Từ khi thực dân Pháp xâm lược (1858) và đặt ách thống trị ở nước ta cho đến đầu thế kỷ XX, các ngọn cờ cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã chiến đấu rất quyết liệt và anh dũng, song tất cả đã bị đàn áp đẫm máu và thất bại. Thực tiễn đó cho thấy, không thể giải quyết vấn đề dân tộc, giành độc lập dân tộc dựa trên những quan điểm phong kiến hay tư sản.
Trong điều kiện lịch sử ấy, Nguyễn Tất Thành với lòng yêu nước, thương dân, với nhãn quan chính trị sắc sảo đã nhận thấy không thể cứu nước và giải phóng dân tộc theo con đường của các bậc tiền bối và Người đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Điểm xuất phát và là động lực tinh thần của sự ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước chân chính. Người đặt cho mình cái tên Nguyễn Ái Quốc là để luôn nhắc nhở bản thân và cổ vũ đồng bào mình lòng yêu nước.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận cương chỉ rõ, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Đó là chân lý của thời đại, là giải đáp cho điều mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở, tìm tòi. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc xác định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” ¹ . Lúc này Người có sự chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống sang chủ nghĩa yêu nước theo lập trường giai cấp vô sản. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định, đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Người đánh giá cao động lực của chủ nghĩa dân tộc nhưng chủ nghĩa dân tộc theo quan niệm của Người phải theo lập trường vô sản.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, tự nhận là học trò của C. Mác, V.I Lênin nhưng Nguyễn Ái Quốc không thụ động mà dùng lập trường, quan điểm, phương pháp luận mác xít để vận dụng và phát triển những nguyên lý, quy luật chung của cách mạng thế giới vào đặc điểm tình hình các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Người luận giải, những luận điểm về chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa có hai vòi; tính chủ động chủ yếu của cách mạng thuộc địa; nội dung chủ yếu của cách mạng thuộc địa; quy luật thành lập đảng ở các nước thuộc địa… Đó là những cống hiến lý luận to lớn của Người đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam và trên thế giới.
Nắm vững học thuyết về cách mạng vô sản và học thuyết giai cấp, đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời bám sát đặc điểm của thực tiễn Việt Nam và thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã phát hiện ra những nét đặc thù của Việt Nam so với các quốc gia khác, đặc biệt là các nước phương Tây. Người nhận thấy, nếu như ở phương Tây, mâu thuẫn giai cấp đã trở nên sâu sắc thì ở Việt Nam, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với chủ nghĩa thực dân Pháp và bè lũ tay sai là mâu thuẫn hàng đầu, đấu tranh giải phóng dân tộc mới là vấn đề gay gắt và nóng bỏng đối với cách mạng Việt Nam chứ chưa phải là đấu tranh giai cấp như trong các xã hội tư bản chủ nghĩa phương Tây. Quan điểm này của Người được thể hiện rõ ở “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” và “Điều lệ tóm tắt” trong Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, đó là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” 2. Trong đó, nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc và bọn phong kiến “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, nhân dân được tự do, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hoá toàn bộ xí nghiệp của tư bản đế quốc, lập chính phủ công - nông - binh và quân đội công nông...
Quan điểm này tiếp tục khẳng định tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (Khóa I, tháng 5/1941): “Trong lúc này quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy... nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho dân tộc thì chẳng những còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc”³.
Đây chỉ là một phần dẫn chứng nhưng đủ để cho thấy tư tưởng và hành động nhất quán để giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp; kết hợp đúng đắn đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp của Hồ Chí Minh. Chính điều đó đã thực sự trở thành chiến lược chỉ đạo toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam, cũng nhờ đường lối đúng đắn đó mà đã huy động được toàn thể nhân dân Việt Nam muôn người như một chống lại kẻ thù chung, giành độc lập cho dân tộc.
bài viết rất hấp dẫn
Trả lờiXóa