Năm 2020 đã qua đi với rất nhiều biến động, một trong những biến động bất ngờ đối với cả nhân loại chính là đại dịch Covid-19. Trong khi cả thế giới chao đảo vì đại dịch này, Việt Nam đã trở thành một trong số ít ỏi các quốc gia được đánh giá chống dịch thành công nhất thế giới. Cùng với chống dịch, năm 2020 cũng được xem là một năm thành công trong việc thực hiện nhiệm vụ kép, vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế. Việt Nam đã chính thức vượt quy mô kinh tế của Malaysia và Singapore để trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 ở Đông Nam Á và đứng thứ 36 trên thế giới.
Đánh giá
về thành công này của Việt Nam, IMF đã khẳng định: “Đây là một minh chứng điển
hình về cách một quốc gia đang phát triển có thể chống lại đại dịch, đem đến một
bài học ý nghĩa đối với các nước đang phát triển khác”. Để có được thành công
đó là sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, nhưng chắc chắn chính những chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với lợi ích, nguyện vọng chính
đáng của Nhân dân nên được Nhân dân đồng tình, ủng hộ, mang lại hiệu quả rõ rệt.
Bài học về
sự gắn bó giữa Đảng với dân và lòng tin của dân với Đảng càng có ý nghĩa hơn
khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đang đến gần.
Sức mạnh
vĩ đại là ở Nhân dân.
Ngay từ
khi ra đời và trong suốt lịch sử của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thực hiện
nhất quán tư tưởng Lấy dân làm gốc. Sau những vấp váp trong hòa bình, Đại hội
VI của Đảng đã tổng kết và rút ra bài học lớn: “Trong toàn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”,…Quan liêu, mệnh lệnh xa
rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”.
Tổng kết kinh nghiệm sau 20 năm đổi mới đất nước, một trong bốn bài học lớn mà
Đảng ta rút ra, đó là: “Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng… Cán bộ,
đảng viên và công chức phải thật sự là công bộc của nhân dân”.
Đảng Cộng
sản Việt Nam đã trải qua 91 năm gắn bó đồng hành cùng dân tộc. Đất nước không
phải không còn đó những khó khăn thách thức cần đối mặt, song nhìn lại tổng thể
mọi mặt của của đất nước, những thành tựu là không thể phủ nhận. Nhà cách mạng
lão thành Nguyễn Văn Nguyễn trong tác phẩm nổi tiếng Tháng Tám trời mạnh thu đã
viết: “Cách mạng là công việc thực tế của hằng triệu, hằng triệu người. Một đội
tiền phong dầu giỏi đến đâu cũng chỉ tưởng tượng trong phạm vi công việc của
năm ba vạn người”, còn sức mạnh vĩ đại là ở Nhân dân.
Nhìn lại
lịch sử, nếu như không có Nhân dân, cho dù đảng có tài tình đến bao nhiêu cũng
không thể tự mình tạo ra những thành quả lớn lao ấy. Trong bất cứ hoàn cảnh
nào, Nhân dân ta luôn một lòng trung thành với Đảng, đi theo con đường của Đảng,
ủng hộ, chở che, bao bọc để Đảng hoàn thành sứ mệnh của mình trước Nhân dân.
Sinh thời,
Lênin đã từng cảnh báo 2 nguy cơ của Đảng Cộng sản cầm quyền, đó là sai lầm về
đường lối và quan liêu, xa rời nhân dân. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng, Đảng
ta luôn luôn cảnh báo, nhắc nhở hiện tượng này và đã ban hành nhiều chỉ thị,
nghị quyết nhằm tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Cương lĩnh xây dựng trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam năm
1991, một trong 5 bài học lớn rút ra, có bài học thứ hai, đó là “Sức mạnh của Đảng
là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ
đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.
Đến cương
lĩnh bổ sung phát triển năm 2011, Đảng ta đã một lần nữa cảnh báo nghiêm khắc
hơn, đó là quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân không chỉ đem đến tổn thất
khôn lường đối với đất nước mà còn có nguy cơ tồn vong đối với Đảng và chế độ
“quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất không lường
được đối với vận mệnh của đất nước của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”.
Nhiều cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiện băn khoăn lo lắng về những hiện tượng
tiêu cực và tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, sách nhiễu dân. Ngay từ năm 1998,
ông Trần Bạch Đằng đã phải thảng thốt kêu lên về hiện tượng xa dân, mà ông gọi
là Nỗi thèm khát nóng bỏng để rồi kêu gọi đảng viên của Đảng hãy trở về với cái
nôi mà mình đã sinh ra, trở về trong “vòng tay êm ấm của người dân đã cưu mang
tất cả - cưu mang cách mạng, cưu mang sinh mạng của chính cá nhân người Đảng
viên”.
Người xưa
đã từng đúc kết: Túc thực, túc binh, dân tín. Lại nhớ Tử Cống, học trò của Thầy
Khổng, trong một lần đẩy xe cho Thầy, đã hỏi Khổng Tử rằng cần có những điều kiện
gì để cho một quốc gia hùng mạnh. Khổng Tử nói cần ba điều: Có lương thực cho
dân đủ ăn, có quân đội để bảo vệ đất nước và nhân dân tin tưởng ở nhà cầm quyền.
Tử Cống hỏi trong ba điều ấy phải bỏ đi một điều thì nên bỏ điều nào, Đức Khổng
bảo bỏ quân đội. Tử Cống hỏi hai điều còn lại, nếu phải bỏ đi một điều thì bỏ
điều nào, Khổng Tử nói bỏ lương thực, vì không có ăn, người dân sẽ chết đói,
nhưng không có lòng tin của nhân dân, chính thể ấy sẽ đổ.
Bởi lòng
tin, sự ủng hộ ấy của Nhân dân nên cho dù suốt hàng ngàn năm phải chống chọi với
ngoại xâm đô hộ hung bạo gấp nhiều lần, dân tộc chúng ta vẫn vượt lên và chiến
thắng. Cũng bởi không được Nhân dân ủng hộ nên, dù có lực lượng quân đội vô
cùng đông đảo, nhà Hồ đã thất bại rất nhanh chóng và hậu thế sẽ vẫn nhớ mãi lời
tuyên bố của Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng: “tôi không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân
không theo mà thôi”…
Để không
lạm quyền, xa dân: Quyền lực của Đảng phải được kiểm soát
Đảng được
Hiến pháp hiến định là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như Đảng Cộng sản
Việt Nam, mọi chuyện hay dở, tốt xấu trong xã hội đều gắn với trọng trách của Đảng.
Trong tất cả các cơ quan công quyền, chắc chắn những người giữ vị trí trọng
trách đều là đảng viên của Đảng. Khi đã là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và toàn
xã hội, đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về toàn bộ mọi mặt đời sống
xã hội, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình. Đảng được
Hiến pháp hiến định là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng Đảng không
phải là Nhà nước, vì vậy, quyền lực của Đảng chủ yếu dựa trên uy tín mang lại.
Uy tín ấy chính là ở việc Đảng phải đề ra các quyết sách lãnh đạo phù hợp với lợi
ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân và đội ngũ cán bộ, đảng viên của đảng
phải thật sự gương mẫu, thật sự vì dân.
Nói dân
tin Đảng, nhưng Đảng là một phạm trù rộng lớn, người dân nhìn Đảng qua lăng
kính của mình, đó chính là từ những cán bộ, đảng viên của Đảng. Để Đảng làm tốt
chức năng lãnh đạo của mình, cần phải có sự giám sát chặt chẽ của Nhân dân, bởi
quyền lực của tất cả các tổ chức, đặc biệt là Đảng và Nhà nước là rất lớn, do
đó cần phải được kiểm tra, giám sát. Nếu không làm tốt nhiệm vụ này, rất dễ sinh
ra suy thoái, biến chất. Quyền lực càng to thì trách nhiệm càng nặng nề. Do đó,
chỉ khi Đảng quyền lực ấy vì lợi ích của Nhân dân, mang lại hạnh phúc cho nhân
dân mới là mục đích cao đẹp. Nhìn lại lịch sử các triều đại xưa, dù vua được mặc
nhiên là “thiên tử” nhưng không phải vì vậy mà nhà vua đứng ngoài pháp luật. Hầu
như các triều đại đều có các bộ phận giám sát, tư vấn cho nhà vua. Thời lý có
Tam thái: Thái sư, Thái phó, Thái bảo có trách nhiệm tư vấn cho nhà vua về việc
trị nước. Năm 1250, Nhà Trần chính thức thành lập Ngự sử đài (sang thời Nguyễn
đổi thành Đô sát viện) để làm nhiệm vụ giám sát, đàn hặc nhà vua và các quan. Đặc
biệt, dưới triều Lê Thánh Tông (1460-1497); để hạn chế quyền lực quá lớn của
các bộ - cơ quan Nhà nước, cứ mỗi bộ, nhà vua đặt một khoa tương ứng để giám
sát.
“Dân là gốc”
là chân lý vĩnh hằng. Đảng phải gắn bó mật thiết với Nhân dân thì Đảng mới có sức
mạnh, mới giữ vững và làm tròn vai trò lãnh đạo. Có phải vì vậy mà trong muôn
vàn nỗi lo “muôn mối như lòng mẹ” trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
không quên căn dặn: “Trước hết nói về Đảng” và nhấn mạnh “Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của Nhân dân”.
Đảng Cộng
sản Việt Nam sinh ra từ cái nôi nuôi dưỡng đó là Nhân dân. Chỉ khi nào Đảng gắn
bó mật thiết với Nhân dân thì Đảng mới có sức mạnh. Khi nào Đảng xa rời Nhân
dân, Đảng sẽ suy thoái và yếu kém./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét