Thứ Hai, 10 tháng 3, 2025

 CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN - GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ HIỆN THỰC

Cách đây 46 năm (1975 - 2021), dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, quân và dân ta đã giành thắng lợi vang dội trong Chiến dịch Tây Nguyên. Sau một tháng (04-3-1975 - 03-4-1975) liên tục chiến đấu, bằng sức mạnh tổng hợp, ta đã xóa sổ hoàn toàn Quân đoàn 2 - Quân khu 2 của chính quyền và quân đội Sài Gòn, giải phóng địa bàn chiến lược Tây Nguyên và một số tỉnh Trung Bộ, làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng, thế chiến lược giữa ta và địch, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc tiến công chiến lược của ta phát triển thành tổng tiến công trên toàn miền Nam Việt Nam. Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên có tầm quan trọng về chiến lược, có giá trị lịch sử và hiện thực sâu sắc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Sau Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết (ngày 27-01-1973), Mỹ phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, tạo ra sự thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng. Ta đã đánh cho “Mỹ cút” nhưng để đánh cho “ngụy nhào” phải có một quá trình chuẩn bị thế và lực mới. Từ năm 1973, nhất là sau khi có Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 7-1973), quân và dân ta đẩy mạnh hoạt động phản công, tiến công địch nhằm tạo chuyển biến cục diện trên chiến trường, cơ quan Tổng hành dinh đã bắt tay vào xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Sau nhiều lần chuẩn bị, tám lần thông qua Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và tranh thủ ý kiến các tư lệnh chiến trường, đến đầu năm 1975, kế hoạch chiến lược được hoàn chỉnh. Theo đó, Bộ Chính trị quyết định chọn Tây Nguyên (trọng điểm là Nam Tây Nguyên) làm hướng tiến công mở màn cho cuộc tổng tiến công chiến lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Do thế bố trí chiến lược của địch là thế mạnh ở hai đầu (Huế - Đà Nẵng và Sài Gòn), yếu và sơ hở quãng giữa (miền Trung - Tây Nguyên) - địa bàn có vị trí vô cùng quan trọng về chiến lược. Nếu ta giải phóng được Tây Nguyên, sẽ làm rung chuyển toàn bộ chiến trường miền Nam và các chiến trường khác, cắt đôi thế bố trí chiến lược của địch, mở ra khả năng phát triển lực lượng tiến công xuống đồng bằng Khu 5 và các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Cùng với xác định trọng điểm là nam Tây Nguyên, thì Buôn Ma Thuột, được lựa chọn là trận mở đầu then chốt, quyết định.

Để thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định tăng cường cho Tây Nguyên một số lượng lớn về lực lượng, vũ khí, trang bị và tổ chức Bộ Tư lệnh tiền phương bên cạnh Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên để chỉ đạo trực tiếp. Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã tiến hành công tác chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, chu đáo; các đơn vị được lệnh tuyệt đối giữ bí mật, không để địch phát hiện ý định chiến dịch và lực lượng ta trên hướng tác chiến chủ yếu (Buôn Ma Thuột); tích cực hoạt động nghi binh làm lạc hướng chú ý của địch ở Trị - Thiên và Bắc Tây Nguyên.

Ngày 04-3-1975, ta bắt đầu hoạt động cắt Đường số 19, đánh một số mục tiêu ở Pleiku để nghi binh, tạo thế chiến dịch. Sau khi đã hoàn thành việc “bày binh, bố trận”, ngày 10-3-1975, ta nổ súng tiến công, đánh đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột. Bằng cuộc tiến công hiệp đồng binh chủng của các đơn vị, nhanh chóng tiêu diệt Sở Chỉ huy Sư đoàn 23 và Sở Chỉ huy Tiểu khu Đắk Lắk của quân đội Sài Gòn, chiếm tất cả các vị trí trong thị xã, tiêu diệt và bắt làm tù binh toàn bộ quân địch. Tiếp đó, ta nhanh chóng đập tan cuộc phản đột kích của Quân đoàn 2 địch hòng tái chiếm Buôn Ma Thuột, diệt Trung đoàn 44 và 45 thuộc Sư đoàn 23. Đòn điểm huyệt và đánh bại cuộc phản kích của Sư đoàn 23 khiến địch càng hoảng loạn, đẩy chúng từ sai lầm về chiến dịch tới sai lầm lớn về chiến lược: Rút bỏ Tây Nguyên theo Đường số 7 về đồng bằng. Cuộc truy kích của quân và dân ta trên Đường số 7 đã xóa sổ Quân khu 2 địch, tiêu diệt và làm tan rã một tập đoàn phòng ngự lớn, giải phóng một địa bàn chiến lược rộng lớn. Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc toàn thắng.

Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên là thắng lợi có tầm quan trọng về chiến lược, thể hiện sự vận dụng sáng tạo đường lối chính trị, quân sự của Đảng, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, nghệ thuật quân sự Việt Nam vào thực tiễn chiến trường. Đó là thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, mà nét tiêu biểu là sự chỉ đạo chiến lược và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân phát triển tới đỉnh cao trong giai đoạn cuối của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó còn là thắng lợi của ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần chiến đấu quả cảm, mưu trí, sáng tạo của các lực lượng vũ trang và toàn dân. Với thắng lợi này, ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, giải phóng địa bàn có ý nghĩa chiến lược, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch ở phía Bắc, phá vỡ và chia cắt thế bố trí chiến lược của địch, làm cho quân địch phải co cụm và bị động đối phó trên các chiến trường; mở ra thời cơ của cuộc tổng tiến công chiến lược. Chiến thắng Tây Nguyên đã đẩy đối phương vào thế bị động, lúng túng, tác động đến tinh thần binh sĩ địch trên khắp chiến trường; cổ vũ, động viên mạnh mẽ tinh thần, khí thế tiến công của quân và dân ta ở tiền tuyến và hậu phương; củng cố quyết tâm chiến đấu và lòng tin của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vào thắng lợi cuối cùng, đồng thời rèn luyện thêm bản lĩnh, khả năng tác chiến của bộ đội ta.

46 năm đã trôi qua, nhưng Chiến thắng Tây Nguyên vẫn còn nguyên giá trị về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét