Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2023

KHẮC PHỤC BỆNH GIÁO ĐIỀU TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ NHÂN DÂN

 

        Muốn chống được giáo điều phải hết sức chú trọng giáo dục tư duy khoa học, tư duy lý luận, thấm nhuần để thực hành phép biện chứng duy vật, thống nhất hữu cơ với quan điểm duy vật biện chứng.

    1. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh trong chủ đề Đại hội, tiếp tục đổi mới sáng tạo, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc để dân tộc cường thịnh, trường tồn. Nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hướng tới mục tiêu đến năm 2045, vào giữa thế kỷ XXI, Việt Nam phải trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.

    Muốn đổi mới sáng tạo, muốn đạt tới mục tiêu tổng quát nêu trên, trước hết phải khắc phục triệt để bệnh giáo điều, từ nhận thức đến hành động, từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp, các ngành, ở trung ương, địa phương và cơ sở đến các cộng đồng dân cư trong xã hội, đến từng người. Bệnh giáo điều là một căn bệnh đã có từ lâu, tồn tại dai dẳng, bám sâu vào tư duy, vào cách ứng xử, vào các thói quen xấu trong nếp nghĩ, thâm nhập vào trong lối sống hằng ngày, vào các mối quan hệ: với mình, với người, với công việc và tổ chức bộ máy. Cùng với các bệnh khác, bệnh giáo điều gây ra những hậu quả tiêu cực, những hệ lụy xã hội phức tạp, thực sự là một lực cản xã hội ngăn trở chúng ta phát triển tới trình độ hiện đại.

    Giáo điều là bệnh thuộc về tư duy, ý thức, nhận thức. Đó là lối suy nghĩ cứng nhắc, máy móc, rập khuôn theo những công thức đã có sẵn, không thích ứng với biến đổi mau lẹ trong thực tiễn cuộc sống, thoát ly khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể. Do nhận thức giáo điều, dựa trên những phạm trù tĩnh nên hành động và ứng xử thường cứng nhắc, lệ thuộc vào những kết luận có sẵn trong sách vở, coi nó như một cái tuyệt đối, không thay đổi. Người mang bệnh giáo điều không thể linh hoạt, cản trở sự tìm tòi sáng tạo, không thích ứng với cái mới, ngại đổi mới thậm chí còn cố níu kéo cái cũ, dù đã tỏ ra lỗi thời, bị thực tiễn cuộc sống vượt qua từ lâu, sinh ra trì trệ, bảo thủ, chống lại cái mới và sự đổi mới, dù là không tự giác.

    Bệnh giáo điều thường đi liền với bệnh giản đơn, hình thức, chủ nghĩa kinh nghiệm thực dụng, tư duy siêu hình.

    Giáo đều có nguồn gốc nhận thức từ thế giới quan duy tâm chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình. Biểu hiện về mặt nhận thức là tách rời lý luận với thực tiễn, rơi vào “bệnh sách vở” mà thực chất là yếu kém về lý luận nhưng lại coi thường (“coi khinh” - chữ dùng của Hồ Chí Minh) lý luận, thường tuyệt đối hóa kinh nghiệm và bị chủ nghĩa kinh nghiệm trói buộc. Trong mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù, người mắc bệnh giáo điều thường tuyệt đối hóa cái phổ biến, phủ nhận cái đặc thù. Ngược lại thì rơi vào chủ nghĩa xét lại như Hồ Chí Minh giải thích.

    Tóm lại, đã giáo điều thì tất sẽ chủ quan, phiến diện và siêu hình. Nó xa lạ với tư duy biện chứng, phép biện chứng duy vật vốn là khoa học về phát triển, xử lý một cách biện chứng, khách quan, khoa học giữa cái khách quan và cái chủ quan. Biểu hiện trong thực tiễn, nhất là qua thái độ và sự ứng xử, người giáo điều, nhất là giáo điều tới mức cực đoan thì thường hay phản đối một cách cảm tính những ai có tư duy độc lập sáng tạo, hay quy kết, chụp mũ về lập trường quan điểm, hay “đao to búa lớn”, “đại ngôn”, từ những khác biệt trong nhận thức, mà họ không có khả năng thuyết phục người khác về mặt lý luận, khoa học thì chuyển ngay sang những nhận định, đánh giá, phê phán về lập trường, quan điểm, rất có hại cả về nhận thức khoa học và hành động chính trị.

    Người giáo điều rất hay có thói quen “chính trị hóa” mọi vấn đề, kể cả trong khoa học, dị ứng với những phê phán khoa học, hay định kiến đối với những ai và những gì khác mình. Cách nghĩ và hành xử như vậy là ở bên ngoài chân lý khoa học, ở bên ngoài dân chủ, xa lạ với văn hóa, bởi “văn hóa là biết lắng nghe”, bởi “văn hóa là thống nhất trong đa dạng, thống nhất bao hàm những khác biệt”, “văn hóa trong bản chất của nó là khoan dung”, (chấp nhận, thừa nhận cái khác mình, không tự lấy mình làm chuẩn để áp đặt người khác…)

    Xét về mặt văn hóa dân chủ, người giáo điều thường hành động xa lạ với dân chủ (không quen đối thoại, thảo luận, tranh luận, phản biện) để cùng tìm tòi chân lý.

    Xét về mặt đạo đức, người giáo điều dễ rơi vào hẹp hòi, đố kỵ, nhất là khi người đó lại có quyền hành và quyền uy, nếu mất bình tĩnh sáng suốt, thiếu tinh thần khách quan, tôn trọng khoa học và thực tiễn thì họ rất dễ mắc sai lầm về việc đàn áp tư tưởng, nhất là với giới trí thức sáng tạo. Xét về lãnh đạo của Đảng đối với trí thức, văn nghệ sĩ, lãnh đạo phải hiểu trí thức, nhất là với trí thức khoa học và nghệ thuật vì họ có cá tính mạnh, có nhu cầu lớn về tự do và sáng tạo, coi trọng khẳng định cái tôi - bản ngã độc lập nên khi dân chủ bị vi phạm, trí thức rất dễ tổn thương về tinh thần và các giá trị tinh thần. Lãnh đạo trí thức mà không dân chủ, không đủ sức thuyết phục họ về học thuật, tư tưởng và đạo đức thì tự nó tạo ra rào cản, thiếu sự đồng cảm, hợp tác và tin cậy lẫn nhau, khoa học thì thiếu động lực để phát triển và chính trị cũng không tiếp nhận được xung lực từ khoa học để “khoa học hóa” chính mình.

    Bệnh giáo điều giản đơn thường đồng nhất hóa nhiều vấn đề, nhiều sự kiện, hiện tượng vốn chỉ thống nhất (bao hàm khác biệt) chứ không đồng nhất.

    Trong đời sống, giải quyết mối quan hệ giữa khoa học và chính trị, giữa chân lý và quyền uy (quyền lực chính trị), giữa nhà khoa học và nhà chính trị, “con người khoa học” và “con người chính trị” vốn không đơn giản. Mối quan hệ phức tạp này sẽ được giải quyết bằng văn hóa, bằng ứng xử văn hóa tinh tế, bao dung của các nhà lãnh đạo mà Mác, Ăng ghen, Lênin, Hồ Chí Minh là những mẫu mực. Các ông là các nhà tư tưởng, đồng thời là những nhà bác học, nhuần nhuyễn giữa quan điểm duy vật và phương pháp biện chứng, sáng tạo chứ không giáo điều, linh hoạt uyển chuyển chứ không cứng nhắc, biết lắng nghe, biết đối thoại, biết thuyết phục. Hồ Chí Minh còn là bậc thầy về sự cảm hóa, thu phục nhân tâm, trọng dụng nhân tài, trọng đãi hiền tài một cách biện chứng chứ không siêu hình, một cách chân thành, tin cậy.

    Một trong những tác hại của bệnh giáo điều, ở những người giáo điều là, dù không tự giác, không cố ý, họ cũng rơi vào sự kìm hãm dân chủ và tự do tư tưởng, có nguy cơ trở thành độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ và làm phương hại tới sự trong sạch, trong sáng của môi trường đạo đức, văn hóa đạo đức. Hệ lụy của nó là tạo ra những kẻ hở, những mảnh đất dung dưỡng cho thói dân chủ hình thức, đoàn kết hình thức, “giả đạo đức” và “giả khoa học”, “giả chính trị”, “giả cách mạng”. Kẻ cơ hội và chủ nghĩa cơ hội sẽ lợi dụng triệt để tình trạng này để thực hiện những ý đồ, những hành vi bất minh, bất chính để vụ lợi và trục lợi.

    Đủ thấy vấn đề đặt ra phức tạp như thế nào và phải tìm tòi như thế nào để có một hệ giải pháp đồng bộ nhằm thanh toán triệt để bệnh giáo điều, từ nhận thức đến hành động trong cán bộ đảng viên và nhân dân.

    2. Một cách cụ thể và trực tiếp, muốn chống được giáo điều phải hết sức chú trọng giáo dục tư duy khoa học, tư duy lý luận, thấm nhuần để thực hành phép biện chứng duy vật, thống nhất hữu cơ với quan điểm duy vật biện chứng. Đây là giải pháp cơ bản, hàng đầu. Nói một cách khác, phải khắc phục thế giới quan duy tâm (cả chủ quan lẫn khách quan) cùng với phép siêu hình. Phải trau dồi năng lực tư duy triết học - ở đây cái cốt lõi là triết học Mác-Lênin đồng thời với trang bị hệ thống tri thức về lịch sử tư tưởng triết học. Các tri thức triết học và tư tưởng trong lịch sử triết học phải được dạy và học trên tinh thần và phương pháp khoa học như những môn khoa học cơ bản nghiêm túc nhất. Đang có một mâu thuẫn giữa tinh giản chương trình, thu hẹp hay lồng ghép các loại hình tri thức với khuynh hướng giản lược hóa các tri thức mà người học phải được lĩnh hội. Phải khắc phục tình trạng người học “dường như cái gì cũng biết” nhưng trên thực tế thì không biết thấu đáo, ngọn ngành tri thức nào. Hiểu biết hời hợt là đồng minh của giáo điều. Cần làm cho người học, nhất là sinh viên chuyên ngành có ý thức và nhu cầu tự trau dồi trí thức triết học, không chỉ tồn tại ở các nguyên lý như cái kết luận được thừa nhận mà phải biết, phải hiểu “cái lịch sử” để nắm vững thực chất của “cái lô gích”. Phải khắc phục định kiến của không ít người trong chúng ta về “tri thức hàn lâm”, do đó dẫn đến sự hiểu biết hời hợt, thậm chí tầm thường hóa thực tiễn ứng dụng, tách rời thực tiễn với lý luận. Không hiểu lý luận, không trọng lý luận thì không thể tiếp cận thực tiễn một cách khoa học, không phải là mô tả cái bề ngoài của thực tiễn mà cái chính là đem lý luận soi sáng cho thực tiễn, là “lý luận hóa” chứ không phải “kinh nghiệm hóa” nó.

    Giáo điều tất yếu sẽ biệt phái, chỉ thấy “cái một” - cái duy nhất mà không thấy sự muôn vẻ, sự đa dạng của trí thức, khoa học là phản ánh tính đa dạng của thực tiễn được khái quát hóa, lý luận hóa kinh nghiệm thực tiễn để vượt lên chủ nghĩa kinh nghiệm, tự giải phóng mình khỏi tình trạng biệt phái, giáo điều.

    Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng biện chứng của các nhà kinh điển và thực hành xuất sắc phép biện chứng đó. Người không chỉ giác ngộ và tin theo chủ nghĩa Mác-Lênin, trung thành một cách sáng tạo bằng cách phát triển sáng tạo chủ nghĩa, học thuyết đó. Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lênin là quan trọng và quyết định nhất trong ý thức hệ của mình, nhưng Người không xem đó là cái duy nhất. Người tiếp thu nhiều nguồn tri thức khác của văn hóa phương Đông và phương Tây, nhờ đó mà càng hiểu biết sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác-Lênin, thấy ở đó cả tinh thần và phương pháp, hiểu thực chất để thực hành sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn khoa học với chính trị và đạo đức, tổng hợp lại đó là văn hóa. Ta phải học và làm theo Người cả về quan điểm và phương pháp là vì vậy. Để chống giáo điều biệt phái, kinh nghiệm và siêu hình, cần ghi nhớ và thực hành chỉ dẫn của Người qua các luận điểm điển hình:

    + “Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là bản chất, là nguyên tắc tối cao của chủ nghĩa Mác-Lênin”.

    + “Thực hành sinh ra hiểu biết

    Hiểu biết tiến lên lý luận

    Lý luận lãnh đạo thực hành”.

    + Nghiên cứu, học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là thuộc lòng từng câu từng chữ như một con vẹt mà phải nắm lấy thực chất, tiếp thu tinh thần và phương pháp Mác-Lênin để độc lập sáng tạo giải quyết những vấn đề đặt ra, để ứng xử với con người và công việc cho đúng.

    + Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là khoa học mà còn là đạo đức. Đọc hàng trăm hàng nghìn quyển sách Mác-Lênin mà ăn ở với nhau không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu Mác-Lênin được.

    + Phương Tây có gì hay cũng học. Phương Đông có gì hay cũng học. Học để làm phong phú chính mình. Học để biết, để hành cho đúng, cho sáng tạo. Tiếp thu có chọn lọc với tinh thần phê phán, không bắt chước, không sao chép máy móc… Ta và Liên Xô rất khác nhau... Ta có thể đi con đường khác với Liên Xô để tiến tới chủ nghĩa xã hội… Phải thấy đặc điểm to nhất của nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội…

    Đó là những chỉ dẫn quý báu của Người, cần hiểu đúng, làm đúng.

    Thứ hai, phải hiểu đúng “bệnh sách vở” và xử lý đúng căn bệnh sinh ra giáo điều này và vượt qua nó. Bệnh sách vở như chúng ta thường gọi có biểu hiện là lệ thuộc hoàn toàn vào sách, nhất nhất tuân theo như những giáo điều. những tín điều, sinh ra mù quáng, không có khả năng phê phán, tiếp thu cái gì, sàng lọc và từ bỏ cái gì (cái sai, cái lỗi thời) và phải đối xử với sách, với tri thức sao cho đúng, không rơi vào tư biện, không “coi khinh lý luận”, không “lý luận suông”. Bệnh sách vở thật ra là bệnh ở những người “đọc sách mà không hiểu sách”, thành con mọt sách đọc quá ít sách nên tri thức hạn hẹp, hời hợt, không có khả năng phân tích, phê phán để vận dụng cho đúng. Để chống bệnh sách vở mà thực chất là chống giáo điều thì không phải máy móc phê phán sách, coi thường sách, vứt bỏ sách mà trái lại phải quý trọng sách vở, đọc nhiều sách hơn, tích lũy nhiều trí thức hơn, “không có sách thì không có tri thức. Không có tri thức thì không có chủ nghĩa cộng sản”, “không làm giàu tri thức của mình bằng tất cả kho tàng tri thức nhân loại, thì chủ nghĩa cộng sản chỉ dừng lại là nguyện vọng mà thôi” .

    Điều quan trọng là đọc sách, tiếp thu tri thức sách vở bằng phương pháp khoa học, có mục đích đúng khi đọc sách, tránh bệnh hình thức, phô trương, “đọc dăm ba quyển sách, biết được dăm ba điều để khoe khoang, để loè thiên hạ”. Không để sách vở che lấp cuộc sống, rơi vào chủ quan, tư biện, thoát ly thực tiễn.

    Thứ ba, phải có tinh thần dân chủ, khiêm tốn, thực sự cầu thị, rèn luyện, tu dưỡng thường xuyên cả về tri thức (học vấn, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ), về tình cảm và đạo đức cách mạng, bồi dưỡng niềm tin khoa học, kỹ năng thực hành và văn hóa giao tiếp ứng xử. Theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, phải ra sức “phê bình và sửa chữa” bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi và thói ba hoa được nêu trong “Sửa đổi lối làm việc” . Thói “coi khinh lý luận” lại “coi khinh dân vận” mà cán bộ đảng viên mắc phải là do cái bệnh này gây ra, phải ra sức sửa chữa. Biết lắng nghe, biết thảo luận, tranh luận, biết phân biệt đúng - sai, thật - giả, xấu - tốt, biết học hỏi từ trong sách vở nhà trường đến cuộc sống, học dân, hỏi dân, học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn, nêu cao đức trung thực trong tự phê bình và phê bình, tự học, tự đào tạo suốt đời… Đó là những phẩm chất cần có của những người giác ngộ, những người cộng sản có trí tuệ, khác với người cộng sản tuy nhiệt thành nhưng thiếu hiểu biết, không đáp ứng được đòi hỏi ngày một cao của tình hình, nhiệm vụ mới. Lênin đã từng cảnh báo “nhiệt tình mà không có hiểu biết, rốt cuộc có thể dẫn đến phá hoại một cách vô ý thức”. Lênin cũng đòi hỏi học “Học nữa, học mãi” và Hồ Chí Minh nhấn mạnh “đường đời là một chiếc thang không có nước chót, học tập là một quyển vở không có trang cuối cùng”.

    Thứ tư, tiếp tục đổi mới sáng tạo, nuôi dưỡng tinh thần cống hiến, để thực hiện khát vọng phát triển bằng ý chí và hành động sáng tạo thực sự có hiệu quả thì phải tiếp tục đề cao, coi trọng “đổi mới tư duy”. Phải đổi mới tư duy lãnh đạo, quản lý và quản trị sao cho phù hợp với yêu cầu đặt ra của thời đại đang bùng nổ thông tin, xã hội đang chuyển đổi mạnh mẽ sang “xã hội số”, “kinh tế số”, “chính phủ điện tử”, “trí tuệ nhân tạo”, “thế giới phẳng” và “công dân toàn cầu” ... với không ít điều mới lạ, tác động tới tâm lý, ý thức, lối sống, lựa chọn giá trị mới…Xã hội hiện đại mà chúng ta đang sống, đang vươn tới vừa đòi hỏi phải khắc phục căn bản lối tư duy giáo điều, trì trệ, bảo thủ… lại vừa tạo ra tiền đề, điều kiện và môi trường để thanh toán giáo điều, định hình cả trình độ, phương pháp và phong cách của tư duy hiện đại. Khi Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trở thành nước công nghiệp hiện đại thì môi trường xã hội ấy, cái cốt vật chất kỹ thuật - công nghệ hiện đại ấy sẽ dọn sạch mảnh đất sinh ra và nuôi dưỡng giáo điều, kinh nghiệm, siêu hình, biệt phái như đã nói.

    Thứ năm, phải đổi mới thật sự triệt để, toàn diện, đồng bộ mọi lĩnh vực công tác và hoạt động của ngành Tuyên giáo, giáo dục và văn hóa, thông tin truyền thông. Đây là lĩnh vực cần có những cải biến cách mạng sâu sắc, mang tầm vóc một cuộc cách mạng trong lĩnh vực ý thức, tinh thần. Từ quan niệm đến nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo - tuyên truyền đến phong cách, đến đội ngũ cán bộ, đào tạo chuyên gia, tạo hiệu ứng xã hội rộng lớn, có sức truyền cảm hứng mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân. Hồ Chí Minh là bậc thầy trong lĩnh vực này mà ta cần học tập, làm theo. Càng không thể quên lời cảnh báo phê phán nghiêm khắc của Lênin về công tác này. Ông nói tới tác hại của giáo điều, sự xuyên tạc làm mất tín nhiệm của chủ nghĩa Mác cần phải thanh toán. Trong việc gây ra tội ác này, “những người Mác xít có môn bài” phải chịu phần trách nhiệm và ra sức sửa chữa./.

PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN, TỔNG KẾT THỰC TIỄN, CHỐNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI ĐỂ BẢO VỆ GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI


        Trong cuộc đấu tranh để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh-hệ thống tư tưởng mang ý nghĩa và giá trị thời đại, thì việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là một trong những giải pháp quan trọng góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Vấn đề này luôn là cốt yếu nhằm thống nhất những nhận thức chưa đúng, đồng thời phản bác sự xuyên tạc nhằm hạ thấp, phủ nhận những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.

            Ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh

        Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

        Dù vậy, vẫn còn những nhận thức chưa đúng, hiểu chưa thấu đáo, nhất là việc các thế lực thù địch lợi dụng tự do, dân chủ, lợi dụng sự phát triển của internet, mạng xã hội để xuyên tạc, bóp méo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thậm chí, một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất đã vào hùa với sự xuyên tạc này.

        Họ tìm mọi cách, dùng mọi lý lẽ khi nói và viết: Hồ Chí Minh du nhập những tư tưởng ngoại lai vào Việt Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh là tư biện, lý thuyết, giáo điều; tư tưởng Hồ Chí Minh là sự sao chép, máy móc Chủ nghĩa Mác-Lênin, không phù hợp với thực tiễn hiện nay, cần từ bỏ nó để kịp đi với con đường chung mà thế giới hiện nay đang đi-con đường tư bản chủ nghĩa...

        Họ xuyên tạc rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không có tư tưởng của riêng mình hoặc tư tưởng của Người không được coi là một hệ thống. Dựa vào những luận điểm của Người có tính bổ sung, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin và bao hàm sự kế thừa những giá trị tư tưởng tiến bộ của nền cộng hòa Pháp và Mỹ, họ quy kết rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa cộng hòa và chủ nghĩa hòa bình hơn là một người theo chủ nghĩa cộng sản.

        Họ đưa ra một góc nhìn phiến diện rằng tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, không có tư tưởng về đấu tranh giai cấp, về cách mạng xã hội chủ nghĩa, không mang bản chất mác-xít, thậm chí đối lập với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ quan điểm chống phá sai trái ấy, họ đã sử dụng nhiều thủ đoạn để cố tình khiến dư luận có cái nhìn sai bản chất.

        Những ý kiến trên là nhận thức rất sai trái và là sự xuyên tạc vô căn cứ. Cả về lý luận và thực tiễn đã chứng minh, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử của Việt Nam, là sự kết hợp nhuần nhuyễn Chủ nghĩa Mác-Lênin với giá trị truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại.

        Chính Chủ nghĩa Mác-Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan khoa học, cách mạng, sinh động, giàu tính thực tiễn, có giá trị dẫn đường cho thành công của cách mạng Việt Nam. Giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện rất rõ “trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc...” như Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18-2-1995 của Bộ Chính trị khóa VII đã khẳng định.

           Phát triển lý luận gắn với tổng kết thực tiễn

        Trong cuộc đấu tranh quyết liệt bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận, tiếp tục khẳng định bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phát triển và làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội Việt Nam; bảo vệ uy tín của Đảng cũng như các quan điểm, đường lối của Đảng trong tiến trình cách mạng. Bởi thế, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là một trong những giải pháp quan trọng để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới hiện nay.

        Đến nay, công tác nghiên cứu và việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần động viên các tầng lớp nhân dân sống, chiến đấu, lao động và học tập theo tấm gương Bác Hồ vĩ đại. Tuy vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế, yếu kém. Việc đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào học trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề chưa đạt hiệu quả cao, chưa tạo được sự hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo học sinh, sinh viên và chưa có chương trình thích hợp trong các bậc học phổ thông.

Riêng trong hệ thống giáo dục phổ thông và cao đẳng, đại học, việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh chưa gây được ấn tượng sâu sắc cho học sinh, sinh viên. Chương trình giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh ở một số trường học, bậc học còn có sự lồng ghép với các môn học khác... Hệ thống giáo trình, tài liệu phục vụ việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh ở các bậc học sau chương trình giáo dục phổ thông tuy có giáo trình song chưa có sự thống nhất giữa các cơ sở đào tạo...

        Do tính chất học tập, giáo dục và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh ở các bậc học có ý nghĩa quan trọng, bởi thế cần xác định đúng vị trí, vai trò các nội dung học tập về tư tưởng Hồ Chí Minh, không được cắt xén chương trình học tập. Giáo trình học tập phải giúp học sinh, sinh viên có thể tự nghiên cứu được, phải đầy đủ và sâu sắc về kiến thức, nội dung, giải đáp được những điều còn chưa rõ, chưa hiểu và học hỏi lẫn nhau.

        Để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, chúng ta cần rất coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là các chuyên gia đầu ngành trong hoạt động đấu tranh tư tưởng, lý luận.

        Bản thân những nhà nghiên cứu mác-xít, những người làm công tác lý luận cũng phải nghiên cứu nghiêm túc và kỹ lưỡng lý luận mác-xít, những tác phẩm nguyên bản của C.Mác, Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin... từ đó phát hiện những vấn đề mới, cách tiếp cận mới để giải quyết bài toán thực tiễn của xã hội hiện đại đang đặt ra; tránh lối nghiên cứu “tầm chương trích cú”, kinh viện, áp dụng lý luận vào thực tiễn một cách máy móc, thiếu sáng tạo, làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng bị xơ cứng, xa rời thực tiễn.

        Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn không chỉ tập trung trực diện vào các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà cần chú ý tới những vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đấu tranh và xây dựng xã hội mới.

        Trong mục tiêu xuyên tạc, phủ định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực phản động, cơ hội không chỉ trực diện hướng tới phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng mà họ còn thông qua hình thức, biện pháp gián tiếp để thực hiện ý đồ của mình. Họ tập trung phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng, bôi xấu lãnh đạo, phủ định đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước...

        Bên cạnh đó, họ “ca tụng” các giá trị dân chủ, nhân quyền, văn hóa theo lối sống phương Tây... Tất cả những chiêu bài đó nhằm cố minh chứng việc chúng ta lựa chọn sai con đường, sai mô hình do xuất phát từ học thuyết và tư tưởng lỗi thời, ảo tưởng. Thực chất mục tiêu của họ suy cho cùng là phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng, kêu gọi theo con đường mới, từ bỏ vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh.

        Bởi vậy, song song với việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận như trên thì cũng rất cần việc thường xuyên đánh giá, tổng kết thực tiễn để chứng minh tính đúng đắn, đồng thời có phương cách bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Thực tế hiện nay cũng cho thấy, những nhận thức sai trái, sự chống phá của các thế lực thù địch đối với tư tưởng Hồ Chí Minh cũng ngày càng tinh vi. Họ liên kết, tán phát thông tin sai trái hòng phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh.

         Họ thông qua các phương thức như: Gửi đơn thư góp ý, khiếu nại, tố cáo đến các cơ quan Đảng, chính quyền, cơ quan dân cử và các cơ quan ngôn luận; thông qua các tổ chức dưới dạng tài liệu, sách truyền tay, thông tin truyền miệng; thông qua hội nghị, hội thảo, tổ chức các sự kiện chuyên đề; lập các trang web của nhiều tổ chức, cá nhân để đăng thông tin; thông qua mạng xã hội tán phát các thông tin và liên kết tạo thành đợt tấn công theo chuyên đề, theo các sự kiện.

        Từ thực tiễn đó, để bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đòi hỏi chúng ta cũng phải vận dụng các phương thức thông tin phù hợp, sáng tạo để phản bác lại những quan điểm xuyên tạc, sai trái, đồng thời chủ động, kịp thời định hướng thông tin, đưa thông tin chính thống đến dư luận, người dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm môi trường ổn định cho phát triển./.

 

               Bảng lương mới khi cải cách tiền lương sẽ thế nào?

Theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, xây dựng, ban hành hệ thống bảng lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế hệ thống bảng lương hiện hành; chuyển xếp lương cũ sang lương mới, bảo đảm không thấp hơn tiền lương hiện hưởng...

2 bảng lương mới cho cán bộ, công chức, viên chức

Cụ thể tại Nghị quyết số 27-NQ/TW, xây dựng, ban hành hệ thống bảng lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế hệ thống bảng lương hiện hành; chuyển xếp lương cũ sang lương mới, bảo đảm không thấp hơn tiền lương hiện hưởng, gồm:

- Xây dựng 1 bảng lương chức vụ áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo (bầu cử và bổ nhiệm) trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp xã theo nguyên tắc: 

1. Mức lương chức vụ phải thể hiện thứ bậc trong hệ thống chính trị; giữ chức vụ lãnh đạo nào thì hưởng lương theo chức vụ đó, nếu một người giữ nhiều chức vụ thì hưởng một mức lương chức vụ cao nhất; giữ chức vụ lãnh đạo tương đương nhau thì hưởng mức lương chức vụ như nhau; mức lương chức vụ của người lãnh đạo cấp trên phải cao hơn mức lương chức vụ của người lãnh đạo cấp dưới;

2. Quy định một mức lương chức vụ cho mỗi loại chức vụ tương đương; không phân loại bộ, ngành, ban, ủy ban và tương đương ở Trung ương khi xây dựng bảng lương chức vụ ở Trung ương; không phân biệt mức lương chức vụ khác nhau đối với cùng chức danh lãnh đạo theo phân loại đơn vị hành chính ở địa phương mà thực hiện bằng chế độ phụ cấp.

Việc phân loại chức vụ lãnh đạo tương đương trong hệ thống chính trị để thiết kế bảng lương chức vụ do Bộ Chính trị quyết định sau khi đã báo cáo Ban Chấp hành Trung ương. 

Bảng lương mới khi cải cách tiền lương sẽ thế nào?
Ảnh minh họa: VGP 

Xây dựng 1 bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp viên chức áp dụng chung đối với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo; mỗi ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức có nhiều bậc lương theo nguyên tắc:

Cùng mức độ phức tạp công việc thì mức lương như nhau; điều kiện lao động cao hơn bình thường và ưu đãi nghề thì thực hiện bằng chế độ phụ cấp theo nghề; sắp xếp lại nhóm ngạch và số bậc trong các ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức, khuyến khích công chức, viên chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Việc bổ nhiệm vào ngạch công chức hoặc chức danh nghề nghiệp viên chức phải gắn với vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức do cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức, viên chức thực hiện.

5 yếu tố liên quan đến thiết kế bảng lương mới của cán bộ, công chức, viên chức

Khi thực hiện cải cách tiền lương, bảng lương mới của cán bộ, công chức, viên chức sẽ được thiết kế dựa trên việc xác định của 5 yếu tố sau đây:

- Bãi bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay, xây dựng mức lương cơ bản bằng số tiền cụ thể trong bảng lương mới.

