Thứ Hai, 10 tháng 3, 2025

 KHÔNG THỂ NÀO QUÊN 34 NĂM TRẬN CHIẾN BẢO VỆ ĐẢO GẠC MA (14/3/1988-14/3/2022)

34 năm trước, vào ngày 14/3/1988, trong một cuộc chiến không cân sức, 64 chiến sỹ hải quân Việt Nam với tinh thần kiên quyết, khí phánh kiên cường đã anh dũng chiến đấu và hy sinh để gìn giữ chủ quyền thiêng liêng của đất nước tại các đảo đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

34 năm đã đi qua, sóng biển có thể đã xóa nhòa mọi dấu vết nhưng không thể xóa được ký ức bi tráng của tất cả người dân Việt Nam về những con người quả cảm mà sự hy sinh của họ được dựng thành những tượng đài bất tử về tình yêu Tổ quốc.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang ra sức xuyên tạc, vu cáo về sự kiện Gạc Ma; chúng tuyên truyền, kích động gây chia rẽ mối đoàn kết máu thịt giữa đảng, quân đội và nhân dân. Chúng cho rằng trận hải chiến Gạc Ma là vết nhơ của dân tộc; rằng những người lính Gạc Ma bị bán đứng, bị phản bội bởi chính những người chỉ huy Quân đội ta khi có lệnh không cho những người lính nổ súng chống lại quân Trung Quốc; vu khống Đảng và nhà nước ta đàn áp các hoạt động tưởng niệm Gạc Ma bởi vì đó là sự nhu nhược của Đảng Cộng sản Việt Nam trước Trung Quốc, khi mà Trung Quốc đang gia tăng xâm lấn biển đảo và lãnh thổ quốc gia Việt Nam. Vậy sự thật có đúng như những luận điệu xuyên tạc đó hay không? chúng ta hãy cùng nhìn lại sự kiện lịch sử này.

Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam nằm ở khu vực Bắc Biển Đông, từ khoảng 15o45’ đến 17o15’ vĩ Bắc, 111ođến 113o kinh Đông, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) khoảng 120 hải lý. Đây là một quần thể san hô, gồm 37 đảo, bãi cạn, bãi đá ngầm, cồn san hô, được chia thành hai nhóm đảo. Nhóm đảo phía Đông (nhóm An Vĩnh) gồm 12 đảo, bãi cạn; trong đó có hai đảo lớn là Phú Lâm và Linh Côn, mỗi đảo rộng khoảng 1,5 km2Nhóm đảo phía Tây gồm nhiều đảo xếp thành hình vòng cung (nhóm Lưỡi Liềm); trong đó có các đảo Hoàng Sa (diện tích gần 1 km2), Quang Ảnh, Hữu Nhật, Quang Hòa, Duy Mộng, Chim Yến, Tri Tôn…. Đặc biệt, đảo Hoàng Sa, tuy có diện tích không lớn nhưng có giá trị về quân sự và hậu cần nghề cá. Trên đảo này từng có bia chủ quyền, Miếu Bà… cùng một trạm khí tượng do chính quyền bảo hộ Pháp và nhà Nguyễn (Việt Nam) xây dựng, hoạt động từ năm 1938, được Tổ chức Khí tượng thế giới (WVO) công nhận và đặt số hiệu trong mạng lưới khí tượng quốc tế.

Đối với Quần đảo Trường Sa của Việt Nam nằm về phía Nam Biển Đông, ở trong khoảng từ 6030’ đến 12000 độ vĩ Bắc, 111000 đến 117020’ độ kinh Đông, cách vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa) khoảng 248 hải lý và cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) gần 600 hải lý. Đây là quần thể gồm hơn 100 đảo, bãi ngầm, bãi san hô, trải rộng trên vùng biển khoảng 180.000 km2 và án ngữ vùng biển rộng phía Đông Nam nước ta. Căn cứ vào vị trí và khoảng cách giữa các đảo, quần đảo Trường Sa được chia thành tám cụm: Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm và Bình Nguyên.

Từ nhiều thế kỷ nay, Việt Nam là quốc gia đầu tiên phát hiện, quản lý và thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (khi đó còn vô chủ) một cách liên tục, hòa bình theo quy định của luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, vào các năm 1956 và 1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực để đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (khi đó do chính quyền Sài Gòn quản lý) và đến đầu năm 1988 Trung Quốc tiếp tục thực hiện âm mưu xâm chiếm biển đảo nước ta một lần nữa. Vậy tại sao Trung Quốc gây nên trận hải chiến Gạc Ma?

Đảo đá Gạc Ma nằm ở vị trí chiến lược, cách đảo đá Cô Lin 3,6 hải lý, cách đảo đá Len Đao 6 hải lý, đánh dấu đầu mút phía Tây Nam của cụm đảo Sinh Tồn. Nếu chiếm giữ được Gạc Ma, đối phương có thể khống chế đường qua lại của quân ta trong việc tiếp tế, bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Trường Sa.

Từ đảo đá Gạc Ma cho đến đảo đá Vành Khăn ở phía đông cách nhau khoảng 170 km. Chúng nằm trên một vĩ tuyến, từ Chữ Thập cho đến Vành Khăn. Ý đồ của Trung Quốc là tạo ra một tuyến dài hơn 300 km cắt ngang biển Đông, cài răng lược với các đá, đảo mà Hải quân Việt Nam đang bảo vệ.

Đầu tháng 3 năm 1988, Hải quân Trung Quốc huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu hoạt động ở đây thường xuyên có từ 9 đến 12 tàu chiến, gồm: tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu pháo, 2 tàu đổ bộ; tàu hỗ trợ gồm 3 tàu vận tải LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và một pông-tông lớn.

Trước tình hình đó, ngày 4 tháng 3 năm 1988, Hải quân ta xác định: Trung Quốc có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và khu vực Đông kinh tuyến 1150, trong đó, Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu Trung Quốc chiếm giữ sẽ khống chế đường qua lại tiếp tế của ta cho các đảo ta đang chiếm giữ, vì vậy phải quyết tâm đưa bộ đội đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao.

Triển khai chủ trương trên, ngày 12 tháng 3 năm 1988, Tàu 605 (Lữ đoàn 125), do đồng chí Lê Lệnh Sơn làm thuyền trưởng, xuất phát từ Đá Đông đến đóng giữ đảo Len Đao. Sau 29 giờ vượt sóng to, gió lớn, Tàu 605 đến Len Đao và cắm cờ Tổ quốc lên đảo (lúc 5 giờ ngày 14/3/1988), khẳng định chủ quyền và quyết tâm bảo vệ đảo của ta.

Tiếp đó, 9 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1988, tàu HQ 604, do đồng chí Vũ Phi Trừ làm thuyền trưởng và tàu HQ 505, do đồng chí Vũ Huy Lễ làm Thuyền trưởng, xuất phát từ đảo Đá Lớn tiến về Gạc Ma, Cô Lin. Phối hợp với hai tàu 604 và 505 có hai phân đội công binh (70 người) thuộc Trung đoàn 83, 4 tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146, do đồng chí Trần Đức Thông, Phó Lữ đoàn trưởng chỉ huy và 4 chiến sĩ đo đạc của Đoàn đo đạc và biên vẽ bản đồ (Bộ Tổng Tham mưu).

Sau khi hai tàu của ta thả neo được 30 phút, tàu hộ vệ của Trung Quốc từ Huy Gơ chạy về phía Gạc Ma. Tàu Trung Quốc áp sát Tàu 604 của ta, dùng loa gọi sang khiêu khích, thay nhau cơ động, chạy quanh đảo Gạc Ma, uy hiếp ta. Cán bộ, chiến sĩ hai tàu 604 và 605 động viên nhau giữ vững quyết tâm không để mắc mưu, kiên trì neo giữ quanh đảo.

Trước tình hình căng thẳng do hải quân Trung Quốc gây ra, lúc 21 giờ ngày 13 tháng 3, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân chỉ thị cho các đồng chí Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Vũ Phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các đảo Gạc Ma, Cô Lin; khẩn trương thả xuồng máy, xuồng nhôm, chuyển vật liệu làm nhà lên đảo ngay trong đêm ngày 13 tháng 3. Tàu 604 cùng lực lượng công binh Trung đoàn 83 chuyển vật liệu lên đảo Gạc Ma, tiếp đó, lực lượng của Lữ đoàn 146 bí mật đổ bộ, cắm cờ Tổ quốc và triển khai 4 tổ bảo vệ đảo.

Lúc này, Trung Quốc điều thêm hai tàu hộ vệ trang bị pháo 100 ly đến khu vực đảo Gạc Ma. 6 giờ, ngày 14 tháng 3 năm 1988, tàu Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo tiến vào giật cờ ta. Lập tức, Thiếu úy Trần Văn Phương, Hạ sỹ Nguyễn Văn Lanh cùng đồng đội dũng cảm giành lại cờ. Lính Trung Quốc đã nổ súng bắn vào bộ đội ta, làm Thiếu úy Trần Văn Phương hy sinh, Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh bị thương. Mặc dù bị đối phương uy hiếp và nổ súng tấn công, nhưng bộ đội ta vẫn kiên cường đấu tranh bảo vệ chủ quyền hải đảo của Tổ quốc. Các chiến sỹ của ta lúc đó đã nắm tay nhau đứng vòng quanh tạo thành vòng tròn bất tử” quyết bảo vệ lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, dùng xà beng dụng cụ lao động chống trả lại những hành động hung hãn của Trung Quốc.

Không ép được bộ đội ta rút khỏi đảo, Trung Quốc rút quân lên tàu rồi hạ pháo 100 ly, 37 ly 2 nòng xả đạn dã man sát hại gần hết số cán bộ chiến sỹ của Trung đoàn 83 lắp dựng nhà và cán bộ chiến sỹ của Lữ đoàn 146 ra giữ đảo. Sau đó hai tàu Trung Quốc bắn pháo 100 ly gây hỏng nặng tàu 604 của ta. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ đã bình tĩnh chỉ huy bộ đội trên tàu sử dụng các loại súng AK, RPĐ, B40, B41 đánh trả quyết liệt. Trận đánh diễn ra mỗi lúc thêm ác liệt. Tàu Trung Quốc tiếp tục nã pháo dồn dập làm tàu ta bị thủng nhiều lỗ và chìm dần xuống biển. Trong trận chiến không cân sức này 64 chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã anh dũng hi sinh ở khu vực đảo Gạc Ma. Gạc Ma bị Trung Quốc chiếm đóng và xây dựng bất hợp pháp từ đó đến nay.

Tại đảo Cô Lin, 6 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1988, tàu HQ 505 đã cắm hai lá cờ lên đảo. Khi Tàu 604 của ta bị chìm, Thuyền trưởng tàu 505 Vũ Huy Lễ ra lệnh nhổ neo ủi bãi. Phát hiện thấy ta cơ động lên bãi, hai tàu của Trung Quốc quay sang tiến công tàu 505. Bất chấp hiểm nguy, Tàu 505 chạy hết tốc độ, trườn lên được hai phần ba thân tàu thì bốc cháy. 8 giờ 15 phút ngày 14 tháng 3, bộ đội trên Tàu 505 vừa tiến hành dập lửa cứu tàu, bảo vệ đảo, vừa đưa xuồng đến cứu vớt cán bộ, chiến sỹ của Tàu 604 vừa bị Trung Quốc đánh chìm. Cán bộ, chiến sĩ của Tàu HQ 505 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ở đảo Cô Lin. Cho đến nay, là cờ đỏ sao vàng của Việt Nam vẫn phấp phới tung bay trên đảo Cô Lin.

Ở hướng đảo Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14 tháng 3, tàu của Trung Quốc bắn chìm tàu HQ 605 của ta. Cán bộ, chiến sỹ của Tàu HQ 605 phải dìu nhau bơi về đảo Sinh Tồn (đến 6 giờ ngày 15 tháng 3 mới đến đảo). Tại Len Đao, sau trận chiến Gạc Ma, chúng ta đấu tranh kiên quyết, khiến Trung Quốc lui quân, ta bảo vệ thành công Len Đao đến ngày hôm nay.

Như vậy, Trong trận chiến đấu ngày 14 tháng 3 năm 1988, mặc dù tương quan lực lượng chênh lệch, phương tiện vũ khí hạn chế, cán bộ và chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam đã chiến đấu dũng cảm, không quản hy sinh, quyết tử đến cùng để bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. 

Trong sự kiện Gạc Ma, Trung Quốc chọn thời điểm giữa tháng 3 gió mùa Đông Bắc rất mạnh, sóng lớn để thực hiện âm mưu đánh chiếm các đảo chìm của ta ở Trường Sa. Trong khi đó, lực lượng tàu của Hải quân ta còn yếu và dù có tàu phóng lôi, tàu tên lửa, tàu pháo nhưng đều là loại nhỏ tiến công ven bờ, chịu sóng gió kém, không có khả năng tác chiến dài ngày ở Trường Sa. Về không quân, các máy bay Mig của ta không bay được tới Trường Sa và dù có máy bay Su-22 nhưng chỉ bay ra hoạt động khoảng thời gian rất ngắn nên khả năng tác chiến rất hạn chế. Trong khi Trung Quốc có các tàu chiến lớn, số lượng đông và hỏa lực rất mạnh. Đồng thời lúc đó chúng ta còn đang phải đối phó với cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam. Do đó Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lúc đó là Đại tướng Lê Đức Anh và Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương đã xử lý hết sức kiên quyết, tỉnh táo và sáng suốt, giữ được trạng thái ổn định sau ngày 14/3/1988, bảo vệ thành công các đảo do ta kiểm soát, không để Trung Quốc viện lý do lấn tới.

 Với sự hy sinh anh dũng đó của các anh, chúng ta đã giữ gìn được các đảo quan trọng tại khu vực này. Tất cả đã thể hiện ý chí can trường của cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng trong quá trình giữ gìn chủ quyền thiêng liêng nơi biên đảo. Trong tim người dân Việt, sự ra đi của các anh là nỗi đau, nhưng cũng là niềm tự hào, để cán bộ chiến sĩ càng chắc tay súng bảo vệ từng hòn đảo, từng tấc biển và trời của Tổ quốc.

Và với chiến công oanh liệt đó, tàu HQ 505 được Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Các đồng chí Vũ Phi Trừ, Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Nguyễn Văn Lanh, Trần Văn Phương được truy tặng và phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hàng chục tập thể và cá nhân được tặng thưởng Huân chương Quân công, Huân chương Chiến công các loại.

 Ôn lại sự kiện này không phải để kích động hận thù mang tính cực đoan với nước láng giềng mà từ sự thật lịch sử đó để chúng ta có thể rút ra những bài học lịch sử quý giá trong cuộc đấu tranh giữ vững chủ quyền biển đảo cả trong hiện tại và tương lai. Ghi nhớ nỗi đau để chúng ta trân trọng hòa bình, để ký ức về Gạc Ma không bao giờ bị xóa nhòa trong lòng mỗi người con đất Việt. Và sự kiện Gạc Ma của 30 năm trước cũng chưa khi nào vơi giá trị trong việc nhắc nhở các thế hệ cháu con Việt Nam không được phép chủ qua, lơ là, mất cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn xâm chiếm biển đảo của nước ngoài đồng thời khẳng định chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tiếp nối truyền thống anh hùng, những cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam hôm nay đang cố gắng nỗ lực, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, đoàn kết một lòng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét