Thời gian gần đây tiếp tục xuất hiện những thông tin sai lệch, tiêu cực, những đánh giá phiến diện về tình hình hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam. Thực tế đó càng cần thiết phải lên tiếng bảo vệ sự thật, bảo vệ lẽ phải, tái khẳng định chính sách đúng đắn cũng như những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được trong việc bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Chính sách còn nguyên
giá trị
Thực
tế hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay cho thấy rõ ràng chính sách nhất quán và đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt
Nam là: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các công dân;
các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, cũng như các nước khác,
Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá
hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước hay kích động bạo lực, chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản của người khác, cản trở việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ công dân... Chính sách đó đã luôn được Nhà nước Việt Nam
khẳng định và thực hiện nhất quán. Cũng có thể khẳng định rằng, đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay khá sôi động, đa dạng với nhiều hình thức
sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, nhiều tổ chức tôn giáo và mô hình tổ
chức tôn giáo. Trong xu thế phát triển của đất nước và xu thế chung của thời
đại, các tôn giáo tại Việt Nam luôn được tạo điều kiện hoạt động theo Hiến pháp
và pháp luật. Cụ thể, chức sắc và tín đồ thuộc các tôn giáo đều được tự do sinh
hoạt, tự do thực hành các lễ nghi tôn giáo, biểu hiện đức tin, được tạo điều
kiện tốt nhất để mở mang cơ sở vật chất, tu sửa nơi thờ tự và mở mang, phát
triển quan hệ giao lưu quốc tế. Các ngày lễ trọng, lễ hội truyền thống như Lễ
Phật đản của Phật giáo, Lễ Giáng sinh, Lễ Phục sinh của Công giáo và Tin
lành... được tổ chức trang nghiêm, thu hút đông đảo không chỉ tín đồ mà cả quần
chúng nhân dân tham gia. Cùng với sự phát triển về tổ chức, đăng ký hoạt động
cho các tôn giáo đủ điều kiện, số lượng tín đồ và các hoạt động tôn giáo tại
Việt Nam cũng không ngừng gia tăng trong những năm gần đây. Sự ra đời của các
tổ chức tôn giáo một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam trong thực
hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mặt khác khẳng định Việt Nam
không phân biệt đối xử giữa người có tín ngưỡng, tôn giáo; không phân biệt hay
kỳ thị bất kỳ tôn giáo nào, dù là nội sinh hay truyền từ nước ngoài, tôn giáo
đã ổn định hay mới được công nhận, miễn sao hoạt động của họ nằm trong khuôn khổ
pháp luật. Dư luận của tuyệt đại bộ phận chức sắc, tín đồ cũng thừa nhận rằng,
chính sách, pháp luật về tôn giáo của Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, phù hợp,
không có cản trở nào trong các hoạt động và sinh hoạt tôn giáo của họ.
Sự
thật là thế, vậy mà những năm gần đây, trong các báo cáo tự do tôn giáo của một
số nước lại đề cập đến Việt Nam với những thông tin sai lệch, vu cáo Việt Nam
đàn áp tôn giáo, vi phạm quyền “tự do tôn giáo” của người dân. Họ cho rằng
Chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục hạn chế các hoạt động có tổ chức của nhiều tôn
giáo, thậm chí có hành động đàn áp một số tín đồ tôn giáo. Bên cạnh đó, còn một
bộ phận nhỏ chức sắc, tín đồ của một số tôn giáo cho rằng họ không được hưởng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; rêu rao rằng ở Việt Nam không có tự do tôn
giáo, Nhà nước Việt Nam xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân,
can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của giáo hội... Những đánh giá ấy chẳng
những không phản ánh đúng bản chất tình hình mà thậm chí cố tình phớt lờ những
thành tựu của Việt Nam trong tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo. Thực chất đây không chỉ là những nhận thức sai lệch, mà xuất phát từ âm
mưu, mục đích chính trị, nhằm lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo để chống phá Đảng,
Nhà nước ta và chính quyền các cấp.
Phải có hàng rào pháp
luật
Ở
bất cứ quốc gia nào trên thế giới, quyền tự do tôn giáo đều phải diễn ra trong
khuôn khổ pháp luật, chứ không thể có sự tự do vô chính phủ, tự do vô nguyên
tắc. Và dĩ nhiên, ở Việt Nam cũng vậy. Nói về điều này, trước hết phải nhắc lại
Điều 18 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, trong đó nêu rõ,
quyền tự do của cá nhân thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng của mình phải chịu các
giới hạn, chẳng hạn như các giới hạn được luật pháp quy định và các giới hạn
cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự, sức khỏe xã hội, hay tinh thần hoặc các
quyền cơ bản và quyền tự do của những người khác. Nói cách khác, quyền tự do
tôn giáo hay bất cứ một quyền nào khác trên phương diện pháp lý đều bị giới hạn
bởi khuôn khổ luật pháp. Cần phải thấy rằng, quyền tự do tôn giáo là vấn đề gắn
với thể chế chính trị-xã hội và điều kiện kinh tế-văn hóa-xã hội ở từng quốc
gia cụ thể, không thể tồn tại một khái niệm quyền tự do tôn giáo chung chung,
trừu tượng. Cũng không thể đem giá trị, quan niệm về tự do tôn giáo ở một quốc
gia này để áp dụng, đo lường hoặc đánh giá mức độ quyền tự do tôn giáo ở một
quốc gia khác. Trên phương diện đối ngoại giữa các quốc gia, không thể đem tiêu
chuẩn về tự do tôn giáo ở quốc gia này để áp đặt lên một quốc gia khác và buộc
các quốc gia khác phải tuân theo.
Nhìn
vào thực tế các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy rất rõ ràng chính
sách nhất quán của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân; các tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật. Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo
hay vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Đó là chính sách rất
đúng đắn, rõ ràng và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét