Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2024

PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG KIỂM SOÁT, GIÁM SÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần kiểm soát, giám sát quyền lực trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hội nhập quốc tế là đòi hỏi cấp bách của quá trình xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới hiện nay.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám sát quyền lực
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân được C. Mác, V.I. Lê-nin đặc biệt quan tâm. V.I. Lê-nin viết: “Không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được theo hai ý nghĩa sau đây: 1- Giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ; 2- Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ”. Về cơ chế thực hành dân chủ, V.I. Lê-nin cho rằng, nội dung dân chủ phải được bảo đảm bằng hiến pháp, bằng toàn bộ hệ thống pháp luật. Người nhấn mạnh, không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho những người đại diện nhân dân là đủ, mà còn phải xây dựng chế độ dân chủ từ cơ sở, dựa vào ý kiến của bản thân quần chúng với sự tham gia thực sự của quần chúng vào đời sống của nhà nước và phải có sự kiểm tra, giám sát.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực, kiểm soát, giám sát quyền lực luôn gắn với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Người viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của nhân dân”. Người chỉ rõ cơ chế nhân dân giao quyền cho cơ quan nhà nước thông qua bầu cử theo nguyên tắc “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền lực chính trị phải gắn với quyền lực kinh tế: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Để khắc phục tình trạng lộng quyền, lợi dụng quyền lực để tham ô, Người yêu cầu các cơ quan nhà nước và cán bộ phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Để thực hiện kiểm soát, giám sát quyền lực có hiệu quả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra các phương thức: “1. Kiểm tra phải có hệ thống nghĩa là khi đã có nghị quyết, thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị quyết ấy, phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân dân địa phương ấy... 2. Kiểm tra không nên chỉ bằng cứ vào các tờ báo cáo, mà phải đi đến tận nơi. 3. Kiểm tra phải dùng cách thức thật thà tự phê bình và phê bình”. Theo Người, cơ chế kiểm soát quyền lực đối với bộ máy nhà nước, chính là kiểm soát, giám sát cán bộ vì “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta rất quan tâm đến đổi mới phương thức lãnh đạo để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia kiểm soát, giám sát quyền lực. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Đại hội XII của Đảng cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” bằng nội dung “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp” với những quy chế, quy định, quy trình cụ thể; quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân về những quyết định của mình. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII nhấn mạnh: “Phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm các quy tắc tổ chức của Đảng; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, chính xác, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng”.
Đảng có nhiều chủ trương đúng đắn để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta rút ra bài học quan trọng: Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, những ý kiến, nguyện vọng chính đáng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là một nguồn gốc hình thành đường lối của Đảng và nhân dân chính là người làm nên những thành tựu của công cuộc đổi mới. Đảng ta xác định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, là bản chất của chế độ XHCN. Quyền làm chủ của nhân dân được tổng kết thành phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nhân dân làm chủ thông qua các hình thức tự quản, thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Hiến pháp và nhiều văn bản quy phạm pháp luật, như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Trưng cầu ý dân, đều có quy định cụ thể về điều kiện, hình thức, phương thức để nhân dân tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước và xã hội. Các luật khác, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên... đều cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Theo quy định của Hiến pháp, nhân dân có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thông qua trưng cầu ý dân (theo Luật Trưng cầu ý dân) và trực tiếp quyết định nhiều vấn đề liên quan đến đời sống của nhân dân. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức thông qua bầu cử dân chủ, nhận sự ủy quyền có điều kiện của nhân dân, thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân. Đây là hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước quan trọng nhất; bởi vì, bầu cử những người vào cơ quan quyền lực nhà nước liên quan đến quyền dân chủ của nhân dân và quyền lãnh đạo của Đảng. Người dân có quyền và trách nhiệm lựa chọn những người có đức, có tài, xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Sau bầu cử, người dân còn thực hiện quyền giám sát hoạt động của Nhà nước, của những người được nhân dân bầu cử và có quyền bãi miễn họ thông qua Quốc hội, hội đồng nhân dân khi họ không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Quyền bãi miễn xuất phát từ nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là tối thượng. Vừa qua, cử tri cả nước rất tích cực tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp trong các kỳ đại biểu tiếp xúc cử tri. Nhiều kiến nghị, chất vấn của nhân dân đến Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp được tiếp thu, giải quyết kịp thời. Nhân dân kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị thông qua các tổ chức có tính đại diện xã hội, các đoàn thể chính trị - xã hội, như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu Chiến binh Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các hội quần chúng, hội nghề nghiệp khác. Hằng năm, các đoàn thể chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp đều tập hợp được những tâm tư, nguyện vọng, các kiến nghị, đề xuất của đoàn viên, hội viên để báo cáo với Đảng, với Quốc hội, Hội đồng nhân dân; góp phần nâng cao hiệu quả việc giám sát, kiểm soát quyền lực của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý trong cả hệ thống chính trị. Thông qua các phương tiện truyền thông, như báo in, báo viết, báo hình, báo mạng... nhiều phản ánh, ý kiến của người dân được tổ chức Đảng, Nhà nước giải quyết, xử lý kịp thời, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Bên cạnh những kết quả, thành tựu đạt được, sự lãnh đạo của Đảng trong việc tổ chức để nhân dân kiểm soát quyền lực đối với hệ thống chính trị còn có phần hạn chế. Việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở một số nơi đạt hiệu quả chưa cao. Không ít vụ, việc tiêu cực, tham nhũng được nhân dân phát hiện nhưng không được cấp ủy, tổ chức đảng ngăn chặn, xử lý, giải quyết kịp thời. Việc tổ chức để quần chúng tham gia góp ý xây dựng Đảng, đóng góp ý kiến cho cán bộ, đảng viên ở nhiều nơi còn mang tính hình thức. Quyền bãi miễn xuất phát từ nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhưng trong các văn bản pháp luật chưa có quy định nêu rõ loại vi phạm cụ thể nào của đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân thì bị coi là không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nhiều đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân khi tiếp xúc cử tri nhận được rất nhiều kiến nghị, đề xuất chính đáng của cử tri nhưng theo dõi, giám sát việc giải quyết của chính quyền với cử tri chưa tích cực, không thường xuyên, nên tỷ lệ kiến nghị được giải quyết còn thấp. Việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật của một số cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp chưa tốt. Ở nhiều nơi, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư, chuyển đổi chợ mới... vẫn còn vi phạm Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Nhân dân trực tiếp giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội để giải quyết đơn, thư, khiếu nại, tố cáo nhưng số lượng được giải quyết còn thấp.
Một số nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện tốt trong thời gian tới
Một là, đổi mới việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Các cấp ủy đảng cần tổ chức các đoàn đi khảo sát, đánh giá thực tế các loại hình tổ chức cơ sở đảng ở các địa bàn, vùng, miền khác nhau. Sau khi khảo sát, cần đánh giá, tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo để lấy ý kiến góp ý, đề xuất để nâng cao chất lượng các nghị quyết của Đảng. Quá trình lấy ý kiến tham gia góp ý, chính là để chuyển biến nhận thức của nhân dân về nội dung, vấn đề cấp ủy cần định hướng lãnh đạo, chỉ đạo. Phương pháp lấy ý kiến của nhân dân nên tùy điều kiện cụ thể của từng đơn vị, địa phương để lựa chọn, như phát phiếu hỏi đáp về nội dung, sự cần thiết ra đời nghị quyết? Hạn chế của vấn đề cần ra nghị quyết là gì? Nguyên nhân vì sao? Nếu thực hiện thì có biện pháp, giải pháp nào hiệu quả...? Trên cơ sở tổng hợp được các vấn đề thì tổ chức tọa đàm lấy ý kiến góp ý của các chuyên gia, đội ngũ trí thức trước khi hoàn chỉnh văn bản dự thảo. Khi văn bản dự thảo nghị quyết, đề án đã hoàn thành thì nên công khai toàn văn đến nhân dân và đến các đảng bộ trực thuộc để lấy ý kiến lần cuối trước khi trình cấp ủy thảo luận, quyết định ban hành.
Hai là, đổi mới việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám sát việc tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết, chủ trương của Đảng.
Nhân dân tham gia kiểm soát, giám sát việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, đưa nghị quyết vào cuộc sống là vấn đề rất quan trọng và cần thiết. Để ban hành một chủ trương, nghị quyết các cấp ủy đều thực hiện qua các bước, như xây dựng, ban hành nghị quyết, tổ chức phổ biến, quán triệt nghị quyết, lãnh đạo nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa nghị quyết thành Cương lĩnh, kế hoạch, các cơ chế, chính sách, đề án, dự án để thực hiện. Đảng đã ban hành một số văn bản để nhân dân thông qua tổ chức của mình thực hiện quyền đó, như Quyết định số 217-QĐ/TW, Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị khóa XI; Quốc hội đã ban hành một số luật có nội dung liên quan đến quyền và trách nhiệm của công dân, như Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Trưng cầu ý dân,... Ngoài ra, còn có Nghị định số 04/2015/NĐ-CP, ngày 9-1-2015, của Chính phủ; Nghị định số 60/2013/NĐ-CP, ngày 16-6-2013, của Chính phủ và Pháp lệnh số 34/2007/PL, ngày 20-4-2007, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về “thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”.
Ba là, tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám sát đạo đức, lối sống, hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Những quy định trên đã tạo điều kiện cho nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội trực tiếp góp ý cho cán bộ, đảng viên về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Nhiều địa phương đã tổ chức tốt cuộc góp ý đảng viên ở địa bàn cư trú theo định kỳ hằng năm với tinh thần thẳng thắn, xây dựng; thông qua các cơ quan truyền thông để phản ánh những vụ, việc trái pháp luật, trái quy định của Đảng, của một số cán bộ có chức vụ, quyền hạn; người dân đã trực tiếp gửi đơn, thư phản ánh, tố cáo đến ủy ban kiểm tra, thanh tra các cấp, đến Ban Dân nguyện của Quốc hội để kịp thời giải quyết, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, của đảng viên.
Bốn là, thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân, góp phần kiểm soát, giám sát công tác cán bộ.
Để phát huy dân chủ của nhân dân trong công tác cán bộ, Ban Bí thư đã ban hành Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017, về “Ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Quy định việc công khai “Bản cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, không “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên; bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ lãnh đạo, quản lý và người phải kê khai theo quy định”; công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng; cổng thông tin điện tử, niêm yết tại trụ sở cơ quan, đơn vị; thông qua họp báo, hội nghị, hội thảo, sinh hoạt chi bộ, thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội; gửi văn bản hoặc bằng các hình thức khác, để nhân dân dễ biết, dễ giám sát cán bộ. Người dân có quyền, có trách nhiệm lựa chọn những người đại diện thực hiện sứ mệnh của nhân dân; đồng thời, dùng quyền giám sát và quyền bãi miễn khi cán bộ, đảng viên không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Năm là, đẩy mạnh việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám sát hoạt động của cơ quan lập pháp.
Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua Đảng đoàn Quốc hội. Quốc hội là cơ quan lập pháp, thực hiện quyền ban hành và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. Để nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền kiểm soát quyền lực của mình, Quốc hội phát huy tối đa sự tham gia của người dân trong việc xây dựng và ban hành các đạo luật, các vấn đề trọng đại của đất nước. Nhân dân kiểm soát quyền lực của Quốc hội thông qua việc Quốc hội thực hiện tốt chức năng giám sát tối cao.
Quốc hội phải giám sát chặt chẽ các hoạt động của các cơ quan hành pháp, để các cơ quan hành pháp chấp hành tốt pháp luật. Cử tri cả nước rất đồng tình với việc đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp của Quốc hội. Hoạt động này góp phần tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho nhân dân và giúp các thành viên của Chính phủ tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước trên các lĩnh vực trước nhân dân; đồng thời, giải quyết các đề xuất, kiến nghị chính đáng và hợp pháp của công dân qua hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội cần đưa vào quy định trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân về giám sát cơ quan chức năng giải quyết kiến nghị của cử tri, coi đây là một tiêu chuẩn quan trọng đánh giá, phân loại đại biểu hằng năm. Vừa qua, đại biểu Quốc hội đã bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, đây là một kênh thông tin quan trọng để nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực thông qua người đại diện của mình.
Sáu là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan hành pháp.
Đảng lãnh đạo Chính phủ thông qua Ban Cán sự Đảng Chính phủ. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp. Cơ quan hành pháp có chức năng, nhiệm vụ rất quan trọng là quyết định chính sách để nhân dân kiểm soát quyền lực cụ thể đối với các cơ quan chức năng trong hệ thống chính trị. Chính sách đó bao gồm chính sách về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Nhiệm vụ của cơ quan hành pháp rất rộng, như xây dựng quy hoạch, kế hoạch, thực hiện cải cách hành chính, quản lý nhà nước về tài nguyên, khoáng sản, về ngân sách, thực hiện công tác thanh tra. Nhân dân kiểm soát quyền lực của chính quyền thông qua cơ quan kiểm toán (trực thuộc Quốc hội), thông qua chức năng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Các kiến nghị của nhân dân đều được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban Dân nguyện tổng hợp để báo cáo tại các kỳ họp Quốc hội, yêu cầu Chính phủ giải trình công khai, dân chủ. Tuy nhiên, còn nhiều vụ, việc vi phạm pháp luật của một số cán bộ chính quyền chậm được điều tra, xử lý kịp thời đã làm giảm lòng tin của nhân dân với chính quyền. Theo quy định của Hiến pháp, Thủ tướng Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội, nhưng trên thực tế quyền hành pháp về cơ bản được giao cho nhiều người đảm nhiệm, vì thế trách nhiệm của cá nhân vẫn chưa thực sự rõ ràng, vẫn còn xen lẫn trong trách nhiệm tập thể, bao gồm các thành viên của Chính phủ. Việc bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu ra là một trong những biện pháp quan trọng nhằm tăng cường trách nhiệm của các thành viên Chính phủ. Khoản 2, Điều 96 của Hiến pháp năm 2013, quy định rõ trách nhiệm của Chính phủ trong việc hoạch định chính sách. Để giữ vững kỷ cương, kỷ luật, chính quyền các cấp phải chỉ đạo cơ quan thanh tra tăng cường thanh tra trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là việc quản lý nhà nước về đất đai, đầu tư công, các công trình, dự án... để xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật của công chức, viên chức. Đây là công cụ quan trọng thực hiện quyền kiểm soát của nhân dân đối với chính quyền các cấp.
Bảy là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp
Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp, chủ yếu thông qua Ban Cán sự Đảng Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân. Cấp ủy đảng định hướng lãnh đạo hoạt động tư pháp, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện để hoạt động tư pháp đúng chủ trương, nghị quyết của Đảng và quy định của pháp luật. Phương thức quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước là xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước để các cơ quan quyền lực nhà nước thực thi quyền lực nhà nước vừa thống nhất phối hợp hành động, vừa kiểm soát lẫn nhau, không một cơ quan nào có thể lạm quyền. Ở nước ta, Điều 2, Khoản 3, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có quyền xét xử đối với bất kỳ đại biểu Quốc hội, thành viên của Chính phủ nếu họ vi phạm pháp luật. Việc hiến định nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm, làm cho khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước của tòa án được rõ ràng. Ngoài chức năng thực hành quyền công tố, viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp; qua đó, có thể kiểm sát, ngăn chặn được việc lạm quyền của cơ quan và công chức nhà nước trong các hoạt động tư pháp. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức tốt công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật đến người dân, là một trong những giải pháp hữu hiệu để nhân dân kiểm soát quyền lực qua hoạt động tư pháp tốt hơn. Khi hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và đông đảo người dân có kiến thức, có ý thức bảo vệ pháp luật thì việc giám sát, kiểm soát hoạt động của các cơ quan tư pháp sẽ có hiệu quả tốt.
Tám là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, góp phần kiểm soát, giám sát quyền lực.
Đảng đã xây dựng và ban hành kịp thời các nghị quyết để định hướng lãnh đạo cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tổ chức đưa nghị quyết vào cuộc sống. Định kỳ năm năm, Trung ương chỉ đạo sơ kết và mười năm chỉ đạo tổng kết, đánh giá kết quả việc tổ chức thực hiện nghị quyết ở các cấp, các ngành. Việc đổi mới nội dung và hình thức kiểm tra, sơ kết, tổng kết các nghị quyết chuyên đề của các cấp ủy, góp phần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội để kiểm soát, giám sát quyền lực của các cơ quan nhà nước. Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, “Về quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”. Trên cơ sở Quy định số 217-QĐ/TW, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đã xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát có trọng tâm, trọng điểm một số lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến người dân, như giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, hội đồng nhân dân, việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, các chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân; việc thu chi các quỹ do nhân dân đóng góp, kinh phí xây dựng nông thôn mới, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành... Đảng có chủ trương thông qua hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để động viên những người ngoài Đảng tham gia chính quyền bằng cách tự ứng cử; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội thường xuyên sâu sát cơ sở, lắng nghe kịp thời tâm tư, nguyện vọng, đề xuất, kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân để tổng hợp phản ánh cho cấp ủy, Quốc hội, hội đồng nhân dân, chính quyền các cấp xem xét, giải quyết. Thực hiện các quy định của Đảng, như Quy định số 11-QĐ/TW, ngày 18-2-2019, “Về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”... để giám sát việc thực hiện. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp đã tăng cường công tác tiếp dân, đối thoại với dân, nhiều bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân được giải quyết kịp thời, góp phần tích cực làm ổn định chính trị, hạn chế khiếu kiện đông người, giảm thiểu phát sinh điểm nóng ở các địa phương./.
Tạp chí Cộng sản
Có thể là hình ảnh về 4 người và văn bản cho biết 'biêu XιйA'

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

Quán triệt quan điểm bảo vệ Tổ quốc của Đảng, nâng cao năng lực ứng phó thách thức an ninh phi truyền thống

Trước sự tác động mạnh mẽ và hậu quả khôn lường của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, cần quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo quan điểm bảo vệ Tổ quốc của Đảng vào xác định nội dung, giải pháp ứng phó hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Xây dựng nền quốc phòng, an ninh của mỗi quốc gia nói chung, ở nước ta nói riêng đều chủ yếu nhằm đối phó thành công với những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống. Tùy thuộc vào bối cảnh, thời điểm khác nhau mà những thách thức an ninh truyền thống hoặc an ninh phi truyền thống nổi lên đe dọa tới an ninh quốc gia. Trong khi đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta không chỉ là đánh bại các cuộc tiến công xâm lược từ bên ngoài lãnh thổ, mà còn phải ngăn chặn, đẩy lùi, đối phó hiệu quả với các thách thức ở bên trong, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, như: khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,... giữ vững sự ổn định, phát triển thịnh vượng quốc gia, dân tộc.

Trên thực tế, các thách thức an ninh phi truyền thống đã, đang diễn ra ở nhiều cấp độ, quy mô khác nhau và có tác động sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trên các môi trường: không, bộ, biển, không gian mạng,... khi các tác động đó lớn đến mức không thể kiểm soát được hoặc xử lý không hiệu quả sẽ tạo thành nguy cơ về quốc phòng. Nguy cơ an ninh phi truyền thống trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra sẽ tác động thúc đẩy hoặc làm suy giảm tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, gây mất ổn định an ninh chính trị đất nước và có thể dẫn tới xung đột, chiến tranh. Như vậy, nguy cơ về quốc phòng, nhất là vấn đề xung đột, chiến tranh được hình thành từ nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan, cả bên trong và bên ngoài, trong đó có các nguyên nhân từ tác động của yếu tố an ninh phi truyền thống. Do đó, ngăn chặn, đối phó, đẩy lùi các thách thức an ninh phi truyền thống là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Nhận thức rõ điều đó, văn kiện các kỳ Đại hội XI, XII của Đảng đều chỉ rõ các thách thức an ninh phi truyền thống và nhất quán quan điểm phải đánh giá, dự báo chính xác tình hình, chủ động có biện pháp ngăn chặn, ứng phó hiệu quả, nhằm bảo đảm an ninh, an toàn, giữ vững sự ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường... tiếp tục diễn biến phức tạp”1. Từ đó, Đảng ta xác định phải “chủ động phòng ngừa là chính. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh”. Thực hiện chủ trương đó, những năm gần đây, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tích cực, chủ động đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn làm giảm thiểu tối đa những tác hại do những thách thức an ninh phi truyền thống gây ra bằng nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp sau:

Một làtiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật trong thực thi các vấn đề về an ninh phi truyền thống. Hiện nay, chúng ta có hệ thống luật tương đối đầy đủ để thực thi các hoạt động trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống, như: Luật An ninh quốc gia (năm 2004); Luật Bảo vệ môi trường (năm 2014); Luật Phòng, chống khủng bố (năm 2015); Luật Quốc phòng, Luật An ninh mạng (năm 2018); Luật Phòng thủ dân sự (năm 2023),… cùng nhiều văn bản pháp lý có liên quan, là cơ sở quan trọng để ngăn chặn, ứng phó, đẩy lùi các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống một cách hệ thống từ Trung ương xuống cơ sở. Tuy nhiên, do sự phát triển của tình hình và yêu cầu, nhiệm vụ, nhiều nội dung trong các văn bản pháp lý chưa thật phù hợp, thậm chí lạc hậu,... cần được nghiên cứu, bổ sung, bảo đảm tính đầy đủ, đồng bộ, toàn diện và tính pháp lý trong quá trình thực hiện.

Các cơ quan chức năng tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu thực tiễn quá trình đối phó với thách thức an ninh phi truyền thống, tìm ra những vấn đề còn vướng mắc, bất cập, phát sinh, còn thiếu hoặc chưa chặt chẽ, đồng bộ làm cơ sở tham mưu cho Nhà nước tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản pháp lý thực thi các vấn đề an ninh phi truyền thống, bảo đảm đúng quan điểm, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật Nhà nước, luật pháp quốc tế, không chồng chéo, mâu thuẫn, đáp ứng sự phát triển mau lẹ của tình hình. Trong đó cần tập trung nghiên cứu, cụ thể hóa Luật Phòng thủ dân sự (năm 2023), Nghị định số 02/2019/NĐ-CP, ngày 02/01/2019 của Chính phủ về Phòng thủ dân sự thành các quy định cụ thể trong từng lĩnh vực, môi trường, nhóm đối tượng, cấp độ đối phó, tình huống xử lý thách thức an ninh phi truyền thống. Thay đổi nhận thức và hoàn thiện pháp luật đối với các hành vi vi phạm an ninh phi truyền thống. Hoàn thiện hệ thống quy chế phối hợp, phân công, phân định rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Y tế,... nhất là lực lượng tác chiến không gian mạng, an ninh mạng,… trong thực thi nhiệm vụ an ninh phi truyền thống; bổ sung các cơ chế, chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân, chế độ, chính sách đối với lực lượng phòng, chống dịch bệnh; hoàn thiện quy định, thể chế hợp tác quốc tế, cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin, đấu tranh phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường, quản lý công dân, giải quyết các vấn đề quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, v.v.

Hai làxây dựng lực lượng tác chiến không gian mạng thực sự “tinh, gọn, mạnh, hiện đại”, trở thành lực lượng tác chiến công nghệ cao, ngang tầm lực khu vực và quốc tế. Lực lượng tác chiến không gian mạng là lực lượng quan trọng tham gia bảo đảm an ninh, an toàn không gian mạng quốc gia, đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao cùng những âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng. Trong giai đoạn mới, việc bảo đảm đầy đủ về lực lượng, phương tiện, nghệ thuật cho lực lượng tác chiến không gian mạng phát huy vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là yêu cầu tất yếu, khách quan và phải thực sự được coi trọng. Theo đó, cần chủ động chuẩn bị, sẵn sàng về nguồn lực, tổ chức huấn luyện, diễn tập nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật chuyên ngành; xây dựng, dự kiến các tình huống, phương án thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tác chiến không gian mạng, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc cả trên đất liền, trên không, trên biển và trên không gian mạng, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Ba làngăn ngừa nguy cơ an ninh phi truyền thống chuyển hóa thành an ninh truyền thống. Thực tiễn hiện nay cho thấy, trong bối cảnh tình hình an ninh thế giới, khu vực biến động nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều thách thức an ninh phi truyền thống có thể chuyển hóa thành mối đe dọa của an ninh truyền thống, như: an ninh hàng hải, an ninh biển, đảo; an ninh đường không; vấn đề tôn giáo, dân tộc, di cư tự do; lợi dụng lịch sử để xuyên tạc kích động hận thù dân tộc ở các địa bàn chiến lược, v.v. Đặc biệt, cần cảnh giác với kiểu chiến tranh “ủy nhiệm”, chiến tranh “phi quy ước”, ban đầu chỉ xuất phát từ các vấn đề an ninh phi truyền thống, sau đó phát triển với các thủ đoạn tinh vi, tiến tới phát động chiến tranh, xâm chiếm lãnh thổ nước ta. Theo đó, trước hết, các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc lịch sử dân tộc, tạo cớ, kích động chia rẽ quan hệ đoàn kết giữa nhân dân ta với nhân dân nước láng giềng, gây mất ổn định chính trị; tạo cớ can thiệp, tranh chấp, chuyển hóa thành xung đột ở các quy mô khác nhau. Quá trình tiến hành, các chủ thể “ủy nhiệm” đứng bên ngoài cung cấp tài chính, vũ khí, trang bị, cố vấn, sử dụng lực lượng đặc nhiệm để hỗ trợ; duy trì áp lực làm ta dần suy yếu, tiến tới chia cắt lãnh thổ hoặc lợi dụng tạo áp lực đòi hỏi yêu sách lãnh thổ,... gây phức tạp tình hình an ninh, an toàn trong khu vực.

Để ngăn chặn, đẩy lùi và triệt tiêu nguy cơ này, trước hết phải đẩy mạnh kết hợp đấu tranh bằng cả biện pháp an ninh phi truyền thống và an ninh truyền thống, như: đấu tranh pháp lý, đưa ra những bằng chứng lịch sử cùng với luật pháp quốc tế để khẳng định chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của Việt Nam trước toàn thể thế giới. Tổ chức đấu tranh liên tục, kiên quyết, kiên trì với các phương thức linh hoạt, phù hợp, kiên quyết về chiến lược nhưng mềm dẻo về sách lược; luôn chủ động, tỉnh táo, không mắc sai lầm để kẻ thù lợi dụng, tạo cớ dẫn tới xung đột hoặc chiến tranh.

Bốn làkết hợp chặt chẽ giữa chủ động phòng ngừa với thực hành đối phó hiệu quả các nguy cơ, thách thức an ninh phi truyền thống. Hiện nay, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ với nhiều quy mô, hình thức, cấp độ khác nhau, trong các lĩnh vực, trên phạm vi khu vực, toàn cầu và liên tục biến đổi, tác động đến các quốc gia trong đó có nước ta. Do vậy, việc phòng ngừa và xử lý, ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống cũng phải tiến hành liên tục, không có điểm dừng, không có kết thúc; phải kết hợp đan xen, đồng thời giữa phòng ngừa với ứng phó, giữa chuẩn bị với thực hành, giữa đấu tranh với bổ sung hoàn thiện cơ chế, v.v. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị phải đề cao cảnh giác, chủ động, tích cực, quyết tâm giành thắng lợi trong đấu tranh với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Năm làtăng cường hợp tác quốc tế trong đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống. Khác với an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống có đặc điểm chung là bao hàm những yếu tố phi quân sự, không chỉ tồn tại trong phạm vi một quốc gia, dân tộc, mà nó phát tác, ảnh hưởng, lan rộng nhanh chóng ra nhiều quốc gia, khu vực và toàn cầu, đòi hỏi sự quan tâm, vào cuộc của cả cộng đồng quốc tế. Vì vậy, để tạo sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi thách thức an ninh phi truyền thống, chúng ta phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các nước, các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các nước trong khu vực. Trong quá trình hợp tác phải chọn lọc, có trọng tâm, trọng điểm; tập trung vào các vấn đề: đào tạo, huấn luyện, diễn tập, khắc phục hậu quả thảm họa, thiên tai, hỗ trợ nhân đạo, phòng, chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia,... góp phần giảm thiểu tác động của an ninh phi truyền thống đối với quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống./.

ST.

Phát huy sức mạnh nhân dân trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay

Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại cũng như lịch sử các dân tộc, trong đó có Việt Nam. Đó cũng là tư tưởng của cha ông ta. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng đắn, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, việc phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân, nhất là sức mạnh của nhân dân trong công tác đối ngoại, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong mọi hoàn cảnh.

Các nữ đại sứ, trưởng đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam trải nghiệm làm tranh Đông Hồ tại làng Đồng Kỵ, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh_Ảnh: TTXVN

Đôi điều về chính sách đối ngoại, ngoại giao

Chính sách đối ngoại là tổng thể chủ trương, chiến lược, sách lược, quyết định và những biện pháp do Nhà nước hoạch định và thực thi trong quan hệ với các chủ thể khác nhau trên trường quốc tế, trong từng thời kỳ lịch sử, trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của tình hình thế giới và luật pháp quốc tế. Chính sách đối ngoại là “cánh tay nối dài” của chính sách đối nội, xuất phát từ chế độ kinh tế, chính trị - xã hội của một quốc gia phục vụ chính sách đối nội; đồng thời, chính sách đối ngoại có tính độc lập nhất định và tác động trở lại đối với chính sách đối nội. Chính sách đối ngoại của bất kỳ quốc gia nào cũng bao hàm ba mục tiêu cơ bản là an ninh, phát triển và ảnh hưởng. Mục tiêu an ninh góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ. Mục tiêu phát triển nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài và tạo dựng điều kiện quốc tế thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mục tiêu ảnh hưởng góp phần nâng cao vị thế quốc gia, phát huy tầm ảnh hưởng của quốc gia trên trường quốc tế. Ba mục tiêu này gắn kết với nhau mật thiết, không thể tách rời và phản ánh một cách tổng thể, toàn diện lợi ích quốc gia - dân tộc. Những mục tiêu trên là bất biến, song nội dung cụ thể, nhất là phương pháp tiến hành để đạt được mục tiêu chuyển hóa theo thời gian và linh hoạt tùy thuộc vào diễn biến của lịch sử. 

Để triển khai chính sách đối ngoại cần có các công cụ và biện pháp. Biện pháp đối ngoại là một hệ thống hoạt động trong quan hệ quốc tế trên các lĩnh vực và ở nhiều mức độ, cấp độ khác nhau (song phương, đa phương) để thực hiện chính sách đối ngoại phù hợp với lợi ích quốc gia. Các biện pháp đối ngoại được thực hiện thông qua các công cụ ngoại giao, kinh tế, luật pháp, tuyên truyền, sức mạnh quân sự... Công cụ là hệ thống yếu tố con người và phương tiện vật chất được huy động để thực hiện chính sách đối ngoại của các chủ thể chính trị đối ngoại trong thực tiễn. Có nhiều công cụ chính sách đối ngoại, như ngoại giao, kinh tế, luật pháp, thông tin tuyên truyền đối ngoại và công cụ quân sự...; trong đó, công cụ ngoại giao đóng vai trò quan trọng nhất. Ngoại giao là công cụ thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia, là tổng thể biện pháp phi quân sự, phương pháp, thủ thuật được sử dụng có tính đến điều kiện cụ thể và đặc điểm của yêu cầu, nhiệm vụ; hoạt động chính thức của người đứng đầu nhà nước, chính phủ, bộ trưởng ngoại giao, các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, các đoàn đại biểu tại các hội nghị quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ trong chính sách đối ngoại của quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, pháp nhân và công dân mình ở nước ngoài. Đồng thời, ngoại giao là nghệ thuật đàm phán nhằm ngăn chặn hoặc dàn xếp xung đột quốc tế, tìm cách thỏa hiệp và đưa ra giải pháp có thể được các bên chấp nhận, cũng như việc mở rộng và củng cố hợp tác quốc tế.

Những công cụ ngoại giao chủ yếu, thông dụng nhất trong thực tế là thiết lập và trao đổi đại diện ngoại giao, thư tín ngoại giao, đoàn đàm phán, ký kết điều ước quốc tế, tham dự gặp gỡ, tiếp xúc, hội nghị, hội thảo quốc tế; phát ngôn chính thức quan điểm của Nhà nước về các vấn đề quốc tế, quốc gia; thực hiện các công tác lãnh sự; cử đại diện tham gia công việc của các tổ chức, diễn đàn quốc tế, khu vực.... Việc lựa chọn đúng công cụ ngoại giao là nghệ thuật của người làm chính sách. Công cụ ngoại giao không thay thế chính sách ngoại giao, chính sách ngoại giao quy định sử dụng công cụ ngoại giao. Ngoại giao bao gồm cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa rộng, ngoại giao là công cụ chính sách đối ngoại. Theo nghĩa hẹp, ngoại giao là đàm phán. Chính phủ lãnh đạo hoạt động ngoại giao của quốc gia, trước hết và trực tiếp là Bộ Ngoại giao; ngoại giao ở bất cứ quốc gia nào đều mang tính giai cấp. Như vậy, chính sách đối ngoại và ngoại giao là hai mặt của vấn đề, liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Chính sách đối ngoại đề ra chủ trương, nhiệm vụ trong quan hệ với các chủ thể khác nhau trên vũ đài quốc tế, còn ngoại giao là công cụ thực thi chính sách đối ngoại. Do đó, thực chất đây là hai từ đồng nghĩa.

Về hoạch định chính sách đối ngoại: Chính sách đối ngoại là chính sách công, do Nhà nước hoạch định và triển khai. Chính sách đối ngoại bao gồm tập hợp hai vấn đề lớn, đó là chiến lược chính sách đối ngoại và chính trị chính sách đối ngoại. Để hoạch định chính sách đối ngoại phải tính đến nhiều nhân tố khác nhau, có nhân tố ít thay đổi, song có nhân tố thường biến động. Có thể kể đến các nhân tố, như địa - chính trị, sức mạnh tổng hợp quốc gia, chính trị nội bộ, văn hóa, tình hình quốc tế và khu vực, trong đó đáng chú ý là cục diện thế giới, trật tự thế giới và lợi ích quốc gia - dân tộc... Trong các nhân tố hoạch định chính sách đối ngoại, lợi ích quốc gia - dân tộc đóng vai trò quan trọng nhất, là hòn đá tảng. Lợi ích quốc gia - dân tộc là khái niệm khái quát hóa cao những nhu cầu sống còn của quốc gia. Đó là sự tự bảo vệ, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quân sự và thịnh vượng kinh tế”(5), được lãnh đạo mỗi quốc gia nhận thức dưới dạng mục tiêu chiến lược an ninh, chiến lược đối ngoại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Tháng 3-1848, Thủ tướng Anh Hen-ry Pan-mơ-xtơn (Henry Palmerston) từng có một phát biểu kinh điển về lợi ích quốc gia tại Hạ viện Anh: “Nước Anh không có bạn bè vĩnh viễn cũng không có kẻ thù vĩnh viễn; nước Anh chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn và nhiệm vụ của chúng ta là theo đuổi những lợi ích đó”(6). Năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, ngoại giao “phải luôn luôn vì lợi ích dân tộc mà phục vụ”(7). Đại hội XI (năm 2011) của Đảng lần đầu tiên nhấn mạnh, lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc cao nhất của chính sách đối ngoại Việt Nam(8). Tư tưởng đó được Đại hội XII (tháng 1-2016) và Đại hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng tiếp tục khẳng định.

Lợi ích quốc gia - dân tộc được phân loại theo tiêu chí nội dung hay theo tầm quan trọng của lợi ích quốc gia - dân tộc, hoặc theo thời gian... Theo tiêu chí nội dung, lợi ích chính trị - an ninh của mỗi quốc gia bao gồm bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ, sự an toàn của thể chế hợp hiến, an toàn của nhân dân, vị trí, vai trò trong nền chính trị thế giới. Lợi ích kinh tế của mỗi quốc gia là phát triển kinh tế đem lại thịnh vượng cho quốc gia, nhân dân. Lợi ích văn hóa - xã hội của mỗi quốc gia là bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; mức độ bình đẳng giữa các dân tộc, nhóm xã hội; chất lượng cuộc sống, trình độ dân chủ và tự do của công dân. Theo tiêu chí tầm quan trọng, có thể chia lợi ích quốc gia - dân tộc thành ba nhóm chính sau: 1- Lợi ích sống còn là những lợi ích liên quan đến sự tồn vong, an ninh và khả năng sinh tồn của quốc gia; 2- Lợi ích rất quan trọng là những lợi ích ảnh hưởng đến sự phồn vinh của đất nước, đến đặc điểm của thế giới; là sự tôn trọng cam kết quốc tế, bao gồm an ninh và thịnh vượng của các đồng minh và bạn bè; ngăn chặn sự thống trị của kẻ thù đối với những khu vực quan trọng; 3- Lợi ích thông thường là những lợi ích góp phần vào sự thịnh vượng kinh tế và những vấn đề nhân đạo, là khả năng tồn tại, phát triển bền vững và sức sản xuất của nền kinh tế toàn cầu; an ninh của vùng biển, vùng trời, không gian. Theo tiêu chí thời gian, lợi ích quốc gia - dân tộc được chia thành các nhóm lợi ích, như lợi ích lâu dài, lợi ích ngắn hạn, lợi ích trước mắt...

Để hoạch định chính sách đối ngoại, các quốc gia cần xây dựng quy trình hoạch định khoa học, bao gồm phát hiện vấn đề; xác định mục tiêu, loại hình văn bản; vạch rõ phương án và lựa chọn phương án triển khai... Nếu lấy chủ thể làm tiêu chí thì hiện nay trên thế giới có ba mô hình hoạch định chính sách đối ngoại, đó là cá nhân quyết sách, tập thể quyết sách và tổ chức quyết sách. Mô hình hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam là tập thể quyết sách. Cơ quan quyết sách tối cao chính sách đối ngoại của Việt Nam là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng.

Sự tham gia của nhân dân trong hoạt động đối ngoại của Nhà nước

Công tác đối ngoại của Nhà nước cùng với lĩnh vực quốc phòng - an ninh được gọi là “chính trị cấp cao”(9), vì liên quan đến những vấn đề quan trọng của Nhà nước, lợi ích quốc gia - dân tộc, quan hệ với quốc gia khác, đòi hỏi có tính bảo mật cao, do vậy không phải mọi người dân đều được tiếp cận. Theo đó, sự tham gia của nhân dân trong hoạt động đối ngoại của Nhà nước tương đối hạn chế, nhất là trong khâu hoạch định chính sách đối ngoại. Nhân dân tham gia hoạt động đối ngoại của đất nước trên một số mặt cụ thể sau: 1- Tham gia tích cực mọi hoạt động của đất nước, trên các lĩnh vực khác nhau, như kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh,... góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia - nhân tố quan trọng trong hoạch định chính sách đối ngoại của quốc gia; 2- Với tư cách là cán bộ nghiên cứu, chuyên gia của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo về quốc tế trên cả nước, qua các công trình nghiên cứu khoa học về thế giới, khu vực góp phần lý giải cơ sở khoa học cho việc xây dựng đường lối, chính sách đối ngoại, hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước; 3- Sự tiếp nhận, ủng hộ, đồng thuận đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có đường lối, chính sách đối ngoại là sức mạnh của quốc gia. Sự ủng hộ của nhân dân đối với đường lối, chính sách đối ngoại, ngoại giao của Đảng, Nhà nước là cách thức để nhân dân tham gia hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước; 4- Chính sách đối ngoại của Việt Nam bao gồm ba trụ cột: đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, trong đó hoạt động đối ngoại quốc hội đóng vai trò hết sức quan trọng, vừa mang tính nhà nước, vừa mang tính nhân dân sâu sắc, được triển khai đồng bộ với các trụ cột đối ngoại, tạo nên sức mạnh đối ngoại tổng hợp của quốc gia. Công chức, viên chức trong các trụ cột đối ngoại với tư cách là nghiên cứu viên, cán bộ biên, phiên dịch, lễ tân, báo chí,... trực tiếp tham gia phục vụ các hoạt động đối ngoại, góp phần làm cho các hoạt động đối ngoại thành công; 5- Nhân dân là chủ thể của đối ngoại nhân dân hay ngoại giao nhân dân - một trong các trụ cột quan trọng của đối ngoại Việt Nam. “Ngoại giao nhân dân Việt Nam là những hoạt động đối ngoại do các tổ chức chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp, cá nhân, đại diện các tầng lớp nhân dân, tập hợp tổ chức cho các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện với vai trò điều phối của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước thực hiện mục tiêu chính sách đối ngoại, vì lợi ích quốc gia - dân tộc”. “Ngoại giao nhân dân thực chất là công tác dân vận, vận động các đối tượng là quần chúng nhân dân nước ta và quần chúng nhân dân các nước để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị và hợp tác của nước ta”. Ngoại giao nhân dân đóng vai trò là “cánh tay nối dài”, mặt trận đa kênh, binh chủng đặc thù, lực lượng đông đảo, giúp mở đường, tạo môi trường thuận lợi cho đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, dung hòa các nguyên tắc và hành vi ứng xử đặc thù của từng chủ thể trong thực hiện mục tiêu chính sách đối ngoại; bổ trợ, bổ sung, phối hợp linh hoạt với những trụ cột khác trên các lĩnh vực hoạt động, góp phần củng cố tình đoàn kết dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, nâng cao dân trí, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên của dân tộc; tác động đến quan hệ quốc tế, trên cơ sở đó tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong công tác đối ngoại; 6- “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước”(13). Hiện nay, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có 5,3 triệu người sinh sống, làm việc tại 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% là ở các nước phát triển. Đây là lực lượng đặc biệt của binh chủng ngoại giao nhân dân, là cầu nối trong quan hệ của Việt Nam với thế giới. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài là một trọng tâm trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước; 7- Từ tháng 6-2014, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Việt Nam bắt đầu tham gia lực lượng giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc tại các phái bộ Liên hợp quốc ở Cộng hòa Trung Phi, Nam Xu-đăng và trụ sở Liên hợp quốc. Tính đến nay, Việt Nam đã cử 533 sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Đây là hoạt động ngoại giao quân sự hiệu quả, thể hiện sức mạnh nhân dân trong công tác đối ngoại.

Lực lượng gìn giữ hòa bình Việt Nam ở Nam Sudan_Nguồn: vietnamplus.vn

Những vấn đề mới trong phát huy sức mạnh nhân dân

Một số nhân tố tác động

Thứ nhất, trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức ngày càng rõ vai trò của dân chủ và hết sức quan tâm xây dựng thiết chế, hoàn thiện thể chế, đổi mới cơ chế và chính sách để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân. Quá trình dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội đã tạo động lực to lớn cho sự nghiệp đổi mới. Quyền làm chủ của nhân dân đã từng bước được luật hóa. Các văn kiện của Đảng đều khẳng định, việc pháp lý hóa quyền công dân và xác lập thiết chế, thể chế hữu hiệu để thực thi chính là nội dung quan trọng của tiến trình dân chủ hóa. Cùng với tiến trình đổi mới, quá trình dân chủ hóa đã diễn ra trong mọi lĩnh vực của đất nước.

Việc đổi mới chính trị được tiến hành đồng bộ với đổi mới kinh tế. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị... Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước..., lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm. Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Với chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao, Quốc hội có nhiệm vụ đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ pháp quyền... tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân.

Đối với người dân, quy chế dân chủ ở cơ sở và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở giúp quyền làm chủ của nhân dân được thực thi trên thực tế. Dân chủ hóa chính trị nội bộ tạo điều kiện tốt hơn, nhiều hơn cho nhân dân tham gia các công việc của Đảng và Nhà nước, trong đó có chính sách đối ngoại.

Thứ hai, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư  phát triển như vũ bão, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tiếp tục phát triển các tiến bộ hạ tầng điện tử, máy tính và số hóa, siêu máy tính, máy tính cá nhân và internet, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay còn gọi là cuộc cách mạng số, thông qua các công nghệ, như internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)... để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số. Thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ tạo nhiều điều kiện thuận lợi để người dân tham gia các hoạt động của Nhà nước.

Thứ ba, hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước trong giai đoạn hội nhập quốc tế trở nên sâu rộng hơn, phong phú, đa dạng, phức tạp hơn và vai trò của nhân dân tham gia hoạt động đối ngoại cũng nhiều hơn, tích cực hơn. Đây là thời kỳ ngoại giao toàn diện, do đó có thể khẳng định một thực tế là Trung ương làm ngoại giao, địa phương làm ngoại giao, tất cả người dân làm ngoại giao...

Nhận diện vấn đề mới trong phát huy sức mạnh nhân dân

Một là, đội ngũ đông đảo nhà nghiên cứu quốc tế tham gia tích cực hơn, nhiều hơn trong nghiên cứu các vấn đề quốc tế nhằm lý giải cơ sở khoa học cho đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về quốc tế phát triển mạnh mẽ trong cả nước, cũng như trong nhiều ban, bộ, ngành của Trung ương và địa phương. Hằng năm, hàng trăm công trình nghiên cứu khoa học được xuất bản, nhiều luận án tiến sĩ về quan hệ quốc tế, quốc tế học trên cả nước được bảo vệ thành công.

Hai là, nhân dân tham gia tích cực các hoạt động ngoại giao bán chính thức. Ngoại giao bán chính thức, còn gọi là “ngoại giao kênh sau” (back channel diplomacy), là các hoạt động đối ngoại có chủ đích nhằm tác động trực tiếp đến các quốc gia khác trên cơ sở các kênh bán chính thức hoặc gián tiếp thông qua các thực thể phi nhà nước, nhưng có ảnh hưởng nhất định đến quá trình hoạch định chính sách của một quốc gia”. Đây là ngoại giao kênh 1,5 và kênh 2. Ngoại giao kênh 1,5 là các quan chức nhà nước hoạt động với tư cách cá nhân. Ngoại giao kênh 2 là hoạt động trao đổi giữa các học giả, chuyên gia có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại, song không đại diện cho quốc gia. Các hoạt động ngoại giao kênh 1,5 và kênh 2 thường mang tính chất cá nhân, với bầu không khí cởi mở để xây dựng lòng tin, thảo luận những vấn đề nhạy cảm, khó trao đổi ở kênh chính thức và hướng tới tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề khó, bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố chính trị. Trong thời gian gần đây, cùng với xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, ngoại giao không chính thức phát triển mạnh mẽ. Học viện Ngoại giao, các cơ quan nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các trường đại học,... tham gia nhiều, chủ động và tích cực vào hoạt động ngoại giao không chính thức.

Ba là, nhờ tiến bộ của khoa học - công nghệ, xu thế dân chủ hóa, thông tin về các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân nhanh hơn, nhiều hơn, do đó nhân dân hết sức đồng tình, ủng hộ các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Bốn là, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, quan hệ đối ngoại mở rộng, người dân tham gia hoạt động đối ngoại đông đảo hơn, sâu rộng hơn. Đơn cử như, thông qua tham gia các hình thức du lịch cộng đồng, du lịch tham quan di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, làng nghề,... tạo dựng kênh đối ngoại hiệu quả, thu hút khách du lịch quốc tế đến với Việt Nam, chứng kiến sự nghiệp đổi mới thành công của Việt Nam, có thêm nhiều nhận thức tốt đẹp, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Đây chính là một trong những kết quả quan trọng của ngoại giao công chúng.

Năm là, vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được phát huy mạnh mẽ. Hiện nay, cộng đồng người Việt Nam đã có mặt tại 130 nước và vùng lãnh thổ trên hầu khắp các châu lục, là những “đại sứ”, cầu nối giữa Việt Nam và các nước sở tại, góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và thế giới, đưa thế giới đến với Việt Nam và Việt Nam đến với thế giới. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một trong những lực lượng quan trọng làm công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại hiệu quả.

Sáu là, Đại hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng nhấn mạnh quan điểm: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam”. “Sức mạnh của đối ngoại Việt Nam được xây dựng trên cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời kết hợp hài hòa, thống nhất giữa các trụ cột, binh chủng, lực lượng tham gia công tác đối ngoại, để từ đó kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Với sức mạnh tinh thần này, mỗi người dân Việt Nam cần quyết tâm hoàn thành tốt nhất công việc của mình, góp phần phát triển sức mạnh tổng hợp quốc gia, phấn đấu đạt được những mục tiêu to lớn mà Đảng đã đề ra, đó là: Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đó chính là cách thức gián tiếp phát huy sức mạnh nhân dân trong công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Trong những năm tới, dự báo tình hình khu vực và thế giới tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt... Để tiếp tục phát huy hơn nữa sức mạnh của nhân dân trong công tác đối ngoại, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, Việt Nam cần ưu tiên thực hiện một số vấn đề sau: Thứ nhất, thành lập hiệp hội nghiên cứu quốc tế hoặc hội đồng đối ngoại, để tập hợp chuyên gia nghiên cứu quốc tế phối hợp, tham mưu, tư vấn cho Đảng và Nhà nước về công tác đối ngoại và ngoại giao; thứ hai, có cơ chế đặc biệt để nhà nghiên cứu, chuyên gia nghiên cứu quốc tế đóng góp ý kiến đối với Đảng và Nhà nước về các vấn đề quốc tế và đối ngoại, vì đối ngoại là lĩnh vực chính trị cấp cao và hẹp, liên quan tới nhiều bí mật của Nhà nước; thứ ba, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, nhất là đổi mới nội dung, phương thức, cũng như tư duy công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại; thứ tư, “phối hợp chặt chẽ hoạt động ngoại giao của Nhà nước, hoạt động đối ngoại của Đảng và hoạt động đối ngoại nhân dân”, đồng thời “hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác đối ngoại”.

Tóm lại, trong bối cảnh mới, trước một số nhân tố mới nảy sinh, như dân chủ hóa chính trị nội bộ, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, việc tham gia của nhân dân vào hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước có nhiều thuận lợi, cần được tăng cường và đẩy mạnh./.

ST.

Những chỉ dẫn đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân

Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, nhà chiến lược quân sự thiên tài, người trực tiếp tổ chức, xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong hệ thống di sản tư tưởng, lý luận quý báu mà Người để lại, có những luận điểm đặc sắc về xây dựng quân đội nhân dân cần được quán triệt, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Những luận điểm đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội nhân dân mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa trong xây dựng quân đội của các nước xã hội chủ nghĩa cùng với hoạt động thực tiễn phong phú của Người trong tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện Quân đội ta. Những luận điểm đó không những đã được kiểm chứng tính đúng đắn qua thực tiễn xây dựng Quân đội nhân dân trước đây, mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị và vẫn là kim chỉ nam cho sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.



Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm đơn vị bộ đội Phòng không bảo vệ Thủ đô Hà Nội, ngày 25/9/1966. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Trước hết, về tính tất yếu phải xây dựng Quân đội nhân dân. Luận giải đầy đủ cả cơ sở lý luận và thực tiễn, Người cho rằng: xây dựng Quân đội nhân dân là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, cần kíp nhất, điều kiện tiên quyết để kháng chiến thắng lợi. Do đó, khi nói về nhiệm vụ của nhà nước dân chủ mới, Người chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách, đặt lên hàng đầu: “Để kháng chiến thắng lợi, nước nhà phải xây dựng nhiều mặt: Xây dựng quân đội - Một quân đội nhân dân thật mạnh, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng”. Bước sang giai đoạn cách mạng mới, cần tiếp tục thi đua xây dựng Quân đội hùng mạnh để bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn hòa bình, thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Người căn dặn: “... phải thi đua xây dựng Quân đội nhân dân hùng mạnh, làm hậu thuẫn mạnh mẽ cho cuộc đấu tranh củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước”.

Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta không những sớm tổ chức ra Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, mà còn không ngừng chăm lo xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện. Hiện nay, Đảng ta chủ trương: “Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân,... cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội,... tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân,... cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”.

Hai là, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh là nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng. Trước mắt là tạo ra lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu, công cụ bạo lực cách mạng sắc bén để giành, giữ chính quyền, kiến tạo hòa bình, loại bỏ nguy cơ chiến tranh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Người chỉ rõ: “Để đánh thắng thực dân Pháp, bọn can thiệp Mỹ và lũ Việt gian bù nhìn... ta phải có một quân đội nhân dân thật mạnh và luôn luôn tiến bộ”. Khi mục tiêu giành và giữ chính quyền đã hoàn thành, Người khẳng định mục đích cuối cùng của việc: “Xây dựng quân đội cách mạng do Đảng lãnh đạo, tiến hành chiến tranh cách mạng chính là chuẩn bị điều kiện để tiêu diệt hết thảy chiến tranh”, để giữ gìn hòa bình, bảo vệ Tổ quốc.

Từ chỉ dẫn quý báu trên của Người, trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, để Quân đội làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 khẳng định: “Quân đội nhân dân Việt Nam đã và đang được đổi mới về tổ chức, trang bị, nghệ thuật quân sự; sức mạnh tổng hợp tiếp tục được tăng cường; khả năng sẵn sàng chiến đấu được nâng cao; thực sự là quân đội của nhân dân, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

Ba là, về nội dungnhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân, Người chỉ rõ phải xuất phát từ mục đích xây dựng Quân đội và phải căn cứ vào tình hình nhiệm vụ của cách mạng quy định nên rất toàn diện. Vì vậy, theo Người “... một mặt phải tiếp tục thực hiện kế hoạch huấn luyện cho quân đội, một mặt phải chuẩn bị thực hiện các chế độ chính quy và phải nghiên cứu giải quyết dần các vấn đề củng cố hậu phương. Đó là nhiệm vụ rất to lớn, rất quan trọng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta”. Nhất quán và làm rõ hơn tính toàn diện về nội dung, nhiệm vụ xây dựng Quân đội, Người khẳng định: Quân đội nhân dân phải được xây dựng hùng mạnh để thực hiện ba chức năng: đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Các chức năng đó đều vẻ vang và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Người nhấn mạnh: “Đảng và Chính phủ giao cho quân đội ta hai nhiệm vụ: 1. Xây dựng quân đội nhân dân ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu. 2. Thiết thực tham gia lao động sản xuất để góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là hai nhiệm vụ rất vẻ vang; hai nhiệm vụ đó nhất trí với nhau. Các chú cần phải ra sức học tập và công tác để xây dựng quân đội; đồng thời, phải ra sức tham gia sản xuất và tiết kiệm, ủng hộ những đơn vị chuyển sang sản xuất”8.

Bốn là, về nguyên tắc xây dựng Quân đội nhân dân. Trung thành với học thuyết Mác – Lênin về tổ chức lãnh đạo, xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, vận dụng vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “lấy chính trị làm gốc” là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Vì: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.

Cùng với đó, để Quân đội ta thực sự là đội quân cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, Người chỉ rõ: Đảng phải lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội. Đây là nguyên tắc “bất di, bất dịch”, được xác định từ rất sớm, ngay trong “Chánh cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” của Đảng (tháng 02/1930) do Người trực tiếp khởi thảo. Thực tiễn cho thấy, để giữ vững định hướng chính trị trong xây dựng Quân đội, trước sau như một, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng, khẳng định dứt khoát vai trò độc tôn lãnh đạo quân đội công nông, không phân quyền lãnh đạo đó cho một giai cấp, một tổ chức, một đảng phái nào khác, vì thế mà: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”.

Năm là, phương thức xây dựng Quân đội nhân dân. Theo Người, để xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh, phải vận dụng tổng hợp các cách thức, biện pháp. Trước hết, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; thường xuyên nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng và giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho Quân đội; trên cơ sở đó, đẩy mạnh công tác huấn luyện quân sự và kỹ thuật; phải chấp hành nghiêm chế độ và kỷ luật; phải hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất. Người nhấn mạnh: để Quân đội ta hoàn thành được nhiệm vụ đó thì cán bộ phải nâng cao quyết tâm và phải cẩn thận. Quyết tâm và cẩn thận phải đi đôi với nhau chứ không phải quyết tâm là mạo hiểm. Phải biến quyết tâm của Đảng và Chính phủ thành quyết tâm của toàn quân ta và phải biểu hiện cụ thể đối với từng loại hình đơn vị. Đối với các đơn vị bộ đội thường trực, phải tích cực học tập, chấp hành nghiêm chế độ, kỷ luật và sẵn sàng chiến đấu cao. Các đơn vị bộ đội sản xuất phải tích cực lao động hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất. Cán bộ phải có tinh thần trách nhiệm, chấp hành tốt mệnh lệnh và chỉ thị, khắc phục khó khăn, đi sâu đi sát thực tế, thường xuyên kiểm tra đôn đốc, chống quan liêu đại khái. “Toàn quân phải đoàn kết phấn đấu, quyết tâm xây dựng quân đội ta thành một quân đội hùng mạnh, sẵn sàng chiến đấu, học tập giỏi, công tác giỏi, sản xuất giỏi”.

Thấu triệt những chỉ dẫn của Người, trong tiến trình đổi mới từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, Đảng ta đều xác định chủ trương giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, đề ra những chủ trương, giải pháp lãnh đạo xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Ngày 20/7/2005, Bộ Chính trị (khóa IX) ban hành Nghị quyết số 51-NQ/TW “Về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Đây chính là “chìa khóa vạn năng” để xây dựng Quân đội ta thành Quân đội vừa cách mạng, vừa hùng mạnh. Nhất quán quan điểm này, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, phải “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân”.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đang đứng trước cả thời cơ và thách thức đan xen, Quân đội đang quyết liệt thực hiện điều chỉnh tổ chức lực lượng tạo tiền đề vững chắc để tiến lên hiện đại. Trước tình hình đó, hơn bao giờ hết, Quân đội nhân dân càng phải thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng. Để hoàn thành trọng trách vẻ vang, nhiệm vụ thiêng liêng đó, chúng ta cần vận dụng sáng tạo những chỉ dẫn đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong đó, chú trọng thực hiện tốt các nội dung trọng tâm:

Một là, tiếp tục quán triệt, nghiên cứu làm sáng rõ hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân, làm cơ sở để vận dụng hiệu quả và phát triển sáng tạo vào quá trình xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Đồng thời, tập trung nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện chủ trương, cơ chế, chính sách để tạo cơ sở chính trị, hành lang pháp lý nâng cao hiệu quả quán triệt, vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân trong tình hình mới.

Hai là, các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương về xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Trọng tâm là Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị (khóa XIII); Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 02/4/2022 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo,... gắn với quán triệt và thực hiện những chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng Quân đội trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới”.

Ba là, kiên định nguyên tắc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của toàn quân. Trong đó, tập trung giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân; đồng thời, không ngừng tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc của Quân đội ta. Thường xuyên củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Quân đội với Nhân dân - nền tảng vững chắc để xây dựng Quân đội hùng mạnh.

Bốn là, từng cơ quan, đơn vị thường xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức, biên chế, trang bị đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Năm là, phải gắn việc đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện - đào tạo, quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao với nâng cao chất lượng xây dựng chính quy, quản lý tư tưởng, kỷ luật.

Sáu là, thực hiện tốt công tác hậu cần, kỹ thuật; phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội và phát triển kinh tế - xã hội.

Khắc ghi lời dạy của Người, cán bộ, chiến sĩ toàn quân nguyện đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, không ngừng phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

ST.