Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2024
PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG KIỂM SOÁT, GIÁM SÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024
Quán triệt quan điểm bảo vệ Tổ quốc của Đảng, nâng cao năng lực ứng phó thách thức an ninh phi truyền thống
Trước sự tác động mạnh mẽ và hậu quả khôn lường của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, cần quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo quan điểm bảo vệ Tổ quốc của Đảng vào xác định nội dung, giải pháp ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Xây dựng nền quốc phòng, an ninh của mỗi quốc gia nói chung, ở nước ta nói riêng đều chủ yếu nhằm đối phó thành công với những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống. Tùy thuộc vào bối cảnh, thời điểm khác nhau mà những thách thức an ninh truyền thống hoặc an ninh phi truyền thống nổi lên đe dọa tới an ninh quốc gia. Trong khi đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta không chỉ là đánh bại các cuộc tiến công xâm lược từ bên ngoài lãnh thổ, mà còn phải ngăn chặn, đẩy lùi, đối phó hiệu quả với các thách thức ở bên trong, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, như: khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,... giữ vững sự ổn định, phát triển thịnh vượng quốc gia, dân tộc.
Trên thực tế, các thách thức an ninh phi truyền thống đã, đang diễn ra ở nhiều cấp độ, quy mô khác nhau và có tác động sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trên các môi trường: không, bộ, biển, không gian mạng,... khi các tác động đó lớn đến mức không thể kiểm soát được hoặc xử lý không hiệu quả sẽ tạo thành nguy cơ về quốc phòng. Nguy cơ an ninh phi truyền thống trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra sẽ tác động thúc đẩy hoặc làm suy giảm tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, gây mất ổn định an ninh chính trị đất nước và có thể dẫn tới xung đột, chiến tranh. Như vậy, nguy cơ về quốc phòng, nhất là vấn đề xung đột, chiến tranh được hình thành từ nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan, cả bên trong và bên ngoài, trong đó có các nguyên nhân từ tác động của yếu tố an ninh phi truyền thống. Do đó, ngăn chặn, đối phó, đẩy lùi các thách thức an ninh phi truyền thống là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Nhận thức rõ điều đó, văn kiện các kỳ Đại hội XI, XII của Đảng đều chỉ rõ các thách thức an ninh phi truyền thống và nhất quán quan điểm phải đánh giá, dự báo chính xác tình hình, chủ động có biện pháp ngăn chặn, ứng phó hiệu quả, nhằm bảo đảm an ninh, an toàn, giữ vững sự ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường... tiếp tục diễn biến phức tạp”1. Từ đó, Đảng ta xác định phải “chủ động phòng ngừa là chính. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh”. Thực hiện chủ trương đó, những năm gần đây, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tích cực, chủ động đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn làm giảm thiểu tối đa những tác hại do những thách thức an ninh phi truyền thống gây ra bằng nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật trong thực thi các vấn đề về an ninh phi truyền thống. Hiện nay, chúng ta có hệ thống luật tương đối đầy đủ để thực thi các hoạt động trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống, như: Luật An ninh quốc gia (năm 2004); Luật Bảo vệ môi trường (năm 2014); Luật Phòng, chống khủng bố (năm 2015); Luật Quốc phòng, Luật An ninh mạng (năm 2018); Luật Phòng thủ dân sự (năm 2023),… cùng nhiều văn bản pháp lý có liên quan, là cơ sở quan trọng để ngăn chặn, ứng phó, đẩy lùi các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống một cách hệ thống từ Trung ương xuống cơ sở. Tuy nhiên, do sự phát triển của tình hình và yêu cầu, nhiệm vụ, nhiều nội dung trong các văn bản pháp lý chưa thật phù hợp, thậm chí lạc hậu,... cần được nghiên cứu, bổ sung, bảo đảm tính đầy đủ, đồng bộ, toàn diện và tính pháp lý trong quá trình thực hiện.
Các cơ quan chức năng tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu thực tiễn quá trình đối phó với thách thức an ninh phi truyền thống, tìm ra những vấn đề còn vướng mắc, bất cập, phát sinh, còn thiếu hoặc chưa chặt chẽ, đồng bộ làm cơ sở tham mưu cho Nhà nước tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản pháp lý thực thi các vấn đề an ninh phi truyền thống, bảo đảm đúng quan điểm, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật Nhà nước, luật pháp quốc tế, không chồng chéo, mâu thuẫn, đáp ứng sự phát triển mau lẹ của tình hình. Trong đó cần tập trung nghiên cứu, cụ thể hóa Luật Phòng thủ dân sự (năm 2023), Nghị định số 02/2019/NĐ-CP, ngày 02/01/2019 của Chính phủ về Phòng thủ dân sự thành các quy định cụ thể trong từng lĩnh vực, môi trường, nhóm đối tượng, cấp độ đối phó, tình huống xử lý thách thức an ninh phi truyền thống. Thay đổi nhận thức và hoàn thiện pháp luật đối với các hành vi vi phạm an ninh phi truyền thống. Hoàn thiện hệ thống quy chế phối hợp, phân công, phân định rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Y tế,... nhất là lực lượng tác chiến không gian mạng, an ninh mạng,… trong thực thi nhiệm vụ an ninh phi truyền thống; bổ sung các cơ chế, chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân, chế độ, chính sách đối với lực lượng phòng, chống dịch bệnh; hoàn thiện quy định, thể chế hợp tác quốc tế, cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin, đấu tranh phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường, quản lý công dân, giải quyết các vấn đề quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, v.v.
Hai là, xây dựng lực lượng tác chiến không gian mạng thực sự “tinh, gọn, mạnh, hiện đại”, trở thành lực lượng tác chiến công nghệ cao, ngang tầm lực khu vực và quốc tế. Lực lượng tác chiến không gian mạng là lực lượng quan trọng tham gia bảo đảm an ninh, an toàn không gian mạng quốc gia, đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao cùng những âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng. Trong giai đoạn mới, việc bảo đảm đầy đủ về lực lượng, phương tiện, nghệ thuật cho lực lượng tác chiến không gian mạng phát huy vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là yêu cầu tất yếu, khách quan và phải thực sự được coi trọng. Theo đó, cần chủ động chuẩn bị, sẵn sàng về nguồn lực, tổ chức huấn luyện, diễn tập nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật chuyên ngành; xây dựng, dự kiến các tình huống, phương án thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tác chiến không gian mạng, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc cả trên đất liền, trên không, trên biển và trên không gian mạng, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Ba là, ngăn ngừa nguy cơ an ninh phi truyền thống chuyển hóa thành an ninh truyền thống. Thực tiễn hiện nay cho thấy, trong bối cảnh tình hình an ninh thế giới, khu vực biến động nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều thách thức an ninh phi truyền thống có thể chuyển hóa thành mối đe dọa của an ninh truyền thống, như: an ninh hàng hải, an ninh biển, đảo; an ninh đường không; vấn đề tôn giáo, dân tộc, di cư tự do; lợi dụng lịch sử để xuyên tạc kích động hận thù dân tộc ở các địa bàn chiến lược, v.v. Đặc biệt, cần cảnh giác với kiểu chiến tranh “ủy nhiệm”, chiến tranh “phi quy ước”, ban đầu chỉ xuất phát từ các vấn đề an ninh phi truyền thống, sau đó phát triển với các thủ đoạn tinh vi, tiến tới phát động chiến tranh, xâm chiếm lãnh thổ nước ta. Theo đó, trước hết, các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc lịch sử dân tộc, tạo cớ, kích động chia rẽ quan hệ đoàn kết giữa nhân dân ta với nhân dân nước láng giềng, gây mất ổn định chính trị; tạo cớ can thiệp, tranh chấp, chuyển hóa thành xung đột ở các quy mô khác nhau. Quá trình tiến hành, các chủ thể “ủy nhiệm” đứng bên ngoài cung cấp tài chính, vũ khí, trang bị, cố vấn, sử dụng lực lượng đặc nhiệm để hỗ trợ; duy trì áp lực làm ta dần suy yếu, tiến tới chia cắt lãnh thổ hoặc lợi dụng tạo áp lực đòi hỏi yêu sách lãnh thổ,... gây phức tạp tình hình an ninh, an toàn trong khu vực.
Để ngăn chặn, đẩy lùi và triệt tiêu nguy cơ này, trước hết phải đẩy mạnh kết hợp đấu tranh bằng cả biện pháp an ninh phi truyền thống và an ninh truyền thống, như: đấu tranh pháp lý, đưa ra những bằng chứng lịch sử cùng với luật pháp quốc tế để khẳng định chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của Việt Nam trước toàn thể thế giới. Tổ chức đấu tranh liên tục, kiên quyết, kiên trì với các phương thức linh hoạt, phù hợp, kiên quyết về chiến lược nhưng mềm dẻo về sách lược; luôn chủ động, tỉnh táo, không mắc sai lầm để kẻ thù lợi dụng, tạo cớ dẫn tới xung đột hoặc chiến tranh.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ động phòng ngừa với thực hành đối phó hiệu quả các nguy cơ, thách thức an ninh phi truyền thống. Hiện nay, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ với nhiều quy mô, hình thức, cấp độ khác nhau, trong các lĩnh vực, trên phạm vi khu vực, toàn cầu và liên tục biến đổi, tác động đến các quốc gia trong đó có nước ta. Do vậy, việc phòng ngừa và xử lý, ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống cũng phải tiến hành liên tục, không có điểm dừng, không có kết thúc; phải kết hợp đan xen, đồng thời giữa phòng ngừa với ứng phó, giữa chuẩn bị với thực hành, giữa đấu tranh với bổ sung hoàn thiện cơ chế, v.v. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị phải đề cao cảnh giác, chủ động, tích cực, quyết tâm giành thắng lợi trong đấu tranh với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế trong đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống. Khác với an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống có đặc điểm chung là bao hàm những yếu tố phi quân sự, không chỉ tồn tại trong phạm vi một quốc gia, dân tộc, mà nó phát tác, ảnh hưởng, lan rộng nhanh chóng ra nhiều quốc gia, khu vực và toàn cầu, đòi hỏi sự quan tâm, vào cuộc của cả cộng đồng quốc tế. Vì vậy, để tạo sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi thách thức an ninh phi truyền thống, chúng ta phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các nước, các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các nước trong khu vực. Trong quá trình hợp tác phải chọn lọc, có trọng tâm, trọng điểm; tập trung vào các vấn đề: đào tạo, huấn luyện, diễn tập, khắc phục hậu quả thảm họa, thiên tai, hỗ trợ nhân đạo, phòng, chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia,... góp phần giảm thiểu tác động của an ninh phi truyền thống đối với quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống./.
ST.
Phát huy sức mạnh nhân dân trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay
Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại cũng như lịch sử các dân tộc, trong đó có Việt Nam. Đó cũng là tư tưởng của cha ông ta. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng đắn, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, việc phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân, nhất là sức mạnh của nhân dân trong công tác đối ngoại, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong mọi hoàn cảnh.
Đôi điều về chính sách đối ngoại, ngoại giao
Chính sách đối ngoại là tổng thể chủ trương, chiến lược, sách lược, quyết định và những biện pháp do Nhà nước hoạch định và thực thi trong quan hệ với các chủ thể khác nhau trên trường quốc tế, trong từng thời kỳ lịch sử, trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của tình hình thế giới và luật pháp quốc tế. Chính sách đối ngoại là “cánh tay nối dài” của chính sách đối nội, xuất phát từ chế độ kinh tế, chính trị - xã hội của một quốc gia phục vụ chính sách đối nội; đồng thời, chính sách đối ngoại có tính độc lập nhất định và tác động trở lại đối với chính sách đối nội. Chính sách đối ngoại của bất kỳ quốc gia nào cũng bao hàm ba mục tiêu cơ bản là an ninh, phát triển và ảnh hưởng. Mục tiêu an ninh góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ. Mục tiêu phát triển nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài và tạo dựng điều kiện quốc tế thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mục tiêu ảnh hưởng góp phần nâng cao vị thế quốc gia, phát huy tầm ảnh hưởng của quốc gia trên trường quốc tế. Ba mục tiêu này gắn kết với nhau mật thiết, không thể tách rời và phản ánh một cách tổng thể, toàn diện lợi ích quốc gia - dân tộc. Những mục tiêu trên là bất biến, song nội dung cụ thể, nhất là phương pháp tiến hành để đạt được mục tiêu chuyển hóa theo thời gian và linh hoạt tùy thuộc vào diễn biến của lịch sử.
Để triển khai chính sách đối ngoại cần có các công cụ và biện pháp. Biện pháp đối ngoại là một hệ thống hoạt động trong quan hệ quốc tế trên các lĩnh vực và ở nhiều mức độ, cấp độ khác nhau (song phương, đa phương) để thực hiện chính sách đối ngoại phù hợp với lợi ích quốc gia. Các biện pháp đối ngoại được thực hiện thông qua các công cụ ngoại giao, kinh tế, luật pháp, tuyên truyền, sức mạnh quân sự... Công cụ là hệ thống yếu tố con người và phương tiện vật chất được huy động để thực hiện chính sách đối ngoại của các chủ thể chính trị đối ngoại trong thực tiễn. Có nhiều công cụ chính sách đối ngoại, như ngoại giao, kinh tế, luật pháp, thông tin tuyên truyền đối ngoại và công cụ quân sự...; trong đó, công cụ ngoại giao đóng vai trò quan trọng nhất. Ngoại giao là công cụ thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia, là tổng thể biện pháp phi quân sự, phương pháp, thủ thuật được sử dụng có tính đến điều kiện cụ thể và đặc điểm của yêu cầu, nhiệm vụ; hoạt động chính thức của người đứng đầu nhà nước, chính phủ, bộ trưởng ngoại giao, các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, các đoàn đại biểu tại các hội nghị quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ trong chính sách đối ngoại của quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, pháp nhân và công dân mình ở nước ngoài. Đồng thời, ngoại giao là nghệ thuật đàm phán nhằm ngăn chặn hoặc dàn xếp xung đột quốc tế, tìm cách thỏa hiệp và đưa ra giải pháp có thể được các bên chấp nhận, cũng như việc mở rộng và củng cố hợp tác quốc tế.
Những công cụ ngoại giao chủ yếu, thông dụng nhất trong thực tế là thiết lập và trao đổi đại diện ngoại giao, thư tín ngoại giao, đoàn đàm phán, ký kết điều ước quốc tế, tham dự gặp gỡ, tiếp xúc, hội nghị, hội thảo quốc tế; phát ngôn chính thức quan điểm của Nhà nước về các vấn đề quốc tế, quốc gia; thực hiện các công tác lãnh sự; cử đại diện tham gia công việc của các tổ chức, diễn đàn quốc tế, khu vực.... Việc lựa chọn đúng công cụ ngoại giao là nghệ thuật của người làm chính sách. Công cụ ngoại giao không thay thế chính sách ngoại giao, chính sách ngoại giao quy định sử dụng công cụ ngoại giao. Ngoại giao bao gồm cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa rộng, ngoại giao là công cụ chính sách đối ngoại. Theo nghĩa hẹp, ngoại giao là đàm phán. Chính phủ lãnh đạo hoạt động ngoại giao của quốc gia, trước hết và trực tiếp là Bộ Ngoại giao; ngoại giao ở bất cứ quốc gia nào đều mang tính giai cấp. Như vậy, chính sách đối ngoại và ngoại giao là hai mặt của vấn đề, liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Chính sách đối ngoại đề ra chủ trương, nhiệm vụ trong quan hệ với các chủ thể khác nhau trên vũ đài quốc tế, còn ngoại giao là công cụ thực thi chính sách đối ngoại. Do đó, thực chất đây là hai từ đồng nghĩa.
Về hoạch định chính sách đối ngoại: Chính sách đối ngoại là chính sách công, do Nhà nước hoạch định và triển khai. Chính sách đối ngoại bao gồm tập hợp hai vấn đề lớn, đó là chiến lược chính sách đối ngoại và chính trị chính sách đối ngoại. Để hoạch định chính sách đối ngoại phải tính đến nhiều nhân tố khác nhau, có nhân tố ít thay đổi, song có nhân tố thường biến động. Có thể kể đến các nhân tố, như địa - chính trị, sức mạnh tổng hợp quốc gia, chính trị nội bộ, văn hóa, tình hình quốc tế và khu vực, trong đó đáng chú ý là cục diện thế giới, trật tự thế giới và lợi ích quốc gia - dân tộc... Trong các nhân tố hoạch định chính sách đối ngoại, lợi ích quốc gia - dân tộc đóng vai trò quan trọng nhất, là hòn đá tảng. Lợi ích quốc gia - dân tộc là khái niệm khái quát hóa cao những nhu cầu sống còn của quốc gia. Đó là sự tự bảo vệ, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quân sự và thịnh vượng kinh tế”(5), được lãnh đạo mỗi quốc gia nhận thức dưới dạng mục tiêu chiến lược an ninh, chiến lược đối ngoại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Tháng 3-1848, Thủ tướng Anh Hen-ry Pan-mơ-xtơn (Henry Palmerston) từng có một phát biểu kinh điển về lợi ích quốc gia tại Hạ viện Anh: “Nước Anh không có bạn bè vĩnh viễn cũng không có kẻ thù vĩnh viễn; nước Anh chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn và nhiệm vụ của chúng ta là theo đuổi những lợi ích đó”(6). Năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, ngoại giao “phải luôn luôn vì lợi ích dân tộc mà phục vụ”(7). Đại hội XI (năm 2011) của Đảng lần đầu tiên nhấn mạnh, lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc cao nhất của chính sách đối ngoại Việt Nam(8). Tư tưởng đó được Đại hội XII (tháng 1-2016) và Đại hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng tiếp tục khẳng định.
Lợi ích quốc gia - dân tộc được phân loại theo tiêu chí nội dung hay theo tầm quan trọng của lợi ích quốc gia - dân tộc, hoặc theo thời gian... Theo tiêu chí nội dung, lợi ích chính trị - an ninh của mỗi quốc gia bao gồm bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ, sự an toàn của thể chế hợp hiến, an toàn của nhân dân, vị trí, vai trò trong nền chính trị thế giới. Lợi ích kinh tế của mỗi quốc gia là phát triển kinh tế đem lại thịnh vượng cho quốc gia, nhân dân. Lợi ích văn hóa - xã hội của mỗi quốc gia là bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; mức độ bình đẳng giữa các dân tộc, nhóm xã hội; chất lượng cuộc sống, trình độ dân chủ và tự do của công dân. Theo tiêu chí tầm quan trọng, có thể chia lợi ích quốc gia - dân tộc thành ba nhóm chính sau: 1- Lợi ích sống còn là những lợi ích liên quan đến sự tồn vong, an ninh và khả năng sinh tồn của quốc gia; 2- Lợi ích rất quan trọng là những lợi ích ảnh hưởng đến sự phồn vinh của đất nước, đến đặc điểm của thế giới; là sự tôn trọng cam kết quốc tế, bao gồm an ninh và thịnh vượng của các đồng minh và bạn bè; ngăn chặn sự thống trị của kẻ thù đối với những khu vực quan trọng; 3- Lợi ích thông thường là những lợi ích góp phần vào sự thịnh vượng kinh tế và những vấn đề nhân đạo, là khả năng tồn tại, phát triển bền vững và sức sản xuất của nền kinh tế toàn cầu; an ninh của vùng biển, vùng trời, không gian. Theo tiêu chí thời gian, lợi ích quốc gia - dân tộc được chia thành các nhóm lợi ích, như lợi ích lâu dài, lợi ích ngắn hạn, lợi ích trước mắt...
Để hoạch định chính sách đối ngoại, các quốc gia cần xây dựng quy trình hoạch định khoa học, bao gồm phát hiện vấn đề; xác định mục tiêu, loại hình văn bản; vạch rõ phương án và lựa chọn phương án triển khai... Nếu lấy chủ thể làm tiêu chí thì hiện nay trên thế giới có ba mô hình hoạch định chính sách đối ngoại, đó là cá nhân quyết sách, tập thể quyết sách và tổ chức quyết sách. Mô hình hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam là tập thể quyết sách. Cơ quan quyết sách tối cao chính sách đối ngoại của Việt Nam là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Sự tham gia của nhân dân trong hoạt động đối ngoại của Nhà nước
Công tác đối ngoại của Nhà nước cùng với lĩnh vực quốc phòng - an ninh được gọi là “chính trị cấp cao”(9), vì liên quan đến những vấn đề quan trọng của Nhà nước, lợi ích quốc gia - dân tộc, quan hệ với quốc gia khác, đòi hỏi có tính bảo mật cao, do vậy không phải mọi người dân đều được tiếp cận. Theo đó, sự tham gia của nhân dân trong hoạt động đối ngoại của Nhà nước tương đối hạn chế, nhất là trong khâu hoạch định chính sách đối ngoại. Nhân dân tham gia hoạt động đối ngoại của đất nước trên một số mặt cụ thể sau: 1- Tham gia tích cực mọi hoạt động của đất nước, trên các lĩnh vực khác nhau, như kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh,... góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia - nhân tố quan trọng trong hoạch định chính sách đối ngoại của quốc gia; 2- Với tư cách là cán bộ nghiên cứu, chuyên gia của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo về quốc tế trên cả nước, qua các công trình nghiên cứu khoa học về thế giới, khu vực góp phần lý giải cơ sở khoa học cho việc xây dựng đường lối, chính sách đối ngoại, hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước; 3- Sự tiếp nhận, ủng hộ, đồng thuận đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có đường lối, chính sách đối ngoại là sức mạnh của quốc gia. Sự ủng hộ của nhân dân đối với đường lối, chính sách đối ngoại, ngoại giao của Đảng, Nhà nước là cách thức để nhân dân tham gia hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước; 4- Chính sách đối ngoại của Việt Nam bao gồm ba trụ cột: đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, trong đó hoạt động đối ngoại quốc hội đóng vai trò hết sức quan trọng, vừa mang tính nhà nước, vừa mang tính nhân dân sâu sắc, được triển khai đồng bộ với các trụ cột đối ngoại, tạo nên sức mạnh đối ngoại tổng hợp của quốc gia. Công chức, viên chức trong các trụ cột đối ngoại với tư cách là nghiên cứu viên, cán bộ biên, phiên dịch, lễ tân, báo chí,... trực tiếp tham gia phục vụ các hoạt động đối ngoại, góp phần làm cho các hoạt động đối ngoại thành công; 5- Nhân dân là chủ thể của đối ngoại nhân dân hay ngoại giao nhân dân - một trong các trụ cột quan trọng của đối ngoại Việt Nam. “Ngoại giao nhân dân Việt Nam là những hoạt động đối ngoại do các tổ chức chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp, cá nhân, đại diện các tầng lớp nhân dân, tập hợp tổ chức cho các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện với vai trò điều phối của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước thực hiện mục tiêu chính sách đối ngoại, vì lợi ích quốc gia - dân tộc”. “Ngoại giao nhân dân thực chất là công tác dân vận, vận động các đối tượng là quần chúng nhân dân nước ta và quần chúng nhân dân các nước để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị và hợp tác của nước ta”. Ngoại giao nhân dân đóng vai trò là “cánh tay nối dài”, mặt trận đa kênh, binh chủng đặc thù, lực lượng đông đảo, giúp mở đường, tạo môi trường thuận lợi cho đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, dung hòa các nguyên tắc và hành vi ứng xử đặc thù của từng chủ thể trong thực hiện mục tiêu chính sách đối ngoại; bổ trợ, bổ sung, phối hợp linh hoạt với những trụ cột khác trên các lĩnh vực hoạt động, góp phần củng cố tình đoàn kết dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, nâng cao dân trí, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên của dân tộc; tác động đến quan hệ quốc tế, trên cơ sở đó tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong công tác đối ngoại; 6- “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước”(13). Hiện nay, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có 5,3 triệu người sinh sống, làm việc tại 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% là ở các nước phát triển. Đây là lực lượng đặc biệt của binh chủng ngoại giao nhân dân, là cầu nối trong quan hệ của Việt Nam với thế giới. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài là một trọng tâm trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước; 7- Từ tháng 6-2014, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Việt Nam bắt đầu tham gia lực lượng giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc tại các phái bộ Liên hợp quốc ở Cộng hòa Trung Phi, Nam Xu-đăng và trụ sở Liên hợp quốc. Tính đến nay, Việt Nam đã cử 533 sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Đây là hoạt động ngoại giao quân sự hiệu quả, thể hiện sức mạnh nhân dân trong công tác đối ngoại.
Những vấn đề mới trong phát huy sức mạnh nhân dân
Một số nhân tố tác động
Thứ nhất, trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức ngày càng rõ vai trò của dân chủ và hết sức quan tâm xây dựng thiết chế, hoàn thiện thể chế, đổi mới cơ chế và chính sách để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân. Quá trình dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội đã tạo động lực to lớn cho sự nghiệp đổi mới. Quyền làm chủ của nhân dân đã từng bước được luật hóa. Các văn kiện của Đảng đều khẳng định, việc pháp lý hóa quyền công dân và xác lập thiết chế, thể chế hữu hiệu để thực thi chính là nội dung quan trọng của tiến trình dân chủ hóa. Cùng với tiến trình đổi mới, quá trình dân chủ hóa đã diễn ra trong mọi lĩnh vực của đất nước.
Việc đổi mới chính trị được tiến hành đồng bộ với đổi mới kinh tế. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị... Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước..., lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm. Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Với chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao, Quốc hội có nhiệm vụ đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ pháp quyền... tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân.
Đối với người dân, quy chế dân chủ ở cơ sở và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở giúp quyền làm chủ của nhân dân được thực thi trên thực tế. Dân chủ hóa chính trị nội bộ tạo điều kiện tốt hơn, nhiều hơn cho nhân dân tham gia các công việc của Đảng và Nhà nước, trong đó có chính sách đối ngoại.
Thứ hai, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển như vũ bão, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tiếp tục phát triển các tiến bộ hạ tầng điện tử, máy tính và số hóa, siêu máy tính, máy tính cá nhân và internet, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay còn gọi là cuộc cách mạng số, thông qua các công nghệ, như internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)... để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số. Thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ tạo nhiều điều kiện thuận lợi để người dân tham gia các hoạt động của Nhà nước.
Thứ ba, hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước trong giai đoạn hội nhập quốc tế trở nên sâu rộng hơn, phong phú, đa dạng, phức tạp hơn và vai trò của nhân dân tham gia hoạt động đối ngoại cũng nhiều hơn, tích cực hơn. Đây là thời kỳ ngoại giao toàn diện, do đó có thể khẳng định một thực tế là Trung ương làm ngoại giao, địa phương làm ngoại giao, tất cả người dân làm ngoại giao...
Nhận diện vấn đề mới trong phát huy sức mạnh nhân dân
Một là, đội ngũ đông đảo nhà nghiên cứu quốc tế tham gia tích cực hơn, nhiều hơn trong nghiên cứu các vấn đề quốc tế nhằm lý giải cơ sở khoa học cho đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về quốc tế phát triển mạnh mẽ trong cả nước, cũng như trong nhiều ban, bộ, ngành của Trung ương và địa phương. Hằng năm, hàng trăm công trình nghiên cứu khoa học được xuất bản, nhiều luận án tiến sĩ về quan hệ quốc tế, quốc tế học trên cả nước được bảo vệ thành công.
Hai là, nhân dân tham gia tích cực các hoạt động ngoại giao bán chính thức. Ngoại giao bán chính thức, còn gọi là “ngoại giao kênh sau” (back channel diplomacy), là các hoạt động đối ngoại có chủ đích nhằm tác động trực tiếp đến các quốc gia khác trên cơ sở các kênh bán chính thức hoặc gián tiếp thông qua các thực thể phi nhà nước, nhưng có ảnh hưởng nhất định đến quá trình hoạch định chính sách của một quốc gia”. Đây là ngoại giao kênh 1,5 và kênh 2. Ngoại giao kênh 1,5 là các quan chức nhà nước hoạt động với tư cách cá nhân. Ngoại giao kênh 2 là hoạt động trao đổi giữa các học giả, chuyên gia có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại, song không đại diện cho quốc gia. Các hoạt động ngoại giao kênh 1,5 và kênh 2 thường mang tính chất cá nhân, với bầu không khí cởi mở để xây dựng lòng tin, thảo luận những vấn đề nhạy cảm, khó trao đổi ở kênh chính thức và hướng tới tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề khó, bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố chính trị. Trong thời gian gần đây, cùng với xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, ngoại giao không chính thức phát triển mạnh mẽ. Học viện Ngoại giao, các cơ quan nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các trường đại học,... tham gia nhiều, chủ động và tích cực vào hoạt động ngoại giao không chính thức.
Ba là, nhờ tiến bộ của khoa học - công nghệ, xu thế dân chủ hóa, thông tin về các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân nhanh hơn, nhiều hơn, do đó nhân dân hết sức đồng tình, ủng hộ các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Bốn là, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, quan hệ đối ngoại mở rộng, người dân tham gia hoạt động đối ngoại đông đảo hơn, sâu rộng hơn. Đơn cử như, thông qua tham gia các hình thức du lịch cộng đồng, du lịch tham quan di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, làng nghề,... tạo dựng kênh đối ngoại hiệu quả, thu hút khách du lịch quốc tế đến với Việt Nam, chứng kiến sự nghiệp đổi mới thành công của Việt Nam, có thêm nhiều nhận thức tốt đẹp, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Đây chính là một trong những kết quả quan trọng của ngoại giao công chúng.
Năm là, vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được phát huy mạnh mẽ. Hiện nay, cộng đồng người Việt Nam đã có mặt tại 130 nước và vùng lãnh thổ trên hầu khắp các châu lục, là những “đại sứ”, cầu nối giữa Việt Nam và các nước sở tại, góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và thế giới, đưa thế giới đến với Việt Nam và Việt Nam đến với thế giới. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một trong những lực lượng quan trọng làm công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại hiệu quả.
Sáu là, Đại hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng nhấn mạnh quan điểm: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam”. “Sức mạnh của đối ngoại Việt Nam được xây dựng trên cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời kết hợp hài hòa, thống nhất giữa các trụ cột, binh chủng, lực lượng tham gia công tác đối ngoại, để từ đó kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Với sức mạnh tinh thần này, mỗi người dân Việt Nam cần quyết tâm hoàn thành tốt nhất công việc của mình, góp phần phát triển sức mạnh tổng hợp quốc gia, phấn đấu đạt được những mục tiêu to lớn mà Đảng đã đề ra, đó là: Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đó chính là cách thức gián tiếp phát huy sức mạnh nhân dân trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Trong những năm tới, dự báo tình hình khu vực và thế giới tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt... Để tiếp tục phát huy hơn nữa sức mạnh của nhân dân trong công tác đối ngoại, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, Việt Nam cần ưu tiên thực hiện một số vấn đề sau: Thứ nhất, thành lập hiệp hội nghiên cứu quốc tế hoặc hội đồng đối ngoại, để tập hợp chuyên gia nghiên cứu quốc tế phối hợp, tham mưu, tư vấn cho Đảng và Nhà nước về công tác đối ngoại và ngoại giao; thứ hai, có cơ chế đặc biệt để nhà nghiên cứu, chuyên gia nghiên cứu quốc tế đóng góp ý kiến đối với Đảng và Nhà nước về các vấn đề quốc tế và đối ngoại, vì đối ngoại là lĩnh vực chính trị cấp cao và hẹp, liên quan tới nhiều bí mật của Nhà nước; thứ ba, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, nhất là đổi mới nội dung, phương thức, cũng như tư duy công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại; thứ tư, “phối hợp chặt chẽ hoạt động ngoại giao của Nhà nước, hoạt động đối ngoại của Đảng và hoạt động đối ngoại nhân dân”, đồng thời “hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác đối ngoại”.
Tóm lại, trong bối cảnh mới, trước một số nhân tố mới nảy sinh, như dân chủ hóa chính trị nội bộ, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, việc tham gia của nhân dân vào hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước có nhiều thuận lợi, cần được tăng cường và đẩy mạnh./.
ST.
Những chỉ dẫn đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, nhà chiến lược quân sự thiên tài, người trực tiếp tổ chức, xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong hệ thống di sản tư tưởng, lý luận quý báu mà Người để lại, có những luận điểm đặc sắc về xây dựng quân đội nhân dân cần được quán triệt, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Những luận điểm đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội nhân dân mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa trong xây dựng quân đội của các nước xã hội chủ nghĩa cùng với hoạt động thực tiễn phong phú của Người trong tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện Quân đội ta. Những luận điểm đó không những đã được kiểm chứng tính đúng đắn qua thực tiễn xây dựng Quân đội nhân dân trước đây, mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị và vẫn là kim chỉ nam cho sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm đơn vị bộ đội Phòng không bảo vệ Thủ đô Hà Nội, ngày 25/9/1966. Ảnh: Tư liệu TTXVN |
Trước hết, về tính tất yếu phải xây dựng Quân đội nhân dân. Luận giải đầy đủ cả cơ sở lý luận và thực tiễn, Người cho rằng: xây dựng Quân đội nhân dân là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, cần kíp nhất, điều kiện tiên quyết để kháng chiến thắng lợi. Do đó, khi nói về nhiệm vụ của nhà nước dân chủ mới, Người chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách, đặt lên hàng đầu: “Để kháng chiến thắng lợi, nước nhà phải xây dựng nhiều mặt: Xây dựng quân đội - Một quân đội nhân dân thật mạnh, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng”. Bước sang giai đoạn cách mạng mới, cần tiếp tục thi đua xây dựng Quân đội hùng mạnh để bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn hòa bình, thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Người căn dặn: “... phải thi đua xây dựng Quân đội nhân dân hùng mạnh, làm hậu thuẫn mạnh mẽ cho cuộc đấu tranh củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước”.
Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta không những sớm tổ chức ra Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, mà còn không ngừng chăm lo xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện. Hiện nay, Đảng ta chủ trương: “Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân,... cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội,... tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân,... cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”.
Hai là, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh là nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng. Trước mắt là tạo ra lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu, công cụ bạo lực cách mạng sắc bén để giành, giữ chính quyền, kiến tạo hòa bình, loại bỏ nguy cơ chiến tranh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Người chỉ rõ: “Để đánh thắng thực dân Pháp, bọn can thiệp Mỹ và lũ Việt gian bù nhìn... ta phải có một quân đội nhân dân thật mạnh và luôn luôn tiến bộ”. Khi mục tiêu giành và giữ chính quyền đã hoàn thành, Người khẳng định mục đích cuối cùng của việc: “Xây dựng quân đội cách mạng do Đảng lãnh đạo, tiến hành chiến tranh cách mạng chính là chuẩn bị điều kiện để tiêu diệt hết thảy chiến tranh”, để giữ gìn hòa bình, bảo vệ Tổ quốc.
Từ chỉ dẫn quý báu trên của Người, trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, để Quân đội làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 khẳng định: “Quân đội nhân dân Việt Nam đã và đang được đổi mới về tổ chức, trang bị, nghệ thuật quân sự; sức mạnh tổng hợp tiếp tục được tăng cường; khả năng sẵn sàng chiến đấu được nâng cao; thực sự là quân đội của nhân dân, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
Ba là, về nội dung, nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân, Người chỉ rõ phải xuất phát từ mục đích xây dựng Quân đội và phải căn cứ vào tình hình nhiệm vụ của cách mạng quy định nên rất toàn diện. Vì vậy, theo Người “... một mặt phải tiếp tục thực hiện kế hoạch huấn luyện cho quân đội, một mặt phải chuẩn bị thực hiện các chế độ chính quy và phải nghiên cứu giải quyết dần các vấn đề củng cố hậu phương. Đó là nhiệm vụ rất to lớn, rất quan trọng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta”. Nhất quán và làm rõ hơn tính toàn diện về nội dung, nhiệm vụ xây dựng Quân đội, Người khẳng định: Quân đội nhân dân phải được xây dựng hùng mạnh để thực hiện ba chức năng: đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Các chức năng đó đều vẻ vang và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Người nhấn mạnh: “Đảng và Chính phủ giao cho quân đội ta hai nhiệm vụ: 1. Xây dựng quân đội nhân dân ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu. 2. Thiết thực tham gia lao động sản xuất để góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là hai nhiệm vụ rất vẻ vang; hai nhiệm vụ đó nhất trí với nhau. Các chú cần phải ra sức học tập và công tác để xây dựng quân đội; đồng thời, phải ra sức tham gia sản xuất và tiết kiệm, ủng hộ những đơn vị chuyển sang sản xuất”8.
Bốn là, về nguyên tắc xây dựng Quân đội nhân dân. Trung thành với học thuyết Mác – Lênin về tổ chức lãnh đạo, xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, vận dụng vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “lấy chính trị làm gốc” là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Vì: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.
Cùng với đó, để Quân đội ta thực sự là đội quân cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, Người chỉ rõ: Đảng phải lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội. Đây là nguyên tắc “bất di, bất dịch”, được xác định từ rất sớm, ngay trong “Chánh cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” của Đảng (tháng 02/1930) do Người trực tiếp khởi thảo. Thực tiễn cho thấy, để giữ vững định hướng chính trị trong xây dựng Quân đội, trước sau như một, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng, khẳng định dứt khoát vai trò độc tôn lãnh đạo quân đội công nông, không phân quyền lãnh đạo đó cho một giai cấp, một tổ chức, một đảng phái nào khác, vì thế mà: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”.
Năm là, phương thức xây dựng Quân đội nhân dân. Theo Người, để xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh, phải vận dụng tổng hợp các cách thức, biện pháp. Trước hết, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; thường xuyên nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng và giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho Quân đội; trên cơ sở đó, đẩy mạnh công tác huấn luyện quân sự và kỹ thuật; phải chấp hành nghiêm chế độ và kỷ luật; phải hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất. Người nhấn mạnh: để Quân đội ta hoàn thành được nhiệm vụ đó thì cán bộ phải nâng cao quyết tâm và phải cẩn thận. Quyết tâm và cẩn thận phải đi đôi với nhau chứ không phải quyết tâm là mạo hiểm. Phải biến quyết tâm của Đảng và Chính phủ thành quyết tâm của toàn quân ta và phải biểu hiện cụ thể đối với từng loại hình đơn vị. Đối với các đơn vị bộ đội thường trực, phải tích cực học tập, chấp hành nghiêm chế độ, kỷ luật và sẵn sàng chiến đấu cao. Các đơn vị bộ đội sản xuất phải tích cực lao động hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất. Cán bộ phải có tinh thần trách nhiệm, chấp hành tốt mệnh lệnh và chỉ thị, khắc phục khó khăn, đi sâu đi sát thực tế, thường xuyên kiểm tra đôn đốc, chống quan liêu đại khái. “Toàn quân phải đoàn kết phấn đấu, quyết tâm xây dựng quân đội ta thành một quân đội hùng mạnh, sẵn sàng chiến đấu, học tập giỏi, công tác giỏi, sản xuất giỏi”.
Thấu triệt những chỉ dẫn của Người, trong tiến trình đổi mới từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, Đảng ta đều xác định chủ trương giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, đề ra những chủ trương, giải pháp lãnh đạo xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Ngày 20/7/2005, Bộ Chính trị (khóa IX) ban hành Nghị quyết số 51-NQ/TW “Về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Đây chính là “chìa khóa vạn năng” để xây dựng Quân đội ta thành Quân đội vừa cách mạng, vừa hùng mạnh. Nhất quán quan điểm này, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, phải “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân”.
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đang đứng trước cả thời cơ và thách thức đan xen, Quân đội đang quyết liệt thực hiện điều chỉnh tổ chức lực lượng tạo tiền đề vững chắc để tiến lên hiện đại. Trước tình hình đó, hơn bao giờ hết, Quân đội nhân dân càng phải thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng. Để hoàn thành trọng trách vẻ vang, nhiệm vụ thiêng liêng đó, chúng ta cần vận dụng sáng tạo những chỉ dẫn đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong đó, chú trọng thực hiện tốt các nội dung trọng tâm:
Một là, tiếp tục quán triệt, nghiên cứu làm sáng rõ hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân, làm cơ sở để vận dụng hiệu quả và phát triển sáng tạo vào quá trình xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Đồng thời, tập trung nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện chủ trương, cơ chế, chính sách để tạo cơ sở chính trị, hành lang pháp lý nâng cao hiệu quả quán triệt, vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân trong tình hình mới.
Hai là, các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương về xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Trọng tâm là Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị (khóa XIII); Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 02/4/2022 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo,... gắn với quán triệt và thực hiện những chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng Quân đội trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới”.
Ba là, kiên định nguyên tắc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của toàn quân. Trong đó, tập trung giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân; đồng thời, không ngừng tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc của Quân đội ta. Thường xuyên củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Quân đội với Nhân dân - nền tảng vững chắc để xây dựng Quân đội hùng mạnh.
Bốn là, từng cơ quan, đơn vị thường xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức, biên chế, trang bị đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Năm là, phải gắn việc đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện - đào tạo, quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao với nâng cao chất lượng xây dựng chính quy, quản lý tư tưởng, kỷ luật.
Sáu là, thực hiện tốt công tác hậu cần, kỹ thuật; phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội và phát triển kinh tế - xã hội.
Khắc ghi lời dạy của Người, cán bộ, chiến sĩ toàn quân nguyện đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, không ngừng phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
ST.