Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 ở Quảng Ngãi diễn ra vào khoảng 15 giờ ngày 13-8-1945(1). Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, lực lượng vũ trang cùng các tầng lớp nhân dân Quảng Ngãi nhất tề nổi dậy, với tinh thần căm thù giặc sâu sắc và không khí sục sôi cách mạng, “Toàn dân nổi dậy. Muôn người như một. Khí thế ngất trời”(2), Tổng khởi nghĩa nhanh chóng giành thắng lợi hoàn toàn. Để có được thắng lợi to lớn đó là cả một quá trình lâu dài chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, trong đó có vai trò và những đóng góp quan trọng của Đội du kích Ba Tơ.
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Nắm bắt thời cơ, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Ngãi quyết định phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền và thành lập Đội du kích Ba Tơ làm nòng cốt. Ngày 12-3-1945(3), Đội du kích Ba Tơ được thành lập, gồm 28 cán bộ, chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội. Đây là đội vũ trang tập trung đầu tiên của Đảng ở tỉnh Quảng Ngãi và Nam Trung Bộ.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy lâm thời, Khởi nghĩa Ba Tơ nhanh chóng giành thắng lợi, ngày 12-3, chính quyền cách mạng được thành lập. Sau thắng lợi của Khởi nghĩa Ba Tơ, căn cứ vào tình hình và tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, để bảo toàn lực lượng, củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh, chiều 14-3-1945, Đội du kích Ba Tơ cơ động lực lượng lên phía Bắc tới vùng núi Cao Muôn (xã Ba Chùa, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi).
Ngày 19-3-1945, Đội đóng quân ở Nước Sung để hoạt động. Tại đây, Đội vừa tập trung giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự… vừa chú trọng công tác vận động nhân dân, xây dựng cơ sở cách mạng. Với ý thức kỷ luật cao, tích cực tuyên truyền, vận động, giúp đỡ đồng bào… Đội được đồng bào tin yêu, giúp đỡ, một lòng đi theo cách mạng, “nhân dân và du kích thương yêu, đùm bọc nhau, đoàn kết đánh Nhật, chống Tây cứu nước”(4), “thề sống chết có nhau cùng đánh Nhật, đuổi Tây”(5). Nhiều thanh niên người dân tộc tình nguyện xin tham gia Đội du kích, góp phần phát triển lực lượng và nâng cao sức mạnh chiến đấu cho Đội. Mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa Đội du kích với nhân dân được xây dựng, củng cố ngày càng bền chặt. Cơ sở cách mạng được gây dựng và phát triển mạnh mẽ.
Sau hai tháng vừa huấn luyện, vừa chiến đấu và tuyên truyền, vận động nhân dân, xây dựng cơ sở cách mạng, Đội du kích Ba Tơ đã có những tiến bộ vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, căn cứ địa được củng cố và mở rộng. Từ 28 cán bộ, chiến sĩ phát triển thành hai đại đội (Đại đội Phan Đình Phùng và Đại đội Hoàng Hoa Thám)(6), kỷ luật được tăng cường, nội bộ ngày càng đoàn kết(7), trình độ kỹ chiến thuật được nâng cao lên một bước mới, từ “kiến thức quân sự hầu như chưa có”(

, nay “mọi người biết động tác cơ bản về súng, hiểu được tính năng của vũ khí, hiểu động tác cá nhân, tổ ba người chiến đấu trong tiểu đội”(9), “không ngừng tiến bộ cả về chính trị và quân sự. Toàn Đội đã trưởng thành vững chắc. Từng thành viên trong Đội đều vững vàng, đủ sức làm nòng cốt trong việc xây dựng những đơn vị vũ trang mới hoặc làm cán bộ vận động quần chúng xây dựng cơ sở”(10). Cơ sở cách mạng được xây dựng, củng cố, phát triển mạnh mẽ, “chỉ trong một thời gian ngắn, tổ chức Việt Minh và các hội cứu quốc đã được xây dựng ở hầu khắp sáu huyện đồng bằng”(11), đồng bào tin tưởng một lòng đi theo cách mạng, “tuyệt đối trung thành với cách mạng”(12), ủng hộ, giúp đỡ cách mạng, cùng Đội du kích đánh địch “bảo vệ chiến khu”(13), “khắp rừng núi Ba Tơ đâu đâu cũng hừng hực khí thế đánh Nhật, đuổi Tây”(14).
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, tháng 5-1945, Đội cơ động về Trung Châu hoạt động. Nhờ bám sát cơ sở, sâu sát với quần chúng cùng những hoạt động tích cực của Đội du kích, các đoàn thể cứu quốc phát triển nhanh chóng, các tầng lớp nhân dân tin tưởng, ủng hộ, đi theo cách mạng, mối quan hệ đoàn kết, gắn bó quân - dân được củng cố bền chặt. Đồng thời, Đội tích cực huấn luyện các tiểu đội du kích và tự vệ ở các làng, “nhân dân, nhất là các tầng lớp thanh niên đều hăng hái tham gia tập luyện quân sự, thiết tha xin gia nhập Đội du kích”(15), lực lượng vũ trang phát triển nhanh chóng, “ý thức vũ trang được ăn sâu và lan rộng trong quần chúng”(16).
Bên cạnh đó, Đội tổ chức thành hai bộ phận để xây dựng chiến khu. Đại đội Phan Đình Phùng xây dựng Chiến khu Bắc(17) (Vĩnh Sơn, huyện Sơn Tịnh), Đại đội Hoàng Hoa Thám xây dựng Chiến khu Nam(18) (Núi Lớn, huyện Mộ Đức). Tại chiến khu, Đội tổ chức cho các trung đội luân phiên về bám đất, bám dân để tuyên truyền, vận động, xây dựng cơ sở, huấn luyện du kích cho các địa phương, tuyển chọn những người ưu tú để xây dựng đội du kích tập trung. Vừa tổ chức học văn hóa, chính trị, huấn luyện quân sự, bổ sung vũ khí, trang bị, cơ sở vật chất, ổn định tổ chức biên chế, “từ trung đội trở lên đều có chính trị viên”(19)… vừa xây dựng, củng cố chiến khu, mở rộng căn cứ địa, “số du kích có đủ chất lượng được rút lên chiến khu luyện tập thêm và tổ chức thành lực lượng chủ lực”(20), phong trào tòng quân nhập ngũ diễn ra sôi nổi, qua đó lực lượng vũ trang ở chiến khu ngày càng phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, đã dần dần hình thành ba loại quân: Chủ lực, du kích, tự vệ(21).
Đồng thời, Đội vừa tổ chức đánh địch, bảo vệ chiến khu, vừa tích cực diệt ác, trừ gian, trừng trị những tên phản động, tay sai đầu sỏ, ngoan cố chống lại cách mạng, các tổ chức phản động, thân Nhật như Tân Việt Nam… đập tan những âm mưu, thủ đoạn lừa phỉnh nhân dân, chống phá cách mạng của chúng. Góp phần đưa phong trào cách mạng ở tỉnh Quảng Ngãi phát triển mạnh mẽ, “uy tín của Việt Minh và Đội du kích Ba Tơ ngày càng lan rộng và ăn sâu trong quần chúng”(22), làm “tê liệt bộ máy chính quyền của địch ở nhiều thôn xã”(23), “bộ máy tay sai vừa mới lập của Nhật ở một số thôn, xóm đã bị vô hiệu hóa”(24), quần chúng nhân dân tin tưởng tìm đến với Việt Minh, nhiều tên hương lý nằm im không dám chống phá cách mạng, tri huyện, tri phủ và cả tỉnh trưởng Quảng Ngãi cũng nhắm mắt làm ngơ trước những hoạt động gần như công khai của Việt Minh và Đội du kích(25).
Chỉ trong một thời gian rất ngắn, từ khi ra đời đến trước ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Đội du kích Ba Tơ nhanh chóng phát triển, lớn mạnh, “từ 28 người với 24 khẩu súng, chỉ qua 5 tháng (từ 14-3 đến 14-8-1945), Đội du kích Ba Tơ đã phát triển tới trên 1.000 người với 60 khẩu súng”(26), trình độ kỹ chiến thuật không ngừng được nâng cao, ngày càng lớn mạnh, trưởng thành, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, lập nhiều chiến công xuất sắc, đánh bại các cuộc càn quét của địch, xây dựng và củng cố vững chắc các chiến khu.
Nếu Cao Bằng được ví như ngôi sao cách mạng của Việt Bắc, thì Ba Tơ, Vĩnh Sơn, Núi Lớn được ví là “ngôi sao cách mạng của miền Nam Trung Bộ. Ngôi sao cách mạng đó ngày càng đốt cháy thêm ngọn lửa cách mạng trong lòng nhân dân miền Nam Trung Bộ. Ngọn lửa ấy đã bốc cháy sáng rực, thiêu hủy ách thống trị tàn bạo của đế quốc và phong kiến trong những ngày tháng Tám”(27).
Bên cạnh đó, Đội tích cực hoạt động gây dựng, củng cố và phát triển rộng khắp các cơ sở cách mạng, tổ chức Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, “đội quân ấy đã luyện tập, chiến đấu, xây dựng, gây cơ sở, thúc đẩy phong trào cách mạng chung trong toàn tỉnh ngày càng lên cao”(28), chỉ tính đến cuối tháng 6-1945, Mặt trận Việt Minh Quảng Ngãi đã “tập hợp dưới cờ trên 70 nghìn hội viên cứu quốc… Tự vệ cứu quốc và tiểu tổ du kích đã được xây dựng ở hầu khắp nông thôn và nhiều khu phố trong thị xã Quảng Ngãi với số lượng hơn 2 nghìn người. Cơ sở cách mạng bắt đầu được xây dựng trong một số đơn vị lính bảo an. Hội Binh nhân cứu quốc đã được tổ chức trong đơn vị lính bảo an đóng ở thị xã Quảng Ngãi”(29).
Đồng thời, tuyên truyền, vận động, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quân-dân, xây dựng “thế trận lòng dân”, các tầng lớp nhân dân tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ và đi theo cách mạng, thúc đẩy phong trào cách mạng ở Quảng Ngãi phát triển mạnh mẽ. Đây là giai đoạn quan trọng trong chuẩn bị tốt mọi mặt về tư tưởng, tổ chức, lực lượng, vật chất, vũ khí trang bị… đồng thời là bước tập dượt cho lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân trong đấu tranh giành chính quyền, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 ở Quảng Ngãi. Đồng thời, để lại những kinh nghiệm quý về: Công tác dân vận, xây dựng “thế trận lòng dân”; xây dựng lực lượng vũ trang, nền quốc phòng toàn dân… cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng vào xây dựng Quân đội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
St
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét