Thứ Tư, 24 tháng 5, 2023

Định hướng phát triển chân giá trị khoa học của triết học Mác nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 

Thứ nhất, nhận thức những chân giá trị khoa học của triết học Mác bằng cách so sánh lý thuyết và tăng cường tổng kết thực tiễn.

Trong suốt tiến trình lịch sử của triết học Mác ở Việt Nam, chúng ta tương đối thống nhất trong quan điểm về nội dung khoa học. Sự thay đổi, nếu có, chỉ là những cách hiểu mới, mềm dẻo hơn để phù hợp với thực tiễn. Sự thống nhất quan điểm thể hiện ngay từ những vấn đề cơ bản như phân chia các giai đoạn phát triển của triết học Mác. Từ năm 1848 trở về trước thường được coi là giai đoạn hình thành triết học Mác. Sau năm 1848 (sau Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản) được coi là giai đoạn phát triển. Cùng với sự phân chia thành hai giai đoạn này là quan điểm cho rằng C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện bước chuyển hết sức khó khăn từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng, từ tôn giáo (C.Mác vốn là người sùng Thiên Chúa) đến chủ nghĩa vô thần khoa học; từ lập trường dân chủ cách mạng đến lập trường cộng sản.

Ở phương Tây, sau cuộc tranh luận giữa Ađonơ và Authútsơ về phân chia giai đoạn “Mác trẻ” và “Mác già” thì hiện nay, hầu hết các nhà triết học cho rằng không có sự phân định thành hai giai đoạn, chỉ có một lý thuyết triết học thống nhất cả trước và sau(7). Sự so sánh khác biệt trong tiếp cận lý luận ở đây bộc lộ chỉ dấu quan trọng nhằm định hướng trong vấn đề nhận thức chân giá trị khoa học để tiếp tục phát triển triết học C.Mác.

(1) Ở phương Tây, khi cuốn Bản thảo kinh tế - triết học 1844 được xuất bản, các nhà triết học đã thống nhất rằng quá trình xây dựng lý luận triết học của C. Mác là thống nhất, không có bước chuyển nào trong xây dựng học thuyết triết học. Bản thảo kinh tế - triết học 1844 là cầu nối tuyệt vời giữa hai giai đoạn trong toàn bộ tiến trình hình thành triết học Mác. Thông qua tác phẩm, các nhà triết học phương Tây có quan điểm chung rằng tiếp cận chủ thể và hoạt động hiện thực hóa của chủ thể là trào lưu chung của triết học cổ điển Đức được C.Mác tiếp tục và ông trở thành nhân vật trung tâm của phương Tây trong giải quyết những vấn đề của thực tiễn xã hội đương đại(8). Trong Bản thảo kinh tế - triết học 1844, C.Mác chưa thể trình bày đầy đủ lập trường duy vật lịch sử nhưng nó là khớp nối thống nhất giữa giai đoạn trước và sau. Những tác phẩm lý luận sau này của C.Mác và Ph.Ăngghen là sự triển khai cụ thể những tư tưởng về chủ thể hoạt động hiện thực hóa để đi đến đích cuối cùng là tư tưởng giải phóng con người và loài người trong học thuyết về chủ nghĩa cộng sản.

(2) Khi thực tiễn vận động đến thời điểm cần phải tổng kết để hoàn thiện lý luận, C.Mác tập trung vào tổng kết thực tiễn chứ không hẳn là chuyển đổi quan điểm và lập trường.

Những năm cuối thập kỷ 1840 và tiếp sang nửa sau thế kỷ XIX, những cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh cách mạng sôi động đã cuốn hút tâm lực của C.Mác và Ph.Ăngghen, thì bản chất của việc C.Mác phân tích về con người và những vấn đề khác (như tôn giáo) thực chất là những hoạt động hiện thực hóa của các chủ thể trong bối cảnh ảnh hưởng của hệ thống thể chế kinh tế và chính trị với tư cách là những nhân tố chính liên quan đến hoạt động hiện thực hóa của chủ thể. Như vậy, khi thực tiễn có nhiều biến động, khi xuất hiện nhiều vấn đề mới trong đời sống xã hội thì đó là lúc chúng ta cần phải tập trung cho tổng kết thực tiễn, khái quát và đối chiếu nó với những lý luận là chân giá trị khoa học để hoàn thiện lý luận làm công cụ nền tảng, kim chỉ nam cho sự lãnh đạo của Đảng.

Thứ hai, tập trung tổng kết thực tiễn biến đổi của hệ thống các thể chế kinh tế và chính trị trong xã hội đương đại.

Nửa sau thế kỷ XIX là thời điểm mà C.Mác tổng kết thực tiễn rất nhiều để đối chiếu với những lý luận triết học mà mình đang xây dựng. Về cơ bản, C.Mác tập trung vào tổng kết vai trò, sự ảnh hưởng của hệ thống các thể chế kinh tế, chính trị đối với sự biến đổi của CNTB. Những tổng kết thực tiễn của C.Mác ở thời kỳ này là rất quan trọng trong việc hoàn thiện lý luận triết học về CNXH như: Phê phán cương lĩnh Gôta, Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1948 - 1950, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản...

Xã hội ngày nay xuất hiện nhiều hiện tượng, nhiều vấn đề xã hội mới nảy sinh chưa từng có ở thời kỳ Mác và chưa được Mác dự báo hay nhắc đến nhưng về cơ bản, đó là những vấn đề thuộc về sự biến đổi của hệ thống thể chế kinh tế và thể chế chính trị, ảnh hưởng của sự biến đổi đó đối với sự biến đổi của CNTB. Những vấn đề thường được đề cập đến là: nhà nước pháp quyền trong CNTB, nền kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hóa mở rộng của CNTB, về cách mạng xã hội, chiến tranh, giai cấp và đấu tranh giai cấp, về tính đảng của hệ tư tưởng, của văn hóa, v.v.. Như vậy, tổng kết thực tiễn sự biến đổi của CNTB hiện nay là công việc rất cần thiết để hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

Thứ ba, hoàn thiện hệ thống lý luận, định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước hiện nay, tiếp cận của triết học chính là vì sự tồn tại và phát triển của lý luận triết học Mác ở Việt Nam.

Nếu chân giá trị của triết học Mác không được nghiên cứu một cách khoa học, trên thực tế, sẽ trở thành nhận thức một chiều, cố né tránh những vấn đề phức tạp, những mâu thuẫn (vốn luôn có) của xã hội trong “bảo vệ” chủ nghĩa Mác - Lênin, “bảo vệ” đường lối, quan điểm của Đảng.

Sự xuất hiện những khuynh hướng phê phán, bóp méo, xuyên tạc tràn lan, một chiều, giản đơn, tào lao, vụn vặt... chỉ chứng minh rằng công tác tư tưởng, lý luận chưa chạm đến những vấn đề căn bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác trên tinh thần khoa học (từ cách nghĩ, cách làm, kinh nghiệm, lý luận đến thành tựu trong đường lối của Đảng, trong thực tiễn của đất nước).

Sự lắp ghép tùy tiện lý thuyết của C.Mác với lý thuyết của xã hội học hiện đại được nhiều người nghiên cứu triết học Mác - Lênin thực hiện, như gắn lý thuyết phân tầng xã hội với lý thuyết giai cấp, thuyết xung đột xã hội với thuyết đấu tranh giai cấp... Tất nhiên, cần rất nhiều thời gian, công sức và cả tầm trí tuệ nhất định mới tìm ra những thiếu sót đó. Song, vấn đề là những người làm công tác này thường ít chú ý phương pháp lịch sử và có phần xa rời chân lý cụ thể.

Để phát triển triết học Mác, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cần phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận. Không có dân chủ thì không có khoa học, không có sáng tạo, nhưng dân chủ trong khoa học lý luận, nhất là lý luận - tư tưởng khác với các khoa học khác. Tuy nhiên, đối với triết học Mác, bản chất khoa học và mục tiêu của nó đã là chính trị, mốì liên hệ của nó với sự tồn vong của Đảng, của chế độ chặt chẽ hơn. Khi trận địa triết học Mác bị suy yếu, đó là dấu hiệu cho sự suy yếu trong nền tảng tư tưởng của Đảng, dẫn đến những hậu quả khó lường hơn./.

1 nhận xét: