Thứ Ba, 27 tháng 7, 2021
Triển vọng của kinh tế không tiếp xúc ở Việt Nam
Nhiều nhà kinh tế học cho rằng, quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19 sẽ kéo dài và không đồng nhất dưới tác động của hàng loạt các dư chấn (after-shock) chu kỳ, cho nên kinh tế không tiếp xúc dựa trên nền tảng chuyển đổi số cần được quan tâm, phát triển. Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 29-9-2020, của Bộ Chính trị, “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đã chỉ rõ sự chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Đảng ta xác định tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với bước đi và lộ trình phù hợp là cơ hội để Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết của Đảng cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu khu vực châu Á. Theo “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2020, đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số trên nền tảng các công nghệ và mô hình mới khi quản trị quốc gia, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân được đổi mới căn bản theo hướng số hóa để đến năm 2025, kinh tế số chiếm 20% GDP, trong đó tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%, trên 50% dân số có tài khoản thanh toán điện tử và đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP, tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%, trên 80% dân số có tài khoản thanh toán điện tử…
Triển vọng kinh tế không tiếp xúc là rất lớn. Khi hành lang pháp lý thanh toán cho kinh tế không tiếp xúc được bổ sung, hoàn thiện, các mô hình, sản phẩm, dịch vụ kinh tế không tiếp xúc mới sẽ phát triển. Các mô hình thanh toán điện tử tại khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa gắn với việc xây dựng và triển khai Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện tại Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ, góp phần thay đổi hành vi và cách thức thanh toán của người dân, qua đó nâng cao khả năng tiếp cận các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho người dân. Các mô hình như “Gian hàng Việt trực tuyến quốc gia”, do Bộ Công Thương chủ trì xây dựng, kết nối với các sàn thương mại điện tử vừa là giải pháp kích cầu tiêu dùng nội địa vừa thúc đẩy có hiệu quả việc tiêu thụ hàng hóa nông sản của các doanh nghiệp, hợp tác xã. Kinh tế không tiếp xúc sẽ thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông, an toàn, an ninh mạng, công nghiệp chế tạo thông minh, rô-bốt, tài chính - ngân hàng, thương mại điện tử, số hóa các ngành kinh tế kỹ thuật, kể cả những ngành tưởng chừng không liên quan, như nông nghiệp, du lịch, công nghiệp văn hóa, y tế, giáo dục - đào tạo...
Kinh tế không tiếp xúc có thể sẽ là một trong những nền tảng của đô thị thông minh trong tương lai, nhất là khi xác định được lộ trình và lựa chọn các đô thị thí điểm thực hiện gắn với một số cơ chế, chính sách đặc thù trong quá trình triển khai phát triển đô thị thông minh, trong đó có các nền tảng công nghệ của kinh tế không tiếp xúc.
Kinh tế không tiếp xúc phát triển cũng góp phần thu hút các nguồn lực từ nước ngoài vào hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo, chuyển giao công nghệ với tiêu chuẩn công nghệ cao, công nghệ nguồn; khuyến khích các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) liên doanh và tăng cường liên kết, chuyển giao công nghệ.
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về kinh tế không tiếp xúc trên nền tảng chuyển đổi số quốc gia.
Khắc phục tình trạng các quy định của pháp luật không theo kịp với thực tiễn phát triển của khoa học - công nghệ, hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới dựa trên nền tảng công nghệ số, internet và không gian mạng. Do đó, trong chương trình xây dựng luật và pháp lệnh của Quốc hội khóa XV, giai đoạn 2021 - 2026 cần sớm rà soát và đưa vào chương trình luật sửa đổi, bổ sung một số luật có liên quan đến kinh tế số, kinh tế không tiếp xúc.
Để hoàn thiện pháp luật, chính sách về tài chính - tiền tệ, thanh toán điện tử, quản lý thuế và các dịch vụ xuyên biên giới phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế số, kể cả chính sách đặt hàng sản xuất và mua sắm công đối với các sản phẩm công nghệ số do Việt Nam phát triển, một số quy định pháp luật tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Luật Công nghệ cao năm 2008, Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017… liên quan đến kinh tế số, kinh tế không tiếp xúc gắn với xem xét, sửa đổi, bổ sung, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, hình thành một số ngành, nghề kinh doanh mới gắn với ưu đãi đầu tư để thúc đẩy tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghiên cứu, ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia làm nền tảng cho việc ứng dụng và phát triển các công nghệ cốt lõi của kinh tế không tiếp xúc nhằm tạo sự đồng bộ và khung pháp lý để nghiên cứu và phát triển (R&D) các công nghệ mới.
Hoàn thiện các chính sách tài chính nhằm khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo, tập trung vào các công nghệ cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Sửa đổi các quy định về đầu tư theo hướng tạo thuận lợi cho các hoạt động thu hút vốn, mua cổ phần, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp công nghệ; các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trong đó có việc thí điểm phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) cho các doanh nghiệp công nghệ, khởi nghiệp sáng tạo. Sớm có các chương trình hỗ trợ thực chất về vốn vay, đất đai, nhà xưởng, lao động, thuế… cho các doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, thực hiện chuyển đổi số nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Hai là, cho phép thí điểm một số mô hình kinh tế không tiếp xúc mới.
Trong xu thế tất yếu của kinh tế số, kinh tế không tiếp xúc, khi nhiều quy định của pháp luật lạc hậu, cần nghiên cứu ban hành khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát đối với các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới của kinh tế không tiếp xúc, quy định rõ phạm vi, không gian và thời gian thử nghiệm gắn với xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn đối với các sản phẩm, công nghệ, mô hình kinh doanh mới.
Ba là, nhanh chóng hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho chuyển đổi số đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế không tiếp xúc trên phạm vi toàn quốc.
Khuyến khích doanh nghiệp các thành phần kinh tế tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng viễn thông và các hạ tầng cho chuyển đổi số quốc gia theo hướng đồng bộ, thống nhất, tận dụng và tiếp tục khai thác có hiệu quả hạ tầng mạng lưới viễn thông để triển khai kinh tế số, kinh tế không tiếp xúc, bảo đảm an toàn, an ninh mạng đáp ứng chiến lược an ninh mạng quốc gia. Sớm kết nối hệ thống thanh toán điện tử của các tổ chức tín dụng, tổ chức trung gian thanh toán với hạ tầng của các cơ quan thuế, hải quan, kho bạc nhà nước để phục vụ yêu cầu phối hợp thu ngân sách, chi trả phí dịch vụ công bằng phương thức điện tử.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đổi mới nội dung và chương trình giáo dục - đào tạo theo hướng phát triển năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển, dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số. Có cơ chế, chính sách khuyến khích và ưu đãi thiết thực đối với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp công nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục - đào tạo, tạo ra sản phẩm phục vụ cho nền kinh tế số, thu hút, sử dụng nhân tài.
Năm là, chủ động tham gia vào các khuôn khổ pháp lý khu vực và toàn cầu để phát triển kinh tế số.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về dữ liệu, quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc tạo dựng, kết nối, chia sẻ và khai thác dữ liệu bảo đảm an toàn, an ninh mạng trong nước, tiến tới kết nối với các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và quốc tế. Khuyến khích các công ty đa quốc gia đặt cơ sở nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam trên nền tảng pháp luật về sở hữu trí tuệ trong nước và quốc tế gắn với bảo hộ và khai thác hiệu quả, hợp lý các tài sản trí tuệ./.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét