Thứ Ba, 30 tháng 4, 2024

Phát huy giá trị Đại thắng mùa Xuân 1975, xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường

 

Lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ của Quân Giải phóng đã tung bay trên nóc Dinh Độc Lập - sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn, báo hiệu Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Trang sử vẻ vang ấy đã và đang được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta coi là nguồn lực hun đúc khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng là một trong những mốc son chói lọi nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đó là biểu tượng sáng ngời của Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, đỉnh cao của khí phách và trí tuệ con người Việt Nam. Suốt 30 năm kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, cả dân tộc kiên cường chiến đấu, hy sinh, để đi tới thắng lợi trọn vẹn. Đại thắng đó cũng chứng minh trí tuệ và tài thao lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lãnh đạo cách mạng, tinh thần quả cảm, kiên cường của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Đại thắng 30-4-1975 đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên, khích lệ các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới. Đại thắng mùa Xuân 1975 chính là “cột mốc vàng” của lịch sử dân tộc. Đại hội IV của Đảng đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi sâu vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

Thắng lợi vĩ đại đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện nước ta, đến tinh thần chiến đấu, hy sinh, quả cảm, thông minh của toàn thể nhân dân ta mà nòng cốt là lực lượng vũ trang ba thứ quân, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta; tình đoàn kết chiến đấu liên minh bền vững của nhân dân 3 nước Đông Dương và sự ủng hộ mạnh mẽ, chân tình của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới… Trong đó, “nhân tố quyết định thắng lợi quan trọng nhất là sự lãnh đạo của Đảng”. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, giá trị truyền thống dân tộc và kinh nghiệm thực tiễn thế giới vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Đại thắng mùa Xuân 1975 đã để lại những bài học quý báu về sự lãnh đạo của Đảng. Đó là các bài học: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam; phát huy sức mạnh thời đại; vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam; chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật tạo, nắm bắt thời cơ giành những thắng lợi quyết định. Đồng thời, phải luôn luôn chú trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Sau Đại thắng mùa Xuân 1975 của dân tộc ta, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, đế quốc Mỹ cùng các lực lượng thù địch đã thực hiện những mưu đồ, dã tâm, bằng nhiều biện pháp phá hoại nước ta toàn diện về chính trị, kinh tế, quân sự, an ninh, ngoại giao. Chúng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng; phát động chiến tranh biên giới, cấm vận kinh tế và ngoại giao, cô lập Việt Nam, lập ra những tổ chức phản động gây bạo loạn hòng mưu đồ lật đổ Đảng, Nhà nước. Nhưng Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định độc lập, tự chủ, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, cũng là ý nguyện cháy bỏng từ mỗi trái tim của người dân gần 40 năm qua đã đem lại kết quả to lớn. Việt Nam đã trở thành nền kinh tế lớn thứ tư của ASEAN và thứ 40 của thế giới, năng động và có độ mở cao, với quy mô thương mại quốc tế nằm trong TOP 20 của thế giới, xếp thứ 30 trong bảng xếp hạng các quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Chỉ số sẵn sàng về trí tuệ nhân tạo (AI) của Việt Nam xếp hạng 55 toàn cầu và xếp thứ 6/10 trong ASEAN. Việt Nam đứng thứ 7/30 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương về chỉ số tích hợp phát triển bưu chính 2IPD;  năm 2023 “Chỉ số hạnh phúc toàn cầu" của Việt Nam tăng 12 bậc trong xếp hạng của Liên hiệp quốc. Chỉ số “Đổi mới sáng tạo” của Việt Nam tăng 2 bậc so với năm 2022. Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam đạt 431 tỉ USD, tăng 1 bậc, lên thứ 32/100 thương hiệu quốc gia mạnh trên thế giới.

Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, chúng ta đã mở rộng, làm sâu sắc quan hệ với 193 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước có quan hệ đặc biệt, 7 nước đối tác chiến lược toàn diện, 11 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Việt Nam được bạn bè quốc tế tín nhiệm đề cử gánh vác nhiều trọng trách quốc tế quan trọng trong các cơ chế, diễn đàn đa phương, nhất là trong ASEAN và Liên hiệp quốc. Trong 2 năm 2022-2023, hơn 40 chuyến thăm của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước tới các nước láng giềng, các nước lớn, nhiều đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống; đồng thời đón nhiều nguyên thủ, lãnh đạo cấp cao các nước và các tổ chức quốc tế lớn thăm Việt Nam. Việc nhiều nguyên thủ quốc gia các nước đến thăm Việt Nam, được đánh giá là những sự kiện có ý nghĩa lịch sử, góp phần khẳng định vị thế, uy tín và hình ảnh một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, yêu chuộng hòa bình, phát triển năng động, là bạn bè thuỷ chung, chân thành; là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm trên trường quốc tế như hiện nay.

Ngày nay, chúng ta đang thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với những thời cơ, thách thức đan xen. Giá trị, hào khí của Đại thắng mùa xuân 1975 một lần nữa cần được phát huy trong sự nghiệp xây dựng đất nước thời kỳ mới. Nhiệm vụ quan trọng là: Tiếp tục khẳng định và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Để giữ vững vai trò lãnh đạo, Đảng cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, trí tuệ, ngang tầm nhiệm vụ. Kết hợp hài hòa, chặt chẽ và có hiệu quả giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng, giữa xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực và đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử và cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc; không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; thường xuyên đấu tranh ngăn chặn âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học và công nghệ; đổi mới, sáng tạo, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế tri thức, tích cực thực hiện chuyển đổi số. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập. Thành quả của phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân.

Sức mạnh Việt Nam khởi nguồn từ khát vọng và khí phách dân tộc, với sự đồng thuận, ý chí, quyết tâm và sự sáng tạo của một dân tộc đã từng đánh đổ những đế quốc sừng sỏ nhất, thì việc dù khó đến đâu, chúng ta vẫn có thể làm được, làm tốt. Phát huy những giá trị truyền thống trong lịch sử đấu tranh của dân tộc, trong đó có Đại thắng mùa Xuân 1975,  tạo nên thế và lực mới, vượt qua mọi thử thách, xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc . 

T

 

Phát huy sức mạnh của nhân dân trong đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch

Đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên môi trường mạng là một cuộc chiến đấu vô cùng cam go, khó khăn và ngày càng phức tạp. Điều này đòi hỏi cần có sự vào cuộc kịp thời, quyết liệt của cả hệ thống chính trị và huy động được sức mạnh của toàn dân.

Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên giới thiệu về cột mốc 113 tại Cửa khẩu quốc tế Tây Trang-Pang Hốc cho các em học sinh.

Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên giới thiệu về cột mốc 113 tại Cửa khẩu quốc tế Tây Trang-Pang Hốc cho các em học sinh.

Việt Nam hiện là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển internet và lượng người truy cập, sử dụng các trang mạng xã hội cao nhất thế giới. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động đã nhanh chóng chuyển trọng tâm tấn công, chống phá Đảng, chống phá chế độ sang mặt trận hoàn toàn mới đó là trên không gian mạng.

Thông qua internet và mạng xã hội, chúng đã thiết lập hàng nghìn trang website, blog, tài khoản facebook, trang fanpage…, mà hầu hết máy chủ đặt ở nước ngoài để từ đó tổ chức các chiến dịch tuyên truyền, phát tán với tần suất và số lượng lớn các tin, bài bình luận, video clip có nội dung xấu, độc… Với chiêu bài tăng cường chống phá từ bên trong kết hợp với bên ngoài, thật giả lẫn lộn, mưa dầm thấm lâu chúng chú trọng đăng tải các ý kiến trái chiều, đi ngược chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta, kích động gây dư luận xấu, tạo mâu thuẫn xã hội, qua đó phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phủ nhận các thành quả đã đạt được, chống phá sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thủ đoạn được các thế lực thù địch sử dụng hết sức tinh vi, gian xảo. Không chỉ tung hỏa mù bằng các thông tin bịa đặt, vô căn cứ, chúng còn sử dụng những thông tin, sự kiện có thật nhưng đã được chỉnh sửa, thêm thắt tình tiết cài cắm thông tin giả một cách khéo léo để ngụy tạo, bóp méo nội dung với ý đồ đen tối để đăng tải tràn lan trên mạng với lời quảng cáo là những “thông tin chính thống”, khai thác từ “nguồn tin cậy, đã được kiểm chứng”; lập ra các trang giả mạo Cổng thông tin của Chính phủ và các bộ, ngành để đăng tải tin sai sự thật nhằm kích động, đánh lừa người sử dụng mạng xã hội, trong đó không chỉ những người dân thiếu thông tin, thiếu hiểu biết hay giới trẻ chưa có được nhận thức đầy đủ về các vấn đề chính trị-xã hội mà ngay cả những người dân có trình độ nhận thức và học vấn nếu thiếu tỉnh táo, cảnh giác.

Từ đó mưu đồ tạo dựng nhận thức sai lệch, hoài nghi, gieo rắc ngờ vực, chia rẽ nội bộ, kích động, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, cổ súy, tung hô chủ nghĩa tư bản, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa…

Không khó để nhận diện mục đích thực sự mà các thế lực thù địch hướng tới khi thiết lập, tăng cường và mở rộng tấn công trên không gian mạng. Chúng muốn lợi dụng mạng xã hội - nơi được coi là không gian mở, thiếu sự kiểm soát nội dung đăng tải để tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch. Chúng muốn hướng dư luận đến những nhận thức sai lầm về tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nghi ngờ tư tưởng Hồ Chí Minh, hoài nghi tính đúng đắn trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mất lòng tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Từ những nhận thức sai lầm bị tiêm nhiễm khi tham gia mạng xã hội, nhiều người dễ nảy sinh tình trạng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” để rồi các đối tượng xấu thừa cơ lôi kéo dụ dỗ họ tham gia vào các hoạt động chống phá Đảng, chống phá chế độ. Điều này cũng có nghĩa là nhân dân đã trở thành đối tượng tấn công chính của các thế lực thù địch trên không gian mạng.

Trước thực tế này, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách nhằm phát huy vai trò của các chủ thể nhằm đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề phát huy vai trò và sức mạnh của nhân dân. Đặc biệt, ngày 22/10/2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về "Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới", trong đó xác định rõ: đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân.

Ngày 12/6/2018, Luật An ninh mạng được ban hành và chính thức có hiệu lực từ 1/1/2019 cũng đã đưa ra những quy định cụ thể về hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đồng thời khẳng định các chính sách của Nhà nước về an ninh mạng nói chung. Tại Điều 3 Chính sách của Nhà nước về an ninh mạng, nhấn mạnh vai trò quản lý của Nhà nước đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan, trong đó Nhà nước đặc biệt khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ an ninh mạng, xử lý các nguy cơ đe dọa an ninh mạng bao gồm cả việc đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.

Thực tiễn này cho thấy, Đảng và Nhà nước ta xác định rõ trong công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bên cạnh vai trò của cả hệ thống chính trị rất cần sự tham gia của toàn thể nhân dân bởi đây là lực lượng nòng cốt, trực tiếp hằng ngày đối diện với sự tấn công của các thế lực thù địch trên mọi lĩnh vực, dưới nhiều hình thức, nhất là trên không gian mạng.

Chính nhờ vậy, thời gian qua Đảng và Nhà nước đã tăng cường huy động sự tham gia của các thành phần trong xã hội, không phân biệt tuổi tác, giới tính, tôn giáo, ngành nghề cùng phát huy tính chủ động, tích cực tham gia cuộc đấu tranh, phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Đứng trước những quan điểm, sai trái, thù địch, trước những luồng thông tin xấu, độc được lan truyền với tốc độ chóng mặt trên không gian mạng, nhiều người dân đã sử dụng các trang mạng xã hội của mình để đấu tranh trực diện, phản bác một cách mạnh mẽ, không khoan nhượng, vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.

Bên cạnh đó, nhiều người dân cũng tích cực tuyên truyền, chia sẻ những thông tin đúng đắn, chính xác về bản chất cách mạng khoa học, nội dung cơ bản và giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, thông tin đúng đắn về các vụ việc được quan tâm để không bị kẻ xấu xuyên tạc, thổi phồng. Việc tham gia phổ biến, tuyên truyền những thông tin đầy đủ, chính xác của đông đảo người dân đã góp phần đấu tranh, phản bác một cách hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc trên không gian mạng.

Điều đáng mừng là từ những hành động đấu tranh đơn lẻ ban đầu của một số cá nhân, sau một thời gian với sự định hướng của Đảng, Nhà nước, của các cơ quan chức năng, cũng như sự nhận thức đúng đắn của mỗi người, cuộc đấu tranh “chống giặc trên không gian mạng” đã huy động được sự tham gia của đông đảo người dân từ khắp mọi miền đất nước, thậm chí cả người Việt Nam đang sinh sống, làm việc ở nước ngoài cũng như người nước ngoài đang sinh sống, làm việc tại Việt Nam. Một cộng đồng tự nguyện đã liên kết lại với nhau để tạo nên một phong trào đấu tranh tự giác, chủ động, tích cực với mức độ lan tỏa rộng lớn, mạnh mẽ, hiệu quả, đem lại nhiều kết quả tích cực.

Rất nhiều các kênh thông tin bẩn, xấu độc lan truyền các quan điểm sai trái, thù địch trước sự phản bác tấn công mạnh mẽ của nhân dân đã bị vạch trần, buộc phải giảm bớt tần suất cũng như mật độ xuyên tạc, chống phá. Nhiều đối tượng phản động chống phá bị vạch mặt, chỉ tên đã buộc phải im hơi lặng tiếng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn tình trạng một số người dân vì thiếu thông tin hiểu biết hoặc nhẹ dạ, cả tin, trong đó có không ít thuộc giới trẻ do chưa có đủ trải nghiệm, kinh nghiệm và nhận thức đúng đắn về nền tảng tư tưởng của Đảng, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước nên dễ tin theo những luận điệu sai trái, thù địch. Từ đó, họ vô tình tham gia phổ biến, lan truyền những quan điểm xấu độc để rồi không lường hết hậu quả. Do đó, trong thời gian tới cần phải tiếp tục xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm phát huy tốt hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa vai trò, tính chủ động, sức mạnh của người dân trong cuộc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Tăng cường giáo dục, phổ biến, tuyên truyền sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân tin tưởng vào Đảng, chế độ, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, giúp người dân có kỹ năng, kiến thức để nhận diện thấu đáo những âm mưu, thủ đoạn chống phá, từ đó chủ động, tự giác, tích cực đấu tranh, phản bác các thông tin xấu, độc, các luồng quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, tăng cường niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới và các nguyên tắc xây dựng Đảng..

Tăng cường giám sát, kiểm soát từ đó tiến tới loại bỏ các trang mạng lan truyền những luồng thông tin độc hại, quan điểm sai trái, thù địch để xây dựng một môi trường thông tin trong sạch trên không gian mạng. Thực hiện tốt công tác điều tra, phát hiện, xử lý những đối tượng tung tin sai trái, thù địch, bịa đặt và cả những đối tượng tiếp tay lan truyền những thông tin này trên không gian mạng.

Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với việc phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Kịp thời phát hiện, biểu dương khen ngợi những cá nhân, tập thể có cách làm sáng tạo, hiệu quả trong cuộc chiến chống tin giả, tin bịa đặt, sai sự thật trên môi trường mạng gây bất ổn xã hội./.

ST.

"Bộ đội Cụ Hồ" - biểu tượng của sức mạnh, niềm tin chiến thắng

Huấn luyện khẩu đội cối tại Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 2, Sư đoàn 3, Quân khu 1. Ảnh: MINH TRƯỜNG/qdnd.vn

Huấn luyện khẩu đội cối tại Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 2, Sư đoàn 3, Quân khu 1. Ảnh: MINH TRƯỜNG/qdnd.vn

Bằng tâm huyết, bản lĩnh, trí tuệ và những chiến công xuất sắc của mình, Quân đội ta đã được nhân dân tin yêu trao cho danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”, trở thành tài sản riêng và giá trị văn hóa quân sự độc đáo của Quân đội và nhân dân ta. Đây cũng là tiêu chí quan trọng để phân biệt Quân đội ta với quân đội các nước khác. Đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam: Tổ quốc, Đảng, Bác Hồ, nhân dân và hòa bình, độc lập, tự do là những giá trị thiêng liêng nhất. Thế nhưng, vẫn còn có những nhận thức chưa đúng về sự thật ấy.

Vẫn còn những cái nhìn lạc lõng

Trên thực tế, vì không đủ kiến thức, thiếu thực tiễn hoặc vì những lý do nào đó mà có những quan điểm nhận thức không đúng về Quân đội ta, về hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới. Vẫn có người ngộ nhận rằng, bộ đội bây giờ lương cao, “được thụ hưởng cuộc sống sung túc, đủ đầy”; “bộ đội bây giờ không còn vất vả”; Quân đội với “bộ máy cồng kềnh, gây hao tốn ngân sách quốc gia, kéo chậm sự phát triển đất nước”...

Cũng với tầm nhìn hạn hẹp, chỉ “thấy cây mà không thấy rừng”, các thế lực thù địch đã “vơ đũa cả nắm”, tuyệt đối hóa hiện tượng rồi nâng lên thành bản chất; quy kết một số quân nhân vi phạm pháp luật đến mức phải kỷ luật..., đã làm cho “quân đội hư hỏng”. Từ đó, chúng tung tin, đồn thổi rằng: “QĐND Việt Nam đã thoái hóa, biến chất”, “đã đánh mất bản chất, truyền thống tốt đẹp”; “cần phải phi đảng”, “phi chính trị hóa" Quân đội... Đó là những luận điệu sai trái, bóp méo sự thật, mà thực chất là các chiêu trò “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa" Quân đội rất phi lý, không thể chấp nhận. Kịch bản và các chiêu thức mới trong sử dụng internet, mạng xã hội để tung tin xấu, độc; tuyên truyền sai lệch về bản chất, truyền thống Quân đội, làm phai mờ hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ là tiếp nối chiêu trò “hà hơi, tiếp sức” để thực hiện ý đồ “phi đảng”, “phi chính trị hóa" Quân đội, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Cho nên, dù có ngụy trang, che đậy kín đáo đến đâu thì “cái đuôi xảo trá, phản động vẫn lòi ra”; các ẩn ý sâu cay vẫn lộ diện, từ cách giật tít bài viết, tung các hình ảnh “nhạy cảm”, gây sự tò mò đến các giọng điệu lừa bịp, ngụy tạo để thu hút sự quan tâm “khám phá” của cư dân mạng, tìm kiếm sự chia sẻ, a dua, cùng vào hùa chống phá Đảng của mấy nhóm người bất mãn, cơ hội chính trị, phản động. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: Bộ đội Cụ Hồ đã từng đánh thắng những tên xâm lược đầu sỏ trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, khắc nghiệt, thì nay trong thời bình, họ không hề run sợ trước bất cứ âm mưu, thủ đoạn chống phá nào dù chúng “ẩn hình”, “ném đá giấu tay” trên không gian mạng, trà trộn trong dân cư hay lẫn khuất ở bên ngoài biên cương Tổ quốc.

Vì sao các thế lực thù địch lại rắp tâm xuyên tạc, bôi đen hình ảnh, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ? Để tồn tại và thõa mãn tham vọng cá nhân “trả thù chế độ”, những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị cấu kết với các thế lực thù địch, triệt để lợi dụng mạng xã hội để tung tin giả, xấu, độc nhằm xuyên tạc sự thật, gây hoang mang, nghi ngờ, mất niềm tin của nhân dân đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đội. Tim đen của chúng là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cơ quan, đơn vị-một mắt khâu quan trọng để thực hiện “phi chính trị hóa” toàn quân, chia rẽ Quân đội với nhân dân; làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của người lính Cụ Hồ; đánh mất bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội; làm cho Quân đội ta không còn là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân.

Xuyên tạc, bôi đen hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch đã bị phơi bày. Nó chẳng những phủ định sạch trơn giá trị lịch sử, chà đạp lên sự yêu quý, ngưỡng mộ và niềm tin của nhân dân đối với Quân đội, mà còn khước từ sự chia sẻ, cảm thông đối với những người lính Cụ Hồ về những khó nhăn, gian khổ, thiệt thòi, hy sinh, mất mát và đổ máu trong thời chiến cũng như trong thời bình mà họ và gia đình đã và đang phải gánh chịu.

Đã thế, chúng còn rắp tâm cướp đi sức mạnh, niềm tin của nhân dân đối với Bộ đội Cụ Hồ, phủ nhận mối quan hệ máu thịt, “cá với nước” của quân và dân ta vì chúng biết rõ rằng trong tái tim người dân Việt Nam yêu nước, hình tượng Bộ đội Cụ Hồ có vị trí đặc biệt quan trọng. Bác Hồ là lãnh tụ tinh thần, là niềm tin, tình yêu, biểu tượng dẫn dắt dân tộc Việt Nam tiến lên. Phủ nhận nguồn gốc, bản chất, truyền thống của Quân đội, chúng không muốn thế hệ trẻ kế thừa sự nghiệp của cha anh, không muốn thế hệ chủ nhân của đất nước hiểu rằng Bộ đội Cụ Hồ là danh hiệu cao quý, thiêng liêng, một báu vật vô cùng quý giá mà nhân dân dành riêng khen tặng và gửi gắm niềm tin vào Quân đội ta. Qua đó, đánh cắp niềm vinh dự, tự hào: Quân đội ta được mang tên lãnh tụ kính yêu; không muốn thế hệ trẻ biết rằng, trên thế giới, duy nhất chỉ có Quân đội ta có được niềm vinh dự, tự hào và hạnh phúc lớn lao ấy.

Chưa hết, thâm độc và xảo trá hơn thế, các thế lực thù địch đang rắp tâm hạ bệ hình ảnh cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bôi đen hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, từ đó phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-nền tảng tư tưởng của Đảng. Các thế lực thù địch mong muốn Quân đội ta chỉ là những người lính “đánh thuê”, đội quân nhà nghề “ô hợp”, không còn sự thôi thúc hoàn thành nhiệm vụ từ mệnh lệnh trái tim, sự tự nguyện, tự giác phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng chiến đấu: Vì Tổ quốc phụng sự, vì nhân dân phục vụ, “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”; không muốn cán bộ, chiến sĩ thực hiện 10 Lời thề danh dự, 12 điều kỷ luật của quân nhân và 3 chức năng: Đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Chiều sâu của tội ác là cái đích cuối cùng họ hướng đến thực hiện “phi chính trị hóa” Quân đội, gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ra khỏi Quân đội, biến Quân đội ta trở nên vô dụng. Chúng ta cần nhận diện đầy đủ, sâu sắc bản chất âm mưu thâm độc ấy và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi hành vi chống phá; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ.

Khẳng định phẩm giá, hình ảnh cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ

Ai cũng biết rằng, trước đây cũng như hiện nay, cán bộ, chiến sĩ Quân đội là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; luôn nắm chắc tay súng, bảo vệ vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo, thềm lục địa; khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bộ đội Cụ Hồ không quản gian khổ, hy sinh, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì dân, vì nước. Những hình ảnh bộ đội giúp dân “diệt giặc đói, giặc dốt”, chống “giặc nội xâm”, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; cùng nhân dân vượt qua thảm họa thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, làm tròn nghĩa vụ quốc tế..., còn đọng mãi trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.

Trong thời chiến trước đây cũng như thời bình hiện nay, người lính sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ nhiệm vụ gì khi Tổ quốc cần, dù ở nơi biển, đảo, biên cương xa xôi, hay có mặt tại các điểm nóng của tâm dịch Covid-19, hoặc dầm mình trong bão lũ miền Trung thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, thậm chí nhịn đói khát, chịu nóng bức, hy sinh; đằng đẵng xa gia đình, người thân để thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, giúp nhân dân Nam Phi, Nam Xu Đăng vượt qua hoạn nạn, giành lại quyền sống làm người. Những việc làm thầm lặng ấy thật vẻ vang; những cống hiến, hy sinh cao cả ấy thật to lớn. Không có kẻ thù nào có thể xâm phạm, hủy hoại điều thiêng liêng ấy; không thế lực nào được phép vi phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của nhân dân; làm hoen ố bản chất, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ.

Thực tiễn hơn 79 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành đã khẳng định, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta chính là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, thể hiện rõ khát vọng sống vì hòa bình. Dù ở cương vị nào cũng vậy, mọi quân nhân đều son sắt thủy chung với Đảng, với nhân dân; một lòng một dạ “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, sẵn sàng dâng hiến tuổi xuân và cuộc sống của mình cho cách mạng. Không bao giờ “buông súng”, sa ngã, “lạc đường, chệch hướng” chỉ vì gian khổ, khó khăn, thử thách; chỉ vì sự xuyên tạc, chống phá của kẻ thù; không bao giờ quên lời hứa thiêng liêng đã khắc ghi trong tim mình trước Đảng, Bác Hồ và nhân dân về sự tự nguyện dâng hiến, tận trung với Đảng, trọn hiếu với dân. Chiến công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và thành tựu xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong hơn 35 năm đổi mới đã khẳng định sự tuyệt đối trung thành, niềm tin, danh dự và lẽ sống cao quý của Bộ đội Cụ Hồ. Thế giới có thể đổi thay, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.

Hơn lúc nào hết, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta hiểu rõ ai là bạn, ai là thù, ai đúng, ai sai; ai là đối tác, ai là đối tượng; âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Lớp lớp cán bộ, chiến sĩ trẻ hôm nay tự tin kế thừa, nối nghiệp cha anh cầm chắc tay súng bảo vệ biển, trời thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân, với hành trang và tài sản vô giá Bộ đội Cụ Hồ, cán bộ, chiến sĩ toàn quân hân hoan chào mừng 78 năm ngày truyền thống vẻ vang của mình; ra sức học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phấn đấu thực hiện thắng lợi Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ" thời kỳ mới; có thêm động lực, niềm tin và sức mạnh để tiếp tục xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; viết tiếp bản anh hùng ca “tiến bước dưới quân kỳ”, “vì nhân dân quên mình”, tô thắm thêm màu cờ Tổ quốc, tỏa sáng danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới./.

ST.

 

Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, trong các kỳ đại hội Đảng gần đây, vấn đề kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng là quá trình phát triển nhận thức lý luận của Đảng trên cơ sở tổng kết thực tiễn của 36 năm đổi mới theo hướng mở rộng và bao quát hơn những nội dung cần phải kiên định. Kiên định nguyên tắc là cơ sở để chúng ta phân biệt đối tượng, đối tác trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. 

Ảnh minh họa: Tạp chí Tuyên giáo.

Ảnh minh họa: Tạp chí Tuyên giáo.

Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta lần đầu tiên khẳng định: Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, bởi những lý do sau đây:

Thứ nhất, về lý luận, nguyên tắc là vấn đề có tính sống còn đối với một tổ chức. Tuân thủ các nguyên tắc thì tổ chức đó vững mạnh, từ bỏ hoặc thực hiện không nghiêm túc các nguyên tắc thì sẽ dẫn đến tổ chức rệu rã và có nguy cơ tan rã.

Trải qua hơn 94 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta luôn vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên tắc cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về xây dựng Đảng. Tổng kết công tác xây dựng Đảng qua các thời kỳ cách mạng khác nhau, tuy cách diễn đạt về các nguyên tắc xây dựng Đảng có khác nhau một vài điểm nhưng nhìn chung, Đảng ta vẫn luôn khẳng định những nguyên tắc trên cơ sở vận dụng và tuân thủ các nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta phát triển nguyên tắc về nền tảng tư tưởng: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”.

Đây là lần đầu tiên Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiền phong của giai cấp công nhân mà còn là đội tiền phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Đồng thời, cũng tại đại hội lần này, Đảng ta bổ sung thêm nguyên tắc: “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc chủ yếu nói trên trong quá trình xây dựng Đảng là một trong những yếu tố có tính quyết định bảo đảm cho Đảng ta giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; là cơ sở khoa học để Đảng ta không ngừng chăm lo xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng luôn xứng đáng vai trò người lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Trên cơ sở những nguyên lý về xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân do Lênin nêu ra và thực tiễn hoạt động của Đảng ta, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua (các nhiệm kỳ XII và XIII thống nhất giữ nguyên Điều lệ) quy định về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động như sau: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: Tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Từ đó đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định thực hiện nghiêm 5 nguyên tắc này và đó cũng là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của Đảng ta trong thời gian qua.

Thứ hai,
quan điểm chỉ đạo là kiên định nhưng không phải là cứng nhắc, giáo điều và cũng không phải là đổi mới vô nguyên tắc.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.

Trong quá trình thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, cần thấm nhuần quan điểm chỉ đạo: Kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Kiên trì, kiên định nhưng không trở thành giáo điều, cứng nhắc; đổi mới, kế thừa và phát triển nhưng trên cơ sở giữ vững các nguyên tắc chứ không phải là vô nguyên tắc, dân chủ quá đà, lẫn lộn giữa đối tượng, đối tác.

Thứ ba, về thực tiễn, trong nghiên cứu, học tập, quán triệt thực hiện các nghị quyết của Đảng thì chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục nên khi thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng rất cần phải kiên định tuân thủ các nguyên tắc. Nếu ai không tuân thủ sẽ phải chịu trách nhiệm bằng các hình thức kỷ luật của Đảng.

Đánh giá việc thực hiện các nguyên tắc và đổi mới phương thức lãnh đạo, văn kiện Đại hội XIII chỉ ra những ưu điểm sau: “Công tác xây dựng Đảng về chính trị được đặc biệt chú trọng. Kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng, đường lối đổi mới và các nguyên tắc xây dựng Đảng”. “Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới. Ban hành và thực hiện nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội”.

Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nêu rõ ưu điểm: “Đảng ta luôn vững vàng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc về xây dựng Đảng”.

Về hạn chế, khuyết điểm trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng nói chung, các nguyên tắc xây dựng Đảng nói riêng vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm như Văn kiện Đại hội XIII chỉ ra: “Chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục”.

Đánh giá việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, Văn kiện Đại hội XIII nêu: “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp”. “Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”.

Một số cấp ủy, tổ chức đảng đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm kéo dài. Đây là điều rất đáng trăn trở vì trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 264.091 tổ chức đảng và 1.124.146 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 15.920 tổ chức đảng và 47.701 đảng viên (trong đó có 23.432 cấp ủy viên). Qua kiểm tra, cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 1.329 tổ chức đảng và 69.600 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 17.610 đảng viên. Riêng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng và 60 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 169 đảng viên (trong đó có 53 đồng chí là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý). Các cấp ủy đã giám sát 193.993 tổ chức đảng và 528.652 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã giám sát 124.469 tổ chức đảng và 185.731 đảng viên.

Điều cần lưu ý là rất nhiều vi phạm xảy ra từ nhiệm kỳ trước nhưng đến nay mới bị phát hiện và xử lý. Như vậy trước đó, việc tuân thủ các nguyên tắc xây dựng Đảng chưa thật sự được coi trọng, thậm chí bị buông lỏng. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là các nguyên tắc xây dựng Đảng chưa được coi trọng và thực hiện nghiêm túc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan: Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới; việc quán triệt các nghị quyết của Đảng ở một số nơi chưa kịp thời, sâu sắc. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chủ động, sâu sát, thiếu quyết liệt; chưa coi trọng việc tự kiểm tra, xử lý vi phạm. Một số nơi, người đứng đầu chưa phát huy hết trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, chưa gương mẫu, còn thụ động, né tránh, trông chờ vào chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên. Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp. Sự phối hợp giữa một số cấp ủy với đảng đoàn, ban cán sự đảng có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Việc phân định trách nhiệm của người đứng đầu trong mối quan hệ với cấp ủy và tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ; chưa phát huy đúng mức vai trò của cá nhân trong tập thể. Việc xây dựng, phát huy vai trò của các cơ quan tham mưu về công tác xây dựng Đảng có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức; một bộ phận cán bộ tham mưu chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Trong thời gian tới, để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 25-10-2018 của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” cần thực hiện đồng bộ một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

Thứ nhất,
kiên định những nguyên tắc xây dựng Đảng gắn với thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 25-10-2018 của Bộ Chính trị. Tăng cường tuyên truyền trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về nội dung các nguyên tắc xây dựng Đảng để từ nhận thức sẽ có hành động đúng và tạo sự lan tỏa theo phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”.

Thứ hai, tập trung xây dựng, thông tin chủ động, chính xác, kịp thời, toàn diện, đúng đối tượng về các hoạt động, sự kiện chính trị, xã hội của đất nước. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các chuyên trang, chuyên mục, fanpage, blog, tài khoản mạng xã hội (Zalo, Facebook...) về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Thứ ba, thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình tư tưởng, kịp thời định hướng dư luận xã hội; thực hiện tốt quy chế phát ngôn, cung cấp thông tin chính thống, kịp thời cho báo chí; công khai kết quả kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trên các phương tiện truyền thông; xử lý nghiêm những thông tin phản ánh không đầy đủ, phiến diện, tiêu cực một chiều trên báo chí, mạng xã hội.

Thứ tư, quán triệt, thực hiện nghiêm Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28-7-2021 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Quy định số 69-QĐ/TW ngày 6-7-2022 về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong khai thác, sử dụng internet, mạng xã hội; thường xuyên tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và các tầng lớp nhân dân nêu cao tinh thần cảnh giác, không tham gia bình luận tiêu cực hoặc chia sẻ những thông tin xấu độc trên không gian mạng./.

ST.

Phản bác luận điệu “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng lãnh đạo đất nước”

Cho đến nay, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã được tiến hành hơn 36 năm, tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những nguyên nhân của những thành tựu đó là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Tuy nhiên, gần đây các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại đưa ra những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng lãnh đạo đất nước”. Cần thiết phải nhận diện đúng bản chất của luận điệu này để tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

BẢN CHẤT CỦA NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những luận điệu thường thấy của các thế lực thù địch nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta. Đây là trọng tâm, là mũi nhọn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” với âm mưu cơ bản và lâu dài là tạo ra “khoảng trống” về tư tưởng, chính trị nhằm chia rẽ mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Đây là một âm mưu nguy hiểm, thâm độc liên quan trực tiếp đến uy tín cũng như sự tồn vong của Đảng, của chế độ nên được các thế lực thù địch ráo riết thực hiện với nhiều thủ đoạn tinh vi.

Để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với cách mạng Việt Nam, chúng tung ra luận điệu “Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều sai lầm trong quá khứ, dù quá khứ có làm được một số việc thì bây giờ chuyển sang thời kỳ mới, Đảng đã hết vai trò lịch sử” trên nhiều diễn đàn khác nhau bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Ở góc độ khác, có thế lực còn khoét sâu vào những hạn chế, khuyết điểm của Việt Nam trong thời gian qua, nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để công kích Đảng ta, đòi xóa bỏ điều 4 trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quyền lãnh đạo trưc tiếp, toàn diện của Đảng. Gần đây, một số phần tử cơ hội chính trị còn rêu rao rằng, hiện nay, Việt Nam vẫn còn là một nước chậm phát triển. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do “Đảng đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”. Chúng còn vu cáo rằng Đảng Cộng sản Việt Nam tuy có đạt được một số kết quả trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc nhưng hiện đường lối lãnh đạo của Đảng đã không còn phù hợp nữa nên không thể có thành công được!

Trong những dịp Đảng, Quốc hội xin ý kiến rộng rãi các tầng lớp nhân dân về dự thảo các văn kiện, nghị quyết, luật…, các hoạt động chống phá lại càng quyết liệt và tinh vi hơn. Dưới hình thức “Thư ngỏ”, nhiều thế lực thù địch bao gồm các lực lượng phản động ở nước ngoài, các phần tử cơ hội chính trị trong nước đã gửi “tâm thư” kêu gọi Đảng ta phải thay đổi để “cứu vớt” đất nước Những luận điệu này đã lộ rõ bản chất của những kẻ có mưu đồ chống phá - đó là cố tình lờ đi những thành quả không thể phủ nhận của công cuộc đổi mới của Việt Nam và vin vào những hạn chế, khuyết điểm để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

Có thể nhận thấy rõ mưu đồ của các thế lực thù địch khi đưa ra luận điệu “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng lãnh đạo đất nước” là nhằm xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới và phát triển của Việt Nam hiện nay. Căn nguyên của luận điệu này được chúng đưa ra là do Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến nay vẫn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và các thế lực thù địch luôn rêu rao rao rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã “lỗi thời”, “không còn phù hợp” với thực tiễn hiện nay. Do đó, có thể nhận thấy rõ cái trước mắt là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng cội rễ sâu xa là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin với tính cách là nền tảng tư tưởng, là “kim chỉ nam” cho mọi chủ trương, đường lối và hoạt động của Đảng. Vì thế, đây là một thủ đoạn chống phá Đảng kiểu “rượu cũ bình mới” nên không thể xem thường!

LUẬN CỨ ĐẤU TRANH PHẢN BÁC VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

Cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời và trực tiếp lãnh đạo đất nước 93 năm, cả trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và trong công cuộc đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế hiện nay. 93 năm - một chặng đường gần một thế kỷ và có đủ thời gian để nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với sự phát triển của cả một dân tộc.

Năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, nhân dân mất tự do, chịu cảnh lầm than, nô lệ. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng mình khỏi thân phận nô lệ nhờ thành công của cuộc cách mạng tháng Tám (năm 1945) và giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp (năm 1954) và chống Mỹ (năm 1975). Những thành tựu to lớn đó đã làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc, được cả thế giới ghi nhận và nhân dân Việt Nam trân trọng, khắc ghi.

Trong bối cảnh đất nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, khủng hoảng toàn diện trên tất cả các mặt, đời sống nhân dân đói nghèo, thiếu thốn, lại thêm Mỹ và phương Tây áp đặt cấm vận kinh tế trong một thời gian dài, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh đạo cả dân tộc bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”. Những thành tựu đó không phải tự nhiên mà có và cũng không phải dễ dàng có được. Đó chính là kết quả của quá trình nhận thức về tính tất yếu của đổi mới đất nước, đồng thời, xuất phát từ sự thôi thúc của bản thân Đảng ta với mong muốn ngày càng mang lại sự phát triển phồn vinh cho đất nước, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Những thành tựu đó là bằng chứng thuyết phục để khẳng định năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - một đảng duy nhất cầm quyền và lãnh đạo cả dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước; đồng thời cũng làm cho nhân dân ngày càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thuận để Đảng trở thành một lực lượng xã hội duy nhất lãnh đạo toàn xã hội. Do đó, không thể cố tình lờ đi những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của Việt Nam qua hơn 36 đổi mới để cáo buộc rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lãnh đạo, chỉ khiến đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển. Vì vậy, những kẻ lấy danh nghĩa là “con dân đất Việt”, lấy hình thức viết “tâm thư”, “thư ngỏ” để kêu gọi Đảng phải từ bỏ Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cố tình chống phá Đảng, chống phá chế độ ta.

Từ việc tổng kết quá trình lãnh đạo của Đảng trong suốt hơn 93 năm nói chung và trong thời kỳ đổi mới nói riêng, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm rất quan trọng. Đó là: “Đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt NamTại Đại hội XIII, khi tổng kết kết quả 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta cũng khẳng định“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Đây là những nhận định khách quan, phản ánh đậm nét vai trò to lớn, không thể phủ nhận của Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới và phát triển đất nước trong suốt thời gian qua. Do đó, luận điệu cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng lãnh đạo đất nước” hoặc là do nhận thức thiển cận (số này không nhiều), hoặc là cố tình lờ đi, phủ nhận (trường hợp này là đa số) vai trò lãnh đạo to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới đất nước. Do đó, mỗi chúng ta cần phải cảnh giác trước những luận điệu đó, đồng thời kiên quyết, kiên trì đấu tranh phản bác trên tất cả mọi mặt trận.

Trong những năm tiếp theo, công cuộc đổi mới đất nước sẽ tiếp tục còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng nếu mỗi chúng ta luôn hiểu và vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng thì sẽ là góp phần củng cố, gia tăng thêm sức mạnh cho Đảng, để Đảng ta tiếp tục là người lãnh đạo, dẫn dắt cả dân tộc thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.

ST.

Để nền tảng tư tưởng của Đảng trở thành niềm tin, lẽ sống

 Để có thể làm tốt và hiệu quả hơn nữa công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thì không nên chỉ giới hạn công tác này trong phạm vi tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống lý luận và học thuyết khoa học, mà cần mở rộng thêm ở góc độ: làm sao để biến nó thành niềm tin, lẽ sống của nhân dân.

NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG VÀ NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN TRONG BỐI CẢNH MỚI
Trong tiến trình vận động và phát triển của nhân loại, niềm tin là một nhân tố hết sức quan trọng. Bất cứ quốc gia hay thể chế chính trị nào, muốn phát triển ổn định, bền vững và tiến tới một xã hội thái bình, thịnh trị thì những người lãnh đạo của quốc gia/thể chế đó phải đặt vấn về xây dựng niềm tin đối với nhân dân.
Trong một quốc gia có chính đảng lãnh đạo, điều kiện tiên quyết để chính đảng đó có thể tồn tại và phát triển là phải có nền tảng tư tưởng vững chắc, được thực tiễn kiểm nghiệm, thử thách, sàng lọc và phải gắn bó, thực sự trở thành một trong những niềm tin, lẽ sống của người dân. Khi đó, mọi chủ trương, đường lối, quan điểm… của chính đảng sẽ được người dân tin và làm theo như đối với một chân lý khách quan, một hệ giá trị thiêng liêng của cộng đồng dân tộc. Tuy nhiên, sự tồn tại và phát triển của nền tảng tư tưởng không chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chính đảng tạo ra nó mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan khác nhau, trong đó, niềm tin của quần chúng nhân dân là yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành công hay thất bại, tồn tại lâu dài hay kết thúc chóng vánh đối với nền tảng tư tưởng.
Là một đảng chính trị “gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”(1) nên trong quan điểm và sự kiên định về lập trường tư tưởng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định “lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(2).
Nền tảng tư tưởng của Đảng ta là bộ phận nền, gốc vững chắc bao gồm những quan điểm, hệ thống tri thức lý luận cũng như thái độ, sự nhìn nhận, đánh giá đối với hiện thực khách quan một cách khoa học, đúng đắn mà trên đó những bộ phận khác của Đảng như Cương lĩnh, chủ trương, đường lối, quan điểm, thái độ... được xây dựng và phát triển. Điều này, không chỉ bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, mà còn thể hiện rõ ý chí kiên quyết đấu tranh với những luận điệu sai trái, thù địch đi ngược lại bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong bối cảnh mới, các thế lực thù địch ngày càng ráo riết chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta, trong đó, nguy hiểm hơn cả là những âm mưu, hành động nhằm làm cho người dân suy giảm, mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước. Để gieo rắc sự hoài nghi hòng hướng tới phủ nhận, xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta, các thế lực thù địch đã “dẫn dụ” bằng nhiều chiêu trò, luận điệu thâm độc như: 1) Đưa ra những “lý luận” xuyên tạc rằng việc kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chẳng qua là ý muốn chủ quan duy ý chí, là một cách “chỉ để giữ đặc quyền” và “không đem lại lợi ích cho toàn dân Việt Nam”(!?). 2) Xuyên tạc rằng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là “vật cản” đối với sự phát triển đất nước(!?). 3) Ngụy tạo rằng Đảng cộng sản Việt Nam đang có sự “Khủng hoảng lý luận” bởi “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin giúp cải cách thế nào trong bối cảnh kinh tế thị trường? và những nội dung cốt lõi trong nền tảng tư tưởng của Đảng là chỉ để phục vụ cho Đảng và không đề cập đến các vấn đề trọng đại của quốc gia(!?). 4) Cổ xuý và bịa đặt rằng “Khi lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, Việt Nam sớm muộn gì cũng sẽ sụp đổ như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu”(!?)…

Có thể thấy, những luận điệu xuyên tạc, chống phá đang âm thầm len lỏi, “bám rễ” vào đời sống xã hội và đã ít nhiều gây ra những hệ luỵ nguy hiểm.

PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRỞ THÀNH NIỀM TIN, LẼ SỐNG CỦA NHÂN DÂN

Thứ nhất, sẽ là hoàn chỉnh hơn về mặt ý nghĩa và giá trị khi nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ dừng lại ở phạm vi một học thuyết, một hệ thống khoa học lý luận… mà cần phải thâm nhập sâu rộng hơn nữa vào quần chúng nhân dân. Nói cách khác, cần phổ biến, tuyên truyền sâu rộng nội dung nền tảng tư tưởng của Đảng vào quần chúng nhân dân theo hướng: dễ hiểu, dễ thuộc, dễ vận dụng.

Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, nội hàm khái niệm về các tri thức liên quan đến nền tảng tư tưởng của Đẩng thường mới “dừng lại” ở những người có học vấn cao, mà chưa thật sự lan tỏa một cách sâu, rộng đến các tầng lớp nhân dân nói chung. Dường như, người dân vẫn còn “xa lạ” và chưa thực sự hiểu biết, tỏ tường về nền tảng tư tưởng của Đảng! Trong khi đó, nếu so sánh (dù là “khập khiễng”) chúng ta sẽ thấy “mức độ phổ quát” của thánh kinh, giáo lý, điều răn… trong các tôn giáo rộng hơn nhiều. Sở dĩ các thánh kinh, giáo lý, điều răn… trở thành “máu thịt”, hơi thở, tâm hồn của tín đồ, vì bên cạnh việc các tôn giáo, tín ngưỡng vẫn giữ nguyên được hồn cốt giáo lý, kinh kệ cùng những triết lý cao siêu, họ còn tiến hành công việc “đại chúng hóa” “tuyên truyền” các vấn đề này ở nhiều cách thức khác nhau (viết thành thơ, châm ngôn, cách ngôn răn dạy...), giúp con chiên, tín đồ dễ nhớ, dễ thuộc và dễ vận dụng vào đời sống. Và vì thế, họ sớm hình thành nên “Đức tin”.

Lâu nay, chúng ta cũng đã quan tâm đến việc nghiên cứu và tuyên truyền các tác phẩm kinh điển của các nhà tư tưởng lỗi lạc (C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh…) và các tác phẩm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Công việc này hết sức ý nghĩa trong việc giữ gìn và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là khi hiện nay thế giới đang đa chiều, nhiễu loạn về thông tin. Song, việc học tập, nghiên cứu các tác phẩm kinh điển này chỉ mới dừng lại ở những đối tượng người học nhất định (chủ yếu là cán bộ, giảng viên của các Trường, các Học viện chính trị, các Viện nghiên cứu; và những người được đi học, thường phải bảo đảm một số tiêu chí nhất định) mà chưa được mở rộng. Thực tiễn cho thấy, khi học tập, nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ít người mới vỡ lẽ: Lâu nay, có những tri thức mà vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, họ vẫn thường hiểu nhầm, hiểu sai; vận dụng nhầm, vận dụng máy móc!
Chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa để những giá trị tốt đẹp trong nền tảng tư tưởng của Đảng thật sự lan tỏa, phổ quát đến với tất cả người dân, để nhân dân thực sự thấm nhuần, coi đó là niềm tin, lẽ sống trước mỗi hành động, việc làm, trước mỗi vấn đề của đất nước...
Thứ hai, phải dựa vào nhân dân, xem nhân dân là một trong những lực lượng nòng cốt trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Muốn nền tảng tư tưởng của Đảng trở thành niềm tin, lẽ sống của nhân dân, thì cần phải dựa vào nhân dân. Nhân dân chính là “tai mắt” của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Người dân luôn có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, tiếp xúc với mọi đối tượng; có khả năng sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông một cách hiệu quả nên dễ dàng nhận diện được đối tượng cùng các nội dung, phương thức chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.
Không chỉ vậy, với nhiều thành phần, giai tầng, lứa tuổi, cả trong và ngoài nước, người dân Việt Nam cũng chính là một trong những chủ thể sáng tạo ra những nội dung, phương thức để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch một cách hiệu quả - từ tự phát sang tự giác, từ đơn lẻ sang phối hợp để cùng đấu tranh, phản bác các thông tin xấu, độc; phản bác các luận điệu xuyên tạc một cách kịp thời, hiệu quả, thuyết phục.
Các tầng lớp Nhân dân còn là “bức trường thành” vững chắc để ngăn chặn những luận điệu sai trái, thù địch tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Đảng ta là Đảng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, vậy nên, bảo vệ Đảng cũng chính là cách người dân bảo vệ mình!
Dựa vào nhân dân, “Lấy dân làm gốc” chính là cách tạo nên “thế trận lòng dân” trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(3).
Thứ ba, phải giúp nhân dân hiểu hiểu đúng, hiểu rõ: nền tảng tư tưởng của Đảng ta không phải tự nhiên mà có, không phải là sản phẩm chủ quan duy ý chí… mà là một hệ thống tư tưởng, quan điểm được xây dựng một cách khoa học, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử dân tộc, luôn được bổ sung để phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước.
Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng của Đảng nhưng chúng ta không sao chép nguyên xi và cũng không tuyệt đối hóa vấn đề này, ngược lại, luôn vận dụng một cách sáng tạo, có sự điều chỉnh, bổ sung và phát triển để phù hợp với thực tiễn của đất nước.
Hồ Chí Minh chính là người đầu tiên tiếp thu, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và Người cũng là người đầu tiên vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin lên một tầm cao mới trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, từ đó đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm mô hình trồng cam tại huyện Cao Phong, Hòa Bình ngày 14 -15/5/2017.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm mô hình trồng cam tại huyện Cao Phong, Hòa Bình ngày 14 -15/5/2017.

Trong quá trình Đảng lãnh đạo và xây dựng đất nước, đặc biệt là trong xây dựng CNXH, Đảng ta cũng đã có những sai lầm, khuyết điểm, gặp phải nhiều khó khăn, hạn chế… nhưng nhìn một cách tổng thể, nhất là khi đặt trong tương quan về góc độ quản trị quốc gia, thì kết quả là chúng ta đã có những thành tựu to lớn, trong đó kinh tế - xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ. Điều này cho thấy Đảng và Nhà nước luôn có sự đổi mới nhận thức, và từ đó đổi mới trong thực tiễn xây dựng CNXH.

Theo nguyên tắc sự phát triển của nhận thức, có những cái trước, nay  sau đều đúng; nhưng cũng có những cái trước đúng nay cần phải bổ sung hoàn thiện theo nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, và có những cái trước đúng nhưng nay không còn phù hợp. Vậy nên, trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, cần phải tiếp tục xác định “cái gì vẫn còn đúng và vẫn còn có giá trị lâu dài; cái gì trước kia chúng ta hiểu không đúng nay phải điều chỉnh lại cho đúng; cái gì ngay từ thời các nhà kinh điển đã thừa nhận là không đúng, cái gì đã bị thực tiễn vượt qua, đặc biệt là thực tiễn ở Việt Nam mà chúng ta cần bổ sung phát triển”(4). Xác định được điều này nghĩa là chúng ta thêm một lần nữa làm sáng tỏ các giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và “không thể đổ cho học thuyết Mác - Lênin có lỗi trong những khó khăn, hạn chế, sai lầm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước”(5).

Thứ tư, cần phải làm tốt hơn nữa công tác chăm lo và nâng cao đời sống cho người dân, làm cho người dân ngày càng hạnh phúc hơn.
Hạnh phúc không chỉ đơn thuần ở sự thỏa mãn, đầy đủ về vật chất, mà còn thể hiện mãnh liệt ở khía cạnh tinh thần; hạnh phúc chính là chìa khóa khai phóng niềm tin và lý tưởng cho con người. Một khi đời sống của người dân được bảo đảm, không chỉ biết “ăn no mặc ấm” mà còn là “ăn ngon mặc đẹp”, không chỉ biết nhìn nhận mà còn biết cảm nhận và cảm thụ các giá trị khoa học, văn hóa nghệ thuật… thì người dân sẽ càng có cơ sở để nhận biết và tin tưởng hơn vào nền tảng tư tưởng của Đảng và xem đó là niềm tin, lẽ sống.

Bác Hồ thăm nông dân xã Ái Quốc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương (1958).

Bác Hồ thăm nông dân xã Ái Quốc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương (1958).

KHI NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG THỰC SỰ TRỞ THÀNH NIỀM TIN, LẼ SỐNG

Hơn tất cả, niềm tin là sức mạnh cố kết toàn dân tộc Việt Nam. Vậy nên, khi một hệ thống tri thức lý luận, một học thuyết, hệ tư tưởng của Đảng thực sự trở thành niềm tin, lẽ sống trong mọi tầng lớp nhân dân thì chắc chắn sẽ sản sinh ra những “quả ngọt” làm cho đời sống xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Cụ thể là:

Sẽ góp phần xây dựng và chỉnh đốn Đảng, củng cố hệ thống chính trị một cách hiệu quả.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Thời gian qua, Đảng ta đã và đang thực hiện rất tốt công tác này trên tất cả các mặt, các lĩnh vực. Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận, vẫn còn đó không ít vấn đề gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, trong đó có tình trạng tham nhũng, chạy chức chạy quyền, cán bộ quan liêu, sách nhiễu người dân... và đây cũng chính là “luận cứ, luận điểm” để các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng, tăng cường xuyên tạc, bịa đặt, chống phá.
Vậy nên, xây dựng và chỉnh đốn Đảng không phải là công việc của riêng Đảng và các đảng viên, mà cũng phải là công việc của người dân, bởi lẽ người dân chính là “thước đo” để đánh giá kết quả của công việc hệ trọng này. Khi đã hình thành được niềm tin, người dân sẽ có cơ sở để “biết”, “bàn”, “làm”, “kiểm tra”, “giám sát” và “thụ hưởng”. Điều này cũng đồng nghĩa với việc: công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, củng cố hệ thống chính trị sẽ ngày càng thiết thực, hiệu quả hơn.
Sẽ củng cố, phát triển sự đồng thuận xã hội bền vững, góp phần loại bỏ những thông tin sai trái, xấu độc.
Đồng thuận xã hội chính là một trong những “kháng thể” hiệu quả nhất để nhân dân chống lại các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là khi các luận điệu này đang ngấm ngầm len lỏi vào tất cả các lĩnh vực của đời sống và làm cho một bộ phận không nhỏ người dân, nhất là giới trẻ hình thành những suy nghĩ tiêu cực, lệch lạc. Trước hết, nhân dân sẽ có thái độ nhận thức tích cực đối với các vấn đề nổi cộm của xã hội, như công tác phòng, chống tham nhũng; công tác bảo đảm an ninh - quốc phòng; các chính sách xây dựng và phát triển văn hóa, dân tộc, tôn giáo.... Tiếp đến, người dân sẽ thấy được sự hợp lý, khoa học từ các quan điểm, đường lối của Đảng và sẽ tự nguyện, vui vẻ thực hiện, vận dụng vào cuộc sống hằng ngày. Sau cùng, những thông tin sai trái, xấu độc sẽ không có cơ hội bám rễ vào đời sống của người dân, chúng sẽ phải tự hủy trước niềm tin vững chắc mà nhân dân dành cho Đảng.
Tuy nhiên, bên cạnh những “quả ngọt”, chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận ở chiều ngược lại, đó là những hệ lụy, những “trái đắng” khi nền tảng tư trưởng của Đảng trở nên xa lạ và không trở thành niềm tin, lẽ sống của người dân. Trước hết, đó là khoảng cách giữa nhân dân với Đảng sẽ ngày càng xa. Đó là khi người dân mất niềm tin và cho rằng nền tảng tư tưởng của Đảng chỉ đơn thuần là một học thuyết, là sản phẩm “chủ quan duy ý chí” của những người cầm quyền không thực sự vì dân… Lúc đó người dân sẽ thờ ơ, hoài nghi, từ bỏ và rồi sẽ “đi tìm một điều gì khác” để giải tỏa, thỏa mãn những ước muốn, những trạng thái tinh thần mà họ đang thiếu hụt. Lịch sử ra đời của các tôn giáo, tín ngưỡng đã cho thấy: Khi người dân cảm thấy lạc lõng, nhỏ bé, khi cuộc sống trở nên mất phương hướng thì họ sẽ tìm đến một thế lực nhất định để gửi gắm, ký thác niềm tin. Tiếp đến, khi không có chí hướng, không xác định được lý tưởng, mục đích sống..., người dân sẽ mất đi khả năng định hướng trong đời sống xã hội. Nhân dân sẽ không đồng lòng, chung tay với Đảng và Nhà nước để xây dựng các vấn đề trọng yếu của quốc gia. Sự hài lòng với đảng cầm quyền và hệ thống chính trị sẽ bị giảm sút, cùng với đó, tất cả các yếu tố tiêu cực sẽ được dịp kích hoạt, nảy nở, sinh sôi… và rồi những luận điệu xuyên tạc, phản động sẽ càng có cơ hội nẩy mầm, bén rễ trong đời sống, trong nếp nghĩ của người dân. Và sau cùng, mầm mống của sự phân rã xã hội sẽ vì thế có cơ hội nảy nở, sinh sôi. Kết cục là những hậu quả tồi tệ từ những bất ổn chính trị - xã hội!

Trong cuộc sống, phàm khi con người đổ vỡ niềm tin thì tất yếu sớm muộn cũng dẫn đến sự hoang mang, sợ hãi, và rồi sẽ nghe và làm theo một cách mù quáng trước những dẫn dụ của những kẻ phi thiện. Ngược lại, khi đã có niềm tin - được hình thành trên cơ sở khoa học, được kiểm chứng bởi lịch sử, được xây dựng từ một chính đảng hết lòng phụng sự nhân dân - thì con người sẽ tạo ra cho mình một thế giới quan đúng đắn, nhân văn; xác định được lý tưởng, lẽ sống cao đẹp; thực tâm đồng thuận, “chung lưng đấu cật” xây dựng một xã hội “dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Những kết quả đất nước ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng không phải là những thứ trừu tượng, mơ hồ; thành quả kinh tế - xã hội có được như hiện nay không phải là kết quả của một sự mạo hiểm hay ăn may, mà đó là do “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” bởi ý Đảng với lòng dân. Vì thế, khi nền tảng tư tưởng của Đảng trở thành niềm tin, lẽ sống trong quảng đại quần chúng nhân dân thì chắc chắn không có khó khăn, trở ngại, thử thách nào mà đất nước ta, Đảng ta, nhân dân ta không thể vượt qua; chắc chắn khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc sẽ sớm trở thành hiện thực./.

ST.