Tại Việt Nam, báo chí là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của nhân dân. Đảng, Nhà nước ta luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để quyền tự do báo chí được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các đối tượng xấu lại luôn lợi dụng chống phá, đưa ra những thông tin sai trái, vu khống Việt Nam không có tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Để thúc đẩy sự phát triển của báo chí và bảo đảm quyền tự do ngôn luận của người dân, Đại hội XIII của Đảng đề ra chủ trương “xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại”. Hiện nay, các cơ quan chức năng đang tích cực thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 và Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho lĩnh vực báo chí được quan tâm đầu tư.
Đồng thời, Nhà nước đã có chính sách đặt hàng báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, phục vụ thiếu niên, nhi đồng, người khiếm thính, khiếm thị, đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và các nhiệm vụ trọng yếu khác.
Số liệu thống kê đến cuối năm 2022 cho thấy, nước ta có 127 cơ quan báo, 670 cơ quan tạp chí (trong đó có 327 tạp chí lý luận chính trị, khoa học và 72 tạp chí văn học nghệ thuật); 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình. Số người đang làm việc trong lĩnh vực báo chí là 41.000 người, với 19.356 cán bộ đã được cấp thẻ nhà báo.
Cùng với các cơ quan báo chí trong nước, nhiều hãng truyền thông, thông tấn quốc tế đã có mặt tại Việt Nam như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc) và Rossiya Segodnya (Nga)... Với lực lượng làm báo hùng hậu như trên, đời sống báo chí ở Việt Nam đã diễn ra hết sức nhộn nhịp, phản ánh mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là nền tảng quan trọng để bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cho mỗi người dân.
Theo quy định của pháp luật nước ta, công dân có quyền sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên báo chí; tiếp cận thông tin báo chí; liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác…
Với những quy định này, mọi người dân đều dễ dàng tham gia vào hoạt động báo chí, trở thành một nhà báo tự do tìm kiếm, phát hiện đề tài và đưa ra sản phẩm báo chí, đảm bảo quyền tự do hoạt động theo quy định của Luật Báo chí và các luật liên quan. Trong thời gian qua, báo chí đã có những đóng góp vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong công tác phòng chống tham nhũng, nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm đã được báo chí phản ánh và đưa ra ánh sáng, góp phần làm trong sạch bộ máy.
Tự do ngôn luận, tự do báo chí chân chính chỉ có thể tồn tại trong một quốc gia có chủ quyền, không bị lệ thuộc vào bất kỳ thế lực nào. Bởi vậy, đi liền với việc thực hiện các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, mỗi người dân cũng phải chấp hành nghiêm các quy định về nghĩa vụ của công dân để bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân đều bị nghiêm cấm và có chế tài nghiêm khắc. Không chỉ riêng tại Việt Nam, ở tất cả các quốc gia khác trên thế giới đều quy định tương tự.
Đơn cử, Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1789 ghi nhận: “Bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ phải chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật”. Hay như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) cũng quy định mọi người có quyền tự do ngôn luận nhưng việc thực hiện quyền này phải kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt để tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội.
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Việc đưa ra bảng xếp hạng từ những con số, dữ liệu sai lệch rồi cho rằng Việt Nam không có tự do ngôn luận, tự do báo chí là những luận điệu xuyên tạc, đi ngược lại lợi ích của Việt Nam và cách làm sai trái đó khiến bức tranh tự do báo chí trên thế giới nói chung bị bóp méo, biến dạng.
Với những thực tế đang diễn ra tại Việt Nam thì dù những kẻ ba que, xỏ lá có muốn xuyên tạc như thế nào cũng chẳng ai tin.
Trả lờiXóa