Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang nhân dân là tất yếu khách quan
Lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ: Lực lượng vũ trang ra đời luôn gắn
liền với đấu tranh giai cấp trong xã hội có phân chia giai cấp. Theo C.Mác và
Ph.Ăngghen: Lịch sử xã hội loài người từ khi phân chia giai cấp và đối kháng
giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, lực
lượng vũ trang bao giờ cũng là công cụ chính trị của giai cấp và nhà nước thống
trị; do nhà nước, giai cấp đó thành lập, nuôi dưỡng, sử dụng để tiến hành đấu
tranh vũ trang, thực hiện mục đích chính trị của giai cấp, nhà nước đã tổ chức
và nuôi dưỡng nó. Giai cấp nào muốn giành và giữ quyền thống trị xã hội, đều
phải tổ chức ra lực lượng vũ trang và lãnh đạo chặt chẽ lực lượng vũ trang.
Ph.Ăngghen viết: “Từ năm 1845, Mác và tôi giữ quan điểm cho rằng một trong
những kết quả cuối cùng của cuộc cách mạng vô sản tương lai sẽ là sự mất đi dần
dần cái tổ chức chính trị mang tên là nhà nước… Cùng với sự mất đi của thiểu số
có đặc quyền đó thì sự cần thiết phải có lực lượng vũ trang để áp bức”[1].
Các nhà kinh điển cũng chỉ ra cho giai cấp vô sản con đường đúng đắn nhất
để tự giải phóng mình, đó là Đảng Cộng sản phải lãnh đạo giai cấp công nhân
liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân, dùng bạo lực cách mạng đập tan bộ máy
nhà nước của giai cấp tư sản, lập nên nhà nước chuyên chính vô sản, dùng nhà
nước đó làm công cụ để bảo vệ quyền thống trị của mình đối với toàn xã hội. Để
thực hiện điều đó, giai cấp vô sản phải tổ chức ra lực lượng vũ trang của mình,
lãnh đạo lực lượng vũ trang cùng với nhân dân lao động lật đổ giai cấp thống
trị và bảo vệ thành quả cách mạng.
Bảo vệ và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện lịch
sử mới, V.I.Lênin đã khẳng định tính tất yếu của việc xây dựng quân đội kiểu
mới, lực lượng vũ trang của giai cấp vô sản. V.I.Lênin nêu lên một hệ thống các
nguyên tắc về xây dựng lực lượng vũ trang của giai cấp vô sản; trong đó có
nguyên tắc Đảng Cộng sản lãnh đạo chặt chẽ lực lượng vũ trang về mọi mặt. Theo
V.I.Lênin: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự bảo vệ”[2], do đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lực lượng vũ trang là tất
yếu khách quan, nhằm bảo đảm cho lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với
Đảng, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự
nghiệp cách mạng của Đảng.
Lịch sử ra đời và phát triển lực lượng vũ trang của các nước trên thế giới
cũng cho thấy, bao giờ lực lượng vũ trang cũng có quan hệ hữu cơ với giai cấp
và nhà nước đã sinh ra nó, mang bản chất của giai cấp cầm quyền. Ở các nước tư
bản thực hiện chế độ đa đảng, lực lượng vũ trang thực hiện mục tiêu chính trị
của giai cấp, nhà nước tư sản, là công cụ để đàn áp và áp bức những người lao
động, bảo vệ chế độ chính trị, quyền lực chính trị, kinh tế của giai cấp thống
trị, bóc lột trong xã hội. Vì vậy, khi đảng chính trị nào cầm quyền thì đều tìm
mọi cách để nắm lực lượng vũ trang. Đối với lực lượng vũ trang ở các nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, tổ chức giáo dục, rèn
luyện; lực lượng vũ trang chiến đấu vì độc lập, chủ quyền quốc gia – dân tộc,
vì chủ nghĩa xã hội, vì an ninh quốc gia, trật tự xã hội, hạnh phúc của nhân
dân và đoàn kết quốc tế.
Thực tiễn Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận
dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là nguyên tắc Đảng Cộng sản
tổ chức và lãnh đạo lực lượng vũ trang vào điều kiện cụ thể cách mạng Việt Nam;
đồng thời kế thừa và phát triển truyền thống đánh giặc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc qua mấy ngàn năm dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc để xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân. Trong Chính cương vắn tắt của Đảng (02/1930) đã khẳng
định quan điểm cách mạng bạo lực để giành chính quyền. Luận cương chính trị
(10/1930) cũng chỉ rõ: “Vũ trang cho công nông”, “Lập quân đội công nông” và
“Tổ chức đội tự vệ công nông”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra: Trong xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng, phải bắt đầu từ việc xây dựng lực lượng chính trị của
quần chúng, “Phải xây dựng và lãnh đạo vững chắc lực lượng vũ trang cách mạng
của nhân dân, bảo đảm đánh thắng bất cứ kẻ thù nào, bất cứ trong hoàn hoàn cảnh
nào”[3].
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (3/1935), trong Nghị quyết về tổ
chức, lãnh đạo của Đảng trong đội tự vệ công nông, xác định: “Công nông cách
mạng tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy thống nhất của Trung ương Quân uỷ của Đảng
Cộng sản”[4]. Qua các kỳ đại hội, Đảng ta đều khẳng
định, bất kỳ tình huống nào cũng phải giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo chặt chẽ
của Đảng đối với lực lượng vũ trang, phải không ngừng chăm lo củng cố, xây dựng
các tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh, có năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu cao, phát huy hiệu lực lãnh đạo mọi mặt đối với đơn
vị. Đây là nguyên tắc chiến lược của Đảng trong tổ chức và lãnh đạo lực lượng
vũ trang (gồm các tổ chức vũ trang và bán vũ trang), để tiến hành đấu tranh cách
mạng, giải phóng dân tộc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng.
Hiếp pháp Việt Nam 2013 đã thể hiện đầy đủ quan điểm, vai trò của Đảng, Nhà
nước và Nhân dân về bảo vệ Tổ quốc; sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là của toàn dân,
Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà
nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân. Luật Quốc phòng năm 2018, xác định rõ:
Lực lượng vũ trang nhân dân dân gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân
quân tự vệ; “Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân
làm nòng cốt”[5].
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn quan tâm, chăm lo, phát huy vai trò lãnh đạo lực lượng vũ trang, xác định
mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của lực lượng vũ trang cũng chính là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng lãnh đạo giáo dục, rèn luyện, xây dựng lực
lượng vũ trang thực sự là một đội quân cách mạng, mang bản chất giai cấp công
nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ
quốc, Nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao cho. Lãnh
đạo phát huy đoàn kết, thống nhất, dân chủ và kỷ luật, mối quan hệ máu thịt với
nhân dân, vì nhân dân quên mình, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, có tinh
thần quốc tế cao cả.
Đảng xác định cơ chế, phương thức lãnh đạo đối với lực lượng vũ trang phù
hợp với từng giai đoạn cách mạng; xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức chính
quyền, Hội đồng quân nhân, các tổ chức quần chúng trong lực lượng vũ trang
trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, đáp ứng tốt yêu
cầu nhiệm vụ. Vai trò đó còn được thể hiện ở việc Đảng xác định đường lối,
nhiệm vụ quân sự: Bao gồm đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận
chiến tranh nhân dân, nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân, thế
trận lòng dân. Lãnh đạo nghiên cứu xây dựng và phát triển nền khoa học quân sự
và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Lãnh đạo việc huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,
bảo đảm vũ khí, trang bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật, tổ chức nuôi dưỡng và thực
hiện các chế độ, chính sách đối với Quân đội, Công an, Dân quân tự vệ. Lãnh đạo
tiến hành công tác cán bộ, công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ
trang.
Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện ở sự xuyên suốt, nhất quán và luôn giữ
vững quyền lãnh đạo đối với lực lượng vũ trang. Đảng không phân chia quyền lãnh
đạo cho bất cứ một giai cấp, một tổ chức, một đảng phái nào khác. Trong đó, lực
lượng Quân đội và Công an với chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là sẵn sàng chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; là những
lực lượng đặc thù, hoạt động đặc thù, tính chất khẩn trương, quyết liệt, đòi
hỏi tính tổ chức, tính kỷ luật cao, càng đòi hỏi Đảng phải phát huy vai trò
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, giữ vững bản chất giai cấp công nhân,
xứng đáng là lực lượng chính trị, quân sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân
dân trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
Trong hơn 94 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững vai trò lãnh đạo
đối với lực lượng vũ trang nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ cao trào
cách mạng (1930 – 1931) nhiều đội tự vệ công nông (Tự vệ đỏ) đã ra đời ở cả ba
miền Bắc, Trung, Nam; tiếp đến Đội du kích Bắc Sơn được thành lập, phát triển
thành các trung đội Cứu quốc quân; trên cơ sở các trung đội Cứu quốc quân, các
đội du kích, tự vệ chiến đấu, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (nay là
Quân đội nhân dân Việt Nam) được thành lập (22/12/1944), Công an nhân dân được
thành lập (19/8/1945), đây là lực lượng vũ trang nòng cốt cùng toàn dân tiến
hành cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi; chiến thắng kẻ thù trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả;
xứng đáng là lực lượng nòng cốt, “thanh bảo kiếm” sắc bén, lực lượng chiến đấu
tuyệt đối trung thành, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa; thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng cả phương thức
vũ trang và phi vũ trang, giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo đảm
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ cấp ủy, chính quyền, tính
mạng, tài sản của các cơ quan, tổ chức và nhân dân, bảo vệ những thành quả cách
mạng và sự nghiệp đổi mới của đất nước ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực hòa bình,
hợp tác và phát triển là xu thế lớn, song cạnh tranh chiến lược giữa các nước
lớn ngày càng phức tạp, khó lường. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn
ra nhanh; các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng; xung đột
quân sự Nga – Ukraine, Hamas – Israel tác động sâu rộng trên phạm vi toàn cầu.
Các nước điều chỉnh chiến lược, chạy đua vũ trang. Khu vực châu Á – Thái Bình
Dương tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định do cạnh tranh chiến lược, tranh
chấp lãnh thổ, tài nguyên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét