Thứ nhất, đọc và hiểu tư tưởng triết học của các nhà triết học vĩ đại trong lịch sử là điều không dễ dàng. Chính vì vậy, những tác phẩm như Chính trị của Arítxtốt, Nền cộng hòa của Platôn,... vẫn chứa đựng nhiều thách đố đối với những người nghiên cứu triết học hiện nay.
Thiên tài và tính chuyên nghiệp của C.Mác thể hiện ngay ở điểm lựa chọn khi gia nhập nhóm Hêghen trẻ. Hêghen là người thâu tóm toàn bộ sự phát triển của lịch sử triết học để xây dựng nền móng đồ sộ cho phép biện chứng duy tâm để mô tả quá trình vận động, biến đổi đầy lớn lao của thời đại thông qua sự vận động và biến đổi của hệ thống các ý niệm tuyện đối.
Trong Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Nền triết học mới của Đức đã đạt tới đỉnh cao của nó trong hệ thống của Hêghen, trong đó lần đầu tiên - và đây là công lao to lớn của ông - toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần được trình bày như là một quá trình, nghĩa là luôn luôn vận động, biến đổi, biến hóa và phát triển, và ông đã cố vạch ra mối liên hệ nội tại của sự vận động và sự phát triển ấy... ngược lại, nó là một quá trình phát triển của bản thân loài người, và nhiệm vụ của tư duy hiện nay là phải theo dõi bước tiến tuần tự của quá trình ấy qua tất cả những khúc quanh co của nó và chứng minh tính quy luật bên trong của nó qua tất cả những cái ngẫu nhiên bề ngoài”.
Lựa chọn nhóm Hêghen trẻ, C.Mác có cơ hội nắm được những giá trị tư tưởng của các nhà triết học trong lịch sử do Hêghen đã dày công tổng kết. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì không thể vượt qua và đi xa hơn Hêghen. C.Mác đã tổng kết thực tiễn và qua đó, ông hình thành được những quy chuẩn thực tiễn cho việc xây dựng lý thuyết triết học mới gần với thực tiễn và đi xa hơn so với Hêghen.
Yếu tố thực tiễn của thời đại chỉ là cơ sở để C.Mác xây dựng hệ thống lý luận triết học. Triết học gắn với tổng kết thực tiễn nhưng nếu phụ thuộc hoàn toàn vào thực tiễn thì tư tưởng triết học của Arítxtốt, Platôn, Khổng Tử, Lão Tử... không thể gây ảnh hưởng với xã hội hiện đại. Học thuyết triết học của C.Mác gắn với quá trình tổng kết thực tiễn vận động, biến đổi của CNTB, khái quát thành hệ thống những quy chuẩn thực tiễn để hình thành lý luận tổng quát về CNTB và hình thành học thuyết lý luận về CNXH.
Thứ hai, để khẳng định những vấn đề đã bị vượt qua và những vấn đề cần bổ sung, phát triển đòi hỏi phải dành thời gian và tập trung một cách nghiêm túc. Bởi lẽ, phải có một lượng những nhà nghiên cứu có trình độ để đọc, hiểu trực tiếp những nội dung lý luận mà C.Mác đã trình bày.
Hơn nữa, số lượng tác phẩm phải đọc và nghiền ngẫm là rất đồ sộ với rất nhiều sự kiện thực tiễn đã được phân tích. Cùng với đó phải quan tâm đến những phạm trù, những khái niệm về mặt ngữ nghĩa chuyên ngành cũng như quá trình chuyển ngữ sang tiếng Việt. Về mặt ngữ nghĩa, nhiều thuật ngữ triết học rất khó tìm được thuật ngữ tiếng Việt tương đương để dịch thuật.
Thứ ba, để phát triển lý luận triết học của C.Mác, cần tổng kết lý luận rồi mới tổng kết thực tiễn, xác định những vấn đề có tính chân giá trị khoa học làm nền tảng, kim chỉ nam cho việc ban hành chủ trương, đường lối.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, học lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để vận dụng vào tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta, “Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần biết được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”. Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất rõ ràng: Một là, tổng kết lý luận để nhận thức chân giá trị khoa học trong lý luận của chủ nghĩa Mác. Hai là, dùng kết quả của tổng kết lý luận đó làm công cụ định hướng cho tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của Đảng. Ba là, dùng kết quả đó để định ra đường lối, phương châm... trong lãnh đạo của Đảng.
Kinh nghiệm cải cách thành công của Trung Quốc diễn ra đúng với lôgíc trên. Năm 1978, để chuẩn bị cho công cuộc cải tổ, Trung Quốc đã tổ chức hội thảo rất lớn với chủ đề “Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý”. Với tinh thần giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, tránh những giáo điều, máy móc của việc nhận thức chủ nghĩa Mác và CNXH như thời Mao Trạch Đông, bằng việc đánh giá lại vai trò của hệ quy chuẩn thực tiễn mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xây dựng được con đường phát triển CNXH mang màu sắc Trung Quốc, hình thành nên lý luận Đặng Tiểu Bình, đồng thời giúp cho công cuộc cải cách, mở cửa và sự nghiệp hiện đại hóa thu được những thành tựu to lớn, được thế giới công nhận.
Như vậy, phát triển lý luận triết học bằng tổng kết lý luận song hành với tổng kết thực tiễn giúp cho Đảng đạt được hai mục tiêu rất quan trọng: Một là, để cho triết học Mác thực sự trở thành nền tảng thế giới quan và phương pháp luận cho sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Hai là, tự bản thân triết học Mác đã bỏ lại phía sau những luận điệu xuyên tạc, bóp méo, không có căn cứ khoa học. Việc phát triển đúng đắn lý luận triết học của C.Mác tự bản thân nó là hoạt động phản bác những quan điểm sai trái, thù địch hiệu quả nhất.
Thứ tư, sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực kiểu cũ hay sự phát triển của mô hình CNTB đều không được những nhà nghiên cứu triết học cảnh báo sớm, mặc dù đó là chức năng quan trọng của triết học Mác.
Dù mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ nhưng không thể phủ nhận được những giá trị nhân văn, sức mạnh tinh thần và vật chất to lớn mà mô hình CNXH hiện thực cũ mang lại. Mô hình ấy đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào công nhân, phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc và mục tiêu CNXH trên phạm vi quốc tế. Chính sự thành công này lại tạo ra hệ quả về sự bảo thủ, giáo điều trong nhận thức chân giá trị của chủ nghĩa Mác.
Trong nhiều nghị quyết Đại hội, Đảng ta đã nhắc đến vấn đề lý luận chưa theo kịp thực tiễn. Sự sụp đổ của CNXH ở nhiều nước xuất phát từ những nguyên nhân tự thân trong công tác lãnh đạo, quản lý của các đảng cộng sản và nhà nước XHCN. Nhưng cũng có nguyên nhân từ sự yếu kém của công tác lý luận, khi triết học không phải là công cụ, là kim chỉ nam, không nhận thấy và cảnh báo những hệ quả trong tương lai đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý và với mô hình thực tế đang xây dựng./.
bài viết rất thực tế
Trả lờiXóa