- Thực hiện thống nhất chế độ hợp đồng lao động theo quy định của Bộ luật Lao động (hoặc hợp đồng cung cấp dịch vụ) đối với những người làm công việc thừa hành, phục vụ (yêu cầu trình độ đào tạo dưới trung cấp), không áp dụng bảng lương công chức, viên chức đối với các đối tượng này.

- Xác định mức tiền lương thấp nhất của công chức, viên chức trong khu vực công là mức tiền lương của người làm công việc yêu cầu trình độ đào tạo trung cấp (bậc 1) không thấp hơn mức tiền lương thấp nhất của lao động qua đào tạo trong khu vực doanh nghiệp.

- Mở rộng quan hệ tiền lương làm căn cứ để xác định mức tiền lương cụ thể trong hệ thống bảng lương, từng bước tiệm cận với quan hệ tiền lương của khu vực doanh nghiệp phù hợp với nguồn lực của Nhà nước.

- Hoàn thiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang phù hợp với quy định của bảng lương mới.

Xây dựng bảng lương mới của cán bộ, công chức, viên chức từ từ ngày 1-7-2024?

Ngày 19-9-2023 vừa qua, phát biểu bế mạc Diễn đàn kinh tế - xã hội Việt Nam 2023, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh, diễn đàn đã dành nhiều thời gian trọng tâm không chỉ vào các vấn đề kinh tế - xã hội mang tính thời sự, ngắn hạn mà còn tiếp cận các vấn đề lớn.

Đáng lưu ý, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cũng nhấn mạnh đến việc sớm thực hiện cải cách chính sách tiền lương một cách căn bản trong năm 2024. Đây cũng là một cú hích cho thị trường lao động, góp phần kích cầu tiêu dùng nội địa.

"Đây là cải cách chứ không phải tăng lương bình thường. Nếu không có gì thay đổi, thời điểm chúng ta có thể áp dụng là từ 1-7-2024”, Chủ tịch Quốc hội nói. 

Như vậy, việc xây dựng bảng lương mới của cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện cải cách tiền lương có thể bắt đầu từ ngày 1-7-2024.

* Theo thông tin tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9-2023, những năm qua, trong bối cảnh vừa phải phòng, chống và khắc phục hậu quả dịch bệnh Covid-19, vừa phải bảo đảm an sinh xã hội, chúng ta vẫn tiết kiệm được 500.000 tỷ đồng để chuẩn bị cải cách tiền lương trong các năm 2024, 2025 và 2026 theo Nghị quyết 27 của Trung ương khóa XII.

 

              Nhận thức đúng về công tác cán bộ của Đảng ta

Trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Đảng ta xác định tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đồng thời, kiên quyết, kiên trì rà soát, sàng lọc đưa những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất ra khỏi Đảng và bộ máy chính trị các cấp, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Tuy nhiên, có một số cán bộ, đảng viên và quần chúng hiểu chưa thấu đáo vấn đề này, trong khi đó, các thế lực thù địch đang sử dụng nhiều thủ đoạn xuyên tạc công tác cán bộ của Đảng, gây nên tâm lý hoài nghi trong một bộ phận nhân dân. Bởi thế, nhận thức đúng công tác cán bộ của Đảng là một yêu cầu, biện pháp quan trọng trong đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay.

Thấu suốt việc “then chốt” không thể bị “gài chốt”

 Hiện tượng một bộ phận dư luận hoài nghi về các chủ trương, biện pháp trong tiến hành công tác cán bộ của Đảng có nhiều nguyên nhân. Đó có thể là những người (có cả cán bộ, đảng viên) bản lĩnh chính trị thiếu vững vàng, dao động trước các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Đó có thể là những người không có thông tin và bị các thế lực thù địch dẫn dắt bằng những thông tin thiếu cơ sở...

Để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ hơn luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc công tác cán bộ của Đảng ta, xin được minh chứng bằng một việc cụ thể. Những người am hiểu về công tác cán bộ của Đảng đều biết rõ, Đại hội lần thứ XIII là kỳ đại hội dành rất nhiều tâm huyết, trí tuệ của Đảng để làm tốt nhất công tác cán bộ, bởi Đảng ta luôn xác định, đó là việc “then chốt của then chốt”. Trong bài viết “Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Việc giới thiệu nhân sự, nói chung phải trên cơ sở quy hoạch; giữ vững nguyên tắc, quy chế, quy định, phát huy trách nhiệm, dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan trong đánh giá, giới thiệu, lựa chọn nhân sự tham gia Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ tới. Lấy phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ các mặt, uy tín và hiệu quả công tác làm căn cứ và tiêu chí cơ bản để đánh giá, lựa chọn, bố trí cán bộ phù hợp với công việc”.

Để chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XIII, Đảng ta đã làm rất bài bản. Tiểu ban Nhân sự chuẩn bị Đại hội XIII được thành lập sớm từ Hội nghị Trung ương 8 khóa XII (tháng 10-2018). Tiếp đó, ngày 30-5-2019, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW xác định rõ, việc chuẩn bị nhân sự đại hội có vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bộ Chính trị xác định cần tập trung lãnh đạo xây dựng quy hoạch cấp chiến lược nhiệm kỳ 2021-2026 theo phương châm “làm từng bước, làm đến đâu chắc đến đó” với lộ trình cụ thể. Quy trình rà soát, thẩm tra, phê duyệt quy hoạch cán bộ ở Trung ương thực hiện theo 5 bước với khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí rõ ràng, chặt chẽ. Dù công tác cán bộ được làm chặt chẽ, quy trình rõ ràng như vậy, nhưng những thông tin xuyên tạc, bịa đặt về công tác nhân sự đại hội vẫn “như nấm sau mưa”. Một số cán bộ, đảng viên và người dân thiếu thông tin, thiếu hiểu biết đã bị dư luận xấu dẫn dắt, có khi tiếp tay tán phát những thông tin sai trái đó.

Những nhận thức sai trái, thiếu thông tin của cán bộ, đảng viên, quần chúng và sự xuyên tạc công tác cán bộ của các thế lực thù địch thường tập trung vào các vấn đề sau:

Trước hết, nắm bắt được nhu cầu thông tin của nhân dân về công tác chuẩn bị nhân sự trước mỗi kỳ Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, hoặc trước khi Đảng, Quốc hội kiện toàn nhân sự, một số cá nhân, đặc biệt là các thế lực thù địch đưa ra những “nhận định”, “dự báo” thiếu thông tin, không chính xác về nhân sự một số vị trí quan trọng. Và, nếu như công tác nhân sự của một số vị trí lãnh đạo đúng như “dự báo” đó thì họ lại vỗ ngực về khả năng tiên đoán, từ đó hướng lái, xuyên tạc những chiều hướng tiếp theo để lôi kéo, dẫn dắt dư luận xã hội theo mục đích của họ. Ngược lại, nếu như những “dự báo” đó không chính xác, họ lại đưa ra luận điệu của cái gọi là “do phe cánh đấu đá nhau” nên người này, người kia bị hạ bệ để đưa người khác lên. Từ đó, họ tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc nhằm gây mất đoàn kết trong nội bộ, gây tâm lý hoài nghi của nhân dân đối với công tác cán bộ của Đảng và phẩm chất, năng lực của một số cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt của Đảng và Nhà nước.

Thứ hai, lợi dụng kết quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng do Đảng ta tiến hành, một số người, trong đó có cả cán bộ, đảng viên suy thoái, biến chất lại xuyên tạc, suy diễn cho rằng: Đó là cuộc “thanh toán phe phái”, “trả thù cá nhân” vì “lợi ích nhóm”. Hoặc, lấy hiện tượng một số cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, pháp luật của Nhà nước bởi những hành vi tham nhũng, tiêu cực để đưa ra luận điệu của cái gọi là: Tham nhũng là do độc đảng lãnh đạo... quy chụp mọi khuyết điểm, yếu kém trong các lĩnh vực của đời sống xã hội là do công tác cán bộ của Đảng...

Bên cạnh đó, lợi dụng chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, một số cá nhân cùng với các thế lực thù địch tung ra nhiều thông tin sai sự thật. Họ phản ánh xuyên tạc về mục đích luân chuyển; rằng việc Đảng luân chuyển cán bộ từ Trung ương về địa phương hoặc từ địa phương này đến địa phương khác là vì thiếu tin tưởng vào phẩm chất, năng lực, uy tín của cán bộ sở tại, hoặc là để “thanh trừng”, “bóp nghẹt” cán bộ địa phương nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ở địa phương thiếu tin tưởng vào cán bộ được luân chuyển, gây mất đoàn kết trong nội bộ. Đích đến cuối cùng của họ là làm cho “then chốt của then chốt” bị “gài chốt”.

Nhận thức đúng về công tác cán bộ của Đảng ta

Những thanh âm lạc lõng ngược dòng chảy lớn của dân tộc

Việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ là sự nhất quán chủ trương ngoại giao của Việt Nam: Trở thành bạn bè tốt, đối tác tin cậy của tất cả các nước thế giới, thành viên trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Chuyến thăm thu hút sự chú ý của thế giới Có thể nói, đây là một sự kiện mang tính lịch sử. Trước tiên, đây là lần đầu tiên Tổng thống Hoa Kỳ thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Trước đó, trong cuộc hội đàm trực tuyến cấp cao diễn ra vào cuối tháng 3/2023, hai nhà lãnh đạo đã trao đổi lời mời đến thăm lẫn nhau. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã nhận lời mời của nhau. Chuyến thăm của Tổng thống Biden được phía Nhà Trắng thông báo là để ông gặp gỡ lãnh đạo cấp cao của Việt Nam và "thảo luận các biện pháp tăng cường hơn nữa hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam". Ngoài ra, đây cũng là lần đầu tiên kể từ năm 1995 cả Tổng thống và Phó tổng thống Hoa Kỳ đương nhiệm sang thăm Việt Nam trong cùng một nhiệm kỳ. Trước chuyến đi của ông Biden, Phó tổng thống Kamala Harris đã thăm Việt Nam từ ngày 24 đến 26/8/2021. Bên cạnh đó, chuyến thăm diễn ra đúng dịp Việt Nam và Hoa Kỳ kỷ niệm tròn 10 năm thiết lập Quan hệ Đối tác Toàn diện. Trong chuyến thăm lần này, ông Biden đã có các cuộc tiếp xúc với nhiều lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam. Chính tại cuộc hội kiến của ông Biden với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai bên đã xác nhận việc nâng cấp quan hệ song phương lên Đối tác Chiến lược Toàn diện vì hoà bình, hợp tác, phát triển bền vững. Sự kiện này hiển nhiên đã thu hút mối quan tâm lớn của truyền thông thế giới. Hàng loạt các tờ báo, hãng tin như New York Times, Reuters, AP, AFP, Guardian, EIU, Nikkei, NHJ, Wall Street Journal đã thông tin đậm nét về sự kiện, cũng như đưa ra hàng loạt đánh giá, phân tích về tương lai quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Đơn cử như trong bài viết về chuyến thăm của Biden, hãng tin Reuters đánh giá việc hai bên nâng cấp quan hệ là kết quả của nỗ lực xây dựng quan hệ song phương kéo dài nhiều thập kỷ. Từ những quốc gia đối đầu trong một cuộc chiến, hai bên đã bình thường hóa quan hệ và rồi tiếp tục nâng cấp quan hệ để thúc đẩy an ninh và thịnh vượng tại khu vực châu Á Thái Bình Dương. Financial Times nhận định việc nâng cấp quan hệ từ “Đối tác Toàn diện” lên “Đối tác Chiến lược Toàn diện” là bước đi có ý nghĩa biểu tượng cao và là điều mà Hoa Kỳ mong muốn thực hiện từ lâu. Còn hãng tin CNN nhân sự kiện đã nhấn mạnh việc Hoa Kỳ muốn trở thành một đối tác đáng tin cậy của Việt Nam, cũng như khu vực. Về cá nhân Tổng thống Biden, ông đã có những lời lẽ tốt đẹp dành cho Việt Nam trong và sau chuyến thăm. Tài khoản của ông Biden trên mạng xã hội X đã liên tục cập nhật hoạt động của ông ở Việt Nam, bắt đầu bằng dòng trạng thái khi ông vừa tới Hà Nội. "Cảm ơn Việt Nam vì sự đón tiếp nồng hậu. Tôi biết rằng đây sẽ là chuyến thăm lịch sử", ông viết.Trong các dòng trạng thái tiếp theo, ông Biden đăng hình ảnh lễ đón ông tại Phủ Chủ tịch do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì, cùng bài viết ngắn có nội dung khẳng định Việt Nam và Hoa Kỳ “có thể đạt được khát vọng về một tương lai hòa bình, an ninh, thịnh vượng mà hai nước cùng chia sẻ". Ông cũng lặp lại những nhận định tương tự trong các bài đăng khác sau đó trên mạng xã hội X và Facebook. Điều này phần nào cho thấy ông Biden, một nhân vật đại diện cho lợi ích của nước Hoa Kỳ, coi trọng người Việt và mối quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ. Những luận điệu cũ mòn Nhưng những thay đổi theo chiều hướng tích cực này dường như vẫn chưa đủ để làm hài lòng một bộ phận cá nhân và tổ chức có tư tưởng chống phá Việt Nam ở trong nước cũng như nước ngoài. Đó là những cá nhân không hài lòng với mọi thay đổi tích cực cũng như các bước tiến mà chúng ta đạt được. Ngay cả khi chuyến thăm của ông Biden đang diễn ra đã có nhiều bài viết xuất hiện trên các trang tin như BBC Việt Ngữ, VOA tiếng Việt, RFI hoặc mang tính phản động như tài khoản Facebook mang tích xanh của tổ chức khủng bố Việt Tân, đưa ra những ý kiến trái chiều, mang nhiều động cơ, tính toán khác nhau. Như thường lệ, trong các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao từ Hoa Kỳ tới Việt Nam, thế lực không thiện chí thường nêu lên cái gọi là “vi phạm nhân quyền” của Việt Nam. Tại một số bài viết trên trang web chính, cũng như trên Facebook, VOA tiếng Việt liên tục đề cập tới chủ đề nhân quyền, viết về các trường hợp “tù nhân lương tâm”, “bất đồng chính kiến” bị bắt giữ do có hành vi phạm luật pháp Việt Nam... Cũng trang này vào cuối tháng 9 tiếp tục tung luận điệu từ “nguồn chuyên gia uy tín” nói rằng Việt Nam không có tự do kinh tế. Những thông tin và luận điệu này không có gì mới mẻ. Đó chỉ đơn giản là hành vi phủ nhận nhiều tiến bộ về nhân quyền và tự do mà Việt Nam đã đạt được. Thực tế, không ít chính trị gia và học giả quốc tế đã thể hiện ấn tượng về những thành công mà Việt Nam đạt được sau hơn 30 năm đổi mới. Đặc biệt, là tấm gương thành công về phát triển kinh tế xã hội, quyền con người và hoàn thành trước hạn nhiều Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG). Theo Liên hợp quốc, chỉ số phát triển con người (HDI) ở Việt Nam liên tục tăng theo các năm và hiện lọt vào nhóm phát triển con người cao, xếp thứ 115/191 quốc gia và vùng lãnh thổ. Về tự do ngôn luận, không thể không nói tới sự tự do sử dụng mạng Internet. Việt Nam hiện có khoảng 70 triệu người dùng Internet và hạ tầng 3G/4G đã phủ sóng 99,8% dân cư. Tốc độ kết nối Internet Việt Nam cũng không hề kém nhiều nước trên thế giới. Người dân được hoạt động tự do trên Internet, miễn các hoạt động của họ không vi phạm luật pháp và quy định của Việt Nam. Tự do báo chí được thể hiện cụ thể với việc cả nước có 127 cơ quan báo; 670 cơ quan tạp chí (có 327 tạp chí lý luận chính trị và khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật); 72 cơ quan Đài phát thanh, truyền hình. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có khoảng 41.000 người, trong đó khối phát thanh, truyền hình xấp xỉ 16.500 người. Việc lần thứ hai Việt Nam trúng cử vào vị trí thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2023-2025) sau nhiệm kỳ đầu (giai đoạn 2014-2016) được đánh giá cao, cũng như những thành quả tích cực của Việt Nam - đã được thế giới công nhận tại nhiệm kỳ Ủy viên Không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc giai đoạn 2020-2021 - là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những thành tựu của Việt Nam trong việc đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền của người dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, tín ngưỡng… Những nỗ lực nâng cao quyền con người ở Việt Nam cũng được phía Hoa Kỳ nhận thấy. Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện có một mục riêng mang tựa đề “Thúc đẩy và bảo vệ quyền con người”, cho thấy hai bên rất thẳng thắn, cởi mở và sẵn sàng chia sẻ với nhau những vấn đề liên quan đến con người và nhân quyền. Mục này nêu rõ: “Hai Nhà Lãnh đạo khẳng định tầm quan trọng của việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, phù hợp với hiến pháp của mỗi nước và các cam kết quốc tế. Hai nước nhất trí tiếp tục ủng hộ thúc đẩy và bảo vệ quyền con người thông qua các cơ chế đối thoại thẳng thắn, xây dựng như Đối thoại Nhân quyền, Đối thoại Lao động Việt Nam - Hoa Kỳ hàng năm, qua đó tăng cường hiểu biết lẫn nhau và giảm thiểu khác biệt. Hai Nhà Lãnh đạo khuyến khích tăng cường hợp tác nhằm bảo đảm tất cả người dân, bao gồm các nhóm dễ bị tổn thương không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo hay khuynh hướng tình dục và người khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền con người.” Cố tình tạo ý kiến “trái chiều” Ngoài việc xoáy vào vấn đề nhân quyền, một số báo chí nước ngoài còn cố tình đưa ra các nhận định sai trái, xuyên tạc về đường lối ngoại giao của Việt Nam. Ví dụ BBC Việt ngữ có bài viết với ý Việt Nam đã “chọn bên” khi ngả về phía Hoa Kỳ để chống lại Trung Quốc. VOA “chọc ngoáy” bằng bài viết nói sự hợp tác mới giúp Việt Nam có thể tiếp cận với vũ khí Hoa Kỳ và “thoát khỏi sự lệ thuộc” vào nguồn cung cấp của đối tác truyền thống là Nga. Nhóm phản động như Việt Tân thì liên tục có bài viết xuyên tạc chính sách ngoại giao “cây tre”, mỉa mai các lãnh đạo của đất nước. Cũng có không ít ý kiến đã hạ thấp tầm quan trọng của việc Việt Nam-Hoa Kỳ nâng quan hệ, nhằm mục đích hạ thấp uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Rõ ràng đây đều là những luận điệu sai trái, vô căn cứ, không phản ánh đúng thực tế. Việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ không có nghĩa Việt Nam đã chọn đứng về bên nào, để chống lại ai. Thực tế, đường lối đối ngoại của Việt Nam đã nhiều lần được các lãnh đạo cao nhất nêu rõ. Cụ thể, trong cuộc trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội về định hướng đối ngoại cơ bản của đất nước vào cuối năm ngoái, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định Việt Nam theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn bè tốt, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới, vì mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, đường lối đối ngoại của Việt Nam là không chọn bên, mà chọn công lý và lẽ phải. Vì vậy, chúng ta thể hiện thái độ theo tinh thần này trong các vấn đề liên quan quốc tế vì hòa bình, hợp tác, phát triển khu vực, trên thế giới phù hợp với đường lối, quan điểm đối ngoại của nước ta. Từ đó để thấy việc Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ là một trong nhiều hoạt động đối ngoại mà chúng ta đang triển khai để phục vụ cho lợi ích lâu dài của đất nước và nhân dân, chứ không phải để chọn bên, hoặc chống ai. Như nhận xét của Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Australia, việc nâng quan hệ phản ánh sự hội tụ lợi ích giữa hai đất nước, cũng như cam kết hợp tác lâu dài để làm sâu sắc hơn quan hệ kinh tế, thông qua thương mại, đầu tư, trao đổi công nghệ và thông lệ quản trị tốt. Hiện Hoa Kỳ là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Tới tháng 8/2023, Việt Nam nhập khẩu lượng hàng trị giá hơn 9 tỷ USD từ Mỹ và xuất sang đây số hàng trị giá hơn 62 tỷ USD. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất và đạt kim ngạch xuất siêu cao nhất của hàng hóa Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây. Tuy nhiên, Trung Quốc lại là nước cung cấp cho chúng ta nhiều nguyên liệu thô để phục vụ hoạt động sản xuất, nên có vai trò quan trọng không kém Mỹ. Về kinh tế, Hoa Kỳ là 1 trong những quốc gia tiến hành đầu tư lớn ở Việt Nam, với hơn 1.100 dự án đang hoạt động và hơn 10 tỷ USD tiền vốn rót vào hơn 20 lĩnh vực kinh tế. Sau khi thiết lập Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện, nhiều lĩnh vực đầu tư của Hoa Kỳ như thiết bị bán dẫn, điện tử, khai thác đất hiếm… đang được kỳ vọng sẽ mang đến những khoản đầu tư khổng lồ. Nhưng Trung Quốc cũng không hề kém cạnh khi có hơn 3.700 dự án đang hoạt động ở Việt Nam với tổng vốn đăng ký hơn 25 tỷ USD. Như vậy để thấy trên lĩnh vực kinh tế và thương mại, cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều là những đối tác quan trọng với Việt Nam. Và như thế, việc cố tình xuyên tạc Việt Nam “chọn bên” Mỹ để chống lại “Trung Quốc” là hoàn toàn sai trái. Về quốc phòng an ninh, Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không để nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để tấn công nước khác; không cùng một nước khác để chống lại nước thứ ba; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Quan điểm này có nghĩa bất kỳ sự hợp tác nào trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, kể cả với Hoa Kỳ, cũng chỉ vì mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững, chứ không phải để “chống lại” ai, hay “quay lưng” với ai như các luận điệu xuyên tạc. Việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ, lên mức bằng với Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và Hàn Quốc, hoàn toàn không đi ngược lại chủ trương ngoại giao của chúng ta là muốn trở thành bạn bè tốt, đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới, thành viên tích cực có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đó chính là biểu hiện của đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, đã giúp chúng ta thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Và chắc chắn là thời gian tới, Việt Nam sẽ còn thiết lập Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện với nhiều nước khác, khi chúng ta tiếp tục đường lối ngoại giao hiện nay. Để thấy rằng những luận điệu nói Việt Nam đã “chọn bên” là hoàn toàn sai trái. Không loại trừ việc những cá nhân, tổ chức đưa ra quan điểm như vậy đang cố tình tìm cách phá hoại quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và nhiều nước đối tác khác, bao gồm cả Hoa Kỳ./.

Tự do báo chí, tự do ngôn luận phải trong khuôn khổ của pháp luật

 Bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, sai trái về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở nước ta, các cơ quan báo chí có những bài viết chuyên sâu như: “Hiện thực bác bỏ luận điệu vu cáo tự do báo chí” (Báo Công an nhân dân), “Tự do ngôn luận-nhận thức thấu đáo, ứng xử chuẩn mực và trách nhiệm công dân” (Báo Quân đội nhân dân), "Phủ nhận tự do báo chí ở Việt Nam là cố tình xuyên tạc và kích động dư luận" (Báo Điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam)…

Trong đó nhấn mạnh: Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của mọi công dân và cũng như các quốc gia khác, để giữ gìn kỷ cương và bảo đảm sự ổn định để phát triển, Nhà nước Việt Nam không cho phép lợi dụng những quyền này để tuyên truyền, kích động lật đổ chính quyền, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.

Sự khác nhau về bản chất của “tự do ngôn luận” và “ngôn luận tự do”: Tự do ngôn luận cần bảo đảm tuân thủ chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực văn hóa, giao tiếp, là quyền cơ bản của công dân tham gia trao đổi, chia sẻ, tranh luận và phản biện xã hội vì mục đích xây dựng, vì lợi ích công; chứ không phải lợi dụng quyền này để thỏa mãn và mưu lợi cá nhân, để xâm hại lợi ích công và chuẩn mực văn hóa cộng đồng. Còn ngôn luận tự do là tự do nói năng, phát ngôn, bình luận, chia sẻ, tán phát thông tin một cách tùy tiện, vô lối….

Nếu ai cũng nói năng bừa bãi, phát ngôn tùy tiện, chia sẻ thông tin bất chấp đúng-sai, thật-giả lẫn lộn, không chỉ làm cho xã hội rơi vào tình trạng rối nhiễu thông tin mà còn có thể tạo ra những cuộc khủng hoảng thông tin xã hội một cách trầm trọng, từ đó gây mất ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội./. 

Luận điệu sai trái về kết quả chống tham nhũng của Đảng

 Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng được hiến định là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vì vậy, Đảng phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân về tất cả các quyết định của mình. Trong bộ máy Nhà nước, đa phần cán bộ đều là đảng viên của Đảng. Vì vậy, nếu để một bộ phận cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất dẫn tới quan liêu, tham nhũng, lãng phí sẽ làm mất lòng dân, gây ra tác hại khôn lường và đe dọa nguy cơ cầm quyền của Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định các quan điểm về đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đảng luôn coi tham nhũng là “giặc nội xâm”, một trong các nguy cơ, đe dọa sự tồn vong của chế độ, cản trở tiến trình phát triển đất nước, phải kiên quyết đấu tranh loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Vậy nên, để giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền, để nâng cao uy tín trước Nhân dân, để thực sự xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam không thể không quyết liệt trong phòng, chống tham nhũng. Phòng, chống tham nhũng là mệnh lệnh sống còn của Đảng.

Luận điệu cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam không thực tâm chống tham nhũng là luận điệu xuyên tạc nhằm đánh lạc hướng dư luận, gây xói mòn niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân đối với công cuộc phòng, chống tham nhũng hiện nay./. 

Không có “vùng cấm” trong chống tham nhũng ở Việt Nam

 Trong các Văn kiện Đại hội VIII, IX, XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đều tiếp tục chỉ rõ sự nguy hại của tham nhũng đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Đại hội XII của Đảng đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và coi đây là nhiệm vụ cấp bách đối với Đảng. Vấn đề xây dựng Đảng, phòng chống quan liêu, tham nhũng được đề cao. Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII của Đảng đã một lần nữa khẳng định lại quan điểm nhất quán này,…


Công tác phòng, chống tham nhũng được Đảng xác định là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, toàn dân và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài, khó khăn, phức tạp; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục, không nóng vội, không chủ quan, với những bước đi vững chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng điểm; phòng chống tham nhũng cần phải thực hiện đồng bộ các biện pháp; phải chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, các hành vi bao che, dung túng tiếp tay cho tham nhũng; không có ngoại lệ, không có “vùng cấm” trong chống tham nhũng ở Việt Nam…

Những quan điểm chỉ đạo của Đảng được thực tiễn kiểm nghiệm và chứng minh hoàn toàn đúng đắn với các bước đi phù hợp, hiệu quả trong một quyết tâm chính trị cao nhằm tạo chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị, góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, suy thoái, quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng. Với sự quyết tâm và nghiêm khắc của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiều vụ tham nhũng được xét xử, nhiều cán bộ tha hóa, biến chất ở mọi cấp, mọi ngành, “không có vùng cấm” đã chịu sự trừng phạt của pháp luật; đã thu hồi, đề nghị thu hồi tại sản trị giá hàng nghìn tỷ đồng cho Nhà nước. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm đã được điều tra, khởi tố, truy tố và xử lý công khai, khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Từ những dẫn chứng nêu trên để thấy rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam chưa và cũng không bao giờ bao che, dung túng cho quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Tất cả những ai phạm tội thì tùy theo mức độ vi phạm mà bị xem xét xử lý kỷ luật một cách thấu đáo./. 

Không bao giờ bao che, dung túng cho tham nhũng, lãng phí

 Các thế lực thù địch cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam không thể chống được tham nhũng vì tất cả những người có quyền lực trong bộ máy của Nhà nước đều là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Vậy nên, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam chống tham nhũng là ta đánh ta nên không dám làm và vì vậy sẽ không chống được tham nhũng.

Đây là ý kiến không mới nhưng lại được không ít người phụ họa và cổ súy. Tuy nhiên, ý kiến này sai toàn bộ, bởi quyền lực của Đảng cầm quyền, quyền lực của Nhà nước được phân công, ủy quyền cho từng nhóm cơ quan, tổ chức, từng cá nhân trong bộ máy, mỗi người, tùy cương vị khác nhau đảm nhiệm các nhiệm vụ được giao phó khác nhau. Vì vậy, chỉ có những cán bộ thoái hóa, biến chất mới lợi dụng quyền lực được Đảng giao phó, mà thực sự là quyền lực được Nhân dân ủy thác để tham nhũng, lãng phí làm thiệt hại của công và làm xói mòn niềm tin của Nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Vậy nên, không phải tất cả mọi người khi được giao quyền lực đều tham nhũng, lãng phí. Bằng chứng là có những nơi cũng người có chức vụ ấy tham nhũng, lãng phí, nhưng có những nơi, cũng những người giữ chức vụ ấy lại luôn tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí hiệu quả. Điều ấy chứng tỏ rằng cùng là cán bộ, cùng được giao quyền lực như nhau nhưng chỉ có những người thiếu tu dưỡng rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, cộng với cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực mới dẫn họ tới con đường tha hóa và tham nhũng. Chính những kẻ đục khoét của công ấy sẽ tìm cách vô hiệu hóa tổ chức Đảng, cơ quan, đơn vị để dễ bề thao túng nhằm thực hiện mưu đồ tham nhũng làm suy thoái tổ chức Đảng.

Vì những nguy cơ mà tham nhũng đe dọa tới vị thế cầm quyền của Đảng, đe dọa nguy cơ tồn vong của Đảng và chế độ, vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi việc chống tham nhũng không chỉ để bảo vệ tài sản của Nhà nước, của Nhân dân mà còn để bảo vệ uy tín của Đảng trước Nhân dân. Đây có thể xem là một cam kết chính trị trước Nhân dân về công cuộc phòng, chống tham nhũng.

Việc đưa ra cảnh báo nghiêm khắc về nguy cơ mà tệ tham nhũng gây ra thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng đã thẳng thắn thừa nhận, nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật để có các biện pháp hữu hiệu phòng chống hiệu quả./.