Bước vào Chiến cục Xuân-Hè 1975, Quân giải phóng miền Nam triển khai thế trận tiến công trên nhiều hướng chiến lược, trong đó Tây Nguyên được Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương chọn làm hướng tiến công chủ yếu trong giai đoạn đầu; Buôn Ma Thuột là điểm đánh trận then chốt quyết định.
Theo đồng chí Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên: Tây Nguyên là chiến trường có dung lượng lớn, có điều kiện để tiến hành tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Quân địch ở đây lại yếu. Ta có thể thắng lớn và thắng nhanh. Giải phóng Tây Nguyên nhanh sẽ có điều kiện thuận lợi để tiến xuống đồng bằng ven biển miền Trung, chia cắt quân địch ở miền Nam Việt Nam ra làm đôi, tạo thời cơ chiến lược lớn để giành thắng lợi chiến lược lớn hơn.
Để bảo đảm chắc thắng cho trận mở đầu, trên cơ sở quyết tâm của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên, từ ngày 17 đến 19-2-1975, Hội nghị quân chính mở rộng đã tập trung bàn phương án tác chiến. Hội nghị dành phần lớn thời gian thảo luận, phân tích đưa ra những kết luận chính xác về so sánh lực lượng ta-địch; việc sử dụng lực lượng, bố trí thế trận và vận dụng cách đánh hiệp đồng binh chủng sao cho phù hợp và hiệu quả.
Cụ thể: Lực lượng địch phòng thủ Tây Nguyên sau khi đã tăng cường vào thời điểm hội nghị họp, có cơ quan Bộ tư lệnh Quân đoàn 2; Sư đoàn 23 bộ binh; Sư đoàn 6 không quân; 7 liên đoàn biệt động; 36 tiểu đoàn bảo an; 4 thiết đoàn tăng thiết giáp; 8 tiểu đoàn, 7 đại đội, 25 trung đội pháo binh; được dàn trải phòng ngự trên khắp địa bàn Tây Nguyên, trong đó khu vực chủ yếu là thị xã Pleiku và Kon Tum. Khi bị tiến công, rất có thể địch sẽ tăng viện khoảng một sư đoàn thiếu đến một sư đoàn của Quân khu 2 và từ một lữ đoàn đến một sư đoàn thuộc lực lượng tổng trù bị chiến lược.
Nhằm tạo thế áp đảo, Bộ Tổng Tư lệnh điều động lực lượng cho chiến dịch, gồm: Bộ binh có 5 sư đoàn (10, 320, 316, 968, 3) và 4 trung đoàn (25, 95B, 271, 95A); đặc công có Trung đoàn 198 và 2 tiểu đoàn (14, 27); pháo binh có 2 trung đoàn (40, 675); phòng không có 3 trung đoàn (232, 234, 593); Trung đoàn Thiết giáp 273; công binh có 2 trung đoàn (7, 575); toàn bộ LLVT địa phương các tỉnh Đắk Lắk, Kon Tum, Gia Lai.
Tuy còn có những hạn chế nhất định về trình độ tổ chức, chỉ huy và tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn... nhưng lực lượng tham gia chiến dịch hầu hết là những đơn vị thiện chiến, có bề dày kinh nghiệm hoạt động ở Tây Nguyên; quan trọng hơn là có sự chỉ huy trực tiếp của Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tư lệnh (Đoàn A75 đứng đầu là Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam) và sự chi viện đắc lực của binh đoàn vận tải chiến lược; tinh thần và ý chí chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ từ bộ đội chủ lực đến LLVT địa phương đều tốt hơn bao giờ hết... là nhân tố “bảo đảm bằng vàng” cho thắng lợi của đòn quyết chiến mở đầu Xuân Ất Mão 1975.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét