Trước tình trạng không ít đảng viên, tổ chức đảng đã
“nhúng tràm” đến mức phải xử lý, các học giả tư sản, các thế lực thù địch và
những kẻ cơ hội chính trị ngụy biện rằng “Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (CNXH) thì tiêu chuẩn người đảng viên cũng cần có tính quá độ”.
Đây là luận điệu sai trái về góc độ lý luận và phản động về góc độ thực tiễn,
cần được nhìn nhận đúng dưới góc nhìn khoa học, biện chứng.
Thực chất của luận điệu “đảng
viên quá độ”
Lý luận về thời kỳ quá độ là
thành tựu cơ bản, rất quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và của Đảng ta. Từ quan điểm khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin về
tính tất yếu của thời kỳ quá độ trước đây: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã
hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã
hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước
của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản”, các học giả tư sản, thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính
trị hiện nay viện cớ vào đó đã tung ra luận điệu “Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên CNXH thì người đảng viên cũng cần có tính quá độ”! Vậy thực chất của luận
điệu này là gì? Tính nguy hại của nó ra sao?
Thực chất của luận điệu “đảng
viên quá độ” là hạ thấp tiêu chuẩn của người đảng viên, thừa nhận sự suy thoái
về phẩm chất, chính trị, đạo đức, lối sống và coi tệ tham nhũng, tiêu cực của
đội ngũ cán bộ, đảng viên là tất yếu; từ đó, xuyên tạc bản chất tốt đẹp, tính
tiền phong, gương mẫu của người đảng viên, làm cho Đảng ta không còn “là đạo
đức, là văn minh”, tiến tới phủ nhận vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng. Luận
điệu về cái gọi là “đảng viên quá độ” có thể nhận diện trên các mặt như sau:
Một là, sự quá độ về chính trị
của người đảng viên. Theo đó, đảng viên có ý thức chính trị kém, không kiên
định đối với con đường phát triển của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc và
CNXH; thừa nhận khả năng quay trở lại con đường TBCN, phủ nhận tính tất yếu,
đặc điểm, nội dung, tính chất của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam; thừa nhận
sự tồn tại kiến trúc thượng tầng TBCN và sự bóc lột theo phương thức cũ của
CNTB ở Việt Nam là tất yếu; chấp nhận “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở
Việt Nam.
Hai là, sự quá độ về tư tưởng
của người đảng viên. Là sự đầu hàng trước hệ tư tưởng tư sản, thậm chí là tàn
dư của hệ tư tưởng phong kiến; phủ nhận hệ tư tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; cổ xúy cho cái gọi là “tự do tư tưởng” vô hạn độ, phủ nhận tính giai
cấp của nền tảng tư tưởng của Đảng ta; chấp nhận sự tồn tại của nhiều hệ tư
tưởng khác nhau trong Đảng.
Ba là, sự quá độ về năng lực
đảng viên. Là sự chấp nhận hạ thấp tiêu chuẩn trở thành đảng viên, chấp nhận
thu nạp các quần chúng không phải là những người ưu tú nhất, thậm chí để các
phần tử cơ hội, phản động trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; vì vậy,
các tổ chức đảng trở thành “câu lạc bộ” của những người chỉ cần “đánh trống,
ghi tên” không hơn không kém.
Bốn là, sự quá độ về đạo đức,
lối sống của người đảng viên. Là thừa nhận sự tồn tại của đạo đức, lối sống cũ
- đạo đức tư sản, tiểu tư sản, đạo đức phong kiến và tán dương thứ đạo đức “đầu
đi xuống đất” và lối sống phi nhân văn và phản văn hóa này; trong khi đó, lại
coi nhẹ, hạ thấp và phủ nhận đạo đức cách mạng của người đảng viên; hoặc thừa
nhận sự tồn tại song song của cả đạo đức cũ và đạo đức cách mạng. Đồng thời,
phủ nhận mọi nỗ lực của tổ chức đảng trong bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách
mạng cho quần chúng ưu tú chuẩn bị kết nạp Đảng và cho đội ngũ đảng viên.
Năm là, coi tệ tham nhũng, tiêu
cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên là tất yếu. Đây chính là hệ quả của sự thừa
nhận sự quá độ về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của đảng viên. Theo
đó, họ cho rằng, thời kỳ quá độ phải “chấp nhận đau thương” - tức chấp nhận
đảng viên tham nhũng, tiêu cực; rồi qui kết, tham nhũng, tiêu cực là thuộc
tính, bản chất của một đảng độc tôn lãnh đạo; từ đó họ đưa ra thư ngỏ, thỉnh
nguyện thư, kiến nghị, lời kêu gọi Đảng ta từ bỏ sự lãnh đạo với cuộc chiến
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; vì theo họ: Đảng độc tôn lãnh đạo làm triệt
tiêu dân chủ, Đảng lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chẳng
khác nào “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, hoặc cái gọi là “đấu đá, thanh trừng nội
bộ”; xa hơn là phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng ta đối với toàn xã hội được hiến
định ở Điều 4 Hiến pháp năm 2013…
Tính nguy hại của luận điệu
“đảng viên quá độ”
Trước hết, nó làm nhụt ý
chí phấn đấu của các quần chúng ưu tú muốn vào Đảng; làm phân rã về chính trị,
làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để
đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào từng đảng viên và tổ chức đảng; làm suy thoái
về đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây là bước rất ngắn có thể
chuyển sang “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và cả hệ thống
chính trị.
Vì vậy, trong Văn kiện Đại hội
XIII, Đảng ta tự phê bình: “Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu. Công tác xây dựng, phát triển tổ
chức đảng, đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước còn lúng túng, hạn
chế; công tác phát triển đảng viên ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi
có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, vùng nông thôn còn nhiều khó khăn.
Việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và đảng viên ở một số nơi còn chưa thực
chất. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại
khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá”.
Về vấn đề này, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng tiếp tục cảnh báo trong bài viết "Tự hào và tin tưởng
dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng
giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng": “Việc tổ chức thực hiện luật
pháp, chính sách, thực thi công vụ vẫn là khâu yếu; kỷ luật, kỷ cương ở nhiều
nơi chưa nghiêm, thậm chí còn có hiện tượng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm; cái
gì có lợi thì kéo về cho cơ quan, đơn vị và cá nhân mình; cái gì khó khăn thì
đùn đẩy ra xã hội, cho cơ quan khác, người khác. Trong khi đó, các thế lực xấu,
thù địch, phản động tiếp tục lợi dụng tình hình này để đẩy mạnh việc thực hiện
chiến lược “diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong
nội bộ chúng ta nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta”.
Tình trạng trên nếu kéo dài và
không kịp thời được khắc phục sẽ làm mất đi sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng;
Đảng mất bản chất cách mạng. Hệ quả là, làm cho Nhân dân giảm sút niềm tin vào
Đảng và chế độ ta, thậm chí ngả theo các thế lực thù địch và phản động.
Nguy hiểm hơn nó sẽ biến thành
nguy cơ làm cho một số tổ chức đảng phân rã cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức,
biến dạng theo chiều hướng tiêu cực cả về đạo đức và cán bộ. Báo cáo tại Hội
nghị nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra giám sát của Đảng năm 2023,
triển khai nhiệm vụ năm 2024 chỉ rõ: Trong năm 2023, cấp ủy các cấp và chi bộ
đã thi hành kỷ luật 423 tổ chức đảng (tăng 2,92% so với năm 2022); thi hành kỷ
luật 18.130 đảng viên (tăng 10,64% so với năm 2022), có 3.073 cấp ủy viên
(chiếm 16,94%). Ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp đã thi hành kỷ luật 183 tổ chức
đảng và 6.302 đảng viên, có 1.975 cấp ủy viên (chiếm 31,34%); trong đó, UBKT
các địa phương, đơn vị thi hành kỷ luật 154 tổ chức đảng và 6.237 đảng viên,
UBKT Trung ương thi hành kỷ luật 29 tổ chức đảng và 65 đảng viên.
Cuối cùng, tính nguy hại này sẽ
tạo ra một hệ quả tất yếu, Đảng sẽ tự làm mất vai trò lãnh đạo của mình đối với
toàn xã hội và cách mạng Việt Nam sẽ có nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Không những vậy, đối với công tác đối ngoại của Đảng, với phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, vị thế, uy tín của Đảng ta cũng sẽ bị giảm sút nghiêm
trọng. Đảng đánh mất vị trí, vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình, dẫn đến diệt
vong. Đây là nguy cơ không thể xem nhẹ, bởi vì, thực tiễn lịch sử cách mạng thế
giới đã chứng minh, một đảng dày dặn kinh nghiệm như Đảng Cộng sản Liên Xô cùng
các đảng cộng sản và công nhân khác đã suy vong bởi nhiều nguyên nhân, trong
đó, nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính là công tác xây dựng Đảng ở nhiều
quốc gia đã bị vi phạm cơ bản, cụ thể:
Nhiều nước đã xa rời nguyên tắc
trong xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác-Lênin, biến đảng cộng sản thành
tổ chức độc quyền. Một số cán bộ lãnh đạo cao cấp trở thành kẻ quan liêu, từng
bước xa rời hoặc phản bội lại chủ nghĩa Mác-Lênin. Đặc biệt, có hai nguyên nhân
cơ bản và trực tiếp liên quan chặt chẽ với nhau: (i) những sai lầm nghiêm trọng
về đường lối chính trị, về công tác xây dựng đảng, công tác tư tưởng và công
tác tổ chức, cán bộ trong quá trình cải tổ; (ii) các thế lực thù địch, phản
động thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tìm mọi cách tác động làm chệch
hướng công cuộc cải tổ, cải cách ở Liên Xô, lợi dụng những sai lầm bên trong để
thực hiện mục tiêu xóa bỏ chế độ XHCN.
Ở Liên Xô và hầu hết các nước
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, vào những thập niên từ những năm 60-90 cuối thế kỷ
XX, bộ máy Đảng Cộng sản đã không được xây dựng theo những nguyên tắc mácxít -
lêninít. Nhà nước Xô viết đã từng bước biến chất, không còn thể hiện quyền lực
của nhân dân mà chỉ là biểu hiện quyền lực của các phe nhóm trong Đảng. Nguyên
tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng hoàn toàn bị rời bỏ, trở thành tập
trung quan liêu, độc tài, độc quyền. Những nội dung xây dựng Đảng kiểu
mới: về tư tưởng, chính trị, tổ chức, về đạo đức, lối sống của người đảng viên
đã trở thành xa lạ trong Đảng Cộng sản Liên Xô và nhiều đảng cộng sản khác. Một
số lãnh đạo cấp cao trong bộ máy Đảng, Nhà nước Xô viết đã thoái hóa, biến
chất, trở thành những kẻ phản bội nhân danh “cải tổ”, “cải cách”. Đây là nguyên
nhân rất trực tiếp đưa Đảng và chủ nghĩa xã hội hiện thực đến khủng hoảng, suy
thoái.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét