

Diệt trừ dối trá, cần giải pháp đồng bộ

Có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau sinh ra dối trá. Theo các chuyên gia, nguyên nhân sâu xa và phổ biến nhất là do con người ham muốn lợi ích bằng mọi giá đã sinh ra dối trá. Do công tác kiểm tra, giám sát qua loa, đại khái, hình thức và chiếu lệ cũng khiến dối trá không bị hạn chế mà còn có cơ hội lây lan. Bên cạnh đó, việc một số nơi tổ chức nhiều hoạt động thi đua hình thức và bệnh thành tích cũng là tác nhân sinh ra dối trá. Vì thành tích mà có hiện tượng che giấu khuyết điểm, "làm láo báo cáo hay", "có ít suýt ra nhiều".

Để diệt trừ thói dối trá, nhất là trong hệ thống chính trị và cơ quan công quyền hiện nay cần phải tổ chức, duy trì nghiêm nền nếp sinh hoạt Đảng của các cơ quan, đơn vị, địa phương theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và tự phê bình, phê bình mạnh mẽ, triệt để. Cấp ủy, chi bộ cần xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh.

Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc”(1). Người xem đây là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm giáo dục đạo đức cán bộ, đảng viên nói riêng và xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, góp phần tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Bởi theo Người, khi đã tổ chức sinh hoạt Đảng chất lượng, hiệu quả thì mọi dối trá của cán bộ, đảng viên sẽ bị phơi bày ra ánh sáng, sẽ không có những việc làm khuất tất vụ lợi, không có hiện tượng dễ làm khó bỏ, đấu đá, chọn vị trí công tác nhiều lợi ích... Để làm được điều này thì các tổ chức đảng cần tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đồng thời có biện pháp cụ thể về đổi mới hình thức, nội dung sinh hoạt Đảng định kỳ và chuyên đề, không ngừng nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, coi trọng kiểm tra đột xuất thay vì kiểm tra báo trước và kiểm tra trên giấy, trên báo cáo và "nhúng" qua thực tiễn. Thực tế cho thấy, hiện tượng dối trá trong nội bộ đã làm cho Đảng bị "bịt mắt”. Tổ chức đảng cấp trên không thấy được thực tế đòi hỏi của nhân dân, không thấy được những “chướng tai gai mắt” trong nội bộ cấp dưới nên dễ dẫn đến thỏa hiệp và vô tình bảo vệ “con sâu, con mọt” thay vì bảo vệ cán bộ có tâm, có tầm và có trí, thủ tiêu động lực phấn đấu của các cán bộ, đảng viên chân chính.

Tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các biện pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, trong đó đặc biệt chú trọng đến vai trò nêu gương “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” trong thực thi công vụ của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, người chủ trì, quản lý cơ quan, đơn vị, địa phương. Hiện nay có một thực tế là, nhiều tổ chức cơ sở đảng chưa cụ thể hóa nghị quyết vào trong thực tiễn nhiệm vụ lãnh đạo. Phổ biến là hiện tượng xây dựng quy chế lãnh đạo một đằng nhưng thực hiện một nẻo; thậm chí có hiện tượng copy quy chế lãnh đạo cốt để báo cáo. Việc này khiến công tác lãnh đạo không tập trung, sót việc nên dễ nảy sinh tiêu cực.

Các cơ quan chức năng cần nghiên cứu và tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ có biện pháp quyết liệt trong tổ chức phân phối ngân sách, nhiệm vụ và kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc thu, chi ngân sách hằng năm hoặc ngân sách đầu tư công. Thường ngân sách bao giờ cũng đi kèm với nhiệm vụ. Có nhiệm vụ thì có ngân sách và ngược lại. Thế nên không lạ khi các cơ quan, đơn vị, địa phương đua nhau xin nhiệm vụ, xin ngân sách. Đây chính là căn nguyên để hình thành cơ chế “xin-cho” tồn tại dai dẳng trong hệ thống chính trị và các cơ quan công quyền.

Một số quốc gia có cách làm rất hiệu quả để ngăn chặn sự dối trá nhằm trục lợi. Theo đó, các cơ quan, đơn vị, địa phương và cá nhân muốn được sử dụng ngân sách hoặc được nhận tài trợ để làm một dự án do chính phủ duyệt thì phải hội tụ những điều kiện cứng và mềm về công tác quản lý và điều hành, bảo đảm không thất thoát, lãng phí và tham nhũng. Thế nên, để ngân sách đến đúng đích và được sử dụng triệt để, mang lại hiệu quả thiết thực phục vụ phát triển kinh tế-xã hội thì cần có quá trình thẩm tra, kiểm tra, giám sát xem có đủ điều kiện mới giải ngân. Đây chính là cách phân phối công bằng, ngăn ngừa tham nhũng và thúc đẩy cách lãnh đạo, điều hành và quản lý chuyên nghiệp, văn minh, cần được nghiên cứu thấu đáo và ứng dụng trong thực tiễn nước ta.

Nếu trung thực được đề cao thì dối trá khó có đất để tồn tại, phát triển. Khi trung thực của cán bộ, đảng viên bị dối trá lấn át thì sẽ dẫn đến tình trạng né tránh sự thật. Đây là căn nguyên khiến sinh hoạt của tổ chức đảng rơi vào hình thức, mất sức chiến đấu, khiến nguy cơ “tự diễn biến, tự chuyển hóa” ngày càng có xu hướng nặng nề hơn. Tôn trọng sự thật khách quan và dựa trên sự thật để tìm biện pháp xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh là cách tốt nhất diệt trừ tệ dối trá hiệu quả. Việc này chỉ thực hiện được khi cán bộ chủ trì và đứng đầu tổ chức đảng tận tâm, quyết liệt.


- QĐND-

Dối trá - Nguy cơ phá vỡ tổ chức từ bên trong

 Dối trá được hiểu là những cử chỉ, hành vi, lời nói, việc làm trái ngược với sự trung thực của cá nhân, tập thể. Đó là hành vi đưa ra nhiều thông tin thiếu chính xác, sai sự thật, khiến cá nhân, tập thể nhận thông tin đưa ra các quyết định có lợi cho một người hoặc một nhóm người cung cấp thông tin. Dối trá trong xã hội là nguyên nhân căn cốt khiến các chuẩn mực đạo đức xã hội, đạo đức công vụ và cao hơn nữa là đạo đức chính trị và văn hóa chính trị bị ảnh hưởng, tổn thương ở các mức độ khác nhau.

Trong giai đoạn hiện nay, dối trá chính là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng mất niềm tin ở nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Khi nghiên cứu nội hàm của 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến, tự chuyển hóa” mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra, nhận thấy các biểu hiện ấy đều có bóng dáng nương náu của dối trá. Ví dụ gần đây nhất về hiện tượng dối trá trong cán bộ cơ sở gây bức xúc dư luận là trường hợp ông Lương Văn Thuận, Chủ tịch MTTQ xã Châu Hạnh, huyện Quỳ Châu (Nghệ An). Ông này thừa nhận đã tự ký danh sách 15 hộ nghèo nhận tiền quà Tết Nguyên đán Tân Sửu (năm 2021) để hợp thức hóa hồ sơ nộp lên huyện. Dư luận cho rằng, đó là hành vi dối trá, vi phạm pháp luật nhằm chiếm đoạt số tiền 7,5 triệu đồng của người nghèo.

Dối trá xuất hiện ở nhiều cá nhân, tập thể, cơ quan, đơn vị, địa phương thông qua những lĩnh vực hoạt động khác nhau. Nhiều cán bộ mua bằng, mua học vị để được đề bạt, bổ nhiệm, lên lương thay vì trau dồi đạo đức, năng lực công tác vốn rất tốn công, nhọc sức và mất thời gian. Dối trá thể hiện trong xin cấp ngân sách lớn hơn nhu cầu thực tế để sau đó làm hợp đồng khống, hợp thức bằng hóa đơn, chứng từ để giải ngân. Hoặc có hiện tượng thanh toán vượt giá thị trường, chi sai mục đích...

Hiện tượng dối trá trong các cơ quan, đơn vị, địa phương đã gây ra nhiều hệ lụy, là trở ngại lớn cho xây dựng Đảng và bộ máy Nhà nước; làm nhân dân hiểu sai lệch bản chất tốt đẹp của Đảng và chế độ; làm băng hoại đạo đức xã hội và các giá trị truyền thống; gây khó khăn trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tác động xấu đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm của nhân dân và là cái cớ để các thế lực thù địch xuyên tạc sự thật, kích động chống phá sự nghiệp cách mạng.

Dối trá cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng “thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”, là “bà đỡ” cho nịnh hót, bợ đỡ trong cơ quan, đơn vị, địa phương, có nguy cơ nhấn chìm động cơ phấn đấu của những người trung thực; phá vỡ tổ chức đảng từ bên trong.


- Theo QĐND- 


Bác bỏ thông tin sai sự thật về người Khmer ở Việt Nam

"Đồng bào Khmer là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, chung sống bình đẳng và hòa hợp, cùng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc suốt chiều dài lịch sử của đất nước", Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng ngày 31/8 nêu rõ. 

Ngày 31/8, trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Việt Nam trước việc tổ chức Khmer Kampuchea Krom vu cáo bịa đặt về tình hình người Khmer ở Việt Nam, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nêu rõ: “Chúng tôi bác bỏ những thông tin không có cơ sở, sai sự thật về tình hình người Khmer ở Việt Nam".

Theo đó, đồng bào Khmer là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, chung sống bình đẳng và hòa hợp, cùng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc suốt chiều dài lịch sử của đất nước.

Bà Phạm Thu Hằng khẳng định: "Các dân tộc Việt Nam đều được đối xử bình đẳng. Nhà nước Việt Nam bảo đảm và tạo điều kiện phát triển về mọi mặt nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp, đóng góp củng cố khối đại đoàn kết dân tộc”.

-Theo CAND-


Lời Bác dạy ngày này năm xưa: Ngày 02 tháng 9

“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Đây là lời khẳng định và cũng chính là lời kết trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc chiều ngày 02 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình khai sinh sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Lời khẳng định thể hiện sâu sắc ý chí mạnh mẽ và quyết tâm sắt đá của nhân dân ta, quyết tâm bảo vệ nền độc lập mới giành được, thể hiện lập trường kiên định về độc lập, tự do của dân tộc, phản ánh niềm tin vững chắc vào sức mạnh của dân tộc Việt Nam, dù phải hy sinh gian khổ, song quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập. Lời của Người vang vọng núi sông, có sức cổ vũ mạnh mẽ nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập có giá trị sâu sắc, tiếp tục soi sáng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 

Hiện nay và trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực, đặc biệt là trên Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ dễ gây mất ổn định đối với khu vực và đất nước. Trong nước, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”“tự chuyển hoá” trong nội bộ để chống phá cách mạng nước ta toàn diện trên các mặt: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại… Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, như: khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, các thảm họa thiên tai, môi trường… có chiều hướng gia tăng. Để thực hiện trọn vẹn lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ năm xưa, lực lượng vũ trang nhân dân phải được quan tâm xây dựng vững mạnh toàn diện, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao; chú trọng đổi mới, nâng cao hơn nữa chất lượng huấn luyện chiến đấu theo phương châm "cơ bản, thiết thực, vững chắc", coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu sát thực tế chiến đấu, yêu cầu nhiệm vụ, địa bàn hoạt động và trong từng lực lượng, đơn vị; phù hợp với tổ chức biên chế, trang bị, sự phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam và yêu cầu tác chiến trong điều kiện địch có sử dụng vũ khí công nghệ cao. Tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt cho toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xứng đáng là quân đội cách mạng, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

- st-

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - BIỂU TƯỢNG CỦA TINH HOA VÀ KHÍ PHÁCH DÂN TỘC VIỆT NAM

 

Nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh là nói đến biểu tượng của tinh thần yêu nước, khí phách anh hùng và khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam. Tất cả những gì tốt đẹp nhất của dân tộc ta trong hàng nghìn năm lịch sử đều được kết tinh, hun đúc, sống dậy, tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ hết trong cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, trong thời đại Hồ Chí Minh. 

 

Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa những giá trị tinh thần cao quý như độc lập, tự do, hạnh phúc, loại bỏ bất công, bất bình đẳng, hòa bình và công lý, một thế giới mới chống lại đói nghèo, bệnh tật, dốt nát.

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa yêu nước là thứ của quý, động lực tinh thần lớn nhất cho cách mạng, kháng chiến và xây dựng. Người khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước “có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh phát kiến lại chủ nghĩa yêu nước truyền thống không phải bằng lý luận, sách vở thuần túy mà chủ yếu thông qua thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Người sử dụng liên tục chủ nghĩa yêu nước như một vũ khí và rèn luyện vũ khí ấy ngày càng sắc bén trong trường kỳ cách mạng và kháng chiến. Người chỉ rõ: “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân chủ mới”. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh kéo dài hàng nghìn năm đã nhào nặn tâm hồn Việt Nam, đạo lý và khí phách Việt Nam. Chúng ta tự hào về một dân tộc rắn rỏi, kiên trung, hiên ngang, có tinh thần độc lập tự chủ, lạc quan, sáng tạo, thương người, chính nghĩa, đại nghĩa, trước “sóng cả không ngã tay chèo”.

Những giá trị đó có từ ngàn xưa, được vun bồi, kết tinh, sống dậy trong Hồ Chí Minh, phát sáng hào quang. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là biểu tượng rực rỡ của cuộc chiến đấu giành tự do; là mẫu mực xuất chúng về mọi đức tính nhân đạo, tượng trưng cho tinh thần của dân tộc “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Để khởi nghĩa thắng lợi, Người khái quát và nâng cao tinh thần, khí phách của dân tộc: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” và cuối cùng Việt Nam đã giành được độc lập. 

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - một trong các tiền thân của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay. Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 đã mãi mãi khắc sâu vào trái tim và khối óc của mỗi con người Việt Nam và đây là nguồn động viên lớn để khơi dậy lòng nhiệt huyết của thế hệ hôm nay quyết giữ vững nền độc lập tự do, như Bác Hồ đã từng nói: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. 

Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt vời về nhiệt tình, chí khí cách mạng kiên cường, khí phách anh hùng, tinh thần độc lập tự do, một lòng kiên trì cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ, lâu dài, phức tạp, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; thắng không kiêu, bại không nản. Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ phẩm chất của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cách mạng vô sản dũng cảm kiên cường, triệt để, suốt đời hy sinh phấn đấu với niềm tin và tư thế của một người chiến thắng. Đó là khí phách và khát vọng của những người được sứ mạng lịch sử trao cho là đánh đổ xã hội cũ áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng xã hội mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy dân làm gốc.

Bên cạnh đó, thế giới đã khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cộng sản theo Chủ nghĩa quốc tế, đồng thời tượng trưng cho dân tộc mình. Một dân tộc trải qua hàng nghìn năm lịch sử, từ thời cổ trung đại đến cận hiện đại đã tiến hành liên tục các cuộc đấu tranh anh hùng để bênh vực những giá trị đạo đức cao cả, chân chính không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà cả với nhân loại. Đó là quyền sống, độc lập, tự do, hạnh phúc, công lý cho mọi dân tộc và vì mọi người, bình đẳng giữa các dân tộc, thế giới hòa bình. Câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã vang vọng khắp mọi nơi trên toàn thế giới hưởng ứng./.

#St. Trường Tồn 

MỪNG NGÀY QUỐC KHÁNH

 

MỪNG ngày vui đất nước

NGÀY  dân tộc ta có được hôm nay

ĐẤT về tay nông dân có ruộng cày

NƯỚC non muôn dặm càng ngày ấm no

HÒA  trong không khí tự do

BÌNH  minh rực rỡ Bác cho đẹp giàu

THỐNG kê cả nước một màu

NHẤT trí đánh giá trước sau gật đầu

NON  nước một thời bế dâu

SÔNG xanh núi biếc nhu cầu đi lên

MỘT lòng Theo Đảng vững bền

MỐI tình dân tộc ghi tên bảo tàng

ĐẸP từ gia đình đến xóm làng

GIÀU tình giàu nghĩa rộn ràng khắp nơi 

ĐỜI sống nay đã đổi đời

NHỚ về quá khứ cái thời đi qua

ƠN này ta giữ nếp nhà

BÁC Hồ vĩ đại cha già kính yêu.

St.# Trường Tồn 

Bám sát cơ sở, tham mưu trúng, kịp thời, hiệu quả



Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy: “Chính trị trọng hơn quân sự”, ngay từ ngày đầu thành lập (1-9-1951), cán bộ, chiến sĩ Cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp-nay là Tổng cục Hậu cần (TCHC) đã không ngừng nỗ lực, từng bước khẳng định vai trò, vị trí là cơ quan tham mưu trọng yếu trong hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) của TCHC, góp phần xây dựng Tổng cục vững mạnh toàn diện, ngành hậu cần Quân đội ngày càng phát triển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Do yêu cầu, tính chất nhiệm vụ, các đơn vị trong TCHC đóng quân trên địa bàn cả nước, có nhiều loại hình, đối tượng khác nhau; do đó, hình thức, phương pháp tiến hành CTĐ, CTCT cũng có những khác biệt nhất định. Trên cơ sở bám sát chức năng, nhiệm vụ, công tác tham mưu các hoạt động CTĐ, CTCT của Cục Chính trị đã có sự nhạy bén, linh hoạt, theo hướng lựa chọn những việc trọng tâm, trọng điểm, kịp thời chỉ đạo giải quyết những công việc đột xuất và tháo gỡ những tồn tại, vướng mắc nổi lên ở cơ sở.


Với tinh thần “Hướng về cơ sở, hướng về bộ đội”, thực hiện tốt phương châm “Đổi mới, sáng tạo-sâu sát cơ sở-thực chất, hiệu quả”; những năm qua, Cục Chính trị đã chú trọng tham mưu, chỉ đạo tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, nhất là cấp chi bộ và đảng bộ cơ sở; đề cao vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên. Thường xuyên củng cố kiện toàn xây dựng hệ thống cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị các cấp vững mạnh, có đủ trình độ, năng lực, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ CTĐ, CTCT trong từng cơ quan, đơn vị và từng nhiệm vụ.


Nhiều năm qua, Cục Chính trị luôn bám sát nhiệm vụ chính trị, thực tiễn hoạt động của các cơ quan, đơn vị, làm tốt công tác tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn và triển khai tổ chức thực hiện toàn diện các mặt hoạt động CTĐ, CTCT với những biện pháp đồng bộ, khoa học, sáng tạo. Đặc biệt, cơ quan đã chủ động tham mưu cho Thường vụ, Đảng ủy TCHC lãnh đạo, chỉ đạo triển khai chặt chẽ, hiệu quả các mặt công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ của Tổng cục đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Gắn quy hoạch tạo nguồn cán bộ chủ trì với kiện toàn cấp ủy các cấp, thực hiện tốt việc sáp nhập, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm cán bộ, tạo sự chuyển tiếp vững chắc, liên tục giữa các thế hệ cán bộ; tăng cường bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ qua thực tiễn cơ sở để phát triển, trưởng thành.

Để hoạt động CTĐ, CTCT đi vào chiều sâu, vững chắc, Cục Chính trị tham mưu, chỉ đạo và hướng dẫn các đơn vị tập trung đổi mới nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị; chú trọng xây dựng yếu tố chính trị tinh thần, để bộ đội xác định quyết tâm cao hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao với nhiều nội dung và hình thức phong phú như: Chủ động biên soạn các nội dung giáo dục chính trị riêng theo từng đối tượng; hằng năm tổ chức các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ trì, báo cáo viên các cấp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý và giáo dục chính trị, nhất là việc thực hiện chuyển đổi số trong công tác giáo dục truyền thống...


Tăng cường triển khai các giải pháp nắm tình hình chính trị nội bộ, tình hình tư tưởng ở các cơ quan, đơn vị; nổi bật là đã phát huy hiệu quả các tổ đội công tác bảo vệ, dân vận, tổ tuyên truyền pháp luật đi đến các đơn vị cơ sở để tuyên truyền pháp luật, nắm tình hình. Đẩy mạnh nắm tình hình trên không gian mạng xã hội, thực hiện nền nếp sinh hoạt ngày chính trị văn hóa và tinh thần; thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở ở các cấp.


Trong đối thoại dân chủ, Cục Chính trị còn chủ động tham mưu với Thường vụ Đảng ủy, chỉ huy TCHC kết hợp tiến hành khảo sát tình hình tư tưởng đơn vị thông qua phiếu khảo sát. Việc kết hợp sinh hoạt ngày chính trị văn hóa tinh thần thông qua đối thoại dân chủ với khảo sát tình hình đơn vị bằng phiếu khảo sát dưới dạng điều tra xã hội học đã được Cục Chính trị chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện từ năm 2015 đến nay, được khẳng định là giải pháp rất có hiệu quả trong việc tăng cường nắm sâu, nắm chắc tình hình cơ quan, đơn vị.


Thông qua những giải pháp trên, nhiều vấn đề ở cơ sở được nắm bắt, tham mưu, chỉ đạo, giải quyết kịp thời các hoạt động CTĐ, CTCT được triển khai thực hiện hiệu quả, thiết thực, thông qua đó đã trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công tác bảo đảm hậu cần cho Quân đội trong mọi tình huống, xây dựng Đảng bộ TCHC trong sạch, vững mạnh tiêu biểu; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện "mẫu mực, tiêu biểu".


Thời gian tới, trước yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng đòi hỏi cao hơn, mỗi cán bộ, chiến sĩ Cục Chính trị xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ, tiếp tục phát huy truyền thống “Tuyệt đối trung thành, đoàn kết, sáng tạo, tận tụy, chu đáo, giữ vững nguyên tắc”, ý chí tự lực, tự cường, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, thực hiện nghiêm túc, thực chất, hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các quy định về nêu gương để xây dựng Đảng bộ Cục Chính trị trong sạch, vững mạnh, nội bộ đoàn kết, nỗ lực, phấn đấu, tự giác, tự soi, tự khắc phục các thiếu sót, khuyết điểm để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.🇻🇳

#TV. St. Trường Tồn 

Thứ Sáu, 1 tháng 9, 2023

ÔNG CHA TA GIỮ NƯỚC: NGUYỄN CÔNG TRỨ: "VỊ QUAN "NGÔNG" 80 TUỔI XIN TÒNG QUÂN ĐÁNH GIẶC"!

         Nguyễn Công Trứ nổi tiếng là vị quan “ngông” với thái độ sống đầy tự tin, vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến. Ông cũng nổi bật bởi tấm lòng yêu nước thương dân, 80 tuổi vẫn xin vua ra trận đánh giặc.

Nguyễn Công Trứ tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu là Hi Văn (1778-1858), người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Theo một số tài liệu, ông sinh ra ở Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình, năm 10 tuổi theo gia đình về quê cha ở Hà Tĩnh.

Từ nhỏ, Nguyễn Công Trứ nổi tiếng học giỏi, hay thơ văn, tính cách phóng khoáng.

Lận đận trong chuyện “lều chõng”, mãi đến năm 1819, khi đã 41 tuổi, Nguyễn Công Trứ mới thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan. Ông làm quan ở các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, nổi tiếng là thanh liêm, chính trực, tài trí hơn người.

Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những chiến công trong quân sự, kinh tế; nhưng với tính cách thẳng thắn vượt vòng kiêm tỏa, không màng danh lợi, không ít lần ông bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú,…

Năm 1847, ở tuổi 70, Nguyễn Công Trứ xin về hưu nhưng vua không đồng ý. Năm 1848, ông mới được về hưu hẳn. Nhưng, năm Mậu Ngọ (1858), khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, đã 80 tuổi, ông vẫn tha thiết xin vua được tòng quân đi đánh giặc. Thấy ông tuổi già sức yếu, vua đã không chuẩn y.

Công lao của Nguyễn Công Trứ được ghi nhận ở nhiều lĩnh vực. Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay)…

Ngoài việc khai khẩn đất đai, Nguyễn Công Trứ còn có công làm yên những cuộc khởi nghĩa nông dân của Phan Bá Vành ở Nam Định, của Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang…

Ông còn chăm lo cho cuộc sống đói nghèo của nông dân, đề nghị “đặt nhà học” cho con em nhân dân, “đặt xã thương” ở các làng để quản lý thóc gạo và rất nhiều công việc khác nhằm đảm bảo cuộc sống cho dân.

Không chỉ là nhà quân sự, nhà khẩn hoang, Nguyễn Công Trứ còn là nhà thơ nổi bật trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19. Thơ ca của Nguyễn Công Trứ xoay quanh các chủ đề như chí nam nhi “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”.

Ông cũng viết nhiều về thế thái nhân tình như “Tau ở nhà tau, tau nhớ mi/ Nhớ mi nên phải bước chân đi/ Không đi mi nói: răng không đến?/ Đến thì mi nói: đến làm chi”.

Nổi tiếng bậc nhất trong các áng thơ ca của Nguyễn Công Trứ có thể kể đến “Bài ca ngất ngưởng” thể hiện chất ngông đầy khí phách của Nguyễn Công Trứ. 

Ngày nay, các nhà sử học đều khẳng định, Nguyễn Công Trứ là một trí thức lớn, một nhà chính trị và nhà thơ lớn của dân tộc. Cuộc đời ông là bản hùng ca về khí phách nam nhi và cái ngông của bậc dũng tướng./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THỦ TƯỚNG PHẠM MINH CHÍNH THAM DỰ HỘI NGHỊ CẤP CAO ASEAN 43!

         Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43 và các Hội nghị Cấp cao liên quan sẽ diễn ra tại Jakarta, Indonesia, với sự tham dự của các nhà lãnh đạo các nước ASEAN cùng các nước đối tác lớn.

Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao, nhận lời mời của Ngài Joko Widodo, Tổng thống nước Cộng hòa Indonesia - nước Chủ tịch ASEAN 2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43 và các Hội nghị Cấp cao liên quan tại Jakarta, Indonesia từ ngày 4 đến ngày 7/9.

Ngoài các nhà lãnh đạo từ các nước ASEAN, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43 dự kiến còn có sự tham dự của các nước đối tác như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, New Zealand, Australia, Liên bang Nga và Mỹ. Lãnh đạo Diễn đàn Đảo Thái Bình Dương, Thủ tướng Canada, Giám đốc điều hành Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) cũng dự kiến tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43 tại Jakarta.

Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43 tại Jakarta sẽ thảo luận về việc phát triển và tăng cường hợp tác ASEAN với các đối tác bên ngoài. Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43 sẽ thảo luận một số chủ đề quan trọng như Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông, Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tầm nhìn Hàng hải ASEAN, Tầm nhìn ASEAN ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (AOIP) và các vấn đề liên quan đến Myanmar.

Là nơi diễn ra các cuộc gặp song phương giữa lãnh đạo các nước Đông Nam Á và các nước đối tác, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43 tại Jakarta có mục tiêu rõ ràng: củng cố thành tựu và nền tảng của Tầm nhìn ASEAN 2045.

Ngoài ra, dự kiến Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 43 tại Jakarta cũng sẽ đạt được một số thỏa thuận quan trọng, như các thỏa thuận liên quan đến tăng cường cơ sở hạ tầng ASEAN, an ninh lương thực, nền kinh tế xanh, cũng như nền kinh tế kỹ thuật số và hệ sinh thái thanh toán./.
Yêu nước ST.

QUỐC KHÁNH VIỆT NAM.


Hôm nay tháng 9 mùng 2.

78 năm trước kỳ đài Tuyên ngôn.

Từ thành thị đến nông thôn.

Cờ bay phấp phới, trống dồn mừng vui.


Nhân dân miệng nở nụ cười.

Mọi quyền lợi trên cõi đời về ta.

Lời Bác Hồ vang vọng xa.

Việt Nam dân chủ giờ là tự do.


Kết quả đấy phần Đảng lo

Phần nhiều công sức rất to Dân làm

Dấu son Quốc khánh Việt Nam

Tự hào, kiêu hãnh chảy tràn trong tim.


Xin gửi trọn cả niềm tin.

Hệ tư tưởng Mác-Lênin, Cụ Hồ.

Giang sơn, gấm vóc, cơ đồ.

Việt Nam thịnh vượng điểm tô sắc hồng.


Vinh danh Tổ quốc thành đồng.

Đảng - Dân đoàn kết thế rồng bay cao.

Tết Độc lập xin cúi chào

Sao vàng 5 cánh trên cao hoà bình.


Việt Nam đất nước chúng mình

Ngàn năm văn hiến hiển vinh với đời.

Xin tri ân những con người.

Mang tư do đến đất trời Việt Nam.


TỰ HÀO LÀ NGƯỜI VIỆT NAM.

TÔI YÊU VIỆT NAM!


TÌM HIỂU GIÚP BẠN: VIỆT NAM KHÔNG “TỰ CÔ LẬP MÌNH” TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG!

         - Đến nay, Việt Nam đã 4 lần công bố Sách trắng quốc phòng, trong đó công khai chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ, nhằm mục tiêu tạo lập, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận một cách vô căn cứ.
          Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng, bảo vệ chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.
          Việt Nam là đất nước luôn phải đối mặt với nguy cơ bị xâm lược từ bên ngoài và đã phải trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, khát khao được sống trong hòa bình, độc lập; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là mong muốn, thiện chí và quan điểm nhất quán trong chính sách quốc phòng của Việt Nam.
         Tuy nhiên, thời gian qua, các thế lực phản động, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, nhóm người tự xưng là “người yêu nước”, “tâm huyết” với vận mệnh quốc gia-dân tộc đã gửi “thư ngỏ”, “kiến nghị”, viết bài tán phát với những giọng điệu xuyên tạc, bóp méo đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng của Việt Nam. Chúng cho rằng, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các quốc gia luôn có mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau, trong khi đó Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và chính sách quốc phòng “4 không” (không liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) là “bảo thủ, lỗi thời”, “tự mình cô lập mình”, “tự trói tay, chân mình”, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
          Ngang nhiên, trắng trợn hơn, chúng còn vu khống, quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh là khơi mào cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, là để chống lại một nước thứ ba. Đặc biệt, các thế lực thù địch cho rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Do đó, chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc thì Việt Nam mới giữ vững được chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc.

         Có thể thấy mục đích sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch là nhằm dẫn dắt, hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc bên ngoài, đánh mất độc lập, tự chủ trong các hoạt động quân sự, quốc phòng, đối ngoại. Đồng thời, kích động, gieo rắc tâm lý hoài nghi trong xã hội vào khả năng bảo vệ đất nước của quốc phòng Việt Nam, tính đúng đắn của đường lối quân sự, quốc phòng, đối ngoại của Đảng; từ đó gây chia rẽ, mâu thuẫn nội bộ, làm giảm sút lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, đối ngoại; cấp độ cao hơn là từ chối thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, hoặc tham gia vào các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

          Soi rọi vào lý luận và thực tiễn đều cho thấy, những luận điệu trên của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ, xuyên tạc trắng trợn chính sách quốc phòng của nước ta:
  
          Về lý luận: Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh là luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, “dựa vào sức mình là chính”, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”; kết hợp chặt chẽ sức mạnh nội lực của đất nước với sức mạnh quốc tế để củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

         Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ vai trò, tầm quan trọng của sức mạnh nội lực, của mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Người nói: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”; “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”. Đồng thời, Người căn dặn, phải luôn “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế” để “cương nhu kết hợp”; phải đặc biệt coi trọng xử lý khéo léo quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng và các nước lớn, vì lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc. 

          Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định nhất quán quan điểm: “Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quyết định”. Đồng thời: Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc.

          Chiến lược quốc phòng Việt Nam năm 2018 xác định: Xây dựng, củng cố quan hệ, lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các đối tác chiến lược, tạo thế để bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra; tham gia tích cực, trách nhiệm, hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc (LHQ) và những vấn đề liên quan của cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới.

         Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 chỉ rõ, cùng với chủ trương “4 không”, Việt Nam: “Tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”.

         Đồng thời, Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, xây dựng lòng tin, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để ngăn ngừa nguy cơ và đối phó với chiến tranh xâm lược; sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển. Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

         Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại...". Đồng thời: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng những biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc”. 

        Về thực tiễn: Trong những năm qua, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng đã đề ra, trở thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia (bao gồm 190/193 nước thành viên LHQ); đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với hơn 100 nước trên thế giới, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an LHQ và tất cả các nước lớn trên nhiều lĩnh vực.

         Đặc biệt, gần 10 năm qua, Việt Nam đã triển khai hơn 530 cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ tại các phái bộ và trụ sở LHQ ở New York (Hoa Kỳ). Việc tham gia ngày càng tích cực, hiệu quả vào hoạt động gìn giữ hòa bình thế giới của Việt Nam đã được LHQ ghi nhận và đánh giá cao, để lại những ấn tượng tốt đẹp với chính quyền, người dân nước sở tại và bạn bè quốc tế. Hình ảnh chiến sĩ mũ nồi xanh Việt Nam, phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới được lan tỏa rộng rãi, ghi dấu ấn tích cực và đậm nét trong lòng nhân dân, kiều bào Việt Nam ở nước ngoài, được bạn bè quốc tế trân trọng, quý mến.

         Mặt khác, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt hiện nay, nếu dựa vào nước lớn này làm đồng minh, liên minh thì sẽ trở thành đối tượng chiến lược, đối đầu với nước lớn khác. Vì vậy, Việt Nam kiên định chính sách “4 không”, thêm bạn, bớt thù; tăng đối tác, giảm đối tượng, xử lý hài hòa quan hệ với các nước; thiết lập, củng cố quan hệ với tất cả các nước, nhất là các đối tác chiến lược, hội nhập quốc tế sâu rộng, gia tăng sự đan xen lợi ích chung với nhiều nước, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế; ngăn ngừa nguy cơ và đối phó thắng lợi với mọi hình thức chiến tranh xâm lược là lựa chọn đúng đắn, phù hợp nhất. Trong bất luận hoàn cảnh nào, Việt Nam cũng không chọn bên mà chọn lẽ phải, chính nghĩa.

         Như vậy, cả lý luận và thực tiễn, rõ ràng là những minh chứng đầy đủ, khách quan, thuyết phục nhất, thể hiện rõ mong muốn, thiện chí: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam mà không một thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận. Đồng thời cũng vạch trần âm mưu đen tối của các thế lực thù địch đối với chính sách quốc phòng Việt Nam.

         Theo đó, để đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, làm rõ tính đúng đắn của chính sách quốc phòng Việt Nam ở cả trong nước và quốc tế; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; huy động tối đa các nguồn lực để tăng cường sức mạnh quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, phát huy vai trò “tiên phong” trong kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước./.
Yêu nước ST.

BÀI VIẾT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 78 NĂM QUỐC KHÁNH NƯỚC CHXH VIỆT NAM: PHÁT BIỂU CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC VÕ VĂN THƯỞNG TẠI LỄ KỶ NIỆM 78 NĂM NGÀY QUỐC KHÁNH 2/9!

     Tối 31/8, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và Phu nhân chủ trì Lễ kỷ niệm 78 năm Ngày Quốc khánh (2/9/1945-2/9/2023). Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Chủ tịch nước cùng độc giả:


Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa Ngài Đại sứ Saadi Salama, Trưởng đoàn Ngoại giao,
Thưa các vị đại sứ, đại biện, trưởng đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam,
Thưa các vị khách quý và các bạn,

1. Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể dân tộc Việt Nam triệu người như một đã vùng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những trang sử vàng chói lọi nhất của dân tộc Việt Nam, khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, mở ra bước ngoặt vĩ đại, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới-kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam) và tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do và độc lập ấy”.
 2. Từ mùa thu Cách mạng năm 1945, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, dân tộc Việt Nam đã kiên cường, anh dũng trải qua nhiều cuộc trường chinh vô cùng gian khổ, ác liệt, với sự hy sinh của hàng triệu người con ưu tú để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ đổi mới, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, một lần nữa nhân dân Việt Nam lại bước vào cuộc chiến đấu đầy gian khó để xóa đói, giảm nghèo, lạc hậu và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Chính trị-xã hội ổn định. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. An sinh xã hội được bảo đảm. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Từ một đất nước không có tên trên bản đồ thế giới, đến hôm nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia; đã vươn lên, trở thành một nền kinh tế năng động hàng đầu ở châu Á-Thái Bình Dương, một mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế, hiệp định thương mại tự do, chuỗi sản xuất khu vực và toàn cầu. Việt Nam là đất nước của hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, là điểm đến tươi đẹp, an toàn, thân thiện, giàu lòng mến khách.
Thưa các đồng chí và quý vị đại biểu,
3. Tài sản vô giá, sức mạnh to lớn để nhân dân Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh chính là tinh thần yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí kiên cường và lòng quả cảm, tinh thần quyết tâm, tự lực, tự cường, khát vọng mãnh liệt vì độc lập, tự do, hòa bình, hạnh phúc. Các giá trị cao đẹp ấy được hun đúc, bồi đắp, giữ gìn và phát huy qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Việt Nam kiên trì phấn đấu thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Trên con đường hiện thực hóa khát vọng trở thành một quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045; phải tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kiên trì đẩy mạnh đồng bộ và toàn diện sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn, phát huy những di sản quý báu mà các thế hệ người Việt Nam đã dày công vun đắp. Trong tiến trình ấy, nhân dân luôn ở vị trí trung tâm, là chủ thể, động lực và mục tiêu xuyên suốt của mọi chính sách phát triển.
4. Lãnh tụ Hồ Chí Minh-Anh hùng giải phóng dân tộc-Danh nhân văn hóa thế giới từng nói, Việt Nam là một bộ phận của thế giới, mọi việc trong thế giới đều có quan hệ với Việt Nam. Thực hiện lời dạy của Người, những năm qua, Việt Nam luôn nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiều trọng trách tại các diễn đàn đa phương, chung tay thực hiện các mục tiêu phát triển, bảo vệ quyền con người và đóng góp tích cực vào gìn giữ hòa bình thế giới, được bạn bè quốc tế yêu mến. Trong mỗi chặng đường phát triển của Việt Nam đều in đậm dấu ấn tình cảm tốt đẹp, sự ủng hộ, hợp tác hiệu quả, thiết thực, sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của bạn bè trên thế giới.
Nhân ngày lễ trọng đại của dân tộc, thay mặt Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn các quốc gia, đối tác và nhân dân tiến bộ trên thế giới đã đồng hành với Việt Nam, dành cho Việt Nam sự yêu mến, tin cậy, sự chia sẻ, hỗ trợ quý báu, góp phần vào những thành tựu của Việt Nam 78 năm qua, để “Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Tôi tin rằng, đó là nền tảng vững chắc để chúng ta vun đắp tình hữu nghị và quan hệ hợp tác bền chặt trong thời gian tới.
Thưa các đồng chí và quý vị đại biểu,
5. Chúng ta đang sống trong một thời đại nhiều biến động và phức tạp, nguy cơ, khó khăn, thách thức và những vấn đề lớn đặt ra cho mỗi quốc gia ngày càng nhiều. Những vấn đề toàn cầu, an ninh truyền thống và phi truyền thống tiếp tục diễn biến phức tạp, đe dọa ổn định và phát triển bền vững. Xung đột và chia rẽ vẫn tiếp diễn ở nhiều khu vực, căng thẳng địa chính trị gia tăng, chủ nghĩa đa phương, luật pháp quốc tế đứng trước nhiều thách thức.
Chúng tôi cho rằng, để gìn giữ hòa bình và thịnh vượng chung cho tất cả các quốc gia, chúng ta cần cùng nhau đoàn kết, thúc đẩy hợp tác; củng cố chủ nghĩa đa phương; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Việt Nam sẵn sàng làm cầu nối cho hợp tác và đối thoại, củng cố chủ nghĩa đa phương, thúc đẩy giải quyết bằng biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại về các tranh chấp trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; sẽ luôn là người bạn chân thành, thủy chung, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Tôi tin rằng, các vị đại sứ, đại biện và trưởng đại diện các tổ chức quốc tế sẽ tiếp tục là những nhịp cầu, đại diện tiêu biểu của lòng thiện chí, của sự chân thành, tin cậy, gắn bó, có nhiều đóng góp thiết thực nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác bền chặt giữa Việt Nam và các đối tác khác trên toàn thế giới.
Thưa các đồng chí và quý vị đại biểu,
6. Nghệ thuật là ngôn ngữ diệu kỳ đưa con người đến với nhau, kết nối tâm hồn bằng sự rung động của con tim. Những giai điệu âm nhạc trong chương trình nghệ thuật hôm nay sẽ mang đến cho các quý vị và các bạn nhiều cung bậc cảm xúc. Tinh thần hòa hiếu, nhân nghĩa từ trong mạch nguồn văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam đã vượt qua thử thách của không gian và thời gian, hòa quyện với tinh hoa văn hóa nhân loại, đưa Việt Nam đến với thế giới và đưa thế giới đến với Việt Nam.
Một lần nữa xin cảm ơn các đồng chí và quý vị đại biểu đã tới dự chương trình hôm nay.
Chúc các đồng chí và quý vị luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công.
Xin trân trọng cảm ơn!


Yêu nước ST.

TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG VIỆC LAN TỎA THÔNG TIN TÍCH CỰC!

     Hầu hết chúng ta nghe và nói rất nhiều về việc lan tỏa thông tin tích cực, nhưng thế nào là thông tin tích cực hay trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong vấn đề này như thế nào thì không phải ai cũng hiểu rõ.

Trên thực tế, trước khi đặt ra vấn đề trách nhiệm của mình thì các cán bộ, đảng viên trong vai trò của một công dân cũng luôn quan tâm đến việc lan tỏa thông tin để góp phần làm cho cuộc sống xã hội tốt đẹp hơn.

- Thế nào là thông tin tích cực?
Hiểu một cách phổ biến, thông tin tích cực là thông tin đúng đắn, chính xác về một sự việc, một nhân vật, một mô hình, một giải pháp hay, có ý nghĩa, có giá trị.

Thông tin đó có thể gieo cho người đọc những nhận thức, tình cảm tốt đẹp, có thể thúc đẩy người tiếp nhận có suy nghĩ tích cực, từ đó có hành vi tích cực, cung cấp cho người đọc những kiến thức, nhận thức đúng đắn, phù hợp, có ý nghĩa thiết thực… 

- Chọn thông tin tích cực để lan tỏa.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm trong việc chia sẻ thông tin tích cực, cả ở khía cạnh phải chọn thông tin phù hợp và thường xuyên thực hiện việc lan tỏa các thông tin đó. Mỗi người trước khi chia sẻ phải tư duy phản biện, thẩm định, đánh giá, phân tích, đối chiếu, so sánh… 

Khi tiếp nhận thông tin, không phải thông tin nào được lan truyền rộng rãi, được nhiều người đọc và chia sẻ cũng là thông tin chính xác, đúng đắn. 

Đồng thời, phải chú ý chọn thông tin nào mà mình tin là đúng, cảm nhận được cái hay, cái đẹp, bản thân được truyền cảm hứng. Mỗi người phải luôn ý thức rằng thông tin của mình sẽ có người đọc và ít nhiều chịu tác động, nên chọn thông tin tốt nhất, hay nhất, có ích nhất, ý nghĩa nhất.

Không chỉ vậy, là cán bộ, đảng viên còn phải luôn nghĩ đến liệu thông tin có gây hiểu lầm hoặc thúc đẩy ai đó nhận thức sai lệch không , nếu cảm thấy có thì không chia sẻ.

- Gợi ý cách lan tỏa thông tin tích cực.
Mỗi cán bộ, đảng viên có thể sử dụng tài khoản mạng xã hội hoặc trang mạng internet cá nhân của mình để chia sẻ, đăng tải, cung cấp, định hướng thông tin có ích cho người khác, cho xã hội và đất nước. Điều này hiện có thể được thực hiện dễ dàng bởi hầu hết chúng ta đều có ít nhất một tài khoản mạng xã hội; một số người còn có nhiều tài khoản đồng thời ở facebook, instagram, zalo, twitter…

Chúng ta cũng có thể đăng trên các trang diễn đàn (trên mạng internet hoặc các nền tảng mạng xã hội), trang cộng đồng (fanpage), nhóm (group)… những thông tin mà mình có căn cứ xác thực cho là đúng đắn, chính xác để có độ lan tỏa nhanh hơn, rộng hơn. Chẳng hạn, khi có căn cứ bác bỏ một thông tin chưa đúng, chúng ta có thể đưa thông tin đó vào các trang, nhóm có đông người theo dõi để tạo sự lan tỏa nhanh hơn, rộng hơn.

Sau cùng, chúng ta nên luôn gương mẫu, chuẩn mực khi phát ngôn, đăng tải hình ảnh, chia sẻ thông tin… trên mạng internet và mạng xã hội. Bản thân mỗi cán bộ, đảng viên nên luôn ý thức rằng mỗi thông tin, mỗi status mình đưa lên “có ích gì cho ai không”, chứ không phải nghĩ đến câu hỏi “có hại gì cho ai không”. Bởi trách nhiệm của chúng ta là đồng thời phải làm lan tỏa thông tin tích cực và tìm cách hạn chế, đẩy lùi các thông tin tiêu cực, thông tin xấu độc./.
Yêu nước ST.

BÀI VIẾT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 78 NĂM QUỐC KHÁNH NƯỚC CHXH VIỆT NAM: BÁC HỒ NIỀM TIN VÀ HY VỌNG!

Mồng 2 tháng 9 đã về
Chúng con nhớ Bác lời thề khắc ghi
Soi đường chỉ lối con đi
Để cho non nước sử thi vang rền
Bác ơi Bác đến bên đền
Hùng vương dựng nước Bác liền hô vang
Các con các cháu rộn ràng
Cùng nhau tay nắm khải hoàn múa vui
Ba đình nắng đẹp lên rồi
Tuyên ngôn bác đọc đất trời nở hoa
Cả dân tộc Việt chúng ta
Bác ơi Bác nhé Bác là niềm tin./.
Môi trường ST.

BÀI VIẾT CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 78 NĂM QUỐC KHÁNH NƯỚC CHXH VIỆT NAM: SÁNG MỒNG HAI THÁNG CHÍN!

“Hôm nay sáng mồng Hai tháng Chín
Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu tim chờ, chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình
Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh!!!
Người đứng trên đài lặng phút giây
Trông đàn con đó vẫy hai tay
Cao cao vầng trán ngời đôi mắt
Độc lập bây giờ mới thấy đây.”

Trích: Sáng mồng Hai tháng Chín - Tố Hữu!

🇻🇳 Ngày Quốc khánh Việt Nam là ngày lễ chính thức của Việt Nam, diễn ra vào ngày 2 tháng 9 hằng năm, kỷ niệm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Mỗi năm đến ngày này, trong trái tim mỗi người Việt Nam lại bùng lên những cảm xúc thiêng liêng và xúc động, cả nước ta lại chung lòng tưởng nhớ tới Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.

Từ sáng sớm lễ Quốc khánh ngày mùng 2/9, hàng chục vạn người hàng ngũ chỉnh tề, cờ hoa khoe sắc, áo quần tươi màu đỏ thắm đã dồn về quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Những biểu ngữ nền đỏ chữ vàng bằng các thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, Hoa, Nga chăng ngang đường phố.

🇻🇳 Hào hứng ý chí của nhân dân được biểu lộ trên các dòng chữ: “Nước Việt Nam là của người Việt Nam”, “Độc lập hay là chết”, “Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Lễ đài bằng gỗ đơn sơ được dựng lên giữa quảng trường Ba Đình uy nghiêm, đội tự vệ vũ trang cùng đơn vị Quân Giải phóng đầu đội mũ ca lô, quân phục nghiêm trang, chỉnh tề, hàng ngũ thẳng tắp đứng trước lễ đài. Những chiến sĩ cách mạng đã từng anh dũng chiến đấu ở Bắc Sơn, Võ Nhai lập nên các chiến công Nà Ngần, Phai Khắt giờ đây vẫn nắm chắc tay súng, một lòng hướng tâm bảo vệ nền Độc lập mới ra đời. Hơn 50 vạn người đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội trong nhân dân, ai ai cũng nét mặt hân hoan phấn khởi chờ đón giờ khai sinh của chế độ mới- chế độ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa./.


Yêu nước ST.

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 01 THÁNG 9 NĂM 1959!

         “Để lãnh đạo quân đội tiến bộ không ngừng, các đồng chí cần phải trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, giản dị, gần gũi quần chúng và gương mẫu về mọi mặt”!
     Là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lễ phong quân hàm cấp tướng cho một số cán bộ cao cấp trong quân đội, ngày 01 tháng 9 năm 1959. Đây là thời điểm miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 3 năm (1958-1960) cải tạo và bước đầu thực hiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; quân dân miền Nam đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chuyển từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đưa phong trào cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo.
     Hồ Chí Minh đã chỉ rõ người cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là cán bộ cấp tướng phải luôn phấn đấu, không ngừng trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, giản dị, gần gũi với bộ đội, với nhân dân, gương mẫu về mọi mặt. Đội ngũ sĩ quan cấp tướng quân đội đã trở thành những người lãnh đạo có uy tín, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Lời căn dặn của Bác đã trở thành phương châm hành động của mọi cán bộ, đảng viên của Đảng, nhất là đội ngũ tướng lĩnh quân đội đã thấu triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, tạo niềm tin trong quần chúng, cổ vũ, động viên quân và dân trên khắp hai miền Nam - Bắc nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ ở từng miền, góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
     Hiện nay, bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, lời căn dặn của Bác vẫn là một trong những định hướng quan trọng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất cách mạng, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, làm cơ sở ngăn ngừa, đẩy lùi những nguy cơ tác động tiêu cực từ bên ngoài.
     Mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nói chung, cán bộ cấp tướng nói riêng cần phải học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn giữ vững, phát huy và không ngừng xây dựng bản chất cách mạng, đặc biệt là bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; xây dựng Quân đội vừa là lực lượng chính trị, vừa là công cụ bạo lực sắc bén, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững mối quan hệ máu thịt với nhân dân; đấu tranh bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát triển các quan hệ đối ngoại quân sự song phương và đa phương phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc trong tình hình mới./.
Môi trường ST.

Ý NGHĨA THỜI ĐẠI VÀ SỰ TÁI SINH CỦA MỘT QUỐC GIA, MỘT DÂN TỘC!

         Bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ có giá trị lịch sử khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển ngày nay.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập do Người soạn thảo, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể thế giới về sự ra đời của một Nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

78 năm trôi qua, bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh như bản anh hùng ca bất hủ, sống mãi trong trái tim của những người con đất Việt.

Những tư tưởng, quan điểm của Người trong bản Tuyên ngôn Độc lập về quyền dân tộc và quyền con người, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên quyết để giữ vững nền độc lập tự do luôn có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Sự tái sinh của một quốc gia, một dân tộc
Theo các nhà sử học thì: ý nghĩa lớn nhất của bản Tuyên ngôn chính là lời tuyên bố trước thế giới về sự tái sinh của một quốc gia, một dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định đanh thép tại Quảng trường Ba Đình rằng: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết mang tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng, và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy".

Suốt gần 80 năm qua, trung thành với lời thề độc lập, toàn thể dân tộc Việt Nam đã đi qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, từ 60 ngày cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh, đến cuộc quyết chiến tại chiến trường Điện Biên Phủ 56 ngày đêm, hi sinh vô cùng to lớn, nhưng cuối cùng chúng ta đã vượt qua mọi gian khó để giành thắng lợi vĩ đại.

Tất cả đất nước đã đoàn kết, giữ trọn lời thề vang lên ở quảng trường Ba Đình ngày 2/9 năm ấy, mang hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền độc lập, tự do của Tổ quốc.

Phân tích thêm về giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn Độc lập, các nhà sử học cho biết, trong tiêu ngữ tên nước, có cụm từ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, đó chính là mục tiêu của cuộc cách mạng và cũng là ước nguyện của mỗi người dân. Tự do - Hạnh phúc là mục tiêu đặt ra cho cách mạng và cũng là ước nguyện của nhân dân.

Có thể nói, trong suốt cuộc hành trình từ năm 1975 đến nay, chúng ta đã tiến một bước chưa từng có trong lịch sử. Đó là cuộc sống của nhân dân được đảm bảo tự do, hạnh phúc.

Với lời văn ngắn gọn, đanh thép, lập luận chặt chẽ đi vào lòng người, bản Tuyên ngôn Độc lập là một cơ sở pháp lý vững chắc, không chỉ có giá trị lịch sử khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển ngày nay.

Việt Nam đã từng bước vượt qua khó khăn
Theo các nhà sử học, từ ngày độc lập đầu tiên 2/9/1945 đến nay, mỗi một thời kỳ đều để lại những mốc son trong sự phát triển của dân tộc, thời kỳ giành chính quyền, thời kỳ kháng chiến thống nhất đất nước hay thời kỳ đổi mới, đặc biệt trong những năm gần đây cả thế giới phải đối mặt với thử thách là đại dịch COVID-19 và chúng ta đã phòng chống thành công.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII diễn ra thời kỳ dịch vẫn đang còn hoành hành, nhưng chúng ta cũng đã tổ chức rất thành công!

Có thể nói, sau thời kỳ đầy khó khăn, phức tạp và có nhiều biến cố trên trường quốc tế, Việt Nam đã từng bước vượt qua khó khăn, vượt qua đại dịch. Đến nay, chúng ta vẫn giữ được sự ổn định của xã hội, duy trì được sự tăng trưởng kinh tế.

Và hình ảnh Thủ đô Hà Nội những ngày này đang rực rỡ sắc màu cờ hoa, băng rôn, khẩu hiệu chào mừng 78 năm Ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 là minh chứng rõ ràng nhất cho tinh thần của bản Tuyên ngôn Độc lập vẫn luôn sống mãi trong lòng các thế hệ người Việt Nam không chỉ bởi giá trị lịch sử, pháp lý mà còn bởi giá trị nhân văn cao cả về quyền con người, quyền của dân tộc được sống trong độc lập tự do như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ấp ủ và cống hiến cả cuộc đời mình để thực hiện./.


Yêu nước chỉnh sửa và ST.

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: KHẢO SÁT HAY CÁC ÔNG ÉP MÔN SỬ PHẢI CHẾT!

KHẢO SÁT NÀY LÀ THẰNG TUNG THẰNG HỨNG ĐÂU PHẢI Ý CỦA DÂN. NÓI THẲNG RA LÀ LÀM THEO Ý CỦA BỌN LÀM KẾ HOẠCH NƯỚC NGOÀI!
Bộ giáo dục muốn bỏ môn lịch sử thì nói thẳng ra mắc gì cứ loay hoay cái chuyện khảo sát. Khảo sát các ông làm như ta đây là dân chủ bằng việc khảo sát. Dân có câu hay để chỉ việc làm của các ông (thắng nh.ổ thằng l.iếm. Thằng ... thằng ăn; thằng tung thằng hứng) Các ông làm như dân n.gu lắm ấy. Dân nhìn rõ sự việc các ông làm muốn giết được lịch sử để lớp trẻ không biết lịch sử, mà lớp trẻ không biết lịch sử không có lòng tự tôn dân tộc chỉ biết hướng thụ chế độ sẽ sụp đổ như bọn Phương Tây đã làm ở Liên Xô này các ông đang áp dụng nó vào Việt Nam.
 
Khảo sát cái gì Về chăn heo đi ông S.ơn ơi các ông dừng bắt ép môn sử phải chết theo ý của các ông dân tương cho vỡ mặt ra chứ đừng đùa với dân./.


Ảnh: lượm trên Facebook.
Môi trường ST.

NHÀ BÁO, THƯỢNG TÁ CÔNG AN NGUYỄN HỒNG LAM - KẺ ĂN CƠM NHÀ NƯỚC NHƯNG THỜ HỒN MA BÁN NƯỚC!

        Đây là những bài viết của Nhà báo Nguyễn Hồng Lam, (tên thật là Nguyễn Đức Vinh, hiện đang là Thượng tá, Phó trưởng Cơ quan đại diện Cục Truyền thông Công an nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh). Nhân dịp kỷ niệm 48 năm ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Thượng tá Công an lên bài với nội dung
 bài viết có nhan đề "CHÍNH TRỊ". Khốn nạn ở chỗ, bài viết của Vinh bóng gió ca ngợi ngụy Sài Gòn và chê bai hiện thực chế độ hiện nay là tồi tệ! Không dừng lại ở đó, những bài Vinh viết chủ yếu có nội dung xuyên tạc lịch sử, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, đi ngược với lợi ích của quốc gia, dân tộc như ủng hộ Nguyên Ngọc, kẻ trở cờ, phản quốc hay thường xuyên liên lạc, kết bạn với Nguyễn Xuân Diện, Trương Huy San...

Một người đã được đào tạo, ăn học bài bản há không thể hiểu được bản chất của chế độ tay sai, bán nước ngụy Sài Gòn? Chế độ được người Mỹ dựng nên để phục vụ cho mục đích biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, vi phạm trắng trợn Hiệp định Giơ Ne Vơ năm 1954? Há không hiểu được những đau thương, tang tóc mà hàng triệu người Việt Nam phải gánh chịu dưới chế độ Mỹ ngụy? Ai bách hại nhân dân hay chính bản thân Nguyễn Đức Vinh, kẻ mang hàm Thượng tá Công an nhân dân nhưng lại cố súy cho giặc, những kẻ khát máu, sát hại nhân dân cùng chủng, cùng tộc trước 1975 chỉ vì lợi ích riêng? Nguyễn Đức Vinh luôn mồm ca ngợi chế độ cũ trước 1975, phỉ báng chế độ đã cho hắn ta tất cả. Cổ nhân dạy "khuyển mã chi tình", nghĩa là chó, ngựa cũng có cái tình nhưng xem ra tên này thua cả chó, ngựa khi ăn cây táo rào cây sung. 

Nếu chế độ này tồi tệ đến mức như Nguyễn Đức Vinh nói thì liệu có được cơ đồ, vị thế, uy tín trên trường quốc tế như bây giờ. Tôi cho rằng, điều tồi tệ nhất chính là những người đã đề bạt, bổ nhiệm Vinh leo lên đến chức Phó trưởng Cơ quan đại diện Cục Truyền thông Công an nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sâu mọt cần phải được khử bằng thuốc trừ sâu hạng nặng, gạn đục khơi trong. Những kẻ có tư tưởng như thế này nếu giữ lại trong ngành Công an sẽ là sự sỉ nhục đối với cơ quan được xem là nắm giữ thanh bảo kiếm để bảo về Đảng, nhà nước và nhân dân. Nguyễn Đức Vinh cần thiết phải được xử lý theo quy định của Điều lệ Đảng và pháp luật nhà nước, cụ thể:

- Điều lệ Đảng.

- Quy định số 69-QĐ/TW ngày 06/7/2022 của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm.

- Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm.

- Điều 331 Bộ luật Hình sự
Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có khung hình phạt như sau:

- Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

- Phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Đề nghị cơ quan chức năng xử lý kẻ ăn cơm cộng sản thờ ma 3/ này. Tổ chức các cơ quan từ Trung ương đến địa phương cũng cần nghiêm túc thực hiện các quy định của Đảng. Đừng để ngụy con chui sâu, léo cao, ảnh hưởng đến đất nước, chế độ./.




Yêu nước ST.

Lời Bác dạy ngày này năm xưa: Ngày 1-09-1959

Để lãnh đạo quân đội tiến bộ không ngừng, các đồng chí cần phải trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, giản dị, gần gũi quần chúng và gương mẫu về mọi mặt”.

Là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lễ phong quân hàm cấp tướng cho một số cán bộ cao cấp trong quân đội, ngày 01 tháng 9 năm 1959. Đây là thời điểm miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 3 năm (1958-1960) cải tạo và bước đầu thực hiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; quân dân miền Nam đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chuyển từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đưa phong trào cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ người cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là cán bộ cấp tướng phải luôn phấn đấu, không ngừng trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, giản dị, gần gũi với bộ đội, với nhân dân, gương mẫu về mọi mặt. Đội ngũ sĩ quan cấp tướng quân đội đã trở thành những người lãnh đạo có uy tín, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Lời căn dặn của Bác đã trở thành phương châm hành động của mọi cán bộ, đảng viên của Đảng, nhất là đội ngũ tướng lĩnh quân đội đã thấu triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, tạo niềm tin trong quần chúng, cổ vũ, động viên quân và dân trên khắp hai miền Nam - Bắc nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ ở từng miền, góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Hiện nay, bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, lời căn dặn của Bác vẫn là một trong những định hướng quan trọng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất cách mạng, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, làm cơ sở ngăn ngừa, đẩy lùi những nguy cơ tác động tiêu cực từ bên ngoài.

Mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nói chung, cán bộ cấp tướng nói riêng cần phải học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn giữ vững, phát huy và không ngừng xây dựng bản chất cách mạng, đặc biệt là bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; xây dựng Quân đội vừa là lực lượng chính trị, vừa là công cụ bạo lực sắc bén, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững mối quan hệ máu thịt với nhân dân; đấu tranh bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát triển các quan hệ đối ngoại quân sự song phương và đa phương phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc trong tình hình mới.

- st